Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu qủa công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử cho học sinh lớp 11 trường THPT lam kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.66 KB, 20 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Sinh thời thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam "
Lời dạy của Người luôn là bài học sâu sắc trong mọi thời đại, mọi ngành,
mọi giới, đặc biệt đối với những người đang thầm lặng hiến dâng trong sự
nghiệp "Trồng người". Do đó, làm tốt công tác giáo dục lịch sử cho học sinh
là góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong thời kỳ đổi mới, có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi nhà trường. Bởi "Lịch sử là thầy dạy của
cuộc sống", "Muốn đào tạo con người phù hợp với thời đại, chúng ta cần phải
không ngừng cải tiến chất lượng dạy học lịch sử " (Hội đồng quốc tế khoa học
Lịch sử - 1980).
Thế kỉ XXI là thế kỉ của sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ
thông tin. Để sánh vai với cường quốc năm châu, tiến tới hoàn thành sự nghiệp
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Xây dựng Việt Nam thành quốc gia
giàu mạnh, dân chủ, văn minh thì hơn lúc nào hết, ưu tiên cho giáo dục và đào
tạo phải được coi là “Quốc sách hàng đầu", như chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định:“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu ". Qua đó đào tạo ra những con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu của thời đại, với kiến thức toàn diện
không chỉ về khoa học tự nhiên mà cả về khoa học xã hội, nhất là hiểu biết về
lịch sử dân tộc. Từ đó, tạo nên lòng tự hào dân tộc sâu sắc và ý thức vươn lên
xứng tầm với lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông.
Để làm tốt nhiệm vụ "chiến lược phát triển con người", “Nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” theo chủ trương của Đảng và Nhà
nước, Ngành giáo dục của chúng ta đang cố gắng hướng đến sự phát triển tối đa
những năng lực tiềm tàng trong mỗi học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả dạy
và học của nhà trường. Ở các trường Trung học phổ thông hiện nay, đồng thời
với nhiệm vụ phổ cập giáo dục, nâng cao chất lượng đại trà, việc chăm lo bồi
dưỡng học sinh giỏi luôn thực sự được quan tâm, nhất là với những nhà giáo tâm
huyết với nghề. Trong các nhiệm vụ đó, bồi dưỡng học sinh giỏi có vai trò quan


trọng, không chỉ giúp các em tích lũy nhiều kiến thức sâu rộng, nâng cao tính
tích cực học tập, tăng thêm sự yêu thích đối với bộ môn…. Mà còn góp phần
khẳng định khả năng của bản thân và thương hiệu giáo dục của nhà trường.
Thực tế hiện nay ở các trường Trung học phổ thông, công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi, trong đó có việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử đã được chú
trọng, song vẫn còn những bất cập nhất định như: Cách tuyển chọn, phương
pháp giảng dạy thiếu phù hợp, chưa tìm ra được hướng đi cụ thể cho công tác
này, phần lớn chỉ làm theo kinh nghiệm…Từ những bất cập trên dẫn đến hiệu
quả bồi dưỡng không đạt như mong muốn.
Mặt khác, do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử
trong đời sống xã hội. Không ít học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ
môn Lịch sử, coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần làm bài
tập, không cần đầu tư phí công vô ích. Dẫn đến hậu quả học sinh không nắm
1


đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện
tượng khá phổ biến trong thực tế.
Là một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT, học sinh của
trường phần lớn là con em nông dân, đời sống kinh tế còn khó khăn, học sinh ít
được tiếp cận với các vấn đề lịch sử, văn hóa chuyên sâu từ các kênh thông tin.
Băn khoăn trước thực trạng đó, tôi luôn tìm tòi, nghiên cứu để nâng cao kiến
thức và phương pháp giảng dạy của bộ môn để gây hứng thú học tập môn lịch sử
cho học sinh, nhất là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi sao cho đạt hiệu quả.
Xuất phát từ những lý do cơ bản trên, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên
cứu “Một số biện pháp nâng cao hiệu qủa công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Lịch sử cho học sinh lớp 11 Trường THPT Lam Kinh” làm đề tài nghiên
cứu sáng kiến kinh nghiệm của mình. Rất mong được đồng nghiệp chia sẻ, góp
ý để sáng kiến của tôi thực sự đem lại thành công và hiệu quả cho công tác
giảng dạy của bản thân và đồng nghiệp.

1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Đối với người dạy: Nhằm giúp cho giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở
trường THPT một số sáng kiến riêng trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi cho học
sinh lớp 11.
- Đối với người học: Đây là một số biện pháp quan trọng giúp các em lĩnh
hội kiến thức lịch sử hiệu quả hơn. Từ đó xác định đúng đắn được phương pháp
học tập bộ môn lịch sử và ôn luyện đội tuyển đạt kết quả cao.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 11 hệ THPT.
- Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử của giáo viên giảng dạy
lịch sử.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, cá nhân tôi đã thực hiện các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tham khảo: Tham khảo các nguồn: Kinh nghiệm thực
tiễn của đồng nghiệp, sách, báo, tạp chí, các bài tham luận trên Internet.
- Phương pháp khảo sát thực tế: Quan sát, khảo sát thực tế việc ôn luyện
và kết quả các đội tuyển học sinh giỏi ở nhiều trường THPT trong nhiều năm để
thu thập thông tin và xác định phương pháp áp dụng thích hợp trong bồi dưỡng
họ sinh giỏi môn lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
+ Phân tích và tổng hợp tư liệu về các vấn đề có liên quan đến đề tài.
+ Tham chiếu kết quả của bộ môn trong trường và trên địa bàn huyện Thọ
Xuân.
- Phương pháp thử nghiệm: Thử áp dụng các giải pháp sáng kiến của cá
nhân để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử ở các năm học.
Các phương pháp trên được kết hợp đồng thời trong quá trình nghiên cứu,
góp phần tạo nên hiệu quả của đề tài.

2



2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Dân tộc Việt Nam có lịch sử từ lâu đời, với quá trình hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước. Nhân dân ta không chỉ có truyền thống dân tộc anh
hùng mà còn có kinh nghiệm phong phú, quý báu về việc giáo dục lịch sử cho
thế hệ trẻ, về việc rút bài học quá khứ cho cuộc đấu tranh và lao động trong hiện
tại. Kiến thức lịch sử góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, trở
thành vũ khí sắc bén trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Ngày nay, “cùng
với quá trình Quốc tế hóa ngày càng mở rộng thì trở về nguồn cũng là một
trong những xu thế chung của các dân tộc trên thế giới. Với chúng ta, đó chính
là sự tìm tòi, phát hiện ngày càng sâu sắc hơn những đặc điểm của xã hội Việt
Nam, những phẩm chất cao quý, những giá trị truyền thống và những bài học
lịch sử giúp chúng ta lựa chọn và tiến hành bước đi thích hợp, hướng mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” (theo nguyên Tổng Bí thư
Đỗ Mười) .
Chất lượng bộ môn Lịch sử được đánh giá không phải bằng việc ghi nhớ
nhiều sự kiện mà cần hiểu đúng lịch sử. Như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
từng viết: “Lịch sử đâu phải là một chuỗi sự kiện để người viết sử ghi lại, rồi
người giảng sử đọc lại, người học sử học thuộc lòng”. Điều quan trọng là qua
học tập, “chúng ta thấy được cái gì qua các thời đại lịch sử và từ đó chúng ta
rút ra được kết luận gì, bài học gì. C. Mác- một nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác
– Lênin đã vũ trang cho chúng ta một phương pháp luận đúng đắn để nghiên
cứu lịch sử, để rút ra những kết luận có ý nghĩa quan trọng thiết thực”. Đây
chính là cơ sở để những người quan tâm đến sử học và những thầy cô giáo giảng
dạy môn Lịch sử cần nhận thức đúng, sâu sắc, ý nghĩa, vị trí đúng của bộ môn
Lịch sử ở trường Trung học phổ thông và tìm ra những phương pháp để nâng
cao chất lượng bộ môn, thu hút được nhiều học sinh thích học lịch sử và học giỏi
lịch sử.

Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông là:
*Về kiến thức: Cung cấp kiến thức lịch sử ở chương trình Trung học cơ
sở học sinh được tìm hiểu sâu những sự kiện cơ bản trong quá trình phát triển
của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc… Tiếp tục bồi dưỡng học sinh giỏi bộ
môn Lịch sử về kiến thức và kĩ năng, tạo hứng thú say mê học tập, tìm hiểu Lịch
sử cho học sinh.
* Về tư tưởng: Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, có ý thức xây
dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, tự hào về những thành tựu văn hóa, văn
minh mà tổ tiên ta và loài người đã đạt được. Trân trọng, ghi nhớ, biết ơn công
lao của tổ tiên và các anh hùng dân tộc đã ra sức xây dựng và bảo vệ đất nước
để có được cuộc sống hiện nay.
* Về kĩ năng: Hình thành kĩ năng tư duy lịch sử và tư duy logic, nâng cao
năng lực xem xét, đánh giá sự kiện, hiện tượng trong mối quan hệ không gian,
thời gian và nhân vật lịch sử. Rèn luyện kĩ năng học tập bộ môn một cách độc
lập, thông minh như làm việc sách giáo khoa, sưu tầm và sử dụng các loại tư
3


liệu lịch sử, làm bài tập, thực hành... Phát triển khả năng phân tích, đánh giá, so
sánh, khái quát, tổng hợp ... Vận dụng các kiến thức vào thực tiễn của cuộc
sống. Biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề trong quá trình học tập và cuộc sống
hàng ngày.
Trong các mục tiêu đó thì bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất
quan trọng giúp cho ngành giáo dục phát hiện nhân tài, lựa chọn những hạt
giống tốt cho tương lai của đất nước trong sự nghiệp trồng người.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được xác định là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, góp phần khẳng định chất lượng giáo dục và vị thế, uy tín
của giáo viên và nhà trường. Đồng thời còn có ý nghĩa thiết thực trong việc bồi
dưỡng tài năng tương lai cho quê hương, đất nước.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

Trong hệ thống các môn học ở trường Trung học phổ thông, môn lịch sử
có vai trò quan trọng trong việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, lòng tự
hào dân tộc… là hành trang quan trọng cho học sinh bước vào sự nghiệp, tương
lai. Phát huy ưu thế đó, tại trường THPT Lam Kinh và trên địa bàn huyện Thọ
Xuân, trong nhiều năm qua công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và môn
Lịch sử nói riêng luôn được sự quan tâm của Ban giám hiệu, các đoàn thể trong
nhà trường và sự quan tâm của đa số các quý bậc phụ huynh. Đội ngũ các Thầy,
cô giáo cùng bộ môn ở các trường trong huyện đều nhiệt tình tích cực, trao đổi
phương pháp, kinh nghiệm chuyên môn, thông qua hội thảo, chuyên đề, thao
giảng, sử dụng công nghệ thông tin…góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng
học sinh giỏi cấp tỉnh môn Lịch sử. Học sinh cũng thêm yêu thích và quyết tâm
học tập môn Lịch sử, tham gia ôn luyện, dự thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Do đó
chất lượng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được nâng cao hơn.
Tuy nhiên trong thực tiễn giảng dạy đã cho thấy công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi còn nhiều bất cập, hạn chế. Biểu hiện ở quan niệm xã hội về vị trí môn
Lịch sử là môn phụ nên việc quan tâm, đầu tư cho con em học tập bộ môn chưa
nhiều; học sinh chưa giành thời gian thường xuyên cho việc học môn tập bộ
môn Lịch sử và ôn luyện học sinh giỏi còn rất hạn chế. Khối lượng kiến thức ôn
luyện học sinh giỏi còn dàn trải khá nặng, gồm ba phần với hơn 20 chương kiến
thức (Lịch sử thế giới, lịch sử Việt Nam, lịch sử địa phương). Do đó, một số giáo
viên còn bị động trong khai thác kiến thức, chưa mạnh dạn để học sinh tự tìm
hiểu một phần kiến thức. Thực trạng dạy học môn Lịch sử ở trường Trung học
phổ thông hiện nay như trên, nên giáo viên khó phát hiện và lựa chọn được đối
tượng học sinh có năng khiếu để bồi dưỡng.
Mặt khác, phần lớn giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của công
tác dạy bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử. Tuy nhiên do khối lượng kiến thức
ôn luyện học sinh giỏi tỉnh lớp 11 là quá nhiều, dàn trải, nhiều giáo viên lại chưa
xác định được các biện pháp ôn luyện hiệu quả nên chưa thực sự đầu tư cho
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Do đó hiệu quả công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi môn lịch sử chưa cao.

4


Qua phân tích thực trạng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử
hiện nay, cá nhân tôi nhận thấy việc nghiên cứu và những giải pháp của đề tài là
hiệu quả, thiết thực, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của ngành, của đồng
nghiệp tâm huyết với bộ môn Lịch sử.
Qua 5 năm học (2014 - 2015 đến năm học 2018 - 2019) đảm nhận việc
dạy bồi dưỡng cho đội tuyển học sinh giỏi môn lịch sử của ở Trung học phổ
thông Lam Kinh, tôi đã đúc kết được những kinh nghiệm ôn luyện học sinh giỏi
môn Lịch sử cho học sinh lớp 11.
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Lịch sử cho học sinh lớp 11.
2.3.1 Trước hết giáo viên giảng dạy cần xác định đúng các yêu cầu cho một
học sinh giỏi môn Lịch sử lớp 11.
Nhiều người thường nghĩ Lịch sử là môn học thuộc lòng nhưng thật ra
muốn học giỏi thì phải đọc và hiểu sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử theo kiểu
“Mưa dầm thấm lâu”. Nhưng quan trọng nhất, người học giỏi lịch sử phải biết
hệ thống hóa các nội dung Lịch sử bằng những sơ đồ nhánh, biểu đồ thống kê tư
duy theo từng sự kiện, mốc thời gian, ghi nhớ có sự liên kết. Từ đó, ta mới có
thể dễ dàng ghi nhớ nội dung và dữ liệu của môn học. Bởi môn lịch sử là một
môn khoa học biện chứng.
Là học sinh giỏi lịch sử không phải chỉ cần tính siêng học bài mà là phải
có khả năng lập luận, thông minh, trí nhớ tốt. Đặc biệt là phải có niềm đam mê,
yêu thích sử học. Học sinh giỏi lịch sử không những phải hoàn thành các bài tập
của giáo viên giao mà còn phải chuẩn bị bài trước ở nhà (theo những câu gợi mở
của giáo viên). Sau khi thảo luận nhóm và được giáo viên giảng giải thêm, học
sinh mới hiểu sâu được kiến thức.
Ngoài việc học tập ở lớp, học sinh phải tham khảo thêm nhiều sách vở do
giáo viên gợi ý hoặc tự tìm tòi. Học sinh phải có sổ tay để ghi chép những nội

dung quan trọng. Đây là tư liệu cần thiết, giúp học sinh dễ dàng tra cứu, không
mất nhiều thời gian truy tìm, khi cần thiết.
Học sinh không những nắm được những kiến thức của giáo viên mà còn
phải biết độc lập suy nghĩ, tìm tòi, biết khái quát nội dung chương trình hay thắc
mắc những gì mình còn nhận thức mơ hồ.
Nhưng nắm vững lý thuyết chưa đủ mà học sinh còn phải rèn luyện kỹ
năng phân tích đề; kỹ năng viết bài và trình bày bài làm. Nhìn một bài làm hay,
thì chữ đẹp bao giờ cũng dễ gây thiện cảm cho người đọc, nhất là đối với các
môn khoa học Xã hội. Đây là một công việc khó khăn, học sinh cần phải được
luyện tập lâu dài, thông qua các bài viết (có sự sửa chữa của giáo viên kịp thời).
Ngoài ra, học sinh giỏi môn Lịch sử phải biết sử dụng triệt để các thao tác
phân tích, tổng hợp để đánh giá, nhận định về một sự kiện hay vấn đề lịch sử,
biết chọn ra những chi tiết, sự kiện lịch sử nào để chứng minh, giải thích theo
yêu cầu của đề bài. Hơn nữa, học sinh ấy phải biết trình bày một bài làm lịch sử
có hệ thống, lô gic,…đảm bảo tính khoa học.
5


2.3.2. Giáo viên phải phát hiện được học sinh mũi nhọn và xây dựng đội
ngũ học sinh giỏi ngay từ lớp 10 đầu cấp.
Lâu nay tôi thường chọn học sinh giỏi theo quy trình: Tuyển chọn đội
tuyển vào cuối mỗi năm học để bồi dưỡng, động viên trong thời gian hè. Vào
đầu mỗi năm học mới tiếp tục chọn lần hai và tăng cường bồi dưỡng để tham gia
ôn tập dự thi cấp huyện. Việc tuyển chọn như vậy tôi thấy hiệu quả.
Mặt khác đối với bộ môn Lịch sử tôi thấy việc tuyển lựa rất khó, do học
sinh cứ xem thường môn học cho đó là môn học phụ. Nên giáo viên dạy môn
Lịch sử phải lựa chọn đối tượng sau cùng. Những em có năng khiếu đặc biệt
thường thích ôn luyện các môn học tự nhiên. Vì có kiến thức cơ bản, vững vàng
các em cần nắm rõ các công thức, quy tắc, định nghĩa, định lí rồi linh hoạt nhạy
bén, áp dụng để làm bài. Còn các môn học ít tiết như Lịch sử, Địa lí cần học bài

dài và nhiều nên phần đông các em rất chán. Do đó tôi phải kết hợp nhiều biện
pháp để xây dựng đội tuyển học sinh giỏi lớp 11 một cách hiệu quả. Đây là một
yếu tố có vai trò vô cùng quan trọng, có góp phần tạo nên thành công trong công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử.
Trước hết, tôi kết hợp khi dạy trên lớp, tôi thường ra đề kiểm tra theo
hướng mở hoặc đưa ra những câu hỏi, bài tập nhận thức để khuyến khích học
sinh có sự đầu tư, sáng tạo khi trả lời trước tập thể lớp hay viết trong làm bài và
thưởng điểm cho những học sinh biết cách làm bài đúng theo yêu cầu và có sáng
tạo. Qua đó tạo ra động lực cho các em phấn đấu.
Thêm đó, tôi cũng tiến hành chọn những học sinh có khả năng phát hiện
và giải quyết vấn đề nhanh, đúng bản chất sự kiện, vấn đề lịch sử. Trong bài
viết, tôi đặc biệt chú ý những bài học sinh trả lời đúng yêu cầu thể hiện nắm
vững kiến thức, trình bày, lập luận lô gic, kết hợp chữ viết rõ ràng, nếu viết sạch,
đẹp là càng tốt.
Trong những năm gần đây, việc lựa chọn học sinh giỏi môn Lịch sử vào
đội tuyển của trường thường được xây dựng qua kì thi học sinh giỏi cấp trường.
Qua các bài kiểm tra để giáo viên phát hiện học sinh có năng khiếu, có sự yêu
thích học môn Lịch sử, tôi trực tiếp gặp các em để tìm hiểu tâm lý, khơi dậy ở
học sinh niềm đam mê, giới thiệu các em tham gia vào đội tuyển để bồi dưỡng.
Phân tích cho các em niềm tự hào, vinh dự khi đạt giải môn thi cấp tỉnh, cấp
quốc gia. Đó không chỉ là sự ghi nhận cố gắng và kết quả mà các em đã đạt
được mà còn khơi dậy sự khát khao chinh phục và khẳng định ở các em.
Bên cạnh đó, tôi còn gặp các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm thăm
hỏi tình hình học tập của các em để chọn ra những học sinh có năng lực, có tố
chất thông minh và làm việc siêng năng. Đặc biệt tôi rất khuyến khích các học
sinh vừa yêu thích và có năng khiếu môn Lịch sử, vừa học khá các môn khác,
nhất là môn Toán, Ngữ văn, vì môn Lịch sử cũng cần ở học sinh khả năng phân
tích, tư duy logic và kết hợp những kiến thức văn, thơ minh họa cho bài viết
thêm sinh động, giảm sự khô khan nhàm chán gây được thiện cảm cho người
đọc. Tiêu biểu là năm học 2018 – 2019, tôi đã xây dựng được đội tuyển học sinh

giỏi môn Lịch sử lớp 11 gồm 05 học sinh: 02 học sinh học lớp định hướng khối
6


A1 (Toán, Anh, Lí), 02 học sinh học lớp định hướng khối D (Toán, Văn, Anh) và
01 học sinh học lớp định hướng khối C ( Văn, Sử, Địa ).
Vậy vấn đề đặt ra là cần phải phát hiện những học sinh có khả năng giỏi
Lịch sử từ lúc nào? Nên tổ chức bồi dưỡng từ lớp nào? Trên thực tế, có nhiều
trường khi chuẩn bị thi mới tập trung học sinh để ôn luyện, nhưng theo tôi việc
phát hiện và chọn học sinh giỏi phải làm sớm - vào đầu mỗi năm học mới; tổ
chức bồi dưỡng phải thường xuyên, không nhất thiết phải ôn thi vào các buổi bồi
dưỡng mà ở các tiết học, các môn học các em cần phải quan tâm, được uốn nắn
và phát hiện kịp thời. Việc bồi dưỡng cho các em phải tiến hành sớm, thường
xuyên và tránh nhàm chán. Qua đó giúp các em học tập một cách khoa học.
2.3.3. Giáo viên giảng dạy bồi dưỡng cần định hướng đúng đắn cho học
sinh các yêu cầu của một bài Lịch sử học sinh giỏi lớp 11 đạt hiệu quả.
Nội dung kiến thức ôn luyện học sinh giỏi của học sinh lớp 11 bao gồm cả
chương trình lịch sử lớp 10, chương trình lịch sử lớp 11 và lịch sử địa phương.
Đây là một chương trình khó, kiến thức rời rạc. Mặc dù thời lượng giảng dạy
theo phân phối chương trình trên lớp không nhiều (1-1,5 tiết/ Tuần), nhưng học
sinh giỏi bộ môn phải học tập, tìm hiểu sâu kiến thức ở rất nhiều bài, chủ đề. Do
vậy giáo viên giảng dạy bồi dưỡng cần xác định đúng cho học sinh yêu cầu của
một bài Lịch sử học sinh giỏi lớp 11 đạt hiệu quả, đó là:
- Học sinh phải biết suy luận khi làm bài: Bài làm môn Lịch sử cần đi
thẳng vào vấn đề, không viết rườm rà, dẫn đến lạc đề. Hãy đọc kỹ đề bài, hiểu rõ
câu hỏi và thiết kế những kiến thức đã học theo ý đồ của câu hỏi, đừng bắt câu
hỏi phải đi theo kiến thức có sẵn của mình. Học sinh phải biết chọn ra những chi
tiết, sự kiện lịch sử nào để chứng minh, giải thích theo yêu cầu của đề bài.
- Học sinh cần ghi nhớ chính xác, không được phép làm bài theo kiểu nhớ
mang máng nội dung, vấn đề. Môn Lịch sử là một môn học tuyệt đối kỵ với các

khái niệm mù mờ. Ngược lại bài làm cần đạt độ chính xác cao về ngôn từ, khái
niệm, sự kiện.
Ví dụ không được nhớ nhầm “Hiệp ước Nhâm Tuất” thành “Hiệp ước
Giáp Tuất”. Không được viết lẫn lộn giữa những chữ “đấu tranh”,“chiến
đấu”, “khởi nghĩa”; “cách mạng tư sản” với “cách mạng dân chủ tư sản”,
“cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới”…
- Một bài viết Lịch sử hay là bài viết của học sinh đó biết thổi hồn vào
những con số, phải tái hiện được sự kiện, hiện tượng, vấn đề lịch sử. Một bài
lịch sử chất lượng là phải có minh chứng số liệu cụ thể kèm theo lời dẫn dắt và
lập luận vấn đề của người viết. Tránh trường hợp học sinh ghi chép tràn lan mà
không có số liệu để làm làm thiếu tính chính xác; nhưng cũng không phải là sự
ghi nhớ số liệu một các khô khan, máy móc để làm làm trở thành rập khuôn.
Ví dụ: Khi trình bày về việc Triều Nguyễn bỏ lỡ cơ hội thắng Pháp lần thứ
nhất trong bài “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược từ năm 1858 đến năm 1884”, học sinh có thể trình bày với các cách diễn
đạt như:
7


+ Cách diễn đạt thiếu các số liệu khoa học: Sau khi không chiếm được
Đà Nẵng, thực dân Pháp đánh vào Gia Định. Nhưng tại đây, khi Pháp đánh
chiếm được thành Gia Định, thực dân Pháp gặp phải khó khăn ở chiến trường
Trung Quốc và Italia. Nguyễn Tri Phương lại chủ trương xây dựng đại đồn Chí
Hòa, bỏ lỡ cơ hội thắng Pháp……..
+ Cách diễn đạt thiên về trình bày số liệu: Đầu năm 1860, thực dân Pháp
gặp phải khó khăn ở chiến trường Trung Quốc và Italia…..Tháng 3 năm 1860,
Nguyễn Tri Phương chủ trương xây dựng đại đồn “thủ hiểm” Chí Hòa.
+ Cách trình bày bài viết của học sinh đó biết thổi hồn vào những con
số, phải tái hiện được sự kiện: Sau khi không chiếm được Đà Nẵng, ngày
17/2/1859, thực dân Pháp thay đổi mục tiêu tấn công vào thành Gia Định. Tuy

chiếm thành Gia Định, nhưng thực dân Pháp gặp phải nhiều khó khăn bởi các
hoạt động đấu tranh ráo riết của quân dân ta. Đặc biệt sang đầu năm 1860, thực
dân Pháp bị sa lầy ở chiến trường Trung Quốc và Italia. Chúng phải tập trung
ứng cứu cho hai chiến trường, chỉ để lại Gia Định một lực lượng rất mỏng với
hơn 1.000 quân…Đây là cơ hội thuận lợi để ta đánh đuổi Pháp ra khỏi Gia Định.
Tuy nhiên sau khi Nguyễn Tri Phương được điều vào chỉ huy mặt trận Gia Định
(Tháng 3/1860), ông không tập trung chống Pháp, mà lại chủ trương xây dựng
đại đồn Chí Hòa làm trung tâm. Do vậy khi quân Pháp kéo về Gia Định, cơ hội
thắng Pháp của quân dân ta đã qua đi……..
- Yêu cầu của một bài Lịch sử học sinh giỏi đạt chất lượng tốt: Cần
đảm bảo hai mặt nội dung và hình thức:
+ Trước hết về nội dung: Đảm bảo đúng và đủ:
Đúng ( Đảm bảo không sai kiến thức cơ bản) là sự chính xác về kiến thức,
không nhầm lẫn các sự kiện, thời gian, không gian. Kĩ năng làm bài đúng theo
yêu cầu của đề bài (Trình bày, nhận xét, so sánh…) chứ không phải nhớ cái gì
viết cái đó.
Đủ (Không thừa, không xót kiến thức cơ bản). Đây là vấn đề có liên quan
đến việc chọn lựa kiến thức, tránh qua loa, đại khái, nhưng cũng tránh đi vào chi
tiết, vụn vặt. Chỉ khi chính xác các yêu cầu của đề bài thì mới có thể chọn lựa
đúng và đủ nội dung, những kĩ năng cần sử dụng để làm bài. Đủ về dung lượng
kiến thức và đủ số câu theo yêu cầu của đề thi.
+ Về hình thức (cách thể hiện): Yêu cầu quan trọng nhất là rõ ràng.
Sự rõ ràng thể hiện trước hết ở các ý được trình bày sao cho có trình tự
hợp lý, có trước, có sau, đúng trình tự thời gian (Nếu là diễn biến sự kiện, liệt kê
sự kiện), đúng trình tự nội dung (Như ý nghĩa trong nước, quốc tế của một sự
kiện; hoặc lần lượt các vấn đề chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa…của một giai
đoạn lịch sử).
Sự rõ ràng thể hiện ở cách diễn đạt, sử dụng câu, từ dễ hiểu, đúng ngữ
pháp. Tốt nhất là dùng các câu đơn giản. Mỗi ý được trình bày trong một đoạn
văn. Không tùy tiện gạch đầu dòng như trong đề cương. Không dùng thơ ca,

không dùng tư liệu văn học để thay thế cho tư liệu lịch sử.
“Rõ ràng” còn thể hiện ở chữ viết. Không phải ai cũng viết đẹp, nhưng
phải viết rõ ràng, đủ nét, tránh viết hoa tùy tiện và viết sai lỗi chính tả.
8


2.3.4. Giáo viên xây dựng chương trình giảng dạy bồi dưỡng.
Ôn luyện học sinh giỏi không giống như tiết dạy ở lớp học bình thường.
Vì ở lớp giáo viên dạy cho học sinh phù hợp với ba đối tượng (khá - giỏi, trung
bình và yếu kém). Song dạy cho học sinh giỏi là ta dạy để đưa các em đi dự thi.
Đối tượng dự thi đều ngang tầm nhau về mặt học lực, nhận thức. Vì vậy, việc
xây dựng nội dung chương trình là hết sức cần thiết. Đây là công việc quan
trọng đầu tiên sau khi thành lập đội tuyển. Tôi xây dựng chương trình - kế hoạch
bồi dưỡng theo khung chương trình hướng dẫn của Sở giáo dục và đào tạo
Thanh Hóa. Năm học 2018 - 2019, chương trình giảng dạy bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Lịch sử cho học sinh lớp 11 gồm 3 phần như sau:
a. Lịch sử thế giới: Gồm các nội dung:
- Các quốc gia cổ đại phương Đông.
- Các quốc gia cổ đại phương Tây - Hi lạp và Rô ma.
- Trung Quốc thời phong kiến.
- Tây Âu thời trung đại.
- Các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại.
- Các nước Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918).
- Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
- Các nước tư bản chủ nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.
- Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).
b. Lịch sử Việt Nam: Gồm các nội dung:
- Việt nam thời nguyên thuỷ.
- Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam.

- Thời Bắc thuộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (từ thế kỉ X
đến thế kỉ XV).
- Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X-XV.
- Xây dựng và phát triển văn hoá dân tộc trong các thế kỉ X-XV.
- Nhân dân Việt nam kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ
1858-1873.
- Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những
năm cuối thế kỉ XIX.
- Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
Chiến tranh thế giới thế giớ thứ nhất (1914).
- Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp (1897- 1913).
c. Lịch sử địa phương: Gồm nội dung: Lịch sử Đảng bộ tỉnh và truyền
thống cách mạng của nhân dân Thanh Hoá.
Trên cơ sở xây dựng khung chương trình ôn luyện học sinh giỏi như vậy,
tôi xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập nâng cao để ôn luyện. Đặc biệt dành dung
lượng thời gian lớn và kiến thức sâu rộng cho những vấn đề mà giáo viên xác
định là trọng tâm kiến thức, nhưng vẫn phủ kín mọi vấn đề cần ôn luyện cho học
sinh. Tránh dạy tủ vấn đề.
9


Hệ thống câu hỏi ôn luyện theo chương trình cần phù hợp với cấu trúc đề
thi học sinh giỏi như sau:
TT
Các phần
Số điểm
Số câu hỏi Loại câu hỏi
1 Lịch sử thế giới

6,0
2
Tự luận
2 Lịch sử Việt Nam
12,0
3
Tự luận
3 Lịch sử địa phương
2,0
1
Tự luận
Tổng số
20,0
6
Tự luận
Ngoài ra, tôi cũng tập trung biên soạn các chuyên đề nâng cao trong
chương trình để bổ sung kiến thức cho học sinh khi bồi dưỡng như: Các cuộc
cách mạng tư sản thời cận đại, các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong
các thế kỉ X-XV, phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước………
2.3.5. Giáo viên tiến hành bồi dưỡng.
2.3.5.1. Cung cấp kiến thức.
Yêu cầu kiến thức trong chương trình lịch sử ở trường Trung học phổ
thông đều nhằm mục đích cung cấp kiến thức cơ bản về tiến trình lịch sử thế
giới và Việt Nam theo chiều sâu. Do đó, đối với học sinh giỏi yêu cầu phải hiểu
biết sâu sắc và toàn diện. Các em phải nắm chắc bản chất các sự kiện, hiện
tượng lịch sử, các vấn đề lịch sử,… để có đủ tự tin, có sự sáng tạo khi giải quyết
bất kì đề thi nào.
Một việc quan trọng để cung cấp kiến thức cho học sinh là chọn và giới
thiệu những tài liệu đảm bảo chất lượng cho các em. Thị trường sách hiện nay

khá phong phú, hay dở đan xen, nhưng quỹ thời gian của học sinh thì có hạn,
nên tôi chọn và mua hoặc phô tô cho học sinh các sách như: Sách giáo khoa
(chương trình cũ), Sách lịch sử nâng cao …để làm tư liệu tham khảo.
Trong chương trình bồi dưỡng, tôi kết hợp dạy kĩ hệ thống kiến thức cơ
bản theo chuẩn kiến thức, kỹ năng bằng việc lựa chọn những sự kiện, những vấn
đề lịch sử trọng tâm cho các em rồi tiến hành mở rộng kiến thức bằng các
chuyên đề nâng cao.
Các chuyên đề cần đi sâu làm rõ được hoàn cảnh lịch sử, nội dung bản
chất của các vấn đề lịch sử, các giai đoạn lịch sử; mối quan hệ giữa quá khứ hiện tại - tương lai. Đảm bảo cho học sinh đạt được mức độ về kiến thức lô-gíc
là: nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá và sáng tạo, chứ không
phải nhồi nhét kiến thức cho học sinh.
Từ các chuyên đề là công cụ giúp học sinh giải quyết tốt các loại đề thi.
Tôi tiến hành dạy từng chuyên đề phù hợp với khả năng và chương trình cho học
sinh bồi dưỡng.
Sau khi dạy xong một chuyên đề, một bài lịch sử, tôi yêu cầu học sinh
phải dành một khoảng thời gian để suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề đó, đặc biệt là ý
nghĩa của sự kiện đó với giai đoạn trước và sau nó.
Ví dụ: như khi học về phong trào Cần Vương thì hãy đối chiếu nó
với phong trào chống Pháp trong những năm 1858 - 1884 hay Phong trào
10


dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX ...hay như khi học về Phong trào yêu nước đầu
thế kỉ XX (Dân chủ tư sản) thì phải tìm hiểu xem nó giống và khác gì so
với phong trào cuối thế kỉ XIX hay về sau là với Phong trào yêu nước vô sản
của Nguyễn Ái Quốc ... Làm như vậy sẽ giúp học sinh nhớ được kiến thức và
nếu gặp các dạng bài hệ thống, so sánh ... học sinh làm bài đạt hiệu quả cao hơn.
Theo tôi, để một học sinh được tham gia dự thi thi học sinh giỏi môn Lịch
sử các cấp đạt hiệu quả thi trước hết học sinh đó phải nắm vững kiến thức cơ
bản của bộ môn Lịch sử. Kiến thức cơ bản ở đây không chỉ là những sự kiện đơn

lẻ mà phải bao gồm hệ thống những hiểu biết cần thiết về những sự kiện, niên
đại, nhân vật, địa danh, các nguyên lý, quy luật, những kết luận khái quát,
phương pháp, kỹ năng. Vì vậy, khi nắm vững kiến thức học sinh mới có khả
năng ứng phó được với các loại câu hỏi, bài tập. Sau đó giáo viên mới cho học
sinh tìm hiểu về các dạng câu hỏi, bài tập nâng cao.
2.3.5.2. Rèn luyện kỹ năng
a. Kỹ năng tìm hiểu tài liệu.
Nội dung chương trình ôn luyện học sinh giỏi tỉnh lớp 11 môn Lịch sử
quá rộng, tôi không đủ thời gian để dạy từng bài trong sách giáo khoa, nên việc
hướng dẫn học sinh tìm hiểu trước bài trong sách giáo khoa là rất quan trọng.
Sách giáo khoa Lịch sử Trung học phổ thông được biên soạn - trình bày theo
bài, theo tiến trình thời gian. Tôi đã hướng dẫn học sinh nắm được mục đích yêu cầu, những sự kiện quan trọng và trọng tâm kiến thức của từng bài học Lịch
sử lớp 10, 11 theo khung chương trình cần bồi dưỡng. Trên cơ sở đó các em về
nhà tìm hiểu kỹ sách giáo khoa và trả lời những câu hỏi trong sách giáo khoa
yêu cầu. Với cách làm trên khi ôn luyện cho học sinh tôi chỉ tập trung phân tích
chuyên sâu những nội dung lịch sử.
Để tìm hiểu tài liệu đạt hiệu quả học sinh cần phải:
1. Nắm đề: Đề ở đây là tên đề bài, tên tiểu mục. Nhiều học sinh học thuộc
nội dung nhưng lại không nhớ tên tiểu mục, khi làm bài có thể “Râu ông nọ cắm
cằm bà kia”, nghĩa là lạc đề.
Vậy trước khi học tiểu mục nào, nên nắm chắc tên tiểu mục ấy. Chuyển
tiểu mục ấy thành câu hỏi. Ví dụ như “Các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại
bùng nổ trong bối cảnh nào?”. Tự đặt ra câu hỏi như: “Kể tên các cuộc cách
mạng tư sản? Rút ra ý nghĩa, hình thức đấu tranh, đặc điểm của các cuộc
cách mạng tư sản đó? Cuộc cách mạng nào là tiêu biểu nhất? Vì sao?”. Như
vậy kích thích hứng thú học tập, hiểu sâu, nhớ lâu. Đó là chủ động trong học tập.
2. Nắm khung: Khung là dàn ý của cả bài hoặc của từng phần. Trước khi
học cả bài hay từng phần nên nắm chắc cái dàn ý của nó. Dàn ý thường theo giai
đoạn hoặc theo sự kiện, bao gồm: Nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa.
Nắm khung giúp nhớ có hệ thống và nhớ lâu, dễ trả lời những câu hỏi tổng hợp.

3. Nắm chốt: Lịch sử bao giờ cũng gắn liền sự kiện – địa danh – nhân vật
lịch sử. Nên “chốt” là thời điểm gắn với một sự kiện quan trọng hoặc tương đối
quan trọng. Ở lịch sử lớp 10, 11 yêu cầu học sinh phải nhớ cả ngày, tháng, năm.
Nếu chỉ là tương đối quan trọng, có thể chỉ cần nhớ tháng và năm, thậm chí chỉ
11


nhớ năm, cũng tạm được. Nên tìm các mối quan hệ giữa các chốt về thời gian và
sự kiện thì dễ nhớ và nhớ lâu.
4. Thuật ngữ: Cần phải nhớ đúng những thuật ngữ Lịch sử, không được
nhầm lẫn giữa một số thuật ngữ “đấu tranh”, “chiến đấu”, “khởi
nghĩa”,"kháng chiến"…vì mỗi chữ có một nghĩa khác nhau.
b. Kỹ năng dùng “mẹo” để liên hệ và ghi nhớ sự kiện.
Đặc trưng của bộ môn Lịch sử là có nhiều số liệu, sự kiện, buộc học sinh
phải ghi nhớ. Đây là một vấn đề khó, làm cho nhiều học sinh có tâm lí sợ và
ngại học môn Lịch sử. Để giúp học sinh ghi nhớ nội dung được nhanh và sâu sắc
hơn, tôi đã sử dụng nhiều biện pháp sư phạm để dạy học sinh cách ghi nhớ sự
kiện như:
- Đối với các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà không cần phải chính xác cụ
thể ngày, tháng, năm thì ta dùng “Thế kỉ”, “Những năm”, “Thập kỉ”.
+ Ví dụ 1: “Cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789” có thể thay bằng
“Cuộc cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII”.
+ Ví dụ 2: Sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít trên thế giới sau khủng
hoảng kinh tế 1929 - 1933 có nhiều mốc thời gian khác nhau. Chúng ta có thể
nhớ “Vào những năm 30 của thế kỉ XX, chủ nghĩa phát xít xuất hiện và lên cầm
quyền ở Đức, Ý, Nhật…”.
- Nhiều ngày, tháng có thể ghi nhớ lô gic, liên hệ với nhau.
+ Ví dụ 1: Năm cách mạng tư sản Pháp bùng nổ là năm Quang Trung đại
phá quân Thanh (Năm kỷ Hợi 1789).
+ Ví dụ 2: Năm Nhật Bản tiến hành cuộc cải cách Duy Tân Minh Trị

cũng là năm Xiêm tiến hành cuộc cải cách của vua Ra - ma V (1868).
- Thêm một khoảng thời gian nhất định của các sự kiện liên tiếp:
Ví dụ: Cách mạng công nghiệp Anh diễn ra khoảng 100 năm cách mạng
tư sản Anh. Ở Anh diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp thì ở Bắc Mĩ diễn ra
cuộc đấu tranh giành độc lập; sau đó khoảng 10 năm thì cách mạng tư sản
Pháp bùng nổ.
- Cách ghi nhớ nội dung, sự kiện được lâu và sâu sắc: Trong quá trình
bồi dường học sinh giỏi, sau khi cô trò cùng tìm hiểu hết nội dung cơ bản, tôi tập
trung kiểm tra sự ghi nhớ của học sinh. Tôi cho học sinh học thuộc vấn đề bằng
mắt, sau đó ghi nội dung chính ra giấy nháp. Sau khi học sinh đã thuộc cơ bản
thì cho các học sinh kiểm tra nói cho nhau. Cuối cùng tôi trực tiếp kiểm tra từng
học sinh theo lần lượt từng câu hỏi, vấn đề, chuyên đề. Như vậy sẽ giúp học sinh
ghi nhớ qua nhiều bước và có một ý thức tốt trong học tập.
c. Rèn luyện kĩ năng tự học và sáng tạo
Ngoài việc tìm hiểu kiến thức trên lớp, trong các buổi bồi dưỡng học sinh
giỏi ở nhà thì còn cần rèn luyện kĩ năng tự học và sáng tạo cho học sinh. Trong
quá trình bồi dưỡng, tôi đã rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh bằng các biện
pháp:
- Cung cấp câu hỏi, bài tập khó cho nội dung kiến thức vừa tìm hiểu
và các câu hỏi cơ bản cho nội dung kiến thức chuẩn bị tìm hiểu.
12


Ví dụ: Sau khi tìm hiểu các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong các
thế kỉ X – XV, giáo viên có thể ra bài tập khó: Lập bảng so sánh cuộc kháng
chiến chống Tống thời Lý, cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thời
Trần và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn về hoàn cảnh, cách thức tiến hành, cách kết
thúc chiến tranh. Qua nguyên nhân thắng lợi của các cuộc kháng chiến, hãy rút
ra bài học kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay.
Giáo viên yêu cầu học sinh tự lập dàn ý theo các câu hỏi. Với các câu hỏi

khó, giáo viên yêu cầu học sinh viết thành bài thi và chấm, nhận xét cho học
sinh.
- Rèn luyện cho học sinh làm các đề tổng hợp: Đây là một khâu không
thể thiếu trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử cho học sinh lớp
11. Sau khi tìm hiểu mọi nội dung kiến thức, giáo viên xây dựng đề thi học sinh
giỏi theo đúng cấu trúc và tổ chức cho học sinh tự làm trong 180 phút. Giáo viên
cần nêu cao tính tự giác của học sinh, không nhìn tài liệu và độc lập trong bài
làm của mỗi học sinh. Giáo viên cũng cần làm tốt khâu chấm, chữa bài và nhận
xét đối với các em
Với các biện pháp trên sẽ tăng cường tính tự giác học tập cho học sinh.
Qua đó giúp cho học sinh ghi nhớ và nắm bắt nội dung một cách sâu sắc, biết
được điểm mạnh và hạn chế của mình để phát huy hoặc rút kinh nghiệm trong
quá trình làm bài.
d. Kỹ năng phân tích đề
Về các đề thi học sinh giỏi thường có mấy loại sau đây:
- Loại đề hệ thống hóa kiến thức lịch sử: nhằm nêu một số kiến thức cơ
bản nhất để qua đó phác họa bức tranh chung về một thời kỳ, một sự kiện lịch
sử. Song đây không phải là liệt kê kiến thức đơn thuần mà yêu cầu học sinh biết
lựa chọn một số sự kiện chủ yếu, tiêu biểu, được hệ thống hóa để làm toát lên
một chủ đề nhất định.
Ví dụ 1: Lập bảng kê các các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại (Thế
kỉ XVI – XIX) theo các nội dung sau:
Hình
Giai cấp
STT Tên CMTS Thời gian
Lực lượng thức đấu
Ý nghĩa
lãnh đạo
tranh


Ví dụ 2: Lập bảng kê các các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của
nhân dân Việt Nam trong các thế kỉ X – XV theo các nội dung sau:
Chiến
Tên cuộc
Kết quả,
STT
Thời gian Lãnh đạo Địa bàn thắng
kháng chiến
ý nghĩa
tiêu biểu

13


Khi lập bảng hệ thống hóa kiến thức, học sinh phải đọc kỹ đề, hiểu rõ vấn
đề được đặt ra để lựa chọn những kiến thức phù hợp. Lập bảng hệ thống hóa
kiến thức cần phải chia ra các cột, nội dung mỗi cột là một đề mục các cột hợp
thành hệ thống, giải quyết chủ đề được đặt ra. Một số học sinh không được
hướng dẫn kỹ thường viết thành bài tự luận.
- Loại đề thi tự luận: Có nhiều dạng yêu cầu theo mẫu tự luận.
Ví dụ 1: Vì sao thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm tấn công đầu tiên
khi xâm lược nước ta cuối thế kỉ XIX? Trình bày âm mưu và hành động của
Pháp trong chiến sự đó.
Ví dụ 2: Vì sao Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước? Điểm mới
trong hoạt động cứu nước của Người so với các bậc tiền bối là gì?
Các loại đề thi như trên không chỉ yêu cầu học sinh phải nhận biết chính
xác sự kiện, nhận thức đúng bản chất lịch sử mà còn đòi hỏi học sinh thể hiện
khả năng lập luận, trình bày, diễn đạt tốt.
Ngoài ra còn có loại đề thi có câu hỏi đặt ra để lý giải một vấn đề đã được
xác định, hoặc bình luận, chứng minh câu nói nổi tiếng của một nhân vật lịch sử

bằng những quan điểm, bằng các sự kiện. Loại đề thi này tương đối khó, nên tôi
hướng dẫn, yêu cầu học sinh phải đọc kỹ và hiểu đúng câu nói của nhân vật, một
nhận định, đánh giá và sử dụng những sự kiện lịch sử cụ thể, chính xác để chứng
minh cho nội dung lịch sử mang tính khoa học.
- Loại đề nhận thức lịch sử: Là đề theo một chủ đề hay vấn đề lịch sử
nhất định được đặt dưới dạng câu hỏi yêu cầu cần giải đáp. Loại đề này thường
có nội dung khó, yêu cầu học sinh phải suy nghĩ nhiều, hiểu biết kiến thức lịch
sử chính xác, hệ thống; học sinh phải có năng lực độc lập suy nghĩ để giải quyết
vấn đề nêu ra, học sinh phải có trình độ tư duy cao, có khả năng lập luận, lý giải
vấn đề. Các dạng thường gặp như:
+ Đề thi về xác lập mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện lịch sử:
Ví dụ: Hãy sắp xếp theo trình tự thời gian các sự kiện chủ yếu của phong
trào yêu nước Việt Nam trong những năm 1858 – 1874 và rút ra đặc điểm phong
trào chống Pháp của nhân dân?
Loại đề thi này yêu cầu học sinh phải suy nghĩ kỹ, nếu không sẽ dễ nhầm
lẫn với loại đề hệ thống hóa kiến thức cơ bản đã trình bày trên. Đề thi yêu cầu
thí sinh không chỉ ghi nhớ các sự kiện lịch sử theo tiến trình thời gian mà điều
quan trọng là thí sinh phải lý giải mối quan hệ giữa các sự kiện đã được lựa
chọn.
+ Đề thi xác định tính kế thừa giữa các sự kiện lịch sử, giai đoạn, thời
kì lịch sử: Đề yêu cầu học sinh phải hiểu rõ quá trình phát triển liên tục, thống
nhất, tính phong phú, đa dạng, cụ thể của các sự kiện, giai đoạn, thời kì lịch sử.
Khi làm loại đề này, học sinh phải nắm vững một vấn đề có tính quy luật trong
sự phát triển của lịch sử. Sự kiện xảy ra trước tác động đến sự ra đời và phát
triển của sự kiện tiếp sau, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
14


Ví dụ: Các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại sẽ tác động như thế nào
tới xã hội phong kiến Tây Âu và sự ra đời của xã hội Tư bản?

+ Đề thi xác định tính kế thừa giữa các sự kiện trong quá trình lịch sử
cũng như loại đề thi về mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, song nó tập
trung hơn vào một sự kiện chính; nó nâng cao hơn về mặt khái quát - lý luận.
Ví dụ: Từ các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên
thời Trần ở thế kỉ XIII, hãy rút ra bài học cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc ngày
nay?
- Loại bài thi thực hành lịch sử: Yêu cầu học sinh không chỉ có biểu
tượng lịch sử chính xác, giàu hình ảnh mà còn biết vận dụng những kiến thức đã
học vào cuộc sống, lao động và công tác xã hội. Vì vậy, nội dung bài thi thực
hành lịch sử giúp học sinh rèn luyện kỹ năng bộ môn. Những số liệu, câu hỏi
đưa ra trong bài làm cần ngắn gọn, rõ ràng, đầy đủ, dễ hiểu và giải quyết được
vấn đề đặt ra. Đề thi thường gặp vẽ bản đồ, lược đồ gồm sử dụng bản đồ câm
đến vẽ và trình bày theo bản đồ.
Ví dụ 1: Dùng bản đồ câm các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại, hãy
ghi tên cách mạng tư sản và thời gian.
Ví dụ 2: Vẽ biểu đồ và tường thuật (viết) diễn biến cuộc khởi nghĩa chống
quân Minh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thế kỉ XV.
Để giải quyết được những dạng đề như trên khâu quan trọng là việc phân
tích đề, bởi vì phân tích đề tốt sẽ giúp học sinh xác định, lựa chọn đúng kiến
thức, lập dàn ý dễ dàng. Phân tích đề đúng sẽ tránh trường hợp lạc đề, lệch đề.
Cấu tạo đề thi học sinh giỏi hiện nay rất nhiều câu, nhiều dạng đề, đòi hỏi
học sinh phải tư duy và xử lý nhanh các kỹ năng phân tích đề, phân bố thời gian,
xác định thời gian, không gian, nội dung lịch sử và yêu cầu của câu hỏi … sao
cho phù hợp là kỹ năng cần rèn luyện thường xuyên.
e. Kỹ năng làm bài
- Phân tích câu hỏi trong đề thi.
Đây là công việc đầu tiên mà học sinh nhất thiết phải làm để hiểu kĩ đề bài.
Học sinh phải dành thời gian thỏa đáng (khoảng 10 phút) để đọc hết và hiểu
chính xác từng từ, từng chữ trong câu hỏi. Trong đề thi, một câu hỏi chặt chẽ sẽ
không có từ nào là “thừa”. Đọc kĩ câu hỏi để xác định thời gian, không gian, nội

dung lịch sử và yêu cầu của câu hỏi (trình bày, so sánh, giải thích, phân tích,
đánh giá...).
- Phân bố thời gian cho hợp lí. Học sinh cần vạch ra thời gian biểu hợp
lý, tránh tình trạng làm bài vội vàng hoặc không hoàn thành bài làm, thừa hoặc
thiếu thời gian. Hãy căn cứ vào điểm số của từng câu mà tính thời gian, mỗi
điểm khoảng 15 phút là phù hợp.
- Lập dàn ý chi tiết.
Hãy coi mỗi câu hỏi như một bài viết ngắn, lập dàn ý, xác định những ý
chính và trình tự của các ý. Sau đó hãy “mở bài”, đừng mất nhiều thời gian suy
nghĩ về “mở bài”. Khi đã xác định đúng nội dung sẽ biết mở bài thế nào, và nên
15


mở bài trực tiếp, ngắn gọn - không quá 10 dòng. Sau khi viết hết nội dung, sẽ
biết kết luận. Đừng nghĩ trước kết luận và cũng chỉ nên kết luận thật ngắn gọn.
Cấu trúc của một bài thi học sinh giỏi môn lịch sử lớp 11 sẽ gồm 6 câu
với thang điểm 20 (Gồm 6 điểm lịch sử thế giới, 12 điểm lịch sử Việt Nam và 2
điểm lịch sử địa phương). Do đó, trừ những câu lập bảng (Niên biểu, so sánh,
thống kê…) thì các câu tự luận, học sinh cần đảm bảo ba phần:
+ Mở bài…
+ Thân bài…
+ Kết luận….
Căn cứ vào điểm số của từng câu mà viết phần mở bài, thân bài, kết luận
dài hoặc ngắn cho phù hợp. Tránh trường hợp dông dài hoặc cộc lốc khi trình
bày nội dung câu trả lời.
- Về hình thức trình bày: không phải ai cũng viết được chữ đẹp, câu hay,
nhưng hãy cố gắng viết cho rõ ràng, đúng câu, đúng chính tả, đừng dùng từ sáo
rỗng, dài dòng, đừng viết tắt. Hãy luôn nhớ: Đúng, đủ, rõ ràng, lời văn giản dị,
trình bày khoa học. Tuyệt đối không được viết tùy tiện, rườm rà.
Khuyến khích học sinh có thể dẫn chứng thơ, văn học, những nhận định,

đánh giá,… để minh họa trong quá trình làm bài thi.
Lưu ý: Để làm một bài thi lịch sử đạt hiệu quả cao học sinh phải:
1. Hiểu đề: Đọc thật kĩ từng chữ trong câu hỏi để hiểu rõ người ta hỏi
vấn đề gì? Phạm vi thời gian của câu hỏi là từ năm nào đến năm nào? Như vậy
tránh được lạc đề hoặc thiếu ý.
2. Dựng khung: Dù thuộc đến mấy cũng không viết ngay vào giấy thi.
Hãy viết dàn ý vào giấy nháp sao cho thật đầy đủ và có hệ thống, đáp ứng yêu
cầu của câu hỏi.
3. Cắm chốt: Ở mỗi phần của dàn ý ấy, ghi những chốt, nghĩa là sự kiện
quan trọng cùng với thời điểm của nó. Như vậy bài làm sẽ không bỏ sót những
sự kiện quan trọng.
4. Viết sạch: Viết vào giấy thi một cách sáng sủa, dễ đọc. Hết mỗi ý
chính, mỗi sự kiện nên xuống dòng. Thấy cần thiết để làm nổi bật từng giai
đoạn, từng sự kiện, từng ý nghĩa có thể ghi 1, 2, 3 hoặc a, b, c hoặc gạch đầu
dòng, vì lịch sử là một môn khoa học xã hội, có thể trình bày một cách có hệ
thống. Như vậy cũng dễ cho người chấm. Tuy nhiên cũng hạn chế dùng cách
đánh đề mục để không gây nhầm lẫn đánh dấu bài cho giám khảo chấm. Bài thi
lịch sử trong những năm gần đây nhiều câu nên học sinh không được chủ quan,
viết quá dài - rườm rà.
Chữ nào sai thì dùng thước gạch đi, không nên xóa lem nhem, không đưa
vào ngoặc đơn. Nếu trót thiếu cả một đoạn dài, có thể ghi bổ sung xuống cuối
bài. Phải chia thời gian để trả lời đủ các câu hỏi, tránh đầu voi đuôi chuột, nghĩa
là làm bài đầu tiên thì viết bài cẩn thận, đầy dủ, chi tiết, rõ ràng, mạch lạc, sạch,
đẹp, nhưng sau đó thì viết cẩu thả, thiếu ý, tùy tiện thiếu nội dung hoặc mập mờ
không rõ nội dung..

16


5. Đọc lại: Phải tính toán thời gian, để khi viết bài xong, vẫn còn độ 10,

15 phút. Nhất thiết phải đọc lại bài để sửa chữa những chỗ sai sót nhầm lẫn rồi
mới nộp bài. Đọc lại là khâu rất quan trọng để bài thi được điểm cao hơn.
f. Chấm và sửa bài
Một học sinh giỏi không chỉ nắm vững kiến thức lịch sử, vững kỹ năng
mà còn có sự sáng tạo. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng cho học sinh tôi
thường xuyên quan tâm đến việc chấm và sửa bài cho học sinh. Bài viết cần phải
được sửa chữa, chỉ bảo cụ thể, để phát huy những cái hay, sửa sai kịp thời những
cái dở, để có sự nhìn nhận đánh giá một cách công bằng, khách quan mỗi khi
tuyển lựa đội tuyển chính thức đi dự thi.
Sau khi dạy một chuyên đề, hay một giai đoạn lịch sử tôi thường tổ chức
kiểm tra để chấm và sửa bài cho học sinh. Kiểm tra có thể cho bài tập để các em
về nhà làm, quy định thời gian nộp bài, nhưng theo tôi tốt nhất là cho học sinh
làm bài kiểm tra ngay trên lớp bồi dưỡng.
Ngoài ra tôi còn khuyến khích học sinh có thể tự tìm đề để viết rồi đưa
cho thầy cô sửa giúp, sau đó viết lại nhuần nhuyễn.Cách này giúp học sinh tăng
khả năng trình bày, diễn đạt của mình và tạo thêm kỹ năng ứng phó tốt với nhiều
loại đề.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Thông qua việc áp dụng các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử lớp 11 ở Trường THPT Lam Kinh theo đề tài
sáng kiến kinh nghiệm, cá nhân tôi nhận thấy sự thay đổi lớn về hiệu quả của
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
Do vậy, đề tài có tính khả thi, có thể áp dụng lâu dài và rộng rãi cho giáo
viên dạy bồi dưỡng học sinh giỏi bộ Lịch sử ở trường Trung học phổ thông để
nâng cao hiệu quả chất lượng môn Lịch sử nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi
nói riêng.
Từ sự cố gắng của giáo viên và học sinh, nên kết quả đạt được trong kì thi
học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường mà tôi giảng dạy liên tục trong những năm
qua luôn tăng lên về số lượng và chất lượng điểm, giải học sinh giỏi. Thiết nghĩ
đây sẽ là cơ sở để tôi nghiên cứu, thực hiện đề tài này và sẽ áp dụng vào công

tác giảng dạy, bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi của trường và bổ sung thêm các
kinh nghiệm ôn luyện học sinh giỏi môn lịch sử cho đồng nghiệp ở trong tỉnh
cùng tham khảo trong những năm học tiếp theo.
Để kiểm nghiệm hiệu quả các biện pháp, cá nhân đã kiểm nghiệm chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THPT Lam Kinh qua 5
năm học (Từ năm học 2014 - 2015 đến năm học 2018 - 2019. Qua đó rút ra tính
khả thi của nó trong thực tiễn giáo dục.
- Phương pháp tiến hành:
+ Năm thực nghiệm (2016 - 2017; 2017 - 2018; 2018 - 2019): Áp dụng các
các biện pháp nâng cao hiệu qủa công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử
cho học sinh lớp 11 Trường THPT Lam Kinh.
17


+ Năm đối chứng (2014 - 2015; 2015 - 2016): Không áp dụng các các biện
pháp nâng cao hiệu qủa công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử cho học
sinh lớp 11 Trường THPT Lam Kinh
- Kết quả thực nghiệm: có sự chênh lệch giữa các năm thực nghiệm và các
năm đối chứng về số lượng và chất lượng giải học sinh giỏi môn Lịch sử. Cụ thể
là:
+ KẾT QUẢ SỐ LƯỢNG HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH MÔN LỊCH SỬ
TRƯỜNG THPT LAM KINH TRƯỚC KHI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP BỒI
DƯỠNG HỌC SINH GIỎI THEO ĐỀ TÀI SKKN

(Bảng 1):
Tổng số học Điểm học
Giải học sinh giỏi cấp
sinh dự thi sinh đạt
tỉnh
Năm học

HSG
được
Số lượng Khung điểm Số lượng
Tỉ lệ %
2014 - 2015

5

8,0 - 11,25

0

0

2015 - 2016

5

9,0 - 12,0

01 giải KK

20,0

Ghi chú

+ KẾT QUẢ SỐ LƯỢNG HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH MÔN LỊCH SỬ
TRƯỜNG THPT LAM KINH SAU KHI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI THEO ĐỀ TÀI SKKN


(Bảng 2):
Tổng số học Điểm học
Giải học sinh giỏi cấp
sinh dự thi sinh đạt
tỉnh
Năm học
HSG
được
Số lượng Khung điểm Số lượng
Tỉ lệ %
02 giải:
2016 - 2017
5
9,75 - 14,0 1 giải ba,
40,0
1 giải kk
03 giải:
2017 - 2018
5
10,0 -14,75 1 giải ba,
60,0
2 giải kk
05 giải:
01 giải nhì,
2018 - 2019
5
12,5 -15,75
100,0
2 giải ba,
2 giải kk


Ghi chú

Kết luận: Từ kết quả ở bảng 1 và bảng 2 cho thấy kết quả thi học sinh
giỏi bộ môn Lịch sử của nhà trường từ khi áp dụng các biện pháp theo đề tài
SKKN đã tăng lên rõ rệt, cả về điểm số, số lượng và chất lượng giải. Thành tích
đó đã góp phần không nhỏ vào bảng thành tích chung của nhà trường và khẳng
định sự tiến bộ trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên.
18


3. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Sáng kiến kinh nghiệm này qua trải nghiệm thực tế nêu trên, tôi khẳng
định mục đích nghiên cứu đặt ra đã cơ bản hoàn tất. Trong quá trình nghiên cứu
tôi xin rút ra một số kết luận sau:
- Để bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử đạt hiệu quả trước hết phải có những
giáo viên vững vàng về kiến thức, kỹ năng thực hành lịch sử, phải ra sức trau dồi
về biện pháp ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi, đọc sách báo để ngày càng làm
phong phú thêm vốn kiến thức của mình.
- Giáo viên cũng phải thực sự yêu nghề, tâm huyết với công việc bồi dưỡng
học sinh giỏi, khắc phục những vất vả mà ngược lại ôn luyện một cách dài hơi,
liên tục và đảm bảo tiến trình ôn luyện. Niềm đam mê là yếu tố rất cần thiết khi
bạn muốn dạy tốt và có học sinh học tốt môn Lịch sử.
- Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, có phương pháp nghiên cứu bài,
soạn bài, ghi chép giáo án một cách khoa học. Tham khảo nhiều sách báo tài liệu
có liên quan, giao lưu học hỏi các bạn đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm, các
trường có bề dày thành tích.
- Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh, mẫu mực trong lời nói,
việc làm, thái độ, cử chỉ có tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh noi theo.

- Giáo viên phải khơi dậy niềm say mê, hứng thú của học sinh đối với môn
học Lịch sử, luôn phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các em
tham gia học tập. Đồng thời ra sức động viên, khích lệ học sinh nỗ lực phấn đấu;
không “Bỏ cuộc” trước khó khăn đặc trưng của môn học, ngược lại các em còn
thi đua và ra sức phấn đấu để thi học sinh giỏi đạt kết quả cao nhất.
- Tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử: Cần thực sự làm tốt các
nội dung sau:
+ Phát hiện những học sinh có khả năng trở thành học sinh giỏi lịch sử.
+ Bồi dưỡng kiến thức lịch sử.
+ Bồi dưỡng kỹ năng tìm hiểu tài liệu lịch sử.
+ Bồi dưỡng kỹ năng phân tích đề.
+ Bồi dưỡng kỹ năng làm bài thi lịch sử.
Tuy nhiên, trong quá trình giáo dục, bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 11 ở
trường THPT nói chung và môn Lịch sử nói riêng, chúng ta không nên áp dụng
rập khuôn máy móc bất kỳ một biện pháp pháp giáo dục tiên tiến nào, mà nên
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Để đạt được mục đích giáo dục, cần phải biết chọn
biện pháp thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng địa phương và
từng đối tượng học sinh. Qua đó kết hợp đồng thời “Đa dạng hóa” các biện
pháp để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử đạt kết quả cao hơn.
3.2.Kiến nghị:
19


Từ việc phân tích thực trạng và đề ra các các biện pháp nâng cao hiệu qủa
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử cho học sinh lớp 11 ở Trường
THPT Lam Kinh, cá nhân xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao
hơn nữa công tác bồi dưỡng học sinh giỏi như sau:
Một là: Nhà trường cần xây dựng kế hoạch ôn luyện học sinh giỏi cụ thể,
tổ chức chọn đội tuyển và bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ cuối năm học trước
hoặc đầu năm học sau, chú trọng hơn công tác khảo sát, lựa chọn học sinh vào

lớp bồi dưỡng học sinh giỏi để đạt được kết quả cao nhất.
Hai là: Nhà trường nên tổ chức cho các đội tuyển học sinh giỏi tham gia
các kì thi giao lưu với các trong trên cùng địa bàn trong cụm hoặc huyện. Qua
đó để các em được tiếp cận với nhiều kiến thức mới, dạng đề mới, nắm bắt rõ
hơn về sức học của mình để có sự điều chỉnh và nổ lực trong học tập, ôn luyện.
Ba là: Sở GD-ĐT Thanh Hóa cần nâng cao hơn nữa chủ trương tập huấn
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi theo môn học vào đầu các năm học. Qua đó
thống nhất các nội dung, cấu trúc đề trong kì thi học sinh giỏi theo giai đoạn lịch
sử, các dạng yêu cầu của bài thi học sinh giỏi môn Lịch sử.
Trên đây là một vài suy nghĩ góp nhặt, trăn trở, xin được chia sẻ với đồng
nghiệp, rất mong sự đóng góp thêm cho sáng kiến này được hoàn thiện hơn nữa.
Xin trân trọng cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh Hóa, ngày 25/5/2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Lê Thị Hoa

20



×