Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phương thức ẩn dụ một đặc trưng góp phần hình thành thế giới nghệ thuật thơ xuân diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA IV

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHƯƠNG THỨC ẨN DỤ- MỘT ĐẶC TRƯNG
GÓP PHẦN HÌNH THÀNH THẾ GIỚI NGHỆ
THUẬT THƠ XUÂN DIỆU
(Khảo sát qua ba bài thơ:
“Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên”)

Người thực hiện: Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Ngữ văn

THANH HÓA, NĂM 2018


MỤC LỤC
Trang
I. Mở đầu…………………………………………………………………1
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………….......... 1
2.Mục đích nghiên cứu…………………………………………………….1
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………….. 1
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………..2
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm……………………………2
II. Nội dung. ………………………………………………………………2
1. Cơ sở lí luận……………………………………………………………..2.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm……………3
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện…………………………………………..4


3.1. Ẩn dụ hình tượng và ẩn dụ cách thức……………………………………..4
a Cơ sở xây dựng các ẩn dụ hình tượng và ẩn dụ cách thức…………….. 4
b. Ẩn dụ hình tượng và cách thức trong thơ Xuân Diệu…………………..4
c. Khảo sát ẩn dụ hình tượng và cách thức trong ba thơ “Vội vàng”,.
“Đây mùa thu tới”,“Thơ duyên”………………………………………………..5
3.2. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác………………………………………………….8
a. Cơ sở xây dựng các ẩn dụ chuyển đổi cảm giác………………………...8
b. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong thơ Xuân Diệu……………………….8
c. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong ba thơ “Vội vàng”,
“Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên”……………………………………………….8.
3.3. Nhận diện phong cách thơ Xuân Diệu qua tìm hiểu phương
thức ẩn dụ trong thơ ông…………………………………………………………10
3.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục tại nhà trường…………………………………………………………………11
III. Kết luận, kiến nghị……………………………………………………14
1. Kết luận…………………………………………………………………..14
2. Kiến nghị…………………………………………………………………14.


I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Nhìn lại lịch sử thơ ca của dân tộc, có chưa có giai đoạn nào như giai
đoạn 1930-1945, chưa có phong trào thơ ca nào lại rầm rộ, có nhiều thành tựu
đặc sắc như phong trào thơ Mới. Phong trào thơ mới được coi là “Cuộc cách
mạng trong thơ ca” .Trong cuộc hòa nhạc tân kỳ đó, Xuân Diệu được coi là một
đỉnh cao thơ Mới (cách mạng vô sản) với một thế giới thơ đa dạng, phong phú,
đầy sức hấp dẫn với bất cứ ai yêu thơ.
Đặc biệt trong thế giới thơ ca Xuân Diệu còn nhiều mảng chưa kịp khai
thác hoặc khai thác sơ sài. Trong những cách tân nghệ thuật của Xuân Diệu
trước 1945, phương thức ẩn dụ còn nhiều vấn đề để ngỏ, đặc biệt chưa tác giả

nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống tín hiệu nghệ thuật này trong những bài thơ
tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu đã được đưa vào SGK ngữ văn nâng cao lớp
11: “ Vội vàng”, “ Đây mùa thu tới”, “ Thơ duyên”.
Trong sự phát triển của xã hội nói chung, sự đổi thay của văn học nói
riêng, phong trào Thơ Mới với cái “tôi” là trung tâm của thế giới, với những
sáng tạo nghệ thuật tân kì của nó ngày càng được đánh giá cao thì địa vị thơ ca
của Xuân Diệu cũng ngày càng được củng cố. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu
những tác phẩm thơ ca Xuân Diệu trong chương trình SGK ngữ văn nâng cao từ
cái nhìn mang tính hệ thống là điều hết sức cần thiết ( Trong SGK ngữ văn nâng
cao lớp 11 Xuân Diệu có ba bài “ Vội vàng”, “ Đây mùa thu tới”, “ Thơ duyên”.
Trong khi đó Huy Cận có một bài “ Tràng giang”, Nguyễn Bính một bài “
Tương tư”, Hàn Mặc Tử một bài “Đây thôn Vĩ Dạ”, hai sáng tác của hai tác giả
Thâm Tâm, Anh Thơ đưa vào phần đọc thêm).
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “ Phương
thức ẩn dụ- một đặc trưng góp phần hình thành thế giới nghệ thuật thơ Xuân
Diệu” (Khảo sát qua ba bài thơ trong SGK ngữ văn nâng cao khối 11 “ Vội
vàng”, “ Đây mùa thu tới”, “ Thơ duyên”.).
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Phương thức ẩn dụ- một đặc trưng góp phần hình
thành thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu” mục đích của chúng tôi là tìm hiểu
sâu vào phương thức ẩn dụ - một tín hiệu nghệ thuật quan trọng trong thơ Xuân
Diệu khảo sát qua ba bài thơ Mới trích trong SGK ngữ văn năng cao lớp 11. Từ
đó làm tỏa sáng vẻ đẹp tài hoa của ngòi bút thuộc đỉnh cao thơ Mới này.
Trên cơ sở đó, chúng tôi nhận diện cái tôi Xuân Diệu và gọi tên đặc
điểm phong cách nghệ thuật thơ ông. Hi vọng, đây sẽ là một nguồn tài liệu có
ích giúp các em học sinh đi sâu tìm hiểu ba bài thơ Xuân Diệu, từ đó hiểu hơn
về con người Xuân Diệu, thơ ca Xuân Diệu, làm cơ sở so sánh đối chiếu với các
nhà thơ Mới khác (Trong chương trình SGK ngữ văn nâng cao và cơ bản lớp
11). Từ đó giúp các em học sinh có cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn về phong
trào thơ Mới.

3. Đối tượng nghiên cứu

1


Phạm vi nghiên cứu của đề tài này không mở rộng ra toàn bộ thế giới thơ
Xuân Diệu trước 1945 mà chỉ khảo sát qua ba bài thơ Mới tiêu biểu của ông
“ Vội vàng”, “ Đây mùa thu tới”, “ Thơ duyên” ( Được đưa vào chương trình
SGK ngữ văn nâng cao lớp 11 tập 2 của NXB Giáo dục)
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê phân loại: Đây là phương pháp cần thiết để khảo
sát sau đó nhận diện được những đặc trưng riêng biệt của từng loại ẩn dụ khi ta
phân loại. Ứng dụng sáng kiến vào thức tiễn giảng dạy, người viết lại tiếp tục
thống kê kết quả bài kiểm tra học sinh để thấy sự tiến bộ của các em.
- Phương pháp phân tích là phương pháp quen thuộc nhưng thật sự quan
trọng để làm tỏa sáng sự đặc sắc, cốt cách tài hoa của hồn thơ Xuân Diệu.
- Phương pháp tổng hợp sử dụng ở một trình độ tư duy cao hơn nhằm đi
đến khái quát nhận diện phong cách thơ Xuân Diệu qua những tín hiệu nghệ
thuật ẩn dụ trong ba bài thơ
5. Những điểm mới
- Người viết đi sâu vào những sáng tạo độc đáo trong thơ Xuân Diệu,
được tạo ra từ phương thức ẩn dụ- phân loại, thống kê trên cơ sở những lí luận
sơ bản về ẩn dụ của các nhà ngôn ngữ, từ đó tìm ra những đặc điểm mang tính
hệ thống trong thơ. Người viết có lí giải cắt nghĩa bằng những yếu tố cuộc đời,
con người, những hoạt động thơ ca của Xuân Diệu.
- Chỉ ra những sáng tạo mang tính hệ thống của Xuân Diệu là biểu hiện
sinh động để nhận diện thế giới nghệ thuật thơ và phong cách thơ ca của thi
nhân
II. Nội dung
1. Cơ sở lí luận

- Ẩn dụ là biện pháp nghệ thuật truyền thống trong thơ ca được nhiều văn
nghệ sĩ sử dụng để tăng hiệu quả thẩm mĩ cho tác phẩm văn học. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu về biện pháp nghệ thuật quan trọng này.
1.1. Khái niệm ẩn dụ
- Khái niệm ẩn dụ được các nhà ngôn ngữ nêu lên bằng những cách diễn
đạt khác nhau. Trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt”, Cù Đình Tú, Nguyễn
Thái Hòa, Võ Bình có viết: “ẩn dụ là cách lấy tên gọi của đối tượng này để lâm
thời biểu thị một đối tượng khác trên cơ sở thừa nhận ngầm một nét giống nhau
nào đấy giữa hai đối tượng”. Trong “Phong cách học và phong cách chức năng
tiếng Việt”, Hữu Đạt nêu: “Ẩn dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu thị sự
vật dựa trên cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc”.
- Như vật cách diễn đạt có thể khác nhau nhưng các ý kiến đều thống
nhất: Ẩn dụ là cách gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng
khác có nét tương đồng quen thuộc nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn
đạt. Đây thực sự là một kiểu so sánh ngầm trong đó yếu tố so sánh được giảm đi,
yếu tố làm chuẩn so sánh được nêu lên.
1.2. Phân loại

2


- Mỗi nhà ngôn ngữ sẽ có những tiêu chí riêng để phân loại ẩn dụ. Theo
Đỗ Hữu Châu, ẩn dụ được chia làm năm loại: ẩn dụ hình thức, ẩn dụ cách thức,
ẩn dụ chức năng, ẩn dụ kết quả. Cù Đình Tú lại chia làm 4 loại: ẩn dụ tương
đồng về màu sắc, tương đồng về phẩm chất, tương đồng về trạng thái và tương
đồng về hành động. Đinh Trọng Lạc chia ẩn dụ hình tượng, ẩn dụ bổ sung, ẩn dụ
tượng trưng.
- Dựa trên kết quả của các nhà ngôn ngữ, có thể chia ẩn dụ thành 4 loại:
+ Ẩn dụ hình tượng: Cách gọi sự vật A bằng sự vật B
+ Ẩn dụ cách thức: Là cách gọi hiện tượng A bằng hiện tượng B

+ Ẩn dụ phẩm chất: Là cách lấy phẩm chất của sự vật A để chỉ phẩm chất
của sự vật B
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: trong đó B là một cảm giác vốn thuộc một
loại giác quan dùng để chỉ những cảm giác A vón thuộc các loại giác quan khác
nhau hoặc cảm xúc nội tâm. Nói gọn lại là lấy cảm giác A để chỉ cảm giác B
Chúng tôi căn cứ vào cách phân chia này để tìm hiểu về ẩn dụ- một phương thức
nghệ thuật đặc trưng làm nên phong cách Xuân Diệu
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
- Vậy đã có những nguồn tài liệu nào cũng đã khảo sát về nghệ thuật ẩn
dụ trong thơ Xuân Diệu?
+ “Những cách tân nghệ thuật thơ Xuân Diệu” ( Lê Tiến Dũng NXB
ĐHQG Hồ Chí Minh. 2005). Đây là một công trình nghiên cứu dày dặn về
những đổi mới trong thơ Xuân Diệu. Tuy nhiên Lê Tiến Dũng đi vào khám phá
những đổi mới quan niệm nghệ thuật về thế giới, con người, đổi mới nội dung tư
tưởng và phương thức trần thuật, đổi mới thể thơ và ngôn ngữ. Người viết chưa
đi vào tìm hiểu phương thức ẩn dụ.
+ Bài tiểu luận “Tìm hiểu phương thức ẩn dụ thể hiện qua thơ tình Xuân
Diệu” (Hà Thị Hồng). Bình diện khám phá của người viết khá rộng về thơ tình
Xuân Diệu trước và sau cách mạng tháng Tám. Mục đích của người viết là
“tìm hiểu phương thức ẩn dụ thông qua mảng thơ tình Xuân Diệu góp một
phần sức nhỏ khẳng định đúng với bản chất như nhiều người khẳng định Xuân
Diệu “ nhà thơ tình bậc nhất”, đến “ đệ nhất thi sĩ tình yêu trong lịch sử văn
học Việt Nam”.” Qua đó cho thấy rõ Xuân Diệu là nhà thơ tình số một của văn
học Việt Nam”.
- Trong thực tiễn giảng dạy
+ Học sinh mới phân tích được những nét cơ bản về nội dung- nghệ thuật
qua ba tác phẩm trong sách giáo khoa, thấy được một cái tôi khát khao giao cảm
với đời.
+ Chưa thấy được một cách rõ nét, một cách hệ thống những sáng tạo độc
đáo trong ba bài thơ “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên” từ phương

thức ẩn dụ. Từ đó học sinh chưa có đánh giá về cái tôi Xuân Diệu một cách toàn
diện và chưa cảm nhận được thế giới thơ Xuân Diệu với những đặc điểm thống
nhất và đối lập, chưa biết lí giải nó một cách thuyết phục.

3


Trên cơ sở những kiến thức cơ bản về ẩn dụ của các nhà ngôn ngữ, những khám
phá ban đầu của các nhà nghiên cứu, từ thực tiễn giảng dạy cho học sinh, người
viết tiếp tục đi sâu vào phương thức ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu qua ba bài thơ
“Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên” không nhằm mục đích khẳng
định vị trí ông hoàng thơ tình của Xuân Diệu mà để nhận diện phong cách nghệ
thuật thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám.
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
3.1. Ẩn dụ hình tượng và ẩn dụ cách thức.
a. Cơ sở xây dựng các ẩn dụ hình tượng và ẩn dụ cách thức.
- Sinh ra trong thời điểm giao thời hai nền văn hóa, Xuân Diệu chính là
nhịp nối của hai vùng quê Nghệ An- Quy Nhơn. Đặc biệt chính đất Quy Nhơn
với biển cả, những ngọn gió nồm đã gợi lên những con sóng lãng mạn đầu tiên
góp phần làm nên những hình tượng thơ độc đáo của nhà thơ này.
- Xin hãy nói về bản thể của nhà thơ: Khi chàng thi sĩ Xuân Diệu bước
vào làng thơ, dường như Xuân Diệu đã lựa chọn cho mình một tôn chỉ: sống để
yêu và phụng sự tình yêu. Dường như, Xuân Diệu sinh ra trên xứ sở hữu tình
này là để ca hát về tình yêu. Ông sống hết mình với tình yêu, lại có tài thơ thiên
phú, lòng yêu đời và nõi khao khát tình yêu đã trở thành nguồn cảm xúc chủ đạo
và khiến ông tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng của mình. Xuất phát từ con
tim khao khát giao cảm với đời, Xuân Diệu luôn cảm nhận cuộc đời bằng con
mắt xanh non, bằng đôi tai thính nhạy, bằng cả sự sống của tuổi thanh xuân. Cho
nên thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu không chấp nhận sự đơn điệu, khô khan
mà tràn ngập những hình ảnh mang tính chất ẩn dụ biểu tượng cho sự sống,

tuổi trẻ…đầy màu sắc trần thế
b. Ẩn dụ hình tượng và cách thức trong thơ Xuân Diệu
Những biểu tượng thơ ca xuất hiện với tần số lớn trong thơ Xuân Diệu.
Hình ảnh mang tính chất biểu tượng thực chất là một kiểu ẩn dụ, là “sự liên
tưởng về mốc tương đồng có tính chất hiện thực hoặc được tưởng tượng ra giữa
hai đối tượng về mặt nào đó” mà ở đây sự vật A là trừu tượng, sự vật B là cụ thể.
Đây là phương tiện biểu đạt có giá trị hình tượng, có sức mạnh biểu cảm, được
sử dụng với tần số khá cao.
Khi ẩn dụ kết hợp nhân hóa
Tháng giêng cười không e lệ chút nào
Bằng trăm của cánh bướm chim rối rắm
(Mời yêu)
Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều
Bên màu hoa mới thắm như thêu
(Nụ cười xuân)
Mây lang thang phiêu lãng trên bầu trời nên dễ cho ta liên tưởng ngầm đến
phẩm chất đa tình
Những hoa quí tỏa hương vương giả
Mây đa tình như thi sĩ đời xưa
(Tình mai sau)
4


Lại có khi hiểu thấu tầm quan trọng của nguồn máu nóng trong cơ thể con
người, ông dùng hai chữ “máu xuân” để hướng tới một nguồn sống trẻ
- Máu xuân đã cạn đâu mà
Nếu càng tưới nữa cho hoa rực hồng
(Trăm ba mươi đóa)
Xuân Diệu còn có sự kết hợp giữa danh từ với các động từ tạo nên những
ẩn dụ cách thức độc đáo:

- Hãy tuôn âu yếm lùa mơn trớn
- Gió thơm vô ý bay phơ phất
Đem đụng nhành mai sát nhánh đào
( Nụ cười xuân)
Có thể khẳng định những sáng tạo từ phương thức ẩn dụ - biểu tượng và cách
thức trong thơ Xuân Diệu đã tạo cho thơ ông một vẻ đẹp đa nghĩa đầy hấp dẫn
c. Ẩn dụ hình tượng và cách thức trong “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”,
“Thơ duyên”
*Thế giới nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu không phải là những tháp
Chàm đổ nát trong thơ Chế Lan Viên, không phải là vũ trụ hoang liêu mở rộng
đến mọi chiều kích trong thơ Huy Cận. Nó là cuộc sống đầy trần thế các nhà thơ
Mới đang tìm cách trốn tránh. Nhưng bằng đôi mắt xanh non, một nguồn sống
trẻ dào dạt, Xuân Diệu đã xây dựng được nhiều biểu tượng gần gũi thân quen:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến ah này đây khúc tình si”
( Vội vàng)
Những hình ảnh hoa, lá xanh rì, cành tơ phơ phất, ánh sáng chớp hàng
mi… tập hợp lạ cho chúng ta hình dung về hình tượng một khu vườn tràn đầy sự
sống. Vạn vật tươi non, biếc rờn, căng tràn nhựa sống. Lá xanh nhưng phải là
xanh rì, non tơ nhưng phải là “cành tơ phơ phất”. Cả khu vườn tràn ngập hương
thơm, màu sắc, thanh âm. Sắc xuân đang dâng đầy trong lòng tạo vật. Các cặp
hình ảnh sóng đôi ong- bướm, yến-anh đang trong trạng thái giao tình ngân nga
lên “khúc tình si’ trong khoảng thời gian dâng đầy mật ngọt : “tuần tháng mật”.
Vườn xuân trở thành vườn của sự sống cũng là khu vườn của tình cảm luyến ái
chăng tơ. Tất cả các hình ảnh của vườn xuân trong “vội vàng” của Xuân Diệu
tập hợp lại trở thành biểu tượng cho cuộc sống trần thế căng tràn sự sống thanh
xuân, giăng mắc một niềm khát khao luyến ái mà xuân Diệu- nhà thơ của cuộc
sống trần thế luôn khao khát hướng về.

Xuất thân từ gia đình nhà nho, tiếp thu một cách tự nhiên ảnh hưởng của
nền văn hóa truyền thống, lại hấp thụ tư tưởng và văn hóa Pháp một cách có hệ
thống trên ghế nhà trường, có thể nói thơ Xuân Diệu có sự kết hợp hai yếu tố cổ
điển và hiện đại ở mọi cấp bậc. Đặc biệt ở cấp độ hình ảnh, Xuân Diệu vừa tiếp
thu truyền thống vừa thổi vào linh hồn của thời đại Thơ Mới để tạo nên những
biểu tượng đa nghĩa đặc sắc.
5


Ta hãy xem trong “Thơ duyên”:
“Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”
Chim, hoa là những thi liệu quen thuộc trong thơ cổ, nhưng đến Xuân
Diệu, nó đã được thổi vào đó một linh hồn riêng. Trong thơ cổ, hình ảnh cánh
chim bay vào cõi xa xăm mù mịt mang đầy màu sắc hư vô “Thiên sơn điểu phi
tuyệt” thì đến Xuân Diệu, Xuân Diệu chỉ nhấn mạnh vào trạng thái của sự vật. “
Nghe” là trạng thái của tâm hồn cảm nhận về sự đổi thay của thế thế giới. Nghe
thấy “trời rộng” đồng nghĩa với cảm nhận về một cái tôi bé nhỏ, cô đơn giữa vũ
trụ bao la. “Dang thêm cánh” để trốn chạy khong gian rộng lớn, trốn chạy thời
gian khi buổi chiều đang buông xuống cũng đồng nghĩa trốn chạy nỗi cô đơn.
Điệu tâm hồn tinh tế đó chỉ có ở một cái tôi Thơ Mới nhạy cảm trước vũ trụ bao
la. Như vậy cánh chim trong “Thơ duyên” của Xuân Diệu trở thành biểu tượng
cho một cái tôi Thơ Mới.
Nghệ thuật thơ Xuân Diệu bắt rễ sâu trong cội nguồn truyền thống, hấp
thụ những tinh túy của thơ dân gian, tho cổ điển để rồi kết hợp với tinh hoa thơ
Tượng Trưng Pháp, Xuân Diệu đã xây dựng nên được những hình tượng thơ:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân”
Thế giới của “Thơ duyên” được thiết lập trong sự hòa hợp, tương giao.
Thế giới đó càng dần về chiều đã chuyển thành thế giới của chia li, xa cách.

Hình ảnh mây và con cò là hai thi liệu quen thuộc trong thơ ca truyền thống.
Nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Xuân Diệu, ông đã xây dựng nó thành biểu
tượng riêng mang đậm linh hồn con người thời đại. Hãy xem những đám mây
trong thơ cổ: “Bạch vân thiên tải không du du”(Hoàng Hạc lâu- Thôi Hiệu),
“Cô vân độc khứ nhàn” (Lí Bạch) mới thấy trong thơ xưa, thi nhân gửi vào đám
mây điệu sống nhàn dật, phiêu du, thoát tục. nhưng đến Xuân Diệu, cái “du du”
của đám mây đã được thay thế bởi cái “gấp gấp”. Đây là điệu sống, hơi thở của
một Xuân Diệu lúc nào cũng trong động thái “vội vàng”, “giục giã”. Cũng như
hình ảnh đám mây, “con cò” là biểu tượng cho người nông dân, người dân lao
động bé nhỏ trong thơ ca dân gian (Con cò lặn lội bờ sông/ Thân cò lên thác
xuống ghềnh..). Đi vào thơ ca cổ điển, cánh cò hiện ra trong thơ Vương Bột:
“Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”
(Cánh cò bay với ráng sa
Sông thu nước lẫn trời thu một màu)
Cánh cò trong thơ Vương Bột đang bay nhưng là cái điệu bay thong thả,
hòa nhập vào trời mây , sông nước tạo nên bức tranh thủy mặc đẹp thanh tĩnh
hơn bao giờ hết. Lấy cái “động” cuối cùng cũng hướng đến cái tĩnh- đó là tiêu
chuẩn mĩ học của thơ Đường. Còn cánh cò trong thơ Xuân Diệu “phân vân”- sự
phân vân của chủ thể đâng tách rời khỏi toàn thể, nó ẩn chứa nỗi cô đơn của tạo
vật cảm nghe được sự đổi thay của vũ trụ. Và cái “động” chính là biểu tượng
cho tinh thần thơ Mới- một tâm hồn nhiều xôn xao với nỗi cô đơn, cảm thấy lạc
6


lõng khi tách biệt khoỉ thế giới. Rất có thể tồn tại cái tĩnh nhưng đó là cái tĩnh ở
vẻ bề ngoài để làm nổi bật cái “động” sâu xa trong lòng tạo vật. Nói như Hoài
Thanh, từ cánh cò trong thơ Vương Bột bay với ráng sa đến cánh cò trong thơ
Xuân Diệu cánh phân vân mà khong bay là sự cách biệt cả ngàn năm và hai thế
giới. Như vậy bằng ẩn dụ hình tượng, Xuân Diệu đã tạo ra biểu tượng cho một

cái tôi Thơ Mới với điệu hồn và lối sống đặc trưng của thời đại ông.
Mỗi hình ảnh xây dựng trong thơ Xuân Diệu đều gửi gắm những cách
nhìn, cách cảm riêng của nhà thơ. Thơ Xuân Diệu được coi là thơ của những
người không chỉ trẻ tuổi mà còn “trẻ lòng”. Một trong những lí do cơ bản là bởi
Xuân Diệu luôn hướng về mùa xuân: “ Với tôi trời đất chỉ có hai mùa, hai mùa
có bình minh” đó là xuân và thu. Với Xuân Diệu, tình không tuổi và xuân không
ngày tháng. Cho nên, hình ảnh xuân đã trở thành biểu tượng trung tâm trong thơ
Xuân Diệu nói chung và “Vội vàng” nói riêng.
- Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân (1)
- Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua (2)
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Xuân trong ví dụ (1) là mùa xuân của thiên nhiên tràn đầy sức sống thanh
xuân, dạt dào tình cảm luyến ái. Xuân trong ví dụ (2) trở thành biểu tượng cho
dòng chảy thời gian tuyến tính vừa ngắn ngủi vừa một đi không trởi lại: Tớiqua, non- già. Kết thúc “Vội vàng” là một tiếng gọi thiết tha : “Hỡi xuân hồng
ta muốn cắn vào ngươi”. “Xuân hồng” chứ không phải xuân xanh (Trong “Mùa
xuân xanh”- Nguyễn Bính), Xuân chín (Trong “mùa xuân chín”- Hàn Mặc Tử).
Hình ảnh thơ này giúp cho người đọc có một liên tưởng ngầm xuân như một thứ
quả chín căng mọng hay đôi má hồng của người thiếu nữ mơn mởn thanh xuân
đầy hấp dẫn, trinh nguyên. Quả chín đó, đôi má hồng đó lại đang ở một khoảng
cách rất gần hấp dẫn không thể nào cưỡng nổi đang mời ta tận hưởng. Như vậy
bằng tình yêu thiết tha với mùa xuân cuộc đời, mùa xuân tuổi trẻ, Xuân Diệu đã
tạo nên được một biểu tượng - ẩn dụ mùa xuân đa nghĩa.
* Sáng tạo những ẩn dụ cách thức cũng cho thơ Xuân Diệu những nét nghĩa
độc đáo
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
(Thơ duyên)
Trong “Thơ duyên”, có một cái tôi đang cảm nhận về một thế giới dần đổi

thay. Từ một thế giới huyền diệu: “Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” nó dần
dần diễn ra những sự li tán, chia lìa. Nhưng chính trong nỗi cô đơn của vạn vật
trước vũ trụ bao la, sợi dây kết nối tâm hồn con người càng được thắt chặt lại.
Nói như chu Văn Sơn, bốn câu thơ cuối của bài thơ có thể khôi phục thành câu
nhiều mệnh đề thể hiện một điều đinh ninh chắc chắn” anh đã phải lòng em rồi.
Từ “thôi” tưởng chừng là một tiếng than vì sự đã rồi, vì một sự thật cưới lòng
em. Đây là cách sáng tạo từ dộc đáo của Xuân Diệu diễn tả một cuộc đính ước
7


ngầm, một cuộc hôn nhân bí mật của tâm hồn khi cả hai trên con đường của thế
giới “Thơ duyên” còn “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Lối diễn đạt đầy ẩn
ý đã cho người đọc những khám phá bất ngờ về tâm hồn chàng trai vừa thiết tha
gắn bó vừa mang cái e ấp của tình yêu buổi ban đầu.
3.2. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
a. Cơ sở xây dựng các ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
Hành trình thơ ca của Xuân Diệu đi thừ thơ ca truyền thống, qua thơ ca
lãng mạn đến địa hạt huyền diệu của thơ tượng trưng Pháp. Bằng ý chí, tinh thần
học hỏi của một con người đất Nghệ An, thi sĩ luôn có ý thức học hỏi để sáng
tạo nên những hình ảnh thơ tân kì của thơ tượng trưng. Và có lẽ, đây là một yếu
tố đưa thi nhân lên vị trí: Nhà thơ Mới nhất trong các nhà thơ Mới. Trong các
sáng tác thơ ca trước cách mạng nói chung và trong ba bài thơ Mới trong SGK
nói riêng, bên cạnh những thủ pháp nghệ thụt truyền thống như điệp từ, điệp cấu
trúc câu, so sánh, nhân hóa, ngòi bút thơ ca của thi nhân phát huy cao độ với
biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để cảm nhận sự huyền bí, nhiệm màu của
thế giới. Đây là kết quả mà Xuân Diệu đã học tập, ảnh hưởng từ ông tổ thơ
tượng trưng Pháp Bauderlaire. Bauderlaire đã chỉ ra sự thống nhất của thế giới
qua phép tương giao- chuyển đổi cảm giác và đi xa hơn là giao thoa cảm giác.
Chính việc sử dụng ẩn dụ chuyển đổi- đồng hiện các giác quan đã giúp Xuân
Diệu tạo ra được một thế giới đầy thống nhất với sự tương giao nhiệm màu trong

nghệ thuật.
b. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong thơ Xuân Diệu.
Xuân Diệu là nhà thơ “thức nhọ mọi giác quan”. Nhà thơ đã huy động tất
cả các giác quan của cơ thể để cảm nhận thế giới sâu xa và huyền bí. Thi nhân
đã tạo ra những hình ảnh ẩn dụ từ phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (Đinh Trọng
Lạc gọi là ẩn dụ tượng trưng):
_Và hãy buông cho khúc nhạc hường
Dẫn vào thế giới của du dương
Ngừng hơi thở lại xem trong ấy
Hiển hiện hoa và phảng hất hương
_ Mây vắng trời trong đêm thủy tinh
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh
_ Đàn buồn, đàn lặng ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
- Hãy lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn
- Hãy ngậm thơ tan trong khúc nhạc
c. Khảo sát những ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong ba thơ “Vội
vàng”, “Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên”

8


Đặc biệt trong ba bài thơ “Vội vàng”, “ Thơ duyên”, “Đây mùa thu tới”,
sự chuyển hóa- giao thoa của những cảm giác được Xuân diệu thể hiện nhuần
nhị qua phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
Trong “vội vàng”, Xuân Diệu khiến người đọc cảm nhận sâu xa ngọn gió
thời gian không ngớt thổi tàn phá thế giới của xuân sắc, xuân tình qua sự

chuyển đổi cảm giác:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
(Vội vàng)
Cảm nhận về dòng chảy thời gian liên tục được chuyển đổi qua sự giao
thoa của các giác quan. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác “mùi tháng
năm”. Trong phần đầu “Vội vàng”, thời gian cuả nhà thơ làm bằng hương cho
nên Xuân diệu muốn “buộc gió” cho hương đừng phai đồng nghĩa thời gian
đừng trôi mất. Chuyển từ khứu giác sang thị giác khi thời gian được người đọc
hình dung qua hình ảnh những giọt lệ “rớm” chực trào ra từ mi mắt.. Thời gian
trở thành đại lượng ta có thể cảm nhận bằng khứu giác chuyển qua thị giác và
được cụ thể thành vị giác “vị chia phôi” . dười ngòi bút Xuân Diệu, thời gian trở
thành một đại lượng hữu hình có hình thể riêng, mùi vị rất riêng..Mỗi khoảnh
khắc trôi đi, mỗi sự vật như đang chia tay với một phần đời của chính nó. Cho
nên dậy lên khắp núi sông là âm thanh c ủa sự tan tác chia lìa “ than thầm tiễn
biệt”. Chỉ khi dùng ẩn dụ huy động mọi giác quan để cảm nhận thời gian, người
đọc mới cảm nhận thấm thía sâu xa sự hủy hoại khủng khiếp của thời gian đối
với thế giới: Ngọn gió thời gan không ngớt thổi. Ngày tàn thương mãi cánh hoa
bay”. Bằng nghệ thuật ẩn dụ, Xuân Diệu đã xây dựng được một bức tranh của
“thời tươi” đang dần trở thành “thời phai” (chữ dùng của Chu Văn Sơn).
Cái “thời phai” ấy lại tiếp tục trở lại trong “Đây mùa thu tới ” qua những
ẩn dụ chuyển đổi cảm giác vô cùng tinh vi của Xuân Diệu. Vườn không còn là
vườn ái tình, vườn sự sống mà là khu vườn của vạn vật phôi pha. Trong bước đi
vội vã, dồn đuổi của mùa thu kéo theo sự phai tàn ở vạn vật: “Đây mùa thu tớimùa thu tới. Với áo mơ phai dệt lá vàng”, Xuân Diệu cảm nhận sâu xa sự phai
tàn của vạn vật trước dòng chảy khốc liệt của thời gian.
“Những luồng run rẩy rung rinh lá.
Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh”
(Đây mùa thu tới)
“Những luồng run rẩy”- Đó có phải là những luồng gió thu tràn về làm
“run rẩy” những thân cành mảnh mai gầy guộc. Cái run rẩy trong bài thơ gợi cho

ta nhớ tới cái “Linh lung bóng sáng bỗng rung mình” hay trạng thái “Tất cả tôi
run rẩy tựa dây đàn” trong thơ Xuân Diệu. Như vậy “luồng run rẩy” kia có thể là
luồng gió nhưng cũng có thể là luồng cảm giác run rẩy của lnh hồn tạo vật trước
thời khắc chuyển mùa. Câu thơ có sự cộng hưởng giao thoa của những giác
quan: Vừa là sự hiện hữu của xúc giác (luồng gió) vừa là cảm giác (luồng run
rẩy). Nó cho ta cảm nhận mùa thu không chỉ tác động đến vẻ bề ngoài (hoạt
động run rẩy) mà đã đi sâu vào miền tâm hồn sâu thẳm của vạn vật. Cái tôi của
9


Xuân Diệu với những rung động tinh vi của mình thâu nhận mọi thay đổi của đất
trời từ khu vườn đã mở rộng ra trời mây sông nước:
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò”
(Đây mùa thu tới)
Gió và rét đã trở thành hai đối tượng tách biệt nhau. Rét mướt vốn gợi xúc
giác giá lạnh từ da thịt đã chuyển hóa thành thính giác (nghe bằng sự cảm nhận
tinh tế của trái tim) để rồi lại tiếp tục chuyển hóa thành thị giác. Rét mướt với
dáng hình cụ thể đang luồn lách xen vào với gió cộng hưởng với gió làm cho cả
thé giới trở nên giá lạnh, phôi pha, úa tàn.
Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác không chỉ cho Xuân Diệu cảm nhận một cách
“tinh vi” thế giới ở “thời phai mà còn cho độc giả thấy tận độ cái “thời tươi ”:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Dòng chảy của thời gian mùa xuân
có “mùi” có “vị” (Mùi tháng năm rớm vị chia phôi). Và thêm một lần cái vị giác
ấy được dấy lên qua một từ “ngon” chuyển hóa thành cái nhìn đầy sắc màu
luyến ái “cặp môi gần”.Thơ Xuân Diệu gợi nhiều hơn tả. Dĩ nhiên đó phải là cặp
môi thanh tân đầy trinh nguyên mơn mởn tươi non của người thiếu nữ- lại đặt
trong khoảng cách gần khiến cho ta khó cưỡng lại cảm giác thèm muốn muốn
hưởng thụ trọn vẹn vẻ đẹp của nó.
33. Nhận diện phong cách thơ Xuân Diệu qua các phương thức ẩn dụ

trong ba bài thơ “Vội vàng”, “ Thơ duyên”, “Đây mùa thu tới”
Gorki đã từng nói “ nghệ sĩ là con người biết khai thác những ấn tượng
riêng chủ quan của mình, tìm thấy trong những ấn tượng đó những cái khái quát
và biết làm cho những ấn tượng đó có được những hình thức riêng.” Cái “hình
thức riêng” mà Xuân Diệu lựa chọn đó là phương thức ẩn dụ. nhờ có nó, thế
giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu hiện ra một cách rõ nét. Nếu như cái thế giới mà
Huy Cận tạo lập trong thơ là cả một vũ trụ mênh mông, hoang lạnh, Chế Lan
Viên với những tháp Chàm đổ nát, Nguyễn Bính trở về với vùng quê “Đầy vườn
hoa bưởi hoa cam rụng” thì thế giới nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu hiện lên
thật đặc biệt. Nó là thế giới của hai mặt tưởng chừng đối lập mà thống nhất. Đó
là thế giới của “thời tươi” tràn đầy xuân sắc xuân tình, lại có một thế giới của
“thời phai”, tất cả đang vận động chảy trôi, tàn phai, héo úa. Điểm thống nhất
của thế giới tưởng chừng đối lập đó là vạn vật dù ở “thời tươi” hay “thời phai”
đều đang lắng nghe, giao cảm trong sự vận động sâu xa huyền bí của vũ trụ
thông qua một phương thức nghệ thuật quen thuộc: ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
Như vậy, một trong những điểm mới làm nên cái “mới nhất trong các nhà thơ
Mới” của Xuân Diệu chính là cái nhìn thế giới một cách độc đáo.
Raxun Gamzatop từng phát biểu: “Đừng nói: Trao cho tôi đề tài. Hãy
nói: Trao cho tôi đôi mắt.” Giữa muôn vàn những cái tôi độc đáo của làng thơ
Mới, Xuân Diệu đã in đậm dấu ấn cá nhân bằng đôi mắt của một nhà thám
hiểm khai phá thế giới nghệ thuật theo một cách riêng của mình.
Có người đã từng nói : “ Thơ là sự giải phóng tôi và giúp tôi trú ẩn”. Rõ
ràng, việc sáng tạo một loạt các hình ảnh ẩn dụ có tính hệ thống (như đã khảo
10


sát) còn cho ta cảm nhận về cái tôi của thi sĩ. Trước những bữa tiệc thanh sắc
của cuộc đời, cái tôi Xuân Diệu khao khát được hưởng thụ đến tận độ trong cảm
giác nồng nhiệt, đắm say ngây ngất (Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi/
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần). Tuy vậy, lại có một Xuân Diệu nữa

không tham lam, vồ vập, không vội vàng. Người lặng lẽ lắng nghe sự chảy trôi,
phai tàn của thế giới qua những rung động tinh vi đúng như nhận xét của Hoài
Thanh: “Sự bồng bột của Xuân Diệu được phát biểu ra đầy đủ hơn cả trong
những rung động tinh vi”. Thức nhọn mọi giác quan để nắm bắt sự huyền bí
của thế giới chỉ được thể hiện thành công qua phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
tạo ra sự giao thoa, tương ứng của các giác quan. Hai sắc thái tưởng chừng đối
lập tồn tại trong một cái tôi Xuân Diệu đã giúp nhà thơ tạo ra tiếng nói của riêng
mình. Cuộc hành trình dài của “ ngọn gió nhà thơ băng qua rừng, băng qua biển
để tìm tiếng nói của riêng mình”(Rabinđrana Tagor) đã về đích khi Xuân Diệu
làm hiện diện trong thơ ông một cái tôi riêng, mọt thế giới nghệ thuật đặc sắc
thông qua phương thức nghệ thuật ẩn dụ.
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ XUÂN DIỆU
(Khảo sát qua ba bài thơ “Thơ duyên”, “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”)

Thời tươi
Khu vườn đầy xuân sắc xuân tình
(Vội vàng)
Con đường tình với những cặp
đôi luyến ái: Cặp chim, đườnggió,cành- nắng (thơ duyên)
Nguyên nhân: Nguồn sống trẻ
Cái tôi: Đắm say, ngất ngay,
khát khao giao cảm với đời

Thời phai

Sự
thống
nhất
giao
hòa

của
vũ trụ

Khu vườn của sự tàn phai, héo úa ,
vạn vật cô đơn, vội vã trốn tránh
( nhận diện trong cả ba bài Đây mùa
thu tới, thơ duyên, vội vàng)

Nguyên nhân: Dòng chảy thời
gian tuyến tính
Cái tôi với những rung
động tinh vi

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
4.1. Từ những trăn trở tìm tòi những sáng tạo độc đáo của Xuân Diệu từ
phương thức ẩn dụ qua ba bài thơ “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, “Thơ
duyên”, người viết vận dụng những nghiên cứu của mình vào giảng dạy cho các
em (Ở các mức độ khác nhau tùy đối tượng, đặc biệt rất hữu ích cho bồi dưỡng
học sinh giỏi văn thi cấp tỉnh mà năm học 2017- 2018 vừa qua tôi đứng đội
11


tuyển của trường) Ở các em đã có sự thay đổi tích cực trong việc tiếp thu kiến
thức .
- Học sinh phân tích sâu sắc hơn các sáng tác thơ ca của Xuân Diệu (Đặc
biệt
bài “Vội vàng”- tác phẩm chung cho học sinh học theo SGK nâng cao hay cơ
bản). Trong quá trình thẩm bình các em lưu ý đến những ẩn dụ- biểu tượng,
những ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ đó làm nổi bật sự lãng mạn, tài hoa của hồn
thơ Xuân Diệu.

- Có cái nhìn tổng hợp, khái quát cao về thế giới nghệ thuật thơ Xuân
Diệu, hình dung đầy đủ hơn về cái tôi Xuân Diệu, một cái tôi với niềm khát
khao giao cảm mãnh liệt, “sống vội vàng, sống cuống quýt” lại cũng là một cái
tôi thức nhọn mọi giác quan trong những rung động tinh vi.
- Học sinh (Đặc biệt học sinh khá giỏi lớp nâng cao văn- sử- đia 11A9
trong đó có các em thi học sinh giỏi văn cấp tỉnh năm 2017-2018) có sự đối sánh
khá tốt trong cách nhìn thế giới của Xuân Diệu so với các nhà thơ Mới khác
như Huy Cận, Hàn Mặc Tử trong chương trình SGK ngữ văn lớp 11 nâng cao
tập 2. Từ đó các em nhận ra nhân sinh quan khỏe khoắn yêu đời, yêu sống đến
mãnh liệt của nhà thơ Xuân Diệu.
4.2. Từ thực tế giảng dạy ba lớp 11A9 (học SGK ngữ văn 11 Nâng Cao),
11 A1. 11 A5 (học SGK ngữ văn 11 Cơ bản), qua các bài kiểm tra về phần Thơ
Mới trong đó có bài “Vội vàng” năm học 2017-2018 ( Bài chung trong cả hai
sách Nâng cao và cơ bản) tôi có thể thống kê kết quả như sau
STT

Lớp- sĩ số
Tiêu chí

1
2
3

Nắm được kiến thức cơ bản về nội dung và
nghệ thuật (Chú ý ẩn dụ- biểu tượng và ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác)
Biết khái quát về hình tượng thế giới trong thơ
XD (Qua khổ 2- khu vườn xuân và khổ 3- quan
niệm về thời gian trong “Vội vàng”)
Đưa ra được những nhận xét về cái tôi Xuân

Diệu một cách toàn diện ( khao khát, đắm say
giao cảm với cuộc sống và cũng rất tinh tế)

11A9- 11A1- 11A541 hs 42 hs 45 hS
35/41
85%

34/42
80%

27/45
60%

26/41
63%

25/42
60%

22/45
49%

28/41
68%

30/42
71%

18/45
40%


4.3. Một số minh chứng về hiệu quả của việc áp dụng giảng dạy “Phương
thức ẩn dụ- một đặc trưng góp phần hình thành thế giới nghệ thuật của Xuân
Diệu” cho học sinh qua một số bài kiểm tra.

12


13


III. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
- Với việc vận dụng những nghiên cứu về phương thức ẩn dụ trong ba bài
thơ “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên” vào thực tiễn giảng dạy học
sinh khối 11, bản thân học sinh sẽ chiếm lĩnh tốt hơn bài giảng của thầy cô: Nắm
vững kiến thức cơ bản, hiểu hơn vẻ đẹp thơ ca trong thơ Xuân Diệu, cái tôi
Xuân Diệu và thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu độc đáo như thế nào.
Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng phân tích- tổng hợp và so sánh đối
chiếu.
Tùy đối tượng học sinh, giáo viên vận dụng ở những mức độ khác nhau
phần sáng kiến của mình. Ví dụ đối với học sinh cơ bản lực học còn kém, giáo
viên tập trung vào những kiến thức cơ bản của bài ở hai phương diện nội dung
và nghệ thuật( Phần nghệ thuật có phân tích phương thức ẩn dụ trong “ Vội
vàng”). Đối với các lớp cơ bản có nâng cao môn văn, các lớp học lực khá, đối
tượng học sinh đi thi học sinh giỏi cấp trường, cấp tỉnh, từ phương thức ẩn dụ,
giáo viên phải mở rộng để có cái nhìn toàn diện về cái tôi và theess giới nghệ
thuật trong thơ Xuân Diệu.
Việc vận dụng kiến thức về phương thức nghệ thuật ẩn dụ thể hiện qua ba bài
thơ thơ “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên” phải được đặt hài hòa

trong tổng thê bài giảng tránh xem trọng việc phân tích phương thức ẩn dụ này
mà coi nhẹ các yếu tố nghệ thuật khác.
3.2: Kiến nghị
14


- Mỗi giáo viên phải là một tấm gương sáng trong tự học và sáng tạo. Chỉ có
trên tinh thần như vậy, bài giảng của chúng ta mới không nhàm chán đồng thời
mang đến cho học sinh nguồn kiến thức vừa sâu rộng, vừa chủ động.
- Tăng cường sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn để giáo viên học hỏi lẫn nhau
- Bổ sung những nguồn sách về thơ Mới trong đó có di sản thơ Xuân Diệu và
những công trình nghiên cứu thơ Xuân Diệu (đặc biệt trước 1945) để học sinh
yêu thơ thi sĩ tìm đến và tiếp tục tự mình tiếp tục hành trình khám phá.
- Sáng kiến kinh nghiệm này chỉ là những giải pháp của bản thân tôi đã thực
hiện trong quá trình giảng dạy để nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Tuy
vậy, nó cũng còn nhiều thiếu sót. Tất mong các đồng chí góp ý bổ sung để tôi
tiếp tục hoàn thiện. Tôi xin chân thành cảm ơn.

Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình,
không sao chụp nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Minh Nguyệt

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chu văn sơn- Ba đỉnh cao thơ Mới- NXB Giáo Dục-H. 2003
2.Hà Thị Hồng- tiểu luận Tìm hiểu phương thức ẩn dụ thể hiện trong thơ tình
Xuân Diệu
3.Hoài Thanh- Hoài Chân- Thi nhân Việt Nam – NXBVawn Học- H.1996
4.Lê Bá Hán chủ biên- Tinh hoa thơ Mới- thẩm bình và suy ngẫm- NXB giáo
dục- H 1998
5. Lê Tiến Dũng- Những cách tân nghệ thuật thơ Xuân Diệu – NXBĐại học Hồ
Chí Minh 2005
6. Mã Giang Lân chủ biên- Thơ Xuân Diệu những lời bình- NXB Văn hóa
thông tin- H. 2003
7. SGK ngữ văn lớp 6- tập 2 NXB Giáo Dục-H. 2015
8. SGK ngữ văn lớp 11 nâng cao - tập 2 NXB Giáo Dục-H. 2010

16


LƯU Ý:
1.

2.

Sáng kiến đạt giải c năm học 2013- 2014: ứng dụng sơ đồ tư
duy trong giảng dạy bộ môn ngữ văn trong nhà trường phổ
thông hiện nay
Giải c : dạy tích hợp liên môn bài “Vợ chồng A Phủ” 20162017

17




×