Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tạo sự hứng thú cho học sinh thông qua việc sử dụng các trò chơi trong dạy các quy luật kinh tế phần 1 giáo dục công dân lớp11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.28 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC
SỬ DỤNG CÁC TRÒ CHƠI TRONG DẠY CÁC QUY LUẬT
KINH TẾ - PHẦN I - GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Giáo dục công dân

THANH HÓA NĂM 2019


MỤC LỤC
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………1
1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………..2
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………….3
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm……………………………………………...3
2.1. Cơ sở lý luận………………………………………………………………...3
2.1.1. Trò chơi trong công tác đào tạo và giảng dạy…………………………….3
2.1.2.Nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các mối quan hệ trong trò chơi dạy học…5
2.1.3. Cơ sở thực tiễn trong việc xây dựng và sử dụng trò chơi…………………5
2.1.3.2. Áp dụng trò chơi dạy học ở trong nước…………………………………5
2.2. Thực trạng vấn đề…………………………………………………………...6


2.2.1. Thực trạng về đổi mới giáo dục nói chung………………………………..6
2.2.2. Đối với học sinh…………………………………………………………..6
2.2.3. Về phía giáo viên…………………………………………………………7
2.3. Các giải pháp thực hiện……………………………………………………..8
2.3.1. Sáng kiến áp dụng trong nội dung các quy luật kinh tế …………………..8
2.3.2. Vận dụng trong thiết kế bài giảng………………………………………...9
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm ………………………………………….18
2.4.1. Chọn trường thực nghiệm………………………………………………..18
1.4.2. Nội dung thực nghiệm sư phạm…………………………………………18
1.4.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm…………………………………………...18
3. Kiến nghị, đề xuất……………………………………………………………20
3.1. Kết luận……………………………………………………………………20
3.2. Kiến nghị, đề xuất………………………………………………………….20


I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Do đó, việc đổi mới
giáo dục trung học báo gồm đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra
đánh giá nhằm phát triên năng lực tự học cho người học. Trong đó việc đổi mới
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh,
đào tạo con người tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực tự giải quyết các vấn
đề thực tiễn, góp phần xây dựng đát nước giàu mạnh.
Giáo dục công dân (GDCD) phổ thông là môn học đặc biệt quan trọng
với học sinh, đóng góp quan trọng trong xây dựng nền tảng hiểu biết và kĩ năng
cần thiết để nâng cao đóng góp của từng cá nhân trong phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Thông qua, cung cấp cho học sinh các nội dung toàn diện trong
phát triển nhân cách, lối sống, kĩ năng và năng lực bao gồm Giáo dục đạo đức,
Giáo dục kĩ năng sống, Giáo dục kinh tế, Giáo dục pháp luật.

Tuy nhiên, mặc dù công tác Giáo dục phổ thông nói riêng và GDCD đã
liên tục được cải tiến, đổi mới nhằm hướng đến nhu cầu ngày càng cao của xã
hội, đến nay, nhiều thách thức và rào cản vẫn tồn tại làm hạn chế đến hiệu quả
và đóng góp của môn GDCD vào hình thành và phát triển “con người của kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” với yêu cầu cao về đạo đức, kĩ năng
và kiến thức xã hội. Nguyên nhân chính xuất phát từ nhiều phía, bao gồm:
Đối với giáo viên THPT vẫn còn những hạn chế như sử dụng các phương
tiện dạy học còn hạn chế, lạm dụng công nghệ thông tin vào tiết học, thường
ngại tham gia hoạt động chính trị, xã hội; việc phối hợp với các gia đình học
sinh và cộng đồng còn nhiều bất cập chủ yếu là thông qua lý lịch học sinh để tìm
hiểu các em học sinh, đối với những học sinh cá biệt thì việc phối hợp với gia
đình nhà trường chưa cao nên giáo dục đạo đức còn hạn chế, xử lý tình huống sư
phạm chưa mền dẻo, tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục chưa có tính hệ
thống, cần xây dựng môi trường giáo dục đạo đức kỹ năng sống tốt, xây dựng
môi trường học tập và tương tác giữa giáo viên với học sinh ; giáo dục qua các
hoạt động khác và các hoạt động trong cộng đồng còn mang tính đối phó qua
loa, phát hiện và giải quyết vấn đề chưa kịp thời, chưa sáng tạo và linh hoạt
trong những hoàn cảnh, điều kiện thay đổi, chỉ thực hiện theo kế hoạch đã đề ra
chưa có tính sang tạo cũng như khoa học, lối sống, tác phong (kiềm chế cảm
xúc, nóng nảy) khả năng tự phê bình và phê bình chưa cao, còn nể nả xuề xòa...
Đối với học sinh bên cạnh những học sinh vui thích, đam mê với việc học
tập thì cũng có một bộ phận không nhỏ các em không thích học, chán học,
nguyên nhân là do mất hứng thú học tập. Tình trạng chán học, không thích học
do mất hứng thú học này đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của các
em nói riêng và chất lượng Giáo dục công dân ở bậc THPT nói chung. Nguyên
nhân chủ yếu của sự chán nản, lười học của học sinh THPT, cộng thêm với việc
học sinh sợ bị chê cười khi phát biểu sai, chưa tự tin vào năng lực của mình,chưa
1



chuẩn bị bài nhoặc do phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa gây hứng thú
tới học sinh…Riêng đối với môn giáo dục công dân có một số học sinh tỏ ra
thực sự hờ hững, thiếu nghiêm túc đối với môn học.Với suy nghĩ phiến diện,
lệch lạc, phần lớn học sinh chỉ học tủ, học vẹt nhằm đối phó với giáo viên. Đến
khi kiểm tra thì quay cóp, sử dụng tài liệu… Hiện tượng học sinh không mặn mà
trong việc học môn giáo dục công dân đã tồn tại khá lâu tạo nên sức ì về mặt
tâm lí mà muốn khắc phục không phải dễ dàng.
Để giải quyết các vấn đề này, giải pháp môn học là hiểu rõ tâm tư, nguyện
vọng của từng nhóm học sinh khác nhau trong nhà trường. Từ đó, đưa ra các giải
pháp phù hợp, không chỉ nhằm truyền đạt kiến thức trong sách giáo khoa, mà
con nâng cao các kĩ năng tư duy phân tích, tổng hợp, kĩ năng tự học, kĩ năng hợp
tác, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng xây dựng kế hoạch,…,
từ đó, kiến thức được truyền tải đến học sinh một cách tự nhiên và hiệu quả,
đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
Qua 15 năm kinh nghiệm giảng dạy môn GDCD, tôi xác định được rằng
giảng dạy thông qua hoạt động tổ chức trò chơi đã và đang mang lại các hiệu
quả tích cực để giải quyết tổng hợp các tồn tại và đưa môn GDCD trở thành một
điểm nhấn quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông. Dạy học tổ chức
trò chơi là một phương pháp hoạt động thống nhất giữa giáo viên và học sinh để
giải quyết vấn đề học tập phát sinh trong nội dung tiết học. Trong đó giáo viên là
người nêu vấn đề, dẫn dắt vấn đề và học sinh hợp tác với nhau để giải quyết vấn
đề thông qua các trò chơi, xây dựng các dự án,…
Trong nội dung sáng kiến này, tôi sẽ đề xuất áp dụng sáng kiến này trong
phần các quy luật kinh tế - GDCD - lớp 11- THPT( phần 1). Nội dung công dân
với sự phát triển kinh tế là chương đặc biệt quan trọng để học sinh hiểu rõ bản
chất sự vận hành của hoạt động kinh doanh, mua bán, trao đổi xung quanh đời
thường, từ đó, phát triển các hiểu biết nhằm nhận định đúng bản chất định
hướng của Đảng và chính sách của Nhà nước trong phát triển kinh tế đất nước
trong tương lai. Mặc dù vậy, đối với học sinh THPT,các nội dung này là rất khó
nếu như không gắn chặt các lý thuyết trong sách giáo khoa với các hiện tượng

rất phổ biến trên thực tiễn xung quanh học sinh. Trong khi, số tiết của các quy
luật kinh tế trong chương rất ít, tập trung vào lý thuyết bao gồm 9 tiết lý thuyết.
Xuất phát từ những lí do trên nên tôi đã chọn đề tài: “Tạo sự hứng thú cho học
sinh thông qua việc sử dụng các trò chơi trong dạy các quy luật kinh tế phần 1- giáo dục công dân lớp11”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chung: môn giáo dục công dân đặc biệt phần Công dân với
kinh tế là một phần khó và khô khan. Vì vậy, Xây dựng và sử dụng được phương
pháp học tổ chức trò chơi mới trong các tiết về quy luật kinh tế, thông qua
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan nhằm đề xuất đổi mới cách tiếp
cận, phương pháp thực hiện và vận hành lớp học, thiết kế thành modul bài
giảng, từ đó, tạo ra hứng thú cho học sinh để góp phần nâng cao chất lượng học
tập môn GDCD nói riêng và giáo dục THPT nói chung.
Cụ thể:
2


Xây dựng hệ thống cơ sở pháp lý, lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm: “Tạo sự hứng thú cho học sinh thông qua việc sử dụng các trò
chơi trong dạy các quy luật kinh tế - phần 1- giáo dục công dân lớp11”
Hình thành được tiếp cận mới là sử dụng trò chơi cho các tiết học về các quy
luật kinh tế nhằm nâng cao khả năng tiếp thu và áp dụng của học sinh trong đời
sống thực tiễn.
Thiếp lập được hệ thống phương pháp giảng dạy phù hợp, gần gũi và thân
thiện, nâng cao khả năng tư duy, tự học và thực hành cho học sinh, đi kèm với
giám sát, đánh giá lớp học của giáo viên dựa trên các đóng góp và hiểu biết của
từng cá nhân, nhóm học sinh trong lớp học
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài được tập trung nghiên cứu và áp dụng vào Phần Công dân với kinh tế
trong chương trình giáo dục công dân lớp 11 THPT.
Đề tài được áp dụng ở lớp 11A1và 11A12 tại Trường THPT Chu Văn An

Năm học 2018 – 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ truyền tải được ý tưởng trong đề tài
nghiên cứu này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, thu thập
thông tin…
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát qua các lớp thử
nghiệm thực tế và thực hiện một số tiết dạy để từ đó rút kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận
Đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng những phương pháp dạy học mới
đang là yêu cầu cấp thiết để góp phần thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục và đào tạo. Luật Giáo dục (ban hành năm 2005), tại Khoản 2 - Điều 5
quy định: “2. Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học,
khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định “Đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng
hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý
tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực
sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”.
Do vậy, việc hình thành các sáng kiến kinh nghiệm về sử dụng trò chơi
khi dạy học các quy luật kinh tế GDCD để tạo hứng thú cho học sinh trong học
tập là hoàn toàn phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và các chính sách
của Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2.1.1. Trò chơi trong công tác đào tạo và giảng dạy
Sự ra đời và phát triển của áp dụng trò chơi trong giảng dạy
Bên cạnh kho tàng trò chơi học tập trong dân gian còn có một số hệ thống
trò chơi dạy học khác do các nhà giáo dục có tên tuổi xây dựng. Đại diện cho
khuynh hướng xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học làm phương tiện phát triển

3


toàn diện cho trẻ phải kể đến nhà sư phạm nổi tiếng người tiệp khắc I.A.
Komenxki (1592-1670). Ông coi trò chơi là hình thức hoạt động cần thiết, phù
hợp với bản chất và khuynh hướng của trẻ. Trò chơi dạy học là một dạng hoạt
động trí tuệ nghiêm túc, là nơi mọi khả năng của trẻ em được phát triển, mở
rộng phong phú thêm vốn hiểu biết. Với quan điểm trò chơi là niềm vui sướng
của tuổi thơ, là phương tiện phát triển toàn diện cho trẻ I.A.Komenxki đã
khuyên người lớn phải chú ý đến trò chơi dạy học cho trẻ và phải hướng dẫn, chỉ
đạo đúng đắn cho trẻ chơi. Trong nền giáo dục cổ điển, ý tưởng sử dụng trò chơi
với mục đích dạy học được thể hiện đầy đủ trong hệ thống giáo dục của nhà sư
phạm người Đức Ph.Phroebel (1782-1852), Ông là người đã khởi xướng và đề
xuất ý tưởng kết hợp dạy học với trò chơi cho trẻ. Ph.Phroebel cho rằng, nhà
giáo dục chỉ cần phát triển cái vốn có sẵn của trẻ, ông đề cao vai trò giáo dục
của trò chơi trong quá trình phát triển thể chất, làm vốn ngôn ngữ cũng như phát
triển tư duy, trí tưởng tượng của I.B.Bazedov cho rằng, trò chơi là phương tiện
dạy học. Theo ông, nếu trên tiết học, giáo viên sử dụng các phương pháp, biện
pháp chơi hoặc tiến hành tiết học dưới hình thức chơi thì sẽ đáp ứng được nhu
cầu và phù hợp với đặc điểm của người học và tất nhiên hiệu quả tiết học sẽ cao
hơn. Ông đã đưa ra hệ thống trò chơi học tập dùng lời như: trò chơi gọi tên, trò
chơi phát triển kỹ năng khái quát tên gọi của cá thể, trò chơi đoán từ trái nghĩa,
điền những từ còn thiếu,... Theo ông, những trò chơi này mang lại cho người học
niềm vui và phát triển năng lực trí tuệ của chúng
Ở Việt Nam, có nhiều tác giả nghiên cứu về xây dựng và sử dụng trò chơi
dạy học dưới các góc độ và các bộ môn khác nhau. Một số tác giả như Phan
Huỳnh Hoa, Vũ Minh Hồng, Trương Kim Oanh, Phan Kim Liên, Lê Bích
Ngọc,... đã để tâm nghiên cứu biên soạn một số trò chơi và trò chơi học tập...
Những hệ thống trò chơi và trò chơi học tập được các tác giả đề cập đến chủ yếu
nhằm củng cố kiến thức phục vụ một số môn học như: làm quen với môi trường

xung quanh.., rèn các giác quan chú ý, ghi nhớ, phát triển tư duy và ngôn ngữ
cho trẻ.Các tác giả đặc biệt quan tâm đến ý nghĩa phát triển của trò chơi học tập,
không chỉ phát triển ở các giác quan mà phát triển các chức năng tâm lý chung
của người học.Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này cũng chưa đi sâu nghiên cứu
việc xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học dành cho quá trình nhận thức của
người học. Gần đây trong tác phẩm “trò chơi trẻ em”, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết
đã đề cập đến trò chơi trí tuệ. Loại trò chơi này có tác dụng thúc đẩy hoạt động trí
tuệ của trẻ. Trong tác phẩm này, bà đã giới thiệu một số trò chơi trí tuệ dành cho
trẻ em.Còn tác giả Trần Thị Ngọc Trâm đã thiết kế một hệ thống trò chơi học tập
nhằm phát triển khả năng khái quát hóa của trẻ mẫu giáo lớn.

4


Theo Đặng Thành Hưng thì những trò chơi giáo dục được lựa chọn và sử dụng
trực tiếp để dạy học, tuân theo mục đích, nội dung, các nguyên tắc và phương
pháp dạy học, có chức năng tổ chức, hướng dẫn và động viên học sinh tìm kiếm
và lĩnh hội tri thức, học tập và rèn luyện kỹ năng, tích lũy và phát triển các
phương thức hoạt động và hành vi ứng xử xã hội, văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ,
pháp luật, khoa học, ngôn ngữ, cải thiện và phát triển thể chất, tức là tổ chức và
hướng dẫn quá trình học tập của học sinh khi họ tham gia trò chơi gọi là trò chơi
dạy học.
2.1.2. Nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các mối quan hệ trong trò chơi dạy học
Các nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các quan hệ trong trò chơi dạy học
được tổ chức tương đối chặt chẽ trong khuôn khổ các nhiệm vụ dạy học và được
định hướng vào mục tiêu, nội dung học tập.Trò chơi dạy học được sáng tạo ra và
được sử dụng bởi các nhà giáo và người lớn dựa trên những khuyến nghị của lý
luận dạy học, đặc biệt là của lý luận dạy học các môn học cụ thể. Chúng phản
ánh lý thuyết, ý tưởng, mục tiêu của nhà giáo, là một trong những hoạt động
giáo dục không tuân theo bài bản cứng nhắc như những giờ học.

2.1.3. Cơ sở thực tiễn trong việc xây dựng và sử dụng trò chơi khi dạy học
các quy luật kinh tế GDCD
2.1.3.1. Áp dụng trò chơi dạy học ở các nước trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia thực hiện việc xây dựng và tổ
chức trò chơi tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập:
Tại Nhật Bản, giáo dục đạo đức, pháp luật và kinh tế được tiến hành qua
các hoạt động nhóm, nhằm đẩy mạnh sự phát triển hài hòa thể chất, trí tuệ, tự
hoàn thiện sự phát triển... Đáng chú ý, Nhật Bản còn giáo dục đạo đức pháp luật
và kinh tế thông qua hoạt động hàng ngày, tổ chức các hoạt động trò chơi tạo ra
sự hứng thú khi tiếp nhận kiến thức.
Singapore cũng bao gồm giáo dục đạo đức và pháp luật và kinh tế, phần
kinh tế được lồng ghép vào trong một số giá trị. Các chủ đề trong chương trình
môn Đạo đức, pháp luật và kinh tế trong môn gióa dục công dân được thể hiện
việc hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực như: Tự nhận thức; Tự
quản; Nhận thức xã hội; Quản lý các mối quan hệ; Chịu trách nhiệm trong việc
ra quyết định...
2.1.3.2 Áp dụng trò chơi dạy học ở trong nước
Việc xây dựng và áp dụng các trò chơi vào dạy học để phát huy tính tích
cực đang được các cấp học thực hiện một cách phổ biến.
Thực tế ở trường THPT Chu Văn An những năm gần đây nhiều giáo viên
ở nhiều môn học như lịch sử, sinh học, ngữ văn, hay các hoạt động của đoàn
trường, giáo dục ngoài giờ lên lớp, hướng nghiệp …cũng đã xây dựng và sử
dụng trò chơi tạo hứng thú cho học sinh trong học tập. Vì vậy tôi cũng mạnh dạn
thay đổi phương pháp dạy học


2.2. Thực trạng vấn đề
2.2.1. Thực trạng về đổi mới giáo dục nói chung
Trước sự phát triển nhanh chóng của chương trình giáo dục trên thế giới,
đặc biệt là dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của thành tựu cuộc cách mạng khoa học,

kỹ thuật, những kiến thức chương trình hiện hành nhanh chóng trở nên lạc hậu,
không đáp ứng được yêu cầu dạy và học trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là đáp
ứng yêu cầu dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học. Yêu cầu
xây dựng chương trình mới là cấp thiết, đây là nguyện vọng của toàn xã hội; là
hướng đi đúng đắn của đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục trong giai đoạn
hiện nay. Theo đó, chương trình mới được xây dựng với mục tiêu phù hợp với
hệ thống giáo dục phổ thông theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW, Nghị
quyết số 88/2014/QH13 và tuyên bố của Tổ chức Giáo dục, Khoa học
và Văn hóa của Liên hợp quốc, góp phần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về
chất lượng, hiệu quả giáo dục và phát triển con người Việt Nam toàn diện về
Đức, Trí, Thể, Mỹ, hướng tới “công dân toàn cầu”.
Tại trường Chu Văn An thông qua điều tra cơ bản hàng năm về tình hình
học sinh, tôi nhận thấy đa số các em học sinh trong trường đều có ý thức tự giác
và cố gắng trong học tập, được gia đình quan tâm tạo điều kiện học tốt. Nhiều
em có nhận thức nhanh, sáng tạo (chiếm khoảng 25%). Số học sinh được tuyển
vào trường hàng năm đã khá ổn định, số lượng lớn, tạo nên những thuận lợi và
cả khó khăn nhất định cho công tác giáo dục, nhưng về cơ bản đây vẫn là một
môi trường giáo dục tốt. Việc thực hiện theo chương trình, sách giáo khoa mới
trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào thực hiện yêu cầu đổi mới
phương pháp trong dạy học bộ môn. Học sinh khối 11 đã được tiếp cận với
chương trình, sách giáo khoa và phương pháp mới từ bậc Tiểu học nên có sự tích
cực, chủ động trong học tập theo tinh thần đổi mới phương pháp.
Dù các trường đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong đổi mới phương pháp
giảng dạy nhưng vẫn còn “bó khung” trong khuôn khổ của lớp học, giờ dạy
nặng tính lý thuyết, thiếu những tư liệu, trích đoạn “người thật việc thật”, những
tình huống “thật”… cho nên sức thuyết phục, độ cảm xúc của bài dạy chưa cao.
Hơn nữa thời lượng dành cho môn GDCD chỉ có 1 tiết/ tuần mà lượng kiến thức
thì khá nhiều, không chỉ riêng nội dung chính thức mà nhiều nội dung giáo dục
khác nhau cũng "bị giao" cho môn GDCD để “tích hợp” nên việc dạy học mang
nặng tính khái quát, giáo viên không có nhiều thời gian giảng dạy cặn kẽ cho

học sinh những nội dung, vấn đề nào đó mà học sinh có nhu cầu tìm hiểu sâu
hơn.
Đã đến lúc phải có những đánh giá, nhìn nhận thực sự nghiêm túc cả từ
phía người dạy lẫn người học để từ đó có giải pháp nâng cao chất lượng dạy và
học môn học có vị trí đặc biệt quan trọng này, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
2.2.2.Đối với học sinh
Về phía người học có một thực trạng đáng buồn là có rất nhiều học sinh
không nhận thức được hết tầm quan trọng của môn Giáo dục công dân và cho
rằng đây là môn học phụ nên ít quan tâm, đầu tư thích đáng cho việc học. Cá
biệt, có một số học sinh tỏ ra thực sự hờ hững, thiếu nghiêm túc đối với môn học
6


này. Với suy nghĩ phiến diện, lệch lạc, phần lớn học sinh chỉ học tủ, học vẹt
nhằm đối phó với giáo viên. Đến khi kiểm tra thì quay cop, sử dụng tài liệu…
Hiện tượng học sinh không mặn mà trong việc học môn giáo dục công
dân đã tồn tại từ lâu, trở thành “nếp”, tạo nên sức ì về mặt tâm lí mà muốn khắc
phục không phải dễ dàng.
2.2.3. Về phía giáo viên.
Về phía người dạy, qua thực tế có thể nhận thấy, phần lớn giáo viên vẫn lên
lớp bằng phương pháp xưa cũ: thầy đọc, trò chép, tạo cảm giác mệt mỏi, thụ
động đối với học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức. Một số giáo viên lên lớp
với tâm lý cho rằng môn của mình là môn phụ nên ít có sự quan tâm, đầu tư
trong việc soạn giáo án, chuẩn bị bài lên lớp. Bên cạnh đó, việc thiếu những dẫn
chứng sinh động trong thực tế cũng như thiếu những dụng cụ trực quan làm cho
các tiết học trở nên khô khan, nhàm chán, không gây được sự hứng thú đối với
học sinh. Hệ quả tất yếu là chất lượng tiết học có nhiều hạn chế có tính.
Nói về bản thân của các lý thuyết kinh tế sẽ tác động đến tương lai học
sinh, các ví dụ điển hình của áp dụng lý thuyết trong thực tiễn có thể hỗ trợ cho
học sinh trong đời sống thực tế. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Giáo

dục công dân ở trường hơn 14 năm, tuy tôi đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn
những hạn chế nhất định về năng lực. Những hạn chế này đã ảnh hưởng nhất
định đến kết quả giảng dạy của tôi. Trong những năm gần đây, tôi luôn chú ý
thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và rút kinh nghiệm công tác nhằm đưa
ra các sáng kiến mới phù hợp với nhu cầu mới của công tác giáo dục hiện nay.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
Nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD trong nhà
trường hiện nay, trước hết cần nghiêm túc nhìn nhận lại vai trò, vị trí của môn
học này trong hệ thống các môn học trong trường phổ thông từ đó đề ra các giải
pháp cụ thể và có tính khả thi.
Trước tình trạng vi phạm đạo đức, pháp luật đang có chiều hướng gia tăng
trong xã hội hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học đối với môn giáo dục
công dân cần phải được chú trọng hơn nữa. Mặt khác, những tri thức rút ra từ
môn học này là hành trang vô cùng cần thiết để học sinh có thể trở thành những
công dân tốt trong tương lai. Muốn trở thành người công dân tốt, ai cũng cần
được giáo dục về quyền lợi và nghĩa vụ trang bị những kiến thức về kinh tế cơ
bản của mình để tự giác thực hiện cho đúng. Đối với ngành giáo dục, cần xem
xét đưa môn GDCD trở thành môn học trọng tâm, quan trọng, bố trí thêm khung
thời gian giảng dạy, trang thiết bị giảng dạy. Giáo dục công dân trong chương
trình giáo dục phổ thông đóng vai trò to lớn trong việc giáo dục học sinh ý thức
và hành vi người công dân, góp phần trang bị cho học sinh năng lực để tự điều
chỉnh bản thân trong xã hội hiện đại... Đối với người học, cần thay đổi cách nhìn
nhận, đánh giá vai trò của môn học này trong việc trau dồi nhân cách, hoàn thiện
bản thân, từ đó xác địinh đúng động cơ và thái độ học tập.
Đối với giáo viên, cần có những nỗ lực trong việc cải tiến, đổi mới
phương pháp giảng dạy. Có những cách thức cụ thể trong việc làm “mềm” hoá
môn học vốn được xem là khô khan, trừu tượng này bằng những thí dụ sinh
động trong đời sống thực tế. Có thể thay cách thuyết giảng một chiều bằng việc
7



nêu những câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề thảo luận đặc biệt là tổ chức các trò chơi
nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong một số tiết
học, trong những tình huống cụ thể, để tạo sự hào hứng và cuốn hút học sinh vào
bài học, có thể dàn dựng những trò chơi cho chính học sinh thể hiện. Mặt khác,
cần đầu tư hơn trong việc sưu tầm tư liệu, tranh ảnh minh hoạ, cùng các dụng cụ
trực quan tạo ra sự sinh động cho mỗi giờ lên lớp.
Môn Giáo dục công dân (GDCD) ở trường Trung học phổ thông (THPT)
là một hệ thống kiến thức liên quan đến nhiều lĩnh vực như triết học, đạo đức
học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, pháp luật, đường lối, quan
điểm của Đảng, một số chính sách quan trọng của Nhà nước Việt Nam. Để
giảng dạy tốt môn GDCD cho học sinh THPT, người giáo viên cần thực hiện tốt
một số yêu cầu cơ bản sau:
Đảm bảo tính phổ thông, cơ bản và hiện đại
Đảm bảo tính hệ thống
Liên hệ với thực tế
Tóm lại, môn GDCD là một môn khoa học có vị trí quan trọng trong nhà
trường THPT. Với cấu trúc chương trình hợp lí, có tính nhất quán về kiến thức,
tính sâu sắc về lí luận, tính phong phú, sinh động về thực tiễn, nên khi giảng dạy
môn GDCD giáo viên cần thực hiện tốt những yêu cầu trên. Điều đó giúp giáo
viên truyền thụ tri thức cho người học một cách có trình tự, lôgic, mặt khác
thông qua tri thức môn học, giáo viên giúp học sinh củng cố được niềm tin, định
hướng phát triển và hoàn thiện nhân cách, nhằm góp phần tích cực việc giáo dục
học sinh thành những công dân mới phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước trong giai đoạn hiện nay
2.3.1 Sáng kiến áp dụng trong nội dung các quy luật kinh tế công dân 11
Giảng dạy phần kinh tế nói chung là công việc phức tạp, các nội dung trên
rất khái quát, nên để giảng dạy tốt các nội dung này, giáo viên phải tránh cách
truyền thụ tri thức một chiều, khô cứng và áp đặt về tư tưởng. Nếu thực hiện bài
giảng mà chỉ phân tích các nội dung chung chung thì dễ nặng về lý thuyết, nội

dung đơn điệu, làm học sinh nhàm chán. Việc chuẩn bị nội dung của bài giảng
của giáo viên cần tập trung vào trọng tâm, chú ý gắn với thực tế cuộc sống. Do
vậy, cần đổi mới nội dung và hình thức thực hiện giáo dục môn học theo hướng
không chỉ đáp ứng mục tiêu tìm hiểu các kiến thức cơ bản về kinh tế, mà còn
phải thiết thực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, nhằm nâng cao hiểu biết về kinh tế,
mặt khác phải có ý thức tôn trọng, thực hiện theo các quy luật, có khả năng vận
dụng sáng tạo vào nhìn nhận, đánh giá các sự kiện trong cuộc sống.
Khi dạy các quy luật kinh tế để tạo hứng thú và điều kiện cho học sinh tự
học dưới sự hướng dẫn của giáo viên, ta có thể thiết kế và tổ chức dạy - học theo
phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh, như để học sinh tiến
hành làm ra các sản phẩm là hàng hóa, tự phát hiện ra các thuộc tính của hàng
hóa, thực hành sự trao đổi để phát hiện bản chất của tiền tệ và những chức năng
của thị trường trong phạm vi lớp học, như một nền sản xuất xã hội thu nhỏ. Thông
qua những hoạt động này, thay cho việc các em học các nội dung có sẵn, lý
thuyết, thì chính các em rút ra tri thức trong hoạt động tạo nên sản phẩm, thúc đẩy
các em rèn luyện kỹ năng tự học, liên hệ bài học với thực tiễn kinh tế - xã hội của
8


địa phương và đất nước, nhìn nhận, đánh giá, phân tích, lựa chọn cách hành động,
hình thành thái độ, niềm tin đúng đắn.
Chính vì vậy, vận dụng và từng bước thực hiện, đúc rút kinh nghiệm về cách thức
tổ chức dạy học theo hướng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh.
2.3.2 VẬN DỤNG TRONG THIẾT KẾ BÀI GIẢNG SỬ DỤNG TRÒ CHƠ
KHI DẠY HỌC CÁC QUY LUẬT KINH TẾ GDCD 11
Bài 3: Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa
* Nguyên tắc và xây dựng và tổ chức trò chơi “các nội dung cơ bản của quy
luật giá trị”
Giá trị sản phẩm được xác định thông qua kiến thức đã được học thông qua trả
lời các câu hỏi; năng suất lao động là số câu trả lời đúng của nhóm. Mỗi tổ sẽ

được phát 20 tờ giấy giả định là 20 tờ tiền, 1 tờ tiền tương đương giá trị với 1
cây thước kẻ, hoặc 2 cây bút và tương khi có câu trả lời đúng (1 công lao động)
Trả lời đúng 1 câu hỏi được thưởng 2 cây bút hoặc 1 cái thước kẻ
Mỗi tổ yêu cầu ít nhất phải có 8 cây bút và 4 cái thước kẻ để học tập vào cuối trò
chơi, nếu không đủ số lượng tổ đó sẽ thua trong trò chơi
Kết quả trò chơi được xác định bởi số tiền còn lại của mỗi tổ (tờ giấy)
Toàn bộ thành viên nhóm chiến thắng (có nhiều tờ tiền nhất ở cuối trò chơi)
được cộng 10 điểm vào kiểm tra miệng
* Các hoạt động trong tiết học
Bước 1: Phân nhóm, giải thích nguyên tắc và nội dung trò chơi (1 phút)
Chia lớp thành 4 tổ và bốc thăm để chia thành 2 nhóm (2 tổ/nhóm),
Nhóm 1 (gồm 2 tổ) cạnh tranh trả lời 16 câu hỏi để tranh phần thưởng là bút (1
câu hỏi đúng tương đương 2 cái bút)
Nhóm 2 (gồm 2 tổ) cạnh tranh trả lời 16 câu hỏi để tranh phần thưởng là thước
kẻ (1 câu hỏi đúng tương đương 1 cái thước)
Mỗi câu hỏi tương đương với 1 công lao động trên thị trường, giá trị tương
đương với 1 tờ tiền = 2 cái bút = 1 cái thước,giải thích về trò chơi
Bước 2: Tiến hành trò chơi và kiểm đếm kết quả đợt 1 (10 phút)
Bước 3: Giáo viên dừng trò chơi và giải thích quy luật hình thành giá trị sản
phẩm trong sản xuất (10 phút)
Để có được 1 cây thước kẻ, học sinh phải trả lời đúng 1 câu hỏi, do vậy, giá trị
của thướng kẻ tương đương với 1 công lao động trong xã hội
Để có được 2 cây bút, học sinh trả lời đúng 1 câu hỏi, do vậy, giá trị của cây bút
tương đương với nửa công lao động trong xã hội (ở đây là lớp học)
Như vậy giá trị 1 cây thước kẻ = 2 cây bút = 1 tờ tiền, xã hội chỉ thừa nhận mua
với mức giá này. Với 1 tờ tiền, học sinh không thể mua 2 cây thước kẻ, và học
sinh cũng không bán 1 cây bút khi áp dụng quy tắc ngang giá.
Bước 4: Yêu cầu các học sinh trao đổi thước, bút hoặc dùng tiền giấy để mua
đủ số lượng cần thiết (16 cây bút và 8 cái thước) cho mỗi tổ (5 phút)
Mỗi tổ yêu cầu ít nhất phải có 8 cây bút và 4 cái thước kẻ để học tập, do vậy, các

tổ sẽ phải trao đổi, dùng tiền (theo nguyên tắc quy đổi tương đương) để mua lại
các sản phẩm tổ còn thiếu để đáp ứng đủ nhu cầu học tập. Trong trường hợp này,
hiện tượng trao đổi và lưu thông hàng hóa diễn ra dựa trên quy luật giá trị.
9


Giáo viên giải thích và liên hệ với cuộc sống tại sao hoạt động trao đổi diễn ra
(do nhu cầu của xã hội, đặc biệt liên hệ với lương thực)
Giải thích sự điều tiết của giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa theo quy
tắc ngang giá
Bước 5: Kiểm đếm số tờ tiền còn lại của mỗi tổ (có sự chênh lệch số tờ tiền do
một số nhóm trả lời được ít câu hỏi hơn sẽ phải bỏ tờ tiền để mua đủ số lượng
đồ dùng học tập) (5 phút)
Sự chênh lệch số tờ tiền, có nhóm sẽ có nhiều tờ tiền hơn, có nhóm sẽ ít tờ tiền
hơn  nhóm trả nhiều tiền để mua lại sản phẩm có năng suất lao động thấp hơn
(trả lời ít câu hỏi hơn). Các nhóm trả lời tốt câu hỏi, tương đương với năng suất
lao động cao hơn dẫn tới dưa thừa sản phẩm để bán ra thị trường và kiếm được
nhiều tiền. Điều này dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo.
Các nhóm trả lời yếu, tương đương năng suất lao động thấp dẫn tới sự nghèo
hơn so với nhóm còn lại. Nếu việc này diễn ra liên tục sẽ gây ra phân hóa giàu
nghèo ngày càng gia tăng, ở đây thể hiện qua năng lực học tập của các tổ và
thành viên trong tổ.
Trong xã hội, cũng xẩy ra điều này ở toàn bộ các cấp độ bao gồm giữa các quốc
gia, giữa các khu vực, giữa các ngành và giữa các gia đình/cá nhân.
Bước 6: Làm việc theo tổ yêu cầu tìm ra giải pháp để tăng năng suất lao động
trong tương lai (khả năng trả lời câu hỏi) (5 phút)
Học sinh sẽ được yêu cầu làm trên giấy A0 và trình bày trước lớp các giải pháp
để tăng khả năng trả lời câu hỏi; hoặc giáo viên kẻ bảng và yêu cầu các nhóm
đóng góp ý kiến
Các ví dụ gợi ý và liên hệ với quy luật giá trị:

TT
Giải pháp
Liên hệ quy luật giá trị
Kích thích lực lượng sản xuất
1
Học nhóm, hỗ trợ nhau cùng học bài
phát triển
Dành nhiều thời gian hơn để học bài
2
Thu nạp các thành viên giỏi từ nhóm Tăng năng suất lao động
khác
Học kĩ năng phản ứng để trả lời câu
3
Giảm chi phí
hỏi nhanh hơn
Suy nghĩ thấu đáo trước khi trả lời để
4
Tăng chất lượng
tránh trả lời sai do vội vàng
Học thêm qua internet, sách báo bên
5
Đổi mới khoa học kĩ thuật
ngoài
Giáo viên tóm tắt lại các bài trình bày là các đóng góp của quy luật giá trị trong
học tập và đời sống
Nêu vai trò của nhà nước (trong trường hợp này giáo viên là đại diện cho Nhà
nước) sẽ đưa ra các giải pháp như trong bảng để đảm bảo không có sự phân hóa
giữa các học sinh (tương đương phân hóa giàu nghèo), và nâng cao chất lượng
của môn học (thị trường).


10


Học sinh có thể hình dung lớp học là một xã hội, được quản lý bởi giáo viên, sự
phân hóa giữa khả năng tiếp nhận kiến thức đại diện cho sự phân hóa về năng
suất lao động, giá trị các điểm số của học sinh là giá trị sản phẩm mà học sinh
tạo ra. Giáo viên cần có những phương pháp hợp lý đề điều tiết lớp học, gia tăng
kiến thức đồng đều cho cả lớp để cả lớp tiến bộ. Một quốc gia cũng như vậy, mỗi
thành phần trong xã hội nếu thúc đẩy giá trị và năng suất lao động của bản thân sẽ
góp phần vào xây dựng đất nước phát triển, vững mạnh hơn.
Bài 4: Cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hàng hóa
* Nguyên tắc và thiết kế trò chơi “bài học quy luật cạnh tranh thông qua
làm việc nhóm”
Giả định rằng, lớp có 1 nguồn tiền để đầu tư để mở một shop quần áo bán hàng
Việt Nam tại Ngã Ba Môi, tuy nhiên, chỉ 1 trong 4 tổ sẽ được lựa chọn thông
qua trình bày về đánh giá tính cạnh tranh của “shop quần áo Việt Nam” của lớp
sắp được mở và được cả lớp phê duyệt.
Phân tổ (nếu các tổ đã phân chưa đáp ứng được tiêu chí): cân bằng giữa những
thành viên ở thị trấn và ở các xã nông thôn; cân bằng giữa các thành viên là cán
bộ lớp trong từng tổ; cân bằng giữa nam và nữ; cân bằng giữa các học sinh tích
cực và chưa tích cực trong lớp.
Bốn tổ sẽ làm việc nhóm để xác định các cạnh tranh sẽ xẩy ra với shop quần áo
trên giấy A0 theo mẫu được cung cấp (làm việc nhóm ngoài giờ học chính thức)
Tác động (cả
TT Loại cạnh tranh
Nguyên nhân tích cự và tiêu Giải pháp
cực)
Cạnh
tranh
giữa

1
người bán với nhau
Cạnh
tranh
giữa
2
người mua với nhau
Cạnh tranh giữa các
3
ngành
Cạnh tranh với hàng
4
nhập khẩu
Mỗi tổ cử đại diện trình bày trước lớp học các nội dung sau khi hoàn thành (mỗi
tổ trình bày 5 phút + 5 phút hỏi và thảo luận)
Các thành viên của lớp sẽ chấm điểm cho 4 tổ vào giấy và nộp lại cho giáo viên
Thành viên của nhóm được chấm điểm cao nhất được cộng 10 điểm vào kiểm
tra miệng
* Các hoạt động trong tiếp học
Bước1: Giáo viên giới thiệu về bài học và các yêu cầu của tiết học (5 phút)
Bước 2: Các nhóm sẽ trình bày dự án của mình đã chuẩn bị sẵn và trả lời các
câu hỏi của các nhóm khác đưa ra
Bước 3: Giáo viên kết luận và rút ra lý thuyết về quy luật cạnh tranh từ các bài
trình bày của nhóm, nêu một số các ví dụ thực tiễn khác về cạnh tranh trên chợ
Bài tập về nhà
Tiếp tục làm việc nhóm và hoàn thành dự án chi tiết cho việc mở shop quần áo
áp dụng quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh?
11



PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Giáo án tiết học quy luật giá trị
Tiết PPCT: 6, 7
BÀI 3: QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG SẢN XUẤT VÀ LƯU THÔNG
HÀNG HÓA
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Về kiến thức: Nêu được nội dung cơ bản của quy luật giá trị, quy luật giá trị
tác động đến việc điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
2. Về kỹ năng: Biết vận dụng quy luật giá trị để giải thích một số hiện tượng
kinh tế gần gũi trong cuộc sống.
3. Về thái độ: Tôn trọng quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa.
II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
1. Tài liệu : Sử dụng SGK giáo dục công dân 11, Bài tập tình huống 11, Các tư liệu
tài liệu có liên quan.
2. Phương tiện: Bút bạ,bảng phụ,giấy,tiền,bút..
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức lớp học (1p)
2. Kiểm tra bài cũ:(3p)
Gv: Nêu câu hỏi: Thị trường là gì? Thị trường có những chức năng nào?
Hs: trả lời.
Gv: nhận xét, cho điểm
3. Giới thiệu bài mới:(2p)
Hoạt động của gv và học sinh
Nội dung cần đạt
* Khởi động:
1. Nội dung của quy luật giá trị.
Gv: Trong hoạt động kinh tế các chủ thể
sau họ quan tâm đến thuộc tính nào của
hàng hóa?
( Chủ thể bao gồm: Người sản xuất ?

Người tiêu dùng?)
? Tại sao trong nền sản xuất hàng hoá lại
có hiện tượng sau:
- Lĩnh vực sản xuất:Lúc mở rộng. Lúc thu
hẹp
- Kinh doanh dịch vụ : Quá nhiều hàng.
Quá ít hàng
- Giá cả : Lúc cao. Lúc thấp
Những hiện tượng trên là ngẫu nhiên hay
do quy luật nào chi phối? Để trả lời cho
câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu nội
dung bài học hôm nay.
Hoạt động 1(15phút) làm rõ nội dung của
quy luật giá trị
12


* Cách tiến hành:
Gv: Đặt vấn đề:
Khác với các quy luật tự nhiên, quy
luật kinh tế chỉ ra đời và hoạt động khi có
sự xuất hiện và hoạt động của sản xuất.và
lưu thông hàng hóa. Nhìn bề ngoài dường
như là việc riêng của từng người, không có
gì ràng buộc giữa họ với nhau. Nhưng trên
thực tế hoạt động của họ chịu sự ràng buộc
với nhau bởi quy luật giá trị - > Quy luật
giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của SX và
lưu thông hàng hóa. Vì vậy, ở đâu có SX và
lưu thông hàng hóa thì ở đó có quy luật giá

trị hoạt động.
Gv: Nêu câu hỏi:
1) Em hãy trình bày nội dung quy luật giá trị?
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế
cơ bản của SX và lưu thông hàng
hóa.
2) Làm thế nào để xác định thời gian lao - Nội dung quy luật giá trị: Sản
động xã hội cần thiết?
xuất và lưu thông hàng hoá phải
dựa trên cơ sở thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá đó
3) Trong sản xuất nội dung quy luật giá trị - Biểu hiện của quy luật giá trị
biểu hiện như thế nào?Nếu không thực trong sản xuất.
hiện đúng quy luật này sẽ như thế nào?
+ Đối với một hàng hóa:
Quy luật giá trị yêu cầu thời gian
lao động cá biệt phải phù hợp với
thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra hàng hóa đó.
+ Đối với tổng hàng hóa:
Tổng thời gian lao động cá biệt
bằng tổng thời gian lao động xã
hội cần thiết để sản xuất ra tổng
hàng hóa đó
4) Trong lưu thông nội dung quy luật giá trị - Biểu hiện của quy luật giá trị
biểu hiện như thế nào? Nếu không thực trong lưu thông hàng hóa: Việc
hiện đúng quy luật này sẽ như thế nào?
trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ
sở thời gian lao động xã hội cần

thiết. Nói cách khác phải dựa trên
nguyên tắc ngang giá có nghĩa là:
+ Đối với một hàng hóa.
13


Hoạt động 2:( 55 phút)
Tìm hiểu tác động của quy luật giá trị
Gv : phổ biến luật chơi
Giá trị sản phẩm được xác định thông qua
kiến thức đã được học thông qua trả lời các
câu hỏi; năng suất lao động là số câu trả lời
đúng của nhóm.
Mỗi tổ sẽ được phát 20 tờ giấy, tương
đương với 20 tờ tiền, 1 tờ tiền tương đương
giá trị với 1 cây thước kẻ, hoặc 2 cây bút
và tương đương 1 câu trả lời đúng (1 công
lao động)
Trả lời đúng 1 câu hỏi được thưởng 2 cây
bút hoặc 1 cái thước kẻ
Mỗi tổ yêu cầu ít nhất phải có 8 cây bút và
4 cái thước kẻ để học tập vào cuối trò chơi,
nếu không đủ số lượng tổ đó sẽ thua trong
trò chơi
Kết quả trò chơi được xác định bởi số tiền
còn lại của mỗi tổ (tờ giấy)
Toàn bộ thành viên nhóm chiến thắng (có
nhiều tờ tiền nhất ở cuối trò chơi) được
cộng 10 điểm vào kiểm tra miệng
* Các hoạt động trong tiết học

Bước 1: Phân nhóm, giải thích nguyên
tắc và nội dung trò chơi ( 2 phút )
Chia lớp thành 4 tổ và bốc thăm để chia
thành 2 nhóm (2 tổ/nhóm),
Nhóm 1 (gồm 2 tổ) cạnh tranh trả lời 12
câu hỏi để tranh phần thưởng là bút (1 câu
hỏi đúng tương đương 2 cái bút)
Nhóm 2 (gồm 2 tổ) cạnh tranh trả lời 16
câu hỏi để tranh phần thưởng là thước kẻ
(1 câu hỏi đúng tương đương 1 cái thước)

Giá cả bao giờ cũng vận động và
xoay quanh trục giá trị hàng hoá
hoặc thời gian lao động xã hội cần
thiết.
+ Đối với tổng hàng hóa.
Quy luật giá trị yêu cầu hàng hóa
sau khi bán bằng tổng giá trị hàng
hóa trong sản xuất.
2. Tác động của quy luật giá trị:

14


Mỗi câu hỏi tương đương với 1 công lao
động trên thị trường, giá trị tương đương
với 1 tờ tiền = 2 cái bút = 1 cái thước,giải
thích về trò chơi
Bước 2: Tiến hành trò chơi và kiểm đếm
kết quả đợt 1 (13 phút)

Bước 3: Giáo viên dừng trò chơi và giải
thích quy luật hình thành giá trị sản
phẩm trong sản xuất (10 phút)
Để có được 1 cây thước kẻ, học sinh phải
trả lời đúng 1 câu hỏi, do vậy, giá trị của
thướng kẻ tương đương với 1 công lao
động trong xã hội
Để có được 2 cây bút, học sinh trả lời đúng
1 câu hỏi, do vậy, giá trị của cây bút tương
đương với nửa công lao động trong xã hội
(ở đây là lớp học)
Như vậy giá trị 1 cây thước kẻ = 2 cây bút
= 1 tờ tiền, xã hội chỉ thừa nhận mua với
mức giá này. Với 1 tờ tiền, học sinh không
thể mua 2 cây thước kẻ, và học sinh cũng
không bán 1 cây bút khi áp dụng quy tắc
ngang giá.
Bước 4: Yêu cầu các học sinh trao đổi
thước, bút hoặc dùng tiền giấy để mua đủ
số lượng cần thiết (16 cây bút và 8 cái
thước) cho mỗi tổ (10 phút)
Mỗi tổ yêu cầu ít nhất phải có 8 cây bút và
4 cái thước kẻ để học tập, do vậy, các tổ sẽ
phải trao đổi, dùng tiền (theo nguyên tắc
quy đổi tương đương) để mua lại các sản
phẩm tổ còn thiếu để đáp ứng đủ nhu cầu
học tập. Trong trường hợp này, hiện tượng
trao đổi và lưu thông hàng hóa diễn ra dựa
trên quy luật giá trị.
Giáo viên giải thích và liên hệ với cuộc

sống tại sao hoạt động trao đổi diễn ra (do
nhu cầu của xã hội, đặc biệt liên hệ với
lương thực)
Giải thích sự điều tiết của giá trị trong sản a. Điều tiết sản xuất và lưu thông
xuất và lưu thông hàng hóa theo quy tắc hàng hóa.
ngang giá
- Là sự phân phối lại các yếu tố
15


Bước 5: Kiểm đếm số tờ tiền còn lại của
mỗi tổ (có sự chênh lệch số tờ tiền do một
số nhóm trả lời được ít câu hỏi hơn sẽ
phải bỏ tờ tiền để mua đủ số lượng đồ
dùng học tập) (10 phút)
Sự chênh lệch số tờ tiền, có nhóm sẽ có
nhiều tờ tiền hơn, có nhóm sẽ ít tờ tiền hơn
 nhóm trả nhiều tiền để mua lại sản
phẩm có năng suất lao động thấp hơn (trả
lời ít câu hỏi hơn). Các nhóm trả lời tốt câu
hỏi, tương đương với năng suất lao động
cao hơn dẫn tới dưa thừa sản phẩm để bán
ra thị trường và kiếm được nhiều tiền. Điều
này dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo.
Các nhóm trả lời yếu, tương đương năng
suất lao động thấp dẫn tới sự nghèo hơn so
với nhóm còn lại. Nếu việc này diễn ra liên
tục sẽ gây ra phân hóa giàu nghèo ngày
càng gia tăng, ở đây thể hiện qua năng lực
học tập của các tổ và thành viên trong tổ.

Trong xã hội, cũng xẩy ra điều này ở toàn
bộ các cấp độ bao gồm giữa các quốc gia,
giữa các khu vực, giữa các ngành và giữa
các gia đình/cá nhân.
Gv nhận xét,bổ sung và tổng kết từng nội
dung
Hs hoàn thành nội dung bài học vào vở
Hoạt động 3 :tìm hiểu nội dung vận
dụng quy luật giá trị ( 15 phút )
Làm việc theo tổ yêu cầu tìm ra giải pháp
để tăng năng suất lao động trong tương
lai (khả năng trả lời câu hỏi) (5 phút)
Học sinh sẽ được yêu cầu làm trên giấy A0
và trình bày trước lớp các giải pháp để tăng
khả năng trả lời câu hỏi; hoặc giáo viên kẻ
bảng và yêu cầu các nhóm đóng góp ý kiến
Các ví dụ gợi ý và liên hệ với quy luật
giá trị:
Liên hệ quy
TT Giải pháp
luật giá trị
1
Học nhóm, hỗ Kích thích lực
trợ nhau cùng lượng sản xuất

TLSX và sức lao động từ ngành sản
xuất này sang ngành sx khác; phân
phối lại nguồn hang từ nơi này sang
nơi khác, từ mặt hang này sang mặt
hang khác theo hướng có lãi thông

qua sự biến động của giá cả hang
hóa trên thị trường.
b. Kích thích lực lượng SX phát
triển và năng suất lao động tăng
cao.
- Năng suất lao động tăng lên sẽ
làm cho lợi nhuận tăng. Bằng
cách đó người SX phải luôn cải
tiến kỷ thuật để tăng năng suất lao
động.
c. Phân hóa giàu nghèo giữa
những người SX.
- Quy luật giá trị có tác dụng bình
tuyển và đánh giá giữa những
người Sx dẫn đến hiện tượng
phân hóa giàu nghèo trong xã hội.
→ Đây là mặt hạn chế của quy
luật giá trị.

3. Vận dụng quy luật giá trị.

16


học bài
phát triển
Dành nhiều thời
gian hơn để học
Tăng năng suất
2

bài Thu nạp các
lao động
thành viên giỏi
từ nhóm khác
Học kĩ năng
phản ứng để trả
3
Giảm chi phí
lời câu hỏi
nhanh hơn
Suy nghĩ thấu
đáo trước khi trả
4
lời để tránh trả Tăng chất lượng
lời sai do vội
vàng
Học thêm qua
Đổi mới khoa
5
internet,
sách
học kĩ thuật
báo bên ngoài
Giáo viên tóm tắt lại các bài trình bày là
các đóng góp của quy luật giá trị trong học
tập và đời sống
Nêu vai trò của nhà nước (trong trường
hợp này giáo viên là đại diện cho Nhà
nước) sẽ đưa ra các giải pháp như trong
bảng để đảm bảo không có sự phân hóa

giữa các học sinh (tương đương phân hóa
giàu nghèo), và nâng cao chất lượng của
môn học (thị trường).
Học sinh có thể hình dung lớp học là một
xã hội, được quản lý bởi giáo viên, sự phân
hóa giữa khả năng tiếp nhận kiến thức đại
diện cho sự phân hóa về năng suất lao
động, giá trị các điểm số của học sinh là
giá trị sản phẩm mà học sinh tạo ra. Giáo
viên cần có những phương pháp hợp lý đề
điều tiết lớp học, gia tăng kiến thức đồng
đều cho cả lớp để cả lớp tiến bộ. Một quốc
gia cũng như vậy, mỗi thành phần trong xã
hội nếu thúc đẩy giá trị và năng suất lao
động của bản thân sẽ góp phần vào xây
dựng đất nước phát triển, vững mạnh hơn.
Giáo viên: nhận xét,kết luận

a. Về phía nhà nước
- Nhà nước vận dụng quy luật giá
trị vào việc đổi mới nền kinhtế
- Ban hành và sử dụng pháp luật,
các chính sách kinh tế - xã hội...
điều tiết thị trường.
b. Về phía công dân.
- Chuyển đổi cơ cấu sản xuất
hàng hóa dịch vụ.
- Nâng cao chất lượng hàng hóa,
dịch vụ, đổi mới mẫu mã hàng
hóa.

- Cải tiến kỹ thuật công nghệ sản
xuất.
- Cải tiến quản lý.
- Nâng cao trình độ chuyên môn,
lành nghề của người lao động.
- Giảm chi phí về nguyên liệu,
sức lao động.
→ Mục đích: sản xuất, kinh
doanh theo sự điều tiết của quy
luật giá trị làm cho giá trị cà biệt
≤ giá trị xã hội.

17


4. Củng cố: (3p)
Gv: - Hệ thống lại kiến thức bài học.
- Trả lời câu hỏi: Học quy luật giá trị em tâm đắc vấn đề gì? Vì sao?
IV.HƯỚNG DẪN HỌC Ở NHÀ (1p)
Gv: - Yêu cầu học sinh về nhà xem lại nội dung các bài đã học chuẩn bị tiết sau
kiểm tra 1 tiết
- Đọc phần tư liệu và làm bài tập trong sgk, đọc trước nội dung bài 4.
V. RÚT KINH NGHIỆM.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Chọn trường thực nghiệm sư phạm
Tôi đã tiến hành thực nghiệm sáng kiến kinh nghiệm ở chính ngôi trường tôi
đang công tác - Trường THPT chu văn An – Tp Sầm sơn – T. Thanh Hóa
1.4.2. Nội dung thực nghiệm sư phạm
Tôi đã tiến hành thực nghiệm sư phạm ở 4 tiết giáo dục công dân: tiết 6
và 7 (bài 3) và tiết 9 (bài 4) tiết 10 (bài 5).

Sau mỗi tiết đều tiến hành kiểm tra 10 câu hỏi trắc nghiệm (12 phút) gọi
là bài kiểm tra số 1 và bài kiểm tra số 2.
2.4.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm.
* Kết quả bài kiểm tra số 1, thể hiện qua bảng sau:
% HS đạt điểm trở
Số HS đạt điểm
% HS đạt điểm
xuống
Điểm
TN
ĐC
TN
ĐC
TN
ĐC
0
0
0
0
0
0
0
1
0
0
0
0
0
0
2

1
2
0.8
1.6
0.8
1.6
3
5
6
4.0
4,8
4.0
7.1
4
15
28
11.9
22.2
16.6
28.6
5
20
26
15.9
20.6
32.5
49,2
6
27
23

21.4
18,3
53.2
67.5
7
28
24
22.2
19.0
76.2
86.5
8
16
9
12.7
7.2
88.8
93.7
9
9
8
7.1
6.3
96.0
100
10
5
0
4.0
0

100.00
100.00
Tổng
126
126
100
100
Từ số liệu trên ta tính được:
- Ở lớp thực nghiệm: 6,3đ
- Ở lớp đối chứng: 5,6đ
- Qua kết quả TN ở bài kiểm tra số 1 tôi có một số nhận xét như sau:
- Điểm số trung bình của các lớp TN (6,3) cao hơn so với lớp ĐC (5,6).

18


- Số học sinh xếp loại dưới trung bình ở lớp TN (11,9%) chiếm tỉ lệ thấp hơn lớp
ĐC (22,2%). Trong khi đó tỉ lệ học sinh đạt giỏi (từ 8 điểm trở lên) ở lớp TN
(23,8%) lớn hơn nhiều so với lớp ĐC (13,5%).
* Kết quả bài kiểm tra số 2 Thể hiện qua bảng sau
Số HS
% Hđ Số đạt điểm trở xuống
Điểm
đạt điểm
% HS đạt điểm
TN
ĐC
TN
ĐC
TN

ĐC
0
0
0
0
0
0
0
1
0
0
0
0
0
0
2
2
5
1.6
4.0
1.6
4.0
3
4
8
3.1
6.3
4.7
10.3
4

10
26
7.8
20.6
12.5
31.0
5
20
24
15.6
19.0
28.1
50.0
6
27
23
21.1
18.3
49.2
68.3
7
30
24
23.4
19.0
72.7
87.3
8
14
10

10.9
7.9
83.6
95.2
9
12
6
9.4
4.8
93.0
100
10 9
0
7.1
0
100
100
Tổng 128
126
100
100
Từ số liệu trên ta tính được:Ở lớp thực nghiệm: 6,5đ
Ở lớp đối chứng: 5,5đ
Qua kết quả TN ở bài kiểm tra số 2, tôi có một số nhận xét như sau:
Điểm số trung bình của các lớp TN (6,5) cao hơn so với lớp ĐC (5,5).
Số học sinh xếp loại dưới trung bình ở lớp TN (12,5%) chiếm tỉ lệ thấp hơn lớp
ĐC (31,0%). Trong khi đó tỉ lệ học sinh đạt giỏi ở lớp TN (27,3%) lớn hơn
nhiều so với lớp ĐC (12,7%).
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận

Qua 2 bài kiểm tra, tôi thấy rõ sự ưu việt của phương pháp dạy học xây
dựng và sử dụng trò chơi được áp dụng vào các bài quy luật kinh tế tạo sự hứng
thú cho học sinh.Phương pháp dạy học này có thể kích thích ở mức cao nhất sự
tham gia tích cực của học sinh vào quá trình học tập, phát triển các kỹ năng học
tập, giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp như nghe, nói, trình bày… Học sinh coi
việc học là của mình, từ đó phát huy được tính tích cực - độc lập - chủ động sáng tạo trong quá trình học tập; các hoạt động trò chơi tạo ra hứng thú, đem lại
nguồn vui, kích thích trực tiếp lòng đam mê của học sinh. Đó chính là động lực
của quá trình dạy học. Học sinh hiểu sâu,không khí học tập vui vẻ bớt căng
thẳng từ đó nhớ lâu những nội dung cốt lõi của bài học. Học sinh có thể hợp tác
với nhau trong quá trình học tập, tự đánh giá, tự điều chỉnh vốn tri thức của bản
thân mình đây cũng chính là cơ sở hình thành phương pháp tự học.
Tuy nhiên, hoạt động xây dựng và sử dụng trò chơi trong dạy học các quy
luật kinh tế tạo sự hứng thú cho học sinh cũng có những khó khăn nhất định đó
là giáo viên phải có kiến thức, có kinh nghiệm sâu rộng,có trình độ xử lý mềm
19


dẻo các tình huống phát sinh trong tiết học,phải bỏ nhiều công sức và thời gian
để xây dựng và tìm tòi trò chơi phù hợp trình độ nhận thức của học sinh ở nhiều
lớp khác nhau. Bên cạnh đó, học sinh cũng phải tự giác tìm kiếm kiến thức,tự
học tự tìm hiểu nội dung bài trước khi lên lớp.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Xây dựng và sử dụng trò chơi trong dạy các quy luật kinh tế tạo sự hứng
thú trong học tập cần được sử dụng ở nhiều bài, nhiều phần học ở các khối
10, 11, 12 để nâng cao hiệu quả học tập của HS, giúp HS lĩnh hội và khám phá
kiến thức một cách chủ động, sáng tạo và hứng thú trong học tập hơn nữa tôi
xin đề xuất thực nghiệm thêm ở nhiều lớp, nhiều trường THPT khác để khẳng
định hơn nữa về hiệu quả của đề tài.
Tôi xin chân thành cảm
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Sầm sơn, ngày 20/05/2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác
Người viết sáng kiến kinh nghiệm

Nguyễn Thị Hương
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Ngọc Bảo (1995), Phát huy tính tích cực tự học của học sinh trong
quá trình dạy học, Bộ GD&ĐT, Vụ GV, Hà Nội.
2. Hồ Ngọc Đại (1999), Giải pháp giáo dục, NXB GD, Hà Nội
3. S.B. Enconhin (Thanh Hà dịch) 1998, Tâm lý học trò chơi, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh
4. Vũ Minh Hồng (1980), Trò chơi học tập, NXB GD
5. Đặng tiến Huy (1997), 50 trò chơi vui- khỏe thông minh, NXB văn hóa thông
tin
6. Đặng Thành Hưng (2002), Dạy học hiện đại-Lý luận, biện pháp, kỹ thuật,
NXB ĐH Quốc gia, Hà Nội
7. Nguyễn Kỳ (1996), Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, Tạp chí
DH& GDCN số 5
8. IF Khar Lamop (1978), Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào, NXB
Giáo dục
9 Trần Đồng Lâm- Đinh Mạnh Cường (2005), Trò chơi vận động, Dự án đào tạo
GV THCS
20


10. A. N. Leonchiep (1980), Sự phát triển tâm lý của trẻ em, trường CĐSP MG
TW3

11. Geofey Petty (2003), Dạy học ngày nay, Dự án Việt-Bỉ, Hà Nội
12. J. Piaget (1986), Tâm lý học giáo dục, NXB GD
13. Ngô Tấn Tạo (1996), 100 trò chơi sinh hoạt, NXB TP Hồ Chí Minh
14. Nguyễn Hữu Trí (1996), Suy nghĩ về dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”,
Tạp chí NCGD số 12

21



×