Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Một số kinh nghiệm giúp học sinh đọc hiểu đoạn trích chiến thắng mtao mxa trích sử thi đăm săn nhằm giáo dục văn hóa vùng dân tộc thiểu số cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.33 KB, 31 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT THỌ XUÂN 5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH ĐỌC HIỂU ĐOẠN
TRÍCH “CHIẾN THẮNG MTAO MXÂY” TRÍCH SỬ THI “ĐĂM
SĂN” NHẰM GIÁO DỤC VĂN HÓA CÁC VÙNG DÂN TỘC
THIỂU SỐ CHO HỌC SINH

Người thực hiện: Lê Thị Châu
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT THỌ XUÂN 5
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC
Nội dung
Mở đầu
Nội dung
1. Cơ sở lí luận
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Dạy đọc - hiểu sử thi theo thể loại
2.2. Hệ thống cốt truyện, nội dung và cách xây dựng nhân vật
2.3. Thi pháp kể chuyện sử thi
2.4. Dạy đọc - hiểu sử thi theo tích hợp liên môn
2.4.1. Góc độ Lịch sử - Địa lí


2.4.2. Góc độ Văn hóa – sinh hoạt của các dân tộc Tây Nguyên
2.5. Sử thi “ Đăm Săn” và đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”
2.5.1. Sử thi “Đăm Săn”
2.5.2. Đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”
2.6. Dạy đọc – hiểu kết hợp với đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh
2.6.1. Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan
2.6.2. Hệ thống câu hỏi mở
Hiệu quả sáng kiến
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Phụ lục 1: Giáo án thể nghiệm
Phụ lục 2: Bảng minh họa
Phụ lục 3: Bài kiểm tra

Trang
3,4
5
5
7
7
8
9
11
11
12
14
14
19

14
20
20
21
21
22
23
33
41


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Xã hội hiện đại, nhu cầu cuộc sống của con người cũng thay đổi, văn
học cũng phải thay đổi nhu cầu thảm mĩ riêng để hòa nhịp chung cùng quỹ đạo
văn học thế giới .Văn học có vai trò và xứ mệnh giáo dục nhận thức và thẩm mĩ,
cung cấp cho các em kho tri thức phong phú về lịch sử phát triển của văn học
Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới. Chương trình Ngữ Văn lớp 10
giành phần lớn thời lượng để truyền tải đến các em tri thức về văn học dân gian
– nền văn học gắn bó với nhiều truyền thống và những nét văn hóa của dân tộc
ta từ ngàn đời xưa. Ở giai đoạn văn học này đem đến cho học sinh nhiều hứng
thú và sự say mê, nhưng lại đẩy lùi thời gian, và có nhiều thể loại văn học dân
gian có đặc trưng riêng dẫn đến việc cảm thụ của các em với các tác phẩm văn
học cũng hạn chế.
1.2. Ở chương trình Ngữ văn Tiểu học và THCS có các thể loại như:
truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, tục ngữ và ca dao .....vv được học
sinh làm quen, thì đến lớp 10 các em mới được làm quen thêm thể loại sử thi.
Đây là loại hình dân gian ra đời từ rất sớm có cách tư duy, cách xây dựng nhân
vật đặc trưng theo thể loại. Vì vậy rất dễ đánh đồng việc đọc hiểu văn bản sử thi
với các thể loại tự sự dân gian khác.

1.3. Mặt khác do sự đổi mới nội dung chương sách giáo khoa, chương
trình ngữ văn hiện nay sắp xếp các văn bản thành cụm thể loại tạo nên nét khác
biệt trong phương pháp dạy và học.
Trước những yêu cầu của việc dạy và học trong thời điểm mới, cùng với
mong muốn học sinh thêm yêu quý gắn bó với nền văn học truyền thống của dân
tộc, nên tôi quan tâm đến việc thay đổi phương pháp dạy đọc – hiểu văn bản sử
thi trong nhà trường THPT để tạo nên hiệu quả hơn trong việc dạy học tác phẩm
văn học dân gian cũng như gây hứng thú cho học sinh tiếp cận loại hình văn bản
này.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ thực tế việc dạy và học đọc – hiểu môn Ngữ Văn lớp 10 thông qua các
tác phẩm văn học, chúng tôi mạnh dạn đóng góp Một số kinh nghiệm giúp học
sinh đọc hiểu đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxay” trích sử thi “Đăm Săn”
nhằm giáo dục văn hóa vùng dân tộc thiểu số cho học sinh để học sinh có thể
hiểu sâu sắc về tác phẩm, đồng thời tăng thêm tính hấp dẫn, lôi cuốn cho bài
học.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Một đoạn trích sử thi trong chương trình SGK Ngữ Văn lớp 10 tập I
- Phương pháp dạy đọc - hiểu tác phẩm sử thi.
- Học sinh lớp 10a1, 10a6, 10a2 trường THPT Thọ Xuân 5.
4. Phương pháp nghiên cứu
1. Nghiên cứu tài liệu:
- SGK, SGV, sách hướng dẫn chuẩn kiến thức kĩ năng Ngữ Văn lớp 10
- Tài liệu tham khảo
- Tranh ảnh minh họa
1


2. Khảo sát thực tế:
- Dự giờ thăm lớp

- Khảo sát tình hình thực tế
3. So sách đối chiếu:
4. Phân loại, thống kê
5. Phương pháp đọc - hiểu
NỘI DUNG
1 Cơ sở lí luận:
1.1. Sử thi hay trường ca là thuật ngữ văn học dùng để chỉ những tác phẩm
theo thể tự sự, có nội dung hàm chứa những bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời
sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho
một thế giới nào đó. Sử thi (thuật ngữ châu Âu: épos, épic) là khái niệm được
tiếp nhận từ các nền học thuật chịu ảnh hưởng quan niệm văn học và mỹ học
thuộc truyền thống châu Âu dưới hai phạm vi rộng và hẹp: nghĩa rộng: chỉ một
thể loại tự sự, một trong ba loại thể văn học phân biệt với kịch và trữ tình;
phạm vi hẹp: hiện nay tương đối phổ biến trong các nền văn học dân tộc nói
chung, chỉ thể loại sử thi anh hùng. [11].
Sử thi anh hùng dân gian: Là sử thi thần thoại kể về những bậc thủy tổ những anh hùng văn hóa, về các tích truyện dũng sĩ; xa xưa hơn nữa là các
truyền thuyết lịch sử, các bài tụng ca. Ra đời từ thời đại tan rã của chế độ công
hữu nguyên thủy và phát triển trong xã hội cổ đại, phong kiến, miêu tả về quan
hệ xã hội như quan hệ dòng máu, tông tộc với tất cả các chuẩn mực luật lệ, tập
tục. Ở dạng cổ xưa nhất của sử thi, còn hiện diện trong vỏ bọc thần thoại hoang
đường (các dũng sĩ không chỉ có sức mạnh chiến đấu mà còn có năng lực siêu
nhiên, ma thuật, kẻ địch thì luôn hiện diện dưới dạng quái vật giả tưởng). Những
đề tài chính được sử thi cổ xưa miêu tả: chiến đấu chống quái vật (cứu người
đẹp và dân làng), người anh hùng đi hỏi vợ, sự trả thù của dòng họ.
Sử thi cổ điển: Các nhân vật thường là các dũng sĩ kiêm thủ lĩnh và các chiến
binh đại diện dân tộc ở tầm lịch sử; các kẻ thù của họ thường được đồng nhất
với bọn xâm lược, những kẻ áp bức, ngoại bang và dị giáo (như người Turk,
người Tartar với sử thi Slavơ). Thời gian sử thi ở đây khác với sử thi dân gian,
không còn là thời đại sáng chế các thần thoại, mà là quá khứ vinh quang trong
buổi bình minh của lịch sử dân tộc. Được ca ngợi trong các dạng sử thi cổ điển

là các nhân vật và biến cố lịch sử (hoặc ngụy lịch sử), mặc dù bản thân sự miêu
tả các chất liệu lịch sử bị phụ thuộc vào sơ đồ cốt truyện truyền thống, đôi khi
còn sử dụng cả mô hình nghi lễ thần thoại. Các nền sử thi thường là các cuộc
đấu tranh của hai bộ lạc hoặc bộ tộc, sắc tộc ít nhiều tương ứng với sự thật lịch
sử (như cuộc chiến Troia trong Iliad, việc tranh đoạt Sampo trong Kalevala).
Quyền lực được tập trung trong các nhân vật trung tâm có hành động tích cực là
các ông vua của thế giới sử thi (như Karl Đại Đế trong bản Anh hùng ca
Roland), hay các dũng sĩ. Các nhân vật nổi loạn, cách mạng xung đột với quyền
lực (Akhillos trong Iliad, Đăm San trong khan Êđê, Robin Hud trong thiên
ballade của Anh, các nhân vật trong Thủy hử ở Trung Hoa) xuất hiện ít ỏi trong
giai đoạn tan rã hình thức cổ điển của sử thi anh hùng. [2].

2


Sử thi anh hùng: Những anh hùng ca, với cỡ lớn, thể hiện sự tương quan giữa
yếu tố cá nhân anh hùng và yếu tố sử thi tập thể rõ rệt, đủ để bộc lộ tính tích cực
cá nhân, đã trở thành công cụ đắc lực cho sự biểu hiện yếu tố toàn dân, toàn dân
tộc. Trường ca sử thi "....Khi bản thân cái cá nhân được giải phóng khỏi khối
vẹn toàn dân tộc khởi thủy với trạng thái chung, lối nghĩ lối cảm chung, hoạt
động và số phận chung, thì thay cho thơ ca sử thi những cái sẽ phát triển chín
muồi hơn cả một mặt là thơ và mặt khác là kịch" (Hegel). [2].
*Tác phẩm tiêu biểu: Iliad, Odysseus của Hy Lạp cổ đại, Mahabharata,
Ramayana của Ấn Độ cổ đại; dưới dạng truyền miệng như Sử thi Gilgamesh,
Dzangar, Alphamysh, Manas, Đăm Săn, Đẻ đất đẻ nước; hoặc các bài ca sử thi
ngắn (bulina của Nga, junas của Nam Tư) được xâu chuỗi phần nào thành liên
hoàn..... [1].
1.2. Ở Việt Nam, sử thi đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hóa
của đồng bào thiểu số. Hướng tiếp cận các tác phẩm sử thi Tây Nguyên từ các
phương diện như ngữ văn dân gian, nghệ thuật dân gian, tri thức dân gian, tín

ngưỡng, phong tục và lễ hội đã được đặt ra, song hầu như chưa được tiến hành
đồng bộ và chuyên sâu, trong đó nhiều vấn đề mới chỉ là những bước gợi mở
ban đầu. Mỗi tác phẩm sử thi Tây Nguyên tổng hòa trong nội dung và hình thức
của nó cả phương diện nhận thức thẩm mĩ của nhân dân về thực tại, cả các
phương diện khác bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của xã hội Tây Nguyên như lịch sử, tín ngưỡng, tâm lý, triết lý, những kiến
thức địa lý, kiến thức về thiên nhiên, những kiến thức về ứng xử trong gia đình,
công đồng,… Tuy nhiên ngày nay được phản ánh theo kiểu sao chụp nguyên xi
mà thảy đều bị khúc xạ, biến dạng đi bởi quan điểm thẩm mỹ của người Tây
Nguyên.
2. Cơ sở thực tiễn:
2.1. Dạy đọc - hiểu theo thể loại:
Theo GS Võ Quang Nhơn trong công trình Văn học dân gian các dân
tộc ít người ở Việt Nam , đã nói tới thể loại “Sử thi anh hùng của các dân tộc
Tây Nguyên”, tuy nhiên đây chưa phải là một khái niệm với ý nghĩa đầy đủ và
chặt chẽ của nó. Mãi tới năm 1997, trong Hội thảo khoa học được tổ chức ở
Buôn Ma Thuột, nhân dịp kỷ niệm 70 năm phát hiện và công bố sử thi khan
Đăm Xăn, và sau đó nội dung của nó được công bố trong tập sách Sử thi Tây
Nguyên, xuất bản năm 1998, thì cái tên này mới dần dần được dùng một cách
chính thức và bắt đầu hàm chứa nội dung học thuật tương đối rõ ràng . Về thể
loại của sử thi Tây Nguyên là chúng đều thuộc sử thi cổ sơ, phân biệt với sử thi
cổ đại, trong đó, theo phân loại của nhà Folklore học nổi tiếng nước Nga là
Bêialínky thì mỗi loại phản ánh những đặc trưng thời đại khác nhau [11].
Vậy, khái niệm Sử thi Tây Nguyên cần được hiểu như thế nào?. Đó là một
dạng tự sự dân gian, nằm trong khuôn khổ thể loại mà các nhà học giả thế giới
gọi là Epic, Epope ( dịch sang tiếng Việt là “Sử thi”), gắn với những đặc thù Tây
Nguyên về môi trường tự nhiên, truyền thống các dân tộc bản địa, trình độ phát
triển kinh tế xã hội và các đặc trưng văn hóa, tạo nên sự thống nhất thể loại [1].
Tồn tại và lưu truyền thông qua hình thức diễn xướng hát kể, tức nghệ nhân vừa
hát vừa kể, trong đó hát là chính. Hình thức diễn xướng này, tuỳ theo mỗi dân

3


tộc có tên gọi khác nhaunhư :Khan của người Êđê, Hmon của người Ba na, Ot
Ndrông của người Mnông, Hri của người Gia rai, Akha Juca của người
Raglai .Thể loại sử thi có thể chia ra làm 2 loại: sử thi anh hùng và sử thi thần
thoại. “Sử thi thần thoại kể về nguồn gốc và sự hình thành vũ trụ, con người và
xã hội “. Sử thi anh hùng “kể về chiến công và sự nghiệp của người anh hùng
đối với toàn thể cộng đồng”. [16].
Sử thi anh hùng ra đời gắn với thời đại - chế độ “dân chủ quân sự” khi mà chế
độ thị tộc tan rã, trước khi nhà nước xuất hiện. Trong xã hội đã có sự phân hóa
về kinh tế đến mức tầng lớp quý tộc tự tách ra khỏi đời sống cộng đồng. Sở hữu
tập thể công xã đã được thay thế bằng tư hữu, trước hết là tư hữu của tầng lớp
trên. Đây cũng là giai đoạn chiến tranh diễn ra thường xuyên “Chiến tranh diễn
ra như cơm bữa” (Ăng-ghen). Đó là chiến tranh giữ đất, cướp người đẹp, trả thù,
đòi nợ… Thời kì mà cộng đồng đã bừng tỉnh, sống một cuộc sống không phẳng
lặng, là thời kì anh hùng của cộng đồng, anh hùng trong lao động, sống chiến
đấu chống lại kẻ thù, sức mạnh và danh dự của thủ lĩnh cũng chính là sức mạnh,
danh dự của cộng đồng (thủ lĩnh mang tinh thần danh dự của cộng đồng).
2.2. Hệ thống cốt truyện, nội dung và cách xây dựng nhân vật:
Sử thi Tây Nguyên đều tập trung phản ánh về xã hội xưa, chiến tranh
thường xuyên, từ đó xuất hiện các nhân vật anh hùng đại diện cho cộng đồng để
thiết lập các trật tự xã hội. Đó là Đăm Xăn, Xinh Nhã, Khinh Dú...của dân tộc
Êđê, Tiăng, Lênh...của người Mnông, Duông, Giông của người Ba na, Xơ
đăng... Nội dung của sử thi nhằm kể về cuộc đời, chiến công hào hùng trong
xây dựng và đặc biệt là trong chiến đấu chống lại kẻ thù đối kháng để thành lập
một cộng đồng giàu về vật chất – mạnh về thể chất và tinh thần. Ví như Đăm
San kể về những cuộc giao chiến đầy cam go của người anh hùng Đăm San, là
phản ánh quang cảnh xây dựng làm cho buôn làng giàu mạnh, thể hiện những
ước mơ, hành động muốn đi tới tận cùng của nhân vật anh hùng để trở thành

người thủ lĩnh hùng mạnh nhất (đoạn trích: Chiến thắng Mtao Mxay).
Để thể hiện được một nội dung lớn như vậy, nghệ nhân dân gian đã phải
sử dụng tới những biện pháp nghệ thuật như: Nhân vật anh hùng có một quá khứ
tuyệt đối, là một nhân vật lý tưởng hoàn tất, toàn vẹn về mọi mặt, ví như chàng
Đăm San, Xinh Nhã, … Nhà lý luận Bakhatin đã từng nói “giữa bản chất thật
của nó và sự biểu hiện bên ngoài của nó không có mảy may sự khác biệt. Quan
điểm của nó về bản thân nó trùng hợp hoàn toàn với những quan điểm của
những người khác về nó”. Như vậy, hình tượng người anh hùng trong sử thi
chính là hình mẫu về ước muốn của cộng đồng những con người chứ không
riêng gì một con người.
Nhân vật sử thi anh hùng ngay từ khi xuất hiện đã có một địa vị xã hội
khác hẳn, họ là con, cháu của thần linh, con cháu của những tù trưởng, thủ lĩnh
của cộng đồng trước đây. Ví dụ nhân vật Đăm San, Xinh Nhã, Kinh Dú trong
những tác phẩm cùng tên. Nhân vật anh hùng đẹp toàn diện. Người anh hùng
trước tiên phải là người đẹp, đẹp về hình thức, trang phục. Nhân vật anh hùng đã
chứng tỏ được: trời cho cái giàu, thần cho cái sang. Trang phục của nhân vật
luôn thỏa mãn hai yêu cầu: yêu cầu đẹp, đa dạng, kiểu cách, nhiều màu sắc; biểu
hiện sức mạnh, sự giàu sang, tỏ rõ một trang tù trưởng giàu mạnh. Hành động
4


của nhân vật trong giao tranh đều là những hành động anh hùng. Tất cả mọi
hành động trong nhân vật đều được chứng tỏ, ước mơ cho cộng đồng mạnh lên,
uy tín của cộng đồng vang dội. Hôn nhân trong sử thi không đơn thuần phản ảnh
việc thành lập gia đình mà để thể hiện sức mạnh cộng đồng. Nhân vật anh hùng
lúc nào cũng xuất hiện trên một môi trường “tinh thần đặc biệt”: nhân vật xuất
hiện trên nền cộng đồng; xuất hiện trên nền điều kiện địa lý, phong tục, tập quán
của cộng đồng; nhân vật xuất hiện trên đầm lầy; cánh rừng sử thi; nhân vật anh
hùng trong sử thi xuất hiện trong nhiều mối quan hệ: quan hệ với người đẹp, với
kẻ thù đối kháng, quan hệ với cộng đồng. Ở mối quan hệ nào thì nó cũng bộc lộ

là một nhân vật phi thường đầy tính cách, phóng túng, tự do vì cộng đồng.
2.3. Thi pháp kể chuyện sử thi
Hình thức nghệ thuật tiêu biểu của sử thi Tây Nguyên là tính ngoa dụ,
phóng đại tạo nên tính kỳ vĩ, thần kỳ, huyền thoại, nhất là trong xây dựng tính
cách và hành động của các nhân vật anh hùng, khung cảnh chiến tranh giữa các
cộng đồng. Sử thi thường sử dụng biện pháp phóng đại (phóng đại trong so
sánh, trong miêu tả, trong cảm nhận, trong đánh giá…). Ví dụ: khi miêu tả về
thiên nhiên và người anh hùng chúng ta nhận thấy, thiên nhiên để cho người anh
hùng xuất hiện thường là một thiên nhiên kì vỹ (một bãi đất lớn, một đồi cỏ
gianh, một khu rừng rậm, một con suối lớn, một cánh đồng thẳng cánh diều bay,
…). Hình ảnh người anh hùng trước kẻ thù đối kháng thường được miêu tả dưới
bút pháp tô đậm, phóng đại. Biện pháp này phục vụ mục đích sử thi nhằm miêu
tả không gian hào hùng, sự tích anh hùng của người anh hùng để dựng lên một
môi trườngtinh thần đặc biệt cho người anh hùng xuất hiện. Trong sử thi tất cả
phải là tuyệt đối chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có những hình tượng tuyệt
đối. Biện pháp phóng đại đã nhằm giúp cho sử thi vươn tới những mục đích của
nghệ thuật đó.
Thi pháp sử thi còn hay sử dụng những mẫu hình quen thuộc có sẵn trong
tự nhiên, thường gặp trong đời sống hay những vật dụng thường dùng để so
sánh: So sánh thiên nhiên với con người (cái đẹp, ánh mắt của nữ thần mặt trời,
đoàn quân của Đăm San đi lên rẫy, đi bắt cá… Hay so sánh thiên nhiên với thiên
nhiên (cảnh sắc nơi trần thế - cảnh sắc nơi ông trời ở; cảnh sắc nơi nữ thần mặt
trời sinh sống với cảnh sắc nơi buôn làng mà tù trưởng Đăm San lãnh đạo…).
Ngôn ngữ trong sử thi cũng là khía cạnh thể hiện tính đa dạng. Nếu như
trong sử thi khan Êđê ngôn ngữ đã được chau chuốt, tinh tế, thể hiện các sắc độ
tình cảm, tính cách, hành động của các nhân vật, thì sử thi Ot’ Nđrông của người
Mnông, Hmon, Hri của Ba na, Xơđăng có phần còn thô phác, nặng về diễn tả
hành động hơn là diễn biến tâm lý nhân vật... Sử thi Tây Nguyên thuộc loại hình
văn học truyền miệng, do vậy ngôn ngữ thể hiện bao giờ cũng có ý nghĩa hàng
đầu. Ngôn ngữ sử thi là ngôn ngữ lời nói vần, tức hình thức trung gian giữa

ngôn ngữ thường ngày và ngôn ngữ thơ ca. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì với các
tộc người chưa có chữ viết thì văn học truyền miệng thông qua phương thức lời
nói vần là phương tiện dễ nhớ, dễ lưu truyền. Cấu tạo của những lời nói vần
thường là đối âm, đối nhịp. Ngôn ngữ của sử thi là ngôn ngữ ví von, giầu hình
ảnh, nhạc điệu, mượn hình ảnh cây cỏ, chim thú để nói về con người và tâm
trạng của con người. Có lẽ vì vậy mà dù văn bản có độ dài hàng trăm, hàng ngàn
5


câu, nhưng vẫn có các cụ già thuộc lòng. Như vậy, sử thi Tây Nguyên vẫn sống
đời sống riêng của nó trong lòng đời sống cộng đồng. Đó cũng là nét độc đáo, là
vốn quý của Tây Nguyên
2.4. Đọc hiểu sử thi theo tích hợp liên môn
Tích hợp kiến thức các môn học có liên quan đến nhau hiện nay đang là
một phương pháp được sử dụng trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn
Ngữ văn trong trường THPT. Bên cạnh việc tích hợp ba phân môn của môn Ngữ
Văn : đọc văn, tiếng Việt và làm văn, giáo viên cần đưa thêm những kiến thức về
văn hóa, xã hội, con người vào bài học để gia tăng thêm kiến thức thực tế, tạo
nên sự hiểu biết toàn diện cho học sinh, với phương pháp tích hợp kiến thức liên
môn không chỉ giúp giáo viên truyền tải nội dung bài học phong phú, mà còn
giúp học sinh đi vào khám phá tác phẩm, từ đó thấy hết được cái hay cũng như
vẻ đẹp riêng của sử thi so với các thể tự sự dân gian khác.
2.4.1 Góc độ Lịch sử - Địa lý
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía
đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tây giáp với
các tỉnh Attapeu (Lào) và Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia). Trong khi
Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk
Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng
không có đường biên giới quốc tế. Nếu xét diện tích Tây Nguyên bằng tổng diện

tích của 5 tỉnh ở đây, thì vùng Tây Nguyên rộng 54.641,0 km².[3]
Trước thế kỷ XIX, vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa
bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số, chưa phát triển thành một quốc gia hoàn
chỉnh, chỉ có những quốc gia mang tính chất sơ khai của người Ê Đê, Gia Rai,
Mạ... vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Chà
Bàn, bắt sống vua Champa là Trà Toàn, sáp nhập 3 phần 5 lãnh thổ Champa thời
đó vào Đại Việt. Các Chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc
các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn [3]. Trong cuốn Đại Việt
địa dư toàn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có viế t: Thủy Xá, Hỏa Xá ở
ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong Thượng đạo tỉnh Phú An
có núi Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đông núi ấy,... Hỏa Xá ở phía Tây núi
ấy, phía Tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở nam nước Chân Lạp, phía Nam thì là
Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên là sông Đại Giang, phía dưới là
sông Ba Giang làm giới hạn bờ cõi hai nước ấy...... Thời Pháp thuộc, sau khi
người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt các
cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Năm 1891, bác sĩ
Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra cao nguyên Lang Biang.
Từ đó người Pháp quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát, bắt đầu sự
can thiệp trực tiếp trên cao nguyên.
Sử thi Tây Nguyên tồn tại không phải dưới dạng những tác phẩm sáng tạo
truyền miệng đơn lẻ hay là hiện tượng văn hoá của một vài dân tộc riêng biệt,
mà nó là một trong bảy vùng văn hóa của Việt Nam, mà còn la vùng thể loại văn
hóa, trong đó coi sử thi Tây Nguyên là một trong các vùng thể loại văn hóa của
Việt Nam [4].. Ở các dân tộc bản địa Tây Nguyên còn lưu truyền số lượng lớn
6


đã sưu tầm được hơn 800 tác phẩm sử thi, trong đó có 173 tác phẩm đã phiên âm
và dịch nghĩa, 75 tác phẩm đã được xuất bản. Trong hơn 800 tác phẩm sử thi đã
sưu tầm, Mnông có gần 300 tác phẩm, Êđê có 54 tác phẩm, Xơ đăng có 105 tác

phẩm, Ba na và Gia rai có 238 tác phẩm, Raglai có 33 tác phẩm. Các tác phẩm
sử thi đã phát hiện nằm trên hầu khắp địa bàn Tây Nguyên , Nam Trường Sơn và
các vùng phụ cận, trong đó tập trung hơn cả ở 5 tỉnh Tây Nguyên : Kon Tum,
Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. Ngòai ra, ở các dân tộc thiểu số sống ở
các vùng kế cận với 5 tỉnh nêu trên cũng phát hiện được sử thi. Các dân tộc bản
địa sinh sống trên địa bàn trên là chủ nhân đích thực của sử thi Tây Nguyên ,
trong đó tiêu biểu là các dân tộc Êđê, Mnông, Răglai, Gia rai, Ba na, Xơdăng
[5].
2.4.2 Góc độ văn hóa – sinh hoạt của các dân tộc Tây Nguyên
Tây Nguyên được biết đến như là miền đất huyền thoại, là nơi cư trú của
các dân tộc thiểu số: Ê đê, Mnông, Gia Rai, Ba Na… Trong kho tàng văn hóa
phong phú của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, bên cạnh những giá trị lịch
sử, văn hóa tinh thần vô giá như cồng chiêng, rượu cần, đàn Tơrưng…, thì
không thể không nhắc đến giá trị của sử thi. Cho đến nay, sử thi Tây Nguyên
được biết là có đến hơn hai trăm bộ đã được sưu tầm, ghi chép và đang được tổ
chức biên soạn. Đây đích thực là một kho tàng văn học dân gian khổng lồ, một
kho lịch sử - văn hóa vô giá có thể so sánh với kho thần thoại Hi Lạp nổi tiếng.
Nhưng điều hơn hẳn (so với thần thoại Hi Lạp) là ở dung lượng của nó. Bên
cạnh các tác phẩm sử thi riêng rẽ, độ dài vừa phải như Đăm San (2077 câu),
Khinh Dú (5880 câu), thì nay đã phát hiện thấy loại sử thi liên hoàn, gồm nhiều
tác phẩm, liên quan với nhau về nhân vật, chủ thể, phong cách thể hiện, như các
sử thi: Ốt Drông của người Mnông, Dông của người Ba Na và Dăm Diông của
người Xê Đăng, sánh ngang với những tác phẩm sử thi hoành tráng của nước
ngoài như Ramayana, Kalevala .[8].
Sống đời sống riêng trong lòng đời sống cộng đồng. Sử thi Tây Nguyên là
dạng văn hoá phi vật thể, sáng tạo, lưu truyền thông qua truyền miệng, tiềm ẩn
trong trí nhớ của người dân, chỉ khi nào có dịp như cưới xin, hội hè, mừng nhà
mới, đón tiếp khách quý, mừng trẻ nhỏ đầy năm, đầy tháng thì nghệ nhân mới
hát kể sử thi, lúc đó sử thi mới hiện hữu. Như vậy, sử thi gắn với nghệ nhân, gắn
với sinh hoạt cộng đồng, tức là gắn với con người và xã hội con người. Khi

hướng dẫn đọc hiểu sử thi Đăm Săn, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh
những quan niệm trong băn hóa dân gian của người Ê đê. Đó là tục lệ “ Nối
dây” trong hôn nhân xưa, là sinh hoạt mang văn hóa cồng chiêng của nhân dân
Tây Nguyên.
Văn minh Ấn Độ xuất hiện và tồn tại từ rất lâu đời với những nét đẹp
truyền thống rất riêng. Người Ấn Độ luôn soi chiếu mỗi cá nhân dưới góc độ
đạo lí và tôn giáo. Vì vậy Ra ma quên đi nguy hiểm để cứu Xi Ta nhưng cũng
chính chàng hi sinh tính mạng để chứng minh sự trong sáng, danh tiết của một
người phụ nữ thủy chung.
Những nghệ nhân kể sử thi là những “kho tàng sống”, góp phần lưu giữ
những giá sẵn sàng ruồng bỏ Xi ta để làm tròn bổn phận một vị vua mẫu mực.
Xi ta sẵn sàng trị tinh thần vô giá của người Tây nguyên, và đêm đêm bên bếp
7


lửa nhà sàn vẫn chậm rãi kể cho con cháu nghe, thường phải kể hàng chục đêm
mới xong… Để có thể thuộc lòng áng sử thi như vậy, đòi hỏi người kể sử thi
phải có tình yêu thiết tha và lòng say mê đối với vốn văn hóa vô giá của dân tộc.
Với họ mỗi lần kể sử thi là mỗi lần được nhập cuộc, được sống lại cái không khí
cuộc sống cộng đồng cách nay hàng trăm năm… Mặt khác, cái khung cảnh
huyền ảo của màn đêm, của không gian núi rừng như tạo nên một không - thời
gian huyền thoại mà cũng rất thực và sống động lạ thường… Nếu ai đã được
nghe kể sử thi thì hẳn không quên được cái ấn tượng của những đêm Tây
Nguyên khi bên bếp lửa bập bùng và bên ché rượu cần giữa nhà rông hay nhà
dài, nghệ nhân hát kể sử thi và xung quanh con cháu, buôn làng ngồi nghe như
nuốt từng lời, như hòa vào cái không gian huyền ảo, lung linh, lặng thầm cuộc
sống [4].
2.5. Sử thi “Đam Săn” và đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”
2.5.1 Sử thi “Đam Săn”
Tên gọi đầy đủ là "Bài ca chàng Đam Săn" (Kbi khan Y Đam Săn). [3].

Thiên sử thi đã kể về cuộc đời với những chiến công lẫy lừng, những khát vọng
tự do chói lọi của một tù trưởng trẻ tuổi lỗi lạc của bộ lạc Ê-Đê tên là Đam Săn.
Đam San. Đăm Săn là một người anh hùng trong sử thi "Bài ca chàng Đăm Săn"
(phiên âm tiếng Ê Đê: Klei khan y Đam San) của người Ê Đê ở Tây Nguyên. Là
nhân vật chính trong trường ca, sử thi Bài ca về chàng Đăm Săn. Bộ sử thi dài
Đăm Săn (2077 câu), thể hiện nét lịch sử văn hóa của người đồng bào Tây
Nguyên. Tác phẩm được nhiều người sưu tầm, tuy lời kể có khác nhau ít nhiều,
nhưng cốt truyện tương đối giống nhau. Sử thi đã được in thành sách và tái bản
nhiều lần. [3].
Tóm tắt nội dung: Theo tục nối dây trong chế độ mẫu hệ, Đăm Săn phải
lấy hai chị em Hơ Nhị và Hơ Bhị làm vợ. Đăm Săn cưỡng lại. Trời "đã chống
gậy hèo đến thu xếp việc cưới hỏi". Đăm Săn phải khuất phục trước sức mạnh
của tập tục. Nhưng khi về đến nhà vợ, chàng vẫn tiếp tục chống lại cuộc hôn
nhân đó. Chàng trễ nải công việc nhà vợ, không chăm sóc vợ và bỏ về nhà chị
ruột. Hành động tiêu biểu nhất là Đăm Săn chặt cây smuk, một thứ cây thần, cây
"linh hồn", cây "tổ tiên", cây "sinh ra Hơ Nhị và Hơ Bhị". Do những hành động
trên của Đăm Săn, Hơ Nhị và Hơ Bhị đã 2 lần chết. Song khi vợ chết, chàng
khóc thương "người vợ mà thần linh ban cho chàng", để chàng "có người nấu
cơm, sắm thức ăn, dệt khố áo". Chàng đã xin thần linh ban phép cho vợ chàng
sống lại. Là 1 tù trưởng anh hùng, Đăm Săn đã lập nên những kì tích trong lao
động như thuần phục voi dữ, làm rẫy, bắt cá,... Kì tích lẫy lừng hơn cả của Đăm
Săn là chiến thắng 2 tù trưởng thù địch là Mtao Grư và Mtao Mxây (2 tù trưởng
đã cướp vợ Đăm Săn). Đăm Săn chiến thắng, tôi tớ và dân làng của tù trưởng
thù địch tự nguyện đi theo mang của cải đi theo. Cứ mỗi lần như vậy, Đăm Săn
lại thêm giàu mạnh, sức uy tín càng cao. Với khát vọng trở thành tù trưởng hùng
mạnh, vươn tới cuộc sống phóng khoáng, Đăm Săn đi cầu hôn Nữ thần Mặt Trời
nhưng thất bại và bị chết trong rừng sáp đen. Sau khi chết, chàng biến thành con
ruồi và chui vào mồm chị gái mình. Chị gái Đăm Săn sinh ra Đăm Săn cháu tiếp
tục đi trên con đường của cậu mình.
Sử thi Đam Săn gồm có 7 khúc ca:

8



Khúc ca 1 và 2: kể chuyên làm chồng theo tục lệ nối dây và hành động
chống lại tục nối dây của Đam Săn.
– Khúc ca 3 và 4: kể chuyện Đam Săn làm tù trưởng đưa buôn làng đi làm
nương rẫy, săn bắn, bắt cá và cuộc chiến tranh bộ lạc, đánh thắng hai tù trưởng
thù địch hùng mạnh là Mơ-tao Grư và Mơ tao Mơ-xây để bảo vệ và làm giàu
cho bộ tộc.
– Khúc ca 5 và 6: kể chuyện Đam Săn chặt cây thần và đi bắt nữ thần Mặt
Trời. Việc cầu hôn không thành, chàng trở về và bị chết lún trong rừng ma đất
đen.
– Khúc ca 7: kể chuyện Đam Săn đầu thai trong bụng chị gái Hơ âng. Đứa bé
ra đời lại mang cái tên Đam Săn, lớn nhanh như thổi, tiếp tục nối dây với 2 nàng
Hơ Nhí và Hơ Bhí, trở thành một tù trưởng lý tưởng đi tiếp con đường vinh
quang mà cậu chàng đã đi.
Sử thi Đam Săn đã khắc họa một cách đậm nét nhân vật Đam Săn, một anh
hùng xuất chúng theo kiểu anh hùng thời thị tộc – bộ lạc. Những hành động và
chiến công của Đam Săn trong thiên sử thi này xoay quanh hai chủ đề chính:
– Một là, chủ đế đấu tranh để thoát khỏi những ràng buộc của tập tục hôn nhân
nối dây theo chế độ mẫu quyền.
– Hai là, chủ để đấu tranh chống lại những tư tưởng thù địch để bảo vệ sự sống
còn và làm cho bộ tộc trở nên giàu có, cường thịnh. [3].
2.5.2.Về đoạn trích “ Chiến thắng MtaoMxay”:
Đoạn trích thuộc phần giữa của tác phẩm được tóm tắt như sau: Đam San
đột nhập vào nhà và gọi Mtao Mxây xuống đánh. Mtao Mxây múa kiếm trước
nhưng vụng về đâm không trúng Đam San. Ông trời bày cho Đam San dùng
chày giã gạo đâm vào vành tai của Mtao mxây. Đam San làm theo Mtao Mxây
ngã. Đam san cắt đầu Mtao Mxây cắm trên cọc. Dân làng tôi tớ đi theo Đam San

mang theo của cải voi ngựa của Mtao Mxây. Lễ cúng thần linh ăn mừng chiến
thắng. Đại ý : Miêu tả cuộc đọ sức giữa Đam San và mtao Mxây đê giành lại
vợ , thể hiện niềm tự hào về người anh hùng của dân làng. [13].
Đối thủ của Đăm Săn là Mtao Mxây, một đối thủ ngang tầm: Tuy võ nghệ
không thuộc hàng cao thủ nhưng Mtao Mxây là một kẻ "túc trí đa mưu", lấy sự
sắc sảo, khôn ngoan làm sức mạnh cho mình. Không tin vào bản thân thì làm
sao dám táo tợn cướp vợ của Đăm Săn! Và khi biết Đăm Săn tới để làm gì rồi
mà còn khiêu khích "Ta không xuống đâu, diêng ơi. Tay ta đang còn bận ôm vợ
hai chúng ta...". Thái độ nghênh chiến của Mtao Mxây khá đàng hoàng: "Bà
con xem, khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng.
Trông hắn dữ tợn như một vị thần". Có thể nói, đó là tư thế tự tin. Tự tin nhưng
thận trọng. Hai lần Mtao Mxây nhắc Đăm Săn không được đâm mình khi Mtao
Mxây đi xuống và lúc đi xuống rồi vẫn còn do dự, đắn đo. Cách ứng xử của
Mtao Mxậy theo lối "quân tử phòng thân" luôn đề phòng bất trắc
Bước vào cuộc chiến, Mtao Mxây nhường cho Đăm Săn múa khiên trước
với một thái độ khiêm tốn giả vờ. Giả vờ nói rằng võ nghệ của mình kém cỏi:
"Ta như gà làng mới mọc cựa kliê, như gà rừng mới mọc cựa êchăm, chưa ai
giẫm phải mà đã gãy mất cánh". Võ nghệ ấy là chắp vá: "Có cậu, ta học cậu.
Có bác, ta học bác. Có thần Rồng, ta học thần Rồng". Nhưng từ sự giả vờ ấy đã
9


lộ ra một câu nói thật: "Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi
đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quen đi xéo nát đất đai thiên hạ hay sao?". Không
phải vô tình mà câu kể khan của người dẫn truyện ngay từ đầu đã phác ra cái vẻ
sang trọng, tôn nghiêm, bề thế của Mtao Mxây, một tù trưởng giàu mạnh trong
vùng. Mặc cho Đăm Săn khinh bỉ, mặc cho mình múa khiên không đẹp (múa
"kêu lạch xạch như quả mướp khô"), tốc độ lại chậm chạp, nặng nề ("bước cao
bước thấp") nhưng Mtao Mxây không nản lòng. Y rắp tâm chờ cơ hội. Và khi cơ
hội đến, hành động của Mtao Mxây nhanh hơn một chớp mắt: đâm lén Đăm

Săn. Khi Mtao Mxây "chém phập một cái", chắc chắn Đăm Săn không khỏi giật
mình. May cho Đăm Săn là nhát chém quá nhanh và không ngờ ấy của địch lợi
hại "chỉ vừa trúng một cái chão cột trâu". [13].
Hai trợ thủ cuối cùng của Mtao Mxây là miếng trầu của Hơ Nhị và cái áo
giáp che thân. Đăm Săn chỉ vô hiệu hóa được con bài thứ nhất, đến con bài thứ
hai thì Đăm Săn đã bất lực hoàn toàn. Đùi Mtao Mxây bị đâm trúng nhưng
không thủng, người Mtao Mxây cũng thế. Nếu không có sự giúp sức của Ông
Trời thì Đăm Săn chắc chắn sẽ trắng tay, cả danh dự và quyền uy vì chàng sẽ là
người bại trận. Nhìn chung cách khắc họa nhân vật (cả Mtao Mxây và Đăm Săn)
của đoạn trích là kết hợp hai yếu tố: đối thoại giữa các nhân vật và lời người dẫn
truyện
Riêng với nhân vật Đăm Săn, chàng là người cương trực, thẳng thắn,
không đê tiện, nhỏ nhen. Bởi vậy khi chạm vào những ý nghĩa hèn hạ, mờ ám
của Mtao Mxây, Đăm Săn như người đụng phải lửa. Hai lần Mtao Mxây cất
tiếng ("không được đàm ta khi ta đang đi xuống") là hai lần Đăm Săn như thấy
lòng tự trọng bị tổn thương. Qua đối thoại của chàng, ta cảm nhận được sự khinh
khi, tức giận: "Ngươi xem, đến con lợn nái của nhà ngươi dưới đất, ta cũng
không thèm đâm nữa là!". Và đối lập với những ý nghĩ vẩn đục của Mtao Mxây,
tâm hồn của Đăm Săn thật là trong sáng. Mặc dù đến nhà Mtao Mxây để gây
chiến vì Đăm Săn có lí do khiêu chiến, nhưng chàng không vội ra tay. Phải bình
tĩnh đến mức nào đó để không làm cho cơn giận bùng lên, Đăm Săn mới nhường
cho Mtao Mxây múa khiên trước. Chỉ thực sự gai mắt khi chứng kiến lời nói của
đối thủ, khoác lác huênh hoang mà thực tài kém cỏi, Đăm Săn mới thực sự rung
khiên.
Vốn là một tù trưởng giàu mạnh, Đám Săn có trách nhiệm với bộ tộc đã
đành. Chính vì danh dự của Đăm Săn bị xúc phạm (Mtao Mxây cướp vợ cùa
Đăm Săn)cũng là danh dự của bộ tộc bị xúc phạm mà chàng đã dấy binh. Chiến
thắng kẻ thù rồi, danh dự được bảo vệ rồi, trách nhiệm của Đăm Săn tăng lên
gấp đôi. Biện pháp nghệ thuật ở đây là hình thức tiếng vang. Một câu nói của
Đăm Săn truyền đi, một câu trả lời vọng lại để rồi một câu hỏi từ đó lại lan xa từ

nhà này qua nhà khác. Câu hỏi thứ nhất (của Đăm Săn): "ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn
chim ngói! ơ tất cả tôi tớ bằng này! Các ngươi có đi với ta không?". Câu trả lời
thứ nhất (của dân làng): "Không đi sao được! Tù trưởng chúng tôi đã chết, lúa
chúng tôi đã mục, chúng tôi còn ở với ai?"... Câu hỏi thứ hai (của Đăm Săn): "ơ
tất cả dân làng này, các ngươi có đi với ta không? Tù trưởng các ngươi đã chết,
lúa các ngươi đã mục. Ai đi chăn ngựa hãy đi bắt ngựa! Ai giữ voi hãy đi bắt
voi! Ai giữ trâu hãy đi lùa trâu về!". Cứ như thế một cuộc chạy tiếp diễn ra tạo
10


nên sự kết tinh, hòa đồng gắn bó hai bộ tộc của Đăm Săn và Mtao Mxây làm
một.
Lễ mừng chiến thắng nó mang một ý nghĩa kép: vừa chiến thắng kẻ thù
vừa nhân lên gấp đôi sức mạnh của bộ tộc. Nó rộn rã âm thanh của các loại
chiêng có tiếng đồng tiếng bạc cùng với vòng nhạc rung lên làm cho tất cả mọi
giống loài phải im tiếng để nhường chỗ cho một sự kiện trang nghiêm chưa từng
có bao giờ. “Lươn trong hang, giun trong bùn, rắn hổ, rắn mang đều chui lên
nằm trên cao sưởi nắng". Ếch nhái cũng hoan hỉ, vui mừng, cùng kì nhông
ngoài bãi "kêu lên inh ỏi suốt ngày đêm". Không gian cứ mở rộng ra đến cùng
trời cuối đất. Không gian của niềm vui và không gian của danh tiếng Đăm Săn:
"Nhà Đăm Săn đông nghịt khách... Các khách tù trưởng đều từ phương xa đến".
Lại nữa: "Danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nghe
danh tiếng Đăm Săn".
Trong bối cảnh nhộn nhịp tưng bừng ấy, hình tượng Đăm Săn hiện lên
như một vị thần: oai phong về ngoại hình và đầy sức sống tiền tàng nội lực. Lúc
Đăm Săn nằm trên võng nghỉ ngơi "tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất
là một cái nong hoa". Còn khi xuất hiện trước đám đông thì rực rỡ với "Ngực
quấn chéo một tấm mên chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên
minh nghênhngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn
hoa tre". Đăm Săn, trong con mắt của tôi tớ, dân làng, khách khứa là một sức

mạnh vô địch, "một trang tù trưởng mới giàu lên, đang tràn đầy sức trai, tiếng
tăm lừng lẫy".
Về nghệ thuật kể chuyện trong đoạn văn có những đặc điểm nổi bật như
kể chuyện kết hợp với miêu tả tạo nên hứng thứ của cảm giác liền mạch nhưng
lại có điểm dừng, vừa bao quát vừa đi sâu vào từng chi tiết. Ở đây còn một sự
kết hợp thứ hai giữa câu chuyên được kể và người kể nhằm cá thể hóa vai trò
chủ quan vừa tạo không khí đang diễn ra vừa gây được sự đồng cảm của những
người nghe trong hình thức diễn xướng. Có điều chắc chắn là với cách kể ấy, với
ngôn ngữ ấy, ta được lắng nghe một thứ phối hợp của nhiều thể loại, một thứ hòa
thanh của nhiều nhạc cụ, làm thức dậy nhiều giác quan. Sức hấp dẫn của nó là
không thể nào cưỡng nổi. Đó là dấu hiệu của một tác phẩm sử thi đạt tới đỉnh
cao trong sự sáng tạo tuyệt vời.
2.6. Kết hợp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
Nhằm mục đích tăng thêm hiệu quả tích cực cho giờ dạy đồng thời có thể
đánh giá năng lực học sinh thường xuyên định kì sau từng bài giảng, giáo viên
có thể đầu tư thời gian soạn những dạng câu hỏi ngăn, bài tập tái hiện kiến thức
hoặc những câu hỏi mang tính chất chất giải quyết tình huống để đánh giá năng
lực của học sinh
2.6.1. Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan:
Sau mỗi một bài học giáo viên có thể tiến hành kiểm tra nhanh mức độ
tiếp thu bài học của học sinh bằng những câu hỏi trắc nghiệm lựa chọn các
phương án có sẵn, hoặc hình thức câu hỏi đúng sai. Ở dạng kiểm tra này giáo
viên có thể vừa tóm tắt, tái hiện lại nội dung bài học, học sinh cũng có thể ôn
tập, tự kiểm tra lại kiến thức sau một tiết học. Đối với thể loại sử thi với nội

11


dung tác phẩm dài, hình thức văn bản đồ sộ, phương pháp kiểm tra này rất cần
thiết để đánh giá được năng lực tư duy thực tiễn của học sinh.

2.6.2. Hệ thống câu hỏi thông qua câu hỏi mở:
.Với đoạn trích “ Chiến thắng Mtao Mxây” giáo viên có thể đưa ra các
dạng câu hỏi như
- Trận đánh nhau với Mtao Mxây được miêu tả qua những chặng nào?
Để trả lời câu hỏi này, giáo viên có thể gợi ý học sinh bằng những câu hỏi nhỏ :
- Diễn biến của hiệp đấu thứ nhất như thế nào? Thái độ và tài năng của
Đăm Săn và Mtao Mxây được thể hiện thế nào?
- Cảnh hai người múa khiên được miêu tả đối lập như thế nào? Tại sao
Đăm Săn không múa khiên trước mà để Mtao Mxây múa trước?
- Theo em tài nghệ của Mtao Mxây có đúng như hắn khoe khoang hay không?
Hoặc giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu diễn biến của hiệp đấu thứ 2 bằng
các câu hỏi:
- Ở hiệp đấu thứ 2, ai là người múa khiên trước?
- Chi tiết miếng trầu của Hơ Nhị quăng cho Mtao Mxây nhưng Đăm Săn
lại giành được nói lên điều gì?
- Ý nghĩa của chi tiết ông trời mách kế cho Đăm Săn là gì?
Với những phương pháp này chẳng những vai trò của người học trở nên
chủ động tích cực mà bản thân giáo viên cũng tìm thấy hứng thú trong việc
giảng dạy và truyền đạt. Giờ đọc – hiểu sẽ trở nên hấp dẫn, không khuôn sáo,
khô khan, mang lại hiệu quả tích cực hơn.
HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Điểm
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
10A1
41

8 = 19,518% 30 = 73,97% 3= 7,32%
0
10A2 37
6= 16,21%
28= 75,67% 3= 8,12%
0
10A6 43
0
9= 20,93%
27 = 62,79% 7 = 6,28%
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Sử thi là một thể loại văn học khó, tiến trình lịch sử lùi rất xa, lại ảnh
hưởng văn hóa chính của đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy việc cảm thụ được
đúng ý nghĩa và giá trị của một tác phẩm văn học dân gian có ý nghĩa tích cực
trong việc hình thành nên nhận thức của học sinh về môn học là khó. Việc
truyền thụ kiến thức khoa học cho học sinh vùng miền xuôi đồng bằng lại còn
khó hơn. Để dạy và giáo dục ý thức và niềm tự hào về truyền thống bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam đòi hỏi giáo viên phải am hiểu rất nhiều. Mong lãnh đâọ
các cấp cho giáo viên chúng tôi và học sinh có điều kiện giao lưu thực tế để viết
bài thu hoạch. Cấp thêm tài liệu về thể loại văn học này cho các thư viện nhà
trường. Tổ chức các diễn đàn văn hóa về văn học các vùng dân tộc thiểu số cho
học sinh hứng thú nắm bắt rõ hơn về loại hình văn học này.
Với những kinh nghiệm đọc hiểu của cá nhân, tôi mong muốn được đóng
góp thêm một kiến giải nhỏ để bổ sung, hoàn thiện hơn nữa phương pháp dạy
đọc – hiểu văn bản văn học tự sự dân gian. Mong hội đồng khoa học, xem xét
tạo điều kiện góp ý, để tôi hoàn thiện hơn nữa cho việc giảng dạy của mình.
12


Xác nhận của cơ quan đơn vị


Cam đoan của người viết
Tôi cam đoan không sao chép

Lê Thị Châu

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ điển văn học (bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới, H. 2005, trang 1572.
2. Cuốn 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, NXB ĐHQG, Hà
Nội, H. 1998. Trang 290-294)
3. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:
4.. Trung tâm KHXH và NV Quốc gia và UBND tỉnh Đắc Lắc.. Sử thi Tây
Nguyên. Nxb. KHXH, H., 1998
5. Ngô Đức Thịnh. Vùng sử thi Tây Nguyên. In trong “Sử thi Tây Nguyên”
Sdd.. Tr.48
6. Ngô Đức Thịnh. Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Nxb.
KHXH. H., 1993
7. Chúng tôi dùng các khái niệm “sử thi cổ sơ” (Archaic Epic) và “sử thi cổ
điển” (Antique Epic) của E.M. Meletinxky, nhà folklore học nổi tiếng của Nga.
8. Ngô Đức Thịnh, Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên, NXB. Trẻ, 2006
9. E.M. Meletinxky. Từ sử thi cổ sơ đến sử thi cổ điển. NXB Văn học Phương
Đông, M., 1963
10. Phan Đăng Nhật (2003), “Thuộc tính cơ bản của sử thi”, Tạp chí Văn hoá
dân gian, số 5, tr. 3 – 21.
11. Võ Quang Nhơn (1997), Sử thi anh hùng Tây Nguyên, Nxb Giáo dục.
12. Phan Đăng Nhật (1991), Sử thi Êđê, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Sách giáo hoa ngữ văn 10, tập 1, NXBGD

14. Nguyễn Văn Hoàn (chủ biên) (1982), Đam Săn sử thi Êđê, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
15. Phan Đăng Nhật (1996), “Tín ngưỡng dân gian Êđê và nghệ thuật sử thi
Êđê”, Tạp chí Văn học , số 4, tr. 18 – 22.
16. Sách giáo khoa Văn học 10, tập 1, Tr.22, xuất bản năm 2002).


PHỤ LỤC 1
Giáo án thể nghiệm
CHIẾN THẮNG MTAO – MXÂY
( Trích sử thi Đăm San)
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Về kiến thức
Giúp HS hiểu : - Hiểu được cuộc chiến đấu vì danh dự, hạnh phúc và sự
thịnh vượng của cộng đồng là lẽ sống và niềm vui của người anh hùng thời xưa;
- Thấy được nghệ thuật miêu tả, xây dựng nhân vật, sử dụng ngôn ngữ và
các biện pháp nghệ thuật thường dùng trong sử thi anh hùng qua đoạn trích.
2. Về kĩ năng
- Đọc (kể) diễn cảm tác phẩm sử thi.
- Phân tích văn bản sử thi theo đặc trưng thể loại.
- Kĩ năng nhận định, phân tích tình huống trong đời sống.
3. Về thái độ:
- Tạo hứng thú, thói quen cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá những vấn
đề khác của tác phẩm cũng như đối với các tác phẩm văn học khác.
- Giúp học sinh có ý thức sâu sắc hơn về danh dự, ý thức, nhân phẩm.
- Giúp học sinh nâng cao ý thức bồi đắp lý tưởng, lẽ sống đẹp cho bản
thân, biết hành động để thực hiện lý tưởng, lẽ sống đó.
II. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN
1. Giáo viên
- Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ Văn 10 tập 1

-Sách hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ Văn 10
- Soạn giáo án, thiết kế bài học.
- Máy chiếu, tranh ảnh minh họa
2. Học sinh
- Đọc Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập 1
- Sách bài tập Ngữ Văn 10 tập 1
- Soạn bài
III. CÁCH THỨC TIẾN HÀNH
- Phương pháp gợi mở, phương pháp đàm thoại, phương pháp nêu vấn đề
- Phương pháp đọc – diễn cảm
- Phương pháp trực quan
- Thảo luận nhóm
- Giáo viên ra câu hỏi thảo luận cho 4 nhóm học sinh tìm hiểu
IV. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ
Câu hỏi: - Kể tên các thể loại văn học dân gian? Trong các thể loại đó, thể loại
nào chưa từng được học?
- Tại sao lại xếp sử thi vào thể loại tự sự dân gian? Vì sao cũng kể về
người anh hùng dân tộc nhưng không thể xếp Thánh Gióng vào thể loại sử thi?
3. Bài mới:
1


Chúng ta biết một Tấy Nguyên bạt ngàn cà phê, cao hồ tiêu, và Xa nu. vớ
người anh hùng Núp trong kháng chiến. Vùng đất lịch sử kiên cường bất khuất.
Hôm nay chúng ta lại trở về mảnh đất này với những nét văn hóa giân gian cổ
truyền dân tộc. Đoạn trích “ Chiến thắng Mtao, M xây” kể về cuộc chiến của vị
anh hùng chống lại kẻ thù mở mang buôn làng. Đoạn trích để lại cho người đọc
nhiều ấn tượng

Hoạt động của GV- HS
Yêu cầu cần đạt
Hoạt động 1
I. Tìm hiểu chung
Tìm hiểu chung về tác phẩm
1. Sử thi
GV cho học sinh đọc phần tiểu a. Khái niệm
dẫn SGK
Sử thi là tác phẩm tự sự dân gian có quy
HS: Đọc to, rõ ràng
mô lớn sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp
Gv: Các em nhắc lại khái niệm sử xây dựng những hình tượng nghệ thuật
thi ? sử thi có những loại nào?
hoành tráng, hào hùng kể về nhiều biến
GV giới thiệu về đặc trưng của sử cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng
thi ( bảng minh họa 1)
của cư dân thời cổ đại. Sử thi có hình
GV: Sử thi Đăm Săn thuộc vào thức diễn sướng riêng ( hát, kể)
loại sử thi nào?
b. Phân loại
HS: suy nghĩ trả lời
Sử thi thần thoại
GV giới thiệu cho học sinh các Sử thi anh hùng
tiểu loại của sử thi, các tác phẩm
tiêu biểu. Giới thiệu đặc trưng văn
hóa Tây Nguyên qua những số
liệu, hình ảnh minh họa
( bảng minh họa 2)
2. Sử thi Đăm Săn
a. Đề tài:

GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu Viết về đề tài chiến tranh
về sử thi Đăm Săn
Số phận cá nhân thống nhất cao độ với
GV giới thiệu về nguồn gốc và số phận thị tộc
đặc điểm của tác phẩm
b. Tóm tắt nội dung
( Bảng minh họa 3)
GV yêu cầu học sinh tóm tắt nội
dung văn bản
HS suy nghĩ, cử đại diện trình bầy
GV trình chiếu phần tóm tắt trên
máy chiếu
( bảng minh họa 4)
c. Giá trị
Bộ sử thi dài Đăm San (2077 câu), thể
hiện nét lịch sử văn hóa của người đồng
bào Tây Nguyên là tác phẩm tiêu biểu
GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu cho thể loại sử thi anh hùng .
về đoạn trích
3. Đoạn trích.
a. Vị trí
- Nêu vị trí của đoạn trích?
Chiến thắng Mtao MXây ở nửa đầu của
GV hướng dẫn HS đọc văn bản và tác phẩm kể lại diễn biến cuộc chiến của
2


chia bố cục
Đăm Săn với tù trưởng Mtao Mxây nhằm
Gv yêu cầu học sinh đóng vai đọc cứu vợ và mở rộng đất đai

1 phần văn bản
b. Bố cục
Thể hiện giọng đọc và kể theo các - Phần một (từ đầu cho đến Chúng ta ra
vai : Đăm Săn, Mtao Mxây, dân về nào !): Cuộc giao đấu giữa Đăm Săn
làng, tôi tớ và người kể chuyện.
và Mtao Mxây
- Giọng Đăm Săn : quyết liệt, hùng - Phần hai (còn lại) : Cảnh ăn mừng
tráng.
chiến thắng của Đăm Săn cùng dân làng
- Giọng Mtao Mxây : khôn khéo,
mềm mỏng.
- Giọng dân làng : tha thiết.
- giọng người kể chuyện linh hoạt

Hoạt động 2
GV hướng dẫn học sinh đọc hiểu II. Đọc – hiểu văn bản
1. Cuộc giao đấu giữa Đăm Săn và
văn bản.
Mtao Mxây
GV cho học sinh đối sánh hai a. Đăm Săn thách đấu
(từ đầu cho đến Ngươi cứ múa đi, ơ
nhân vật trong cuộc giao đấu
diêng !)
Mtao Mxây
HS chú ý vào đoạn văn đầu tiên Đăm Săn
- Đến tận chân cầu - Sợ hãi nhưng vẫn
miêu tả Đăm Săn thách đấu
thang thách đấu
tìm cách trêu tức
GV đặt câu hỏi thảo luận

Đăm Săn
- Khi Đăm Săn đến nhà kẻ thù,
chàng đã thách đấu ra sao? Thái - Dùng lời lẽ khích - Sợ Đăm Săn đánh
không
dám
độ của Mtao Mxây như thế nào? dụ kẻ thù: dọa đốt lén
sàn, đốt nhà
xuống.
Nhận xét về hai nhân vật?
-> Tuyên chiến với
HS trình bầy
thái độ quyết liệt
Giáo viên tổng hợp, đánh giá
- Coi thường Mtao - Phải giao hẹn trước
tuyên
bố khi ra khỏi nhà
Nhóm 2: Trận đánh diễn ra như Mxây,
không đánh kẻ thù
thế nào? Có mấy hiệp?
khi đang đi xuống
- Diễn biến của hiệp đấu thứ nhất -> Đăm Săn dụ được -> Hình dáng dữ tợn,
như thế nào? Thái độ và tài năng kẻ thù ra khỏi nhà để trang bị vũ khí nhưng
của Đăm Săn và Mtao Mxây được quyết đấu, thái độ tự tần ngần do dự, hèn
tin, đường hoàng, nhát, run sợ
thể hiện thế nào?
GV đặt câu hỏi để học sinh thảo quân tử
b. Cuộc chiến đấu của Đăm Săn và
luận
- Cảnh hai người múa khiên được Mtao Mxây
Đăm Săn

miêu tả đối lập như thế nào? Tại Mtao Mxây
sao Đăm Săn không múa khiên - Mtao Mxây múa - giữ thái độ bình
trước mà để Mtao Mxây múa khiên trước, tỏ ra kém tĩnh thản nhiên =>
cỏi “khiên hắn kêu bản lĩnh một tù
trước?
- Theo em tài nghệ của Mtao lạch cạch như quả trưởng
Mxây có đúng như hắn khoe mướp khô”
3


khoang hay không?
HS theo dõi, trả lời.
- Ở hiệp đấu thứ 2, ai là người
múa khiên trước?
- Chi tiết miếng trầu của Hơ Nhị
quăng cho Mtao Mxây nhưng
Đăm Săn lại giành được nói lên
điều gì?
- Ý nghĩa của chi tiết ông trời
mách kế cho Đăm Săn là gì?
GV yêu cầu HS nhóm 3 nhận
xét, so sánh về hai nhân vật trong
cuộc chiến đấu.
- Qua cuộc chiến đấu người đọc
nhận thấy Mtao Mxây là người
như thế nào? Tại sao tác giả dân
gian chỉ miêu tả ngoại hình của
Mtao Mxây mà không miêu tả
ngoại hình của Đăm Săn ở đoạn
này?

GV giới thiệu về nét văn hóa
người Tây Nguyên với tư duy của
thị tộc nguyên thủy ( Bảng minh
họa 6)
- Cuộc chiến của Đăm Săn
có phải chỉ là cuộc chiến đòi lại
vợ hay không? Hay còn vì lí do
khác, lí do đó là gì?
- Em nhận xét gì về ý nghĩa cuộc
chiến đấu giữa Đăm Săn và Mtao
Mxây?
Giáo viên củng cố kiến thức tiết 1
bằng hệ thống câu hỏi
(Phụ lục 3)
( Hết tiết 1, chuyển tiết 2)
GV giảng giải
Cuộc chiến đấu của Đăm Săn
nhằm mục đích mở mang bờ cõi

- Mtao Mxây “ bước - Đam San múa
thấp bước cao chạy “một lần xốc tới,
hết bãi tây sáng bãi chàng vượt một đồi
đông. Hắn vung đao tranh …. Chàng
chém phập một cái chạy vun vút qua
nhưng chỉ trúng vào phía đông qua phía
một cái chão cột trâu”. tây”.
-> lộ rõ sự kém cỏi -> Sức mạnh uy
nhưng Mtao Mxây dũng của người anh
vẫn có những thái độ hùng
huyênh hoang.

Hiệp đấu thứ 2
Đăm Săn
Mtao Mxây
- Đăm Săn múa khiên - hoảng hốt chạy
trước
bước thấp bước cao
- Đam San giành được - vội cầu cứu Hơ
miếng trầu => sức khoẻ Nhị quăng cho
tăng lên => đuổi theo miếng trầu.
và đâm trúng kẻ thù
nhưng cả hai lần đều
không thủng =>cầu cứu
thần
linh.
- Nhờ có ông trời giúp - kẻ thù ngã lăn ra
sức => Đam San chộp đất cầu xin “Ơ
ngay một cái chầy mòn diêng! Ơ diêng! Ta
ném cúng vào vành tai làm lễ cầu phúc cho
kẻ thù
diêng một trâu, một
- Đam San cắt đầu Mtao voi”.
Mxây
bêu
ngoài -> Mtao Mxây vừa
đường”
bất tài vừa hèn kém
=> cuộc đọ sức kết
thúc.
Nhận xét
- Về hệ thống nhân vật:

+ Tác giả dân gian miêu tả ngoại hình
của Mtao Mxây cụ thể nhưng đằng sau
vẻ ngoài dữ tợn là sự hèn nhát, bất tài
+ Đăm Săn chỉ được miêu tả qua hành
động múa khiên. Chàng múa khiên hai
lần. Lầm sau hùng tráng hơn lần trước
=> tác giả nhấn mạnh sự hùng tráng, sức
mạnh của Đăm Săn, sự kém cỏi của
Mtao Mxây
+ Nhân vật Hơ Nhị và ông Trời ( nhân
4


làm củng cố uy danh. Sau chiến
thắng chàng không sát hại dân
làng mà chỉ thu phục họ, để họ tự
nguyện thành tôi tớ cho mình. Đây
là khát vọng hòa bình, ấm no của
nhân dân Tây Nguyên
Hoạt động 1
Hướng dẫn đọc hiểu văn bản
GV gợi ý học sinh tìm hiểu phần
thứ 2 của văn bản
GV đặt câu hỏi cho HS nhóm 4
Ở phần này, xuất hiện thêm những
nhân vật nào?
- Các sự kiện chính của phần này?
Hs theo dõi trả lời
GV tổng hợp
Phần này xuất hiện thêm dân làng,

tôi tớ, những nhân vật quần chúng
hẫy thuẫ cho nhân vật chính thể hiện
mối quan hệ của người anh hùng với
nhân dân
2 sự kiện được nói đến
+ Đăm Săn kêu gọi dân làng theo
mình
+ Đăm Săn cùng tôi tớ ăn mừng
chiến thắng

- Việc Đăm Săn kêu gọi dân làng
của Mtao Mxây đi theo mình
được kể như thế nào?
- Đăm Săn gõ cửa nhà dân làng
mấy lần? sau những lần gõ cửa đó,
Đăm Săn đã nói những gì? Ý
nghĩa của những lời nói đó?
Hs suy nghĩ, cử đại diện trình bầy.
GV gọi học sinh đọc đoạn Đăm
Săn cùng dân làng ăn mừng chiến
thắng.
- Những chi tiết nào miêu tả cảnh
ăn mừng chiến thắng của Đăm
Săn?

- Quang cảnh đó thể hiện Đăm Săn
là một tù trưởng như thế nào?

vật phù trợ) đều đứng về phía Đăm Săn
chứng tỏ anh được lòng trời, đại diện cho

ước mơ khát vọng của nhân dân
- Ý nghĩa cuộc chiến đấu:
Cuộc chiến đấu của Đam San với mục
đích giành lại gia đình, nhưng lại có ý
nghĩa cộng đồng .Đòi lại vợ chỉ là cái cớ
là nảy sinh mâu thuẫn giữa các bộ tộc
dẫn đến chiến tranh mở rộng bờ cõi làm
nổi uy danh của cộng đồng.

2. Cảnh ăn mừng sau chiến thắng

a.Đăm Săn kêu gọi dân làng và tôi tớ
của Mtao Mxây đi theo mình (từ Đăm
Săn (nói với tôi tớ Mtao Mxây) cho
đến Chúng ta ra về nào !)
- Đăm Săn gõ cửa nhà dân làng Mtao
Mxây 3 lần
- Kêu gọi dân làng đi với mình
- Dân làng đáp lại hưởng ứng
-> ba lần hỏi đáp cho thấy cuộc đối thoại
giữa người anh hùng và nhân dân. Thái
độ của mọi người là hưởng ứng, đồng ý
xem Đăm Săn là tù trưởng anh hùng của
họ.
Ba lần hỏi đáp có ý nghĩa
+ Thể hiện sự thống nhất giữa quyền lợi
và khát vọng cộng đồng.
+ Thể hiện lòng yêu mến của tập thể với
cá nhân anh hùng
+ mong muốn xây dựng một cộng đồng

to lớn hơn, giàu mạnh hơn, ước mơ một
cuộc sống hòa bình, ấm no.
=> người anh hùng trong sử thi được
toàn thể cộng đồng suy tôn tuyệt đối.
b, cảnh ăn mừng chiến thắng
5


- Tìm những chi tiết miêu tả ngoại
hình, hành động của Đăm Săn
trong lễ ăn mừng chiến thắng?
GV tích hợp kiến thức văn hóa,
giới thiệu những tranh ảnh về
trang phục, nơi ở, những nét sinh
hoạt văn hóa của nhân dân Tây
Nguyên
( Bảng minh họa 7)

* cảnh ăn mừng chiến thắng
được miêu tả thông qua các chi tiết:
- Qua lời Đăm Săn:
+ Rượu năm ché, trâu dâng một con
+ Rượu bảy ché, trâu bẩy con
+ Rượu bảy ché, lợn thiến bẩy con
- Chiêng, trống to kêu rộn rã, dây cồng
dây chiêng không lúc nào vắng bớt treo
trên giá
- Các chuỗi thịt trâu, thịt bò treo đầy nhà,
chậu thau âu đồng nhiều không còn chỗ
để.

- Nhà Đam San đông nghịt khách. Tôi tớ
- Nhận xét về vẻ đẹp của anh hùng chật ních cả nhà. Mở tiệc ăn uống linh
Đăm Săn?
đình.
=> lời kể khách quan nhấn mạnh sự giàu
có, hùng mạnh của nhân vật Đăm Săn
* Đam San trong bữa tiệc mừng chiến
thắng:
+ Trang phục : ngực quấn chéo một mềm
chiến, mình khác một tấm áo chiến, tai
đeo nụ, đủ giáo gươm,
+ Ngoại hình: Chàng nằm trên võng, tóc
thả trên sàn , hứng tóc chàng là một cái
nong
hoa.
Đôi mắt long lanh như mắt chim nghếch
ăn hoa tre, bắp chân to bằng cây xà
ngang, bắp đùi to bằng ống bễ
-> vẻ đẹp trí tuệ, sức vóc hơn người
+ Hành động : Chàng uống không biết
say, ăn không biết no, chuyện trò không
biết
chán…
+ Khí chất: Cả miền Ê đê – Ê ga ca ngợi
Đam San là một dũng tướng chắc chết
mười mươi cũng không lùi bước, Đăm
Săn vốn đã ngang tàng từ trong bụng mẹ
=> Hình ảnh Đăm Săn rất đẹp, oai
phong, dũng mãnh mang khí phách của
một tù trưởng hùng mạnh. Đăm Săn được

miêu tả bằng cái nhìn ngưỡng mộ của
nhân dân. Đó là vẻ đẹp và sức mạnh của
người anh hùng, thể hiện sức mạnh của
cả một thi tộc, thống nhất niềm tin của cả
cộng đồng.
- Cảnh ăn mừng chiến thắng: con người
6


Hoạt động 2
GV hướng dẫn học sinh tổng kết
văn bản
GV hướng dẫn tìm và phân tích
những đặc sắc nghệ thuật qua đoạn
trích

Nêu khái quát những đặc sắc nghệ
thuật của văn bản?
- Nội dung cơ bản và ý nghĩa
đoạn trích?

Ê-đê và thiên nhiên Tây Nguyên đều
tưng bừng trong men say chiến thắng. Ở
đây, nhân vật sử thi Đăm Săn thực sự có
tầm vóc lịch sử khi được đặt giữa một
bối cảnh rộng lớn của thiên nhiên, xã hội
và con người Tây Nguyên.
III. Tổng kết
1. Nghệ thuật
- Tổ chức ngôn ngữ phù hợp với thể loại

sử thi: ngôn ngữ của người kể biến hóa
linh hoạt, hướng tới nhiều đối tượng;
ngôn ngữ đối thoại được khai thác ở
nhiều góc độ.
- Sử dụng có hiệu quả lối miêu tả song
hành, đòn bẩy, thủ pháp so sánh, phóng
đại, đối lập, tăng tiến,…
2. Nội dung
Đoạn trích khẳng định sức mạnh và ca
ngợi vẻ đẹp của người anh hùng Đăm
Săn – một người trọng danh dự, gắn bó
với hạnh phúc gia đình và thiết tha với
cuộc sống bình yên, phồn vinh của thị
tộc, xứng đáng là người anh hùng mang
tầm vóc sử thi của dân tộc Ê-đê thời cổ
đại.

4. Củng cố
- Đặc trưng của thể loại sử thi?
- Đặc điểm các nhân vật sử thi
Tóm
tắt
đoạn
trích
- Nghệ thuật miêu tả trong đoạn trích.
- Ý nghĩa của văn bản làm sống lại quá khứ hào hùng của người Ê đê Tây
Nguyên
thời
cổ
đại.

5. Dặn dò: HS học bài cũ. Soạn bài: Truyện An Dương Vương và Mị Châu
Trọng Thủy
PHỤ LỤC 2
BẢNG MINH HỌA
Bảng minh họa 1
Đặc trưng của sử thi:
+ Ra đời và phản ánh thời kì ấu thơ của dân tộc- tộc người. Thể hiện những bức
tranh xã hội rộng lớn cùng với những sự kiện lịch sử trọng đại
+ Biểu dương chiến tích của những anh hùng dũng cảm, có phẩm chất tốt đẹp,
đại diện cho lợi ích cộng đồng.
+ Ngôn ngữ trang trọng, ngợi ca. Nghe hát – kể sử thi là một sinh hoạt văn
hoá tập thể và mọi giá trị của sử thi, do đó, là thành tựu chung của cả cộng
đồng.
7


Bảng minh họa 2
Người ta chia làm 2 loại sử thi:
* Sử thi thần thoại: Đẻ đất đẻ nước (Mường), Aúm ệt luông (Thái), Cây
nêu thần (Mơ nông)…
* Sử thi anh hùng: Đăm Săn, Đam Di, Xinh Nhã, Khinh Dú (Ê Đê), Đam Noi
(Ba na)…
- Về sử thi Tây Nguyên:
Trong lúc sử thi ở nhiều nước là rời rạc, lẻ tẻ thì ở Việt Nam, nó lại quần
tụ thành vùng, tiêu biểu là ở Tây Nguyên. Người ta gọi là vùng sử thi Tây
Nguyên. Sử thi Tây Nguyên, mà mỗi tộc người gọi tên khác nhau: khan (Ê Đê),
hơ ri (Gia rai), hơ mon (Ba na), Oùt nơ rông ( Mơ nông).. trở thành một đặc
trưng thể loại tiêu biểu cho vùng văn hoá Tây Nguyên. Vùng sử thi Tây Nguyên
có căn nguyên từ kinh tế- xã hội Tây Nguyên như: xã hội tiền giai cấp, kinh tế
nương rẫy…

Sử thi anh hùng Tây Nguyên có 3 đề tài chính: hôn nhân, chiến tranh và
lao động xây dựng. Đề tài chiến tranh quan trọng hơn cả, là đề tài trung tâm
của sử thi anh hùng và thu hút các sự kiện thuộc 2 loại đề tài kia.
Bảng minh họa 3
Sử thi Đăm Săn và trích đoạn “Chiến thắng Mtao Mxây” là một trong
những thiên sử thi anh hùng nổi tiếng của dân tộc Ê Đê (Việt Nam). Tên đầy đủ
là Bài ca chàng Đăm Săn (tiếng Ê Dê là Klei khan Y Đăm Săn). Sử thi Đăm
Săn lần đầu tiên được L.Sabatier (một viên công sứ người Pháp tại Tây
Nguyên) phát hiện vào năm 1923-1924. Sabatier đã dịch sử thi này ra tiếng Pháp
và xuất bản ở Paris năm 1928. Năm 1959, sử thi này được giới thiệu trên tạp chí
Văn nghệ quân đội và được nhà xuất bản Văn hoá in song ngữ Việt – Ê Đê (bản
dịch của Đào Tử Chí) với tên gọi là Bài ca chàng Đăm Săn. Năm 1988, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội đã công bố văn bản sưu tầm và dịch sử thi Đăm Săn rất
công phu của Nguyễn Hữu Thấu.
Bảng minh họa 4
Tóm
tắt
nội
dung
sử
thi
Đăm
Săn
Sử thi Đăm Săn có 7 chương khúc tóm tắt như sau:
1- Chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí theo luật tục chuê- nuê, đòi lấy Đăm Săn
làm chồng, Đăm Săn không chịu.
2- Đăm Săn bỏ về nhà chị là Hơ Aâng, Trời làm anh chết đi sống lại nhiều
lần và anh tự thân cứu được Hơ Nhí anh chịu thành hôn với hai người.
3- Tù trưởng Mtao Grư (tù trưởng Ó) cướp Hơ Nhí. Đăm Săn đánh lại,
giành được vợ, bắt làm tù binh.

4. Đăm Săn đi phát rẫy, dọn ruộng, Mtao Mxây (tù trưởng Sắt) lại cướp
vợ anh, anh giết được kẻ thù, thành một tù trưởng giàu mạnh.
5. Đăm Săn chặt cây thần. Cây đổ, hai chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí chết,
Đăm Săn lên trời toan chém đầu trời, được Trời bày phép làm cho vợ sống lại.
6. Đăm Săn đi bắt Nữ thần Mặt Trời về làm vợ, bị từ chối. Anh chết chìm
trong rừng đất nhão.
7. Vía của Đăm Săn hoá thành con ruồi, bay vào miệng Hơ Aâng, Hơ Âng
thụ thai sinh được một con trai, cũng đặt tên là Đăm Săn. Đó là Đăm Săn cháu
8


gọi Đăm Săn đã mất là cậu. Đăm Săn cháu tiếp tục nối dây với chị em Hơ Nhí
và Hơ Bhí.
Bảng minh họa 5
Đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây thuộc phần giữa của tác phẩm: Sau khi về
làm chồng hai chị em tù trưởng Hơ Nhị và Hơ Bhị, Đam Săn trở nên một tù
trưởng giàu có và uy danh lừng lẫy. Các tù trưởng Kên Kên(Mtao Grứ) và tù
trưởng Sắt (Mtao Mxây) lừa lúc Đam Săn cùng các nô lệ lên rẫy, ra sông lao
động sản xuất đã kéo người tới cướp phá buôn làng của chàng và bắt Hơ Nhị về
làm vợ. Cả hai lần ấy Đam Săn đều tổ chức đánh trả và chiến thắng, vừa cứu
được vợ lại vừa sáp nhập được đất đai, của cải của kẻ địch khiến cho oai danh
của chàng càng lừng lẫy, bộ tộc càng giàu có và đông đúc hơn.
Đoạn trích ngợi ca cuộc chiến đấu của Đam Săn. Đó là cuộc chiến đấu vì danh
dự, vì hạnh phúc gia đình và hơn nữa vì cuộc sống bình yên và sự phồn vinh của
thị tộc. Đoạn trích này tiêu biểu cho những đặc trưng của thể loại sử thi anh
hùng.
Bảng minh họa 6
Cuộc chiến giữa Đam Săn và Mtao Mxây là cuộc chiến tranh mang tính
chất thống nhất cộng đồng. Nó không phải là một cuộc chiến tranh xâm lược
nhằm mục đích tàn sát, cướp bóc và chiếm giữ. Chính vì thế mà thái độ của nô

lệ ở cả hai phía đối với việc thắng thua của hai tù trưởng cũng có những nét
riêng:
- Ở phía Mtao Mxây: Sau khi tù trưởng của mình thất bại, đông đảo nô lệ đều
tâm phục và nghe theo lời vị tù trưởng mạnh hơn (“không đi sao được!… người
nhà giàu cầm đầu chúng tôi nay đã không còn nữa”).Thái độ và hành động của
đoàn người này chứng tỏ họ luôn mơ ước được trở thành một tập thể giàu có và
hùng mạnh.Họ luôn mơ ước có được một người lãnh đạo dũng cảm, tài ba.
- Ở phía Đam Săn: Dân làng tưng bừng náo nhiệt chào đón vị anh hùng của
mình mới chiến thắng trở về. Họ đi lại sửa soạn vui mừng tấp nập không chỉ để
mừng buôn sóc được mở mang, được hùng mạnh và giàu có mà còn để tiếp đón
những người nô lệ mới bằng sự chân thành và hoà hợp (“… Các chàng trai đi lại
ngực đụng ngực. Các cô gái đi lại vú đụng vú. Cảnh làng một tù trưỏng nhà giàu
trông sao mà vui thế!”).
Đoạn trích tuy miêu tả cuộc chiến tranh giữa các thị tộc trong thời nguyên
thuỷ, thế nhưng lại không chú trọng miêu tả cảnh chết chóc đau thương. Trái lại,
tác giả dân gian chủ yếu miêu tả cảnh chiến thắng tưng bừng của phía Đam Săn..
Lựa chọn cách thể hiện nghệ thuật này, tác giả dân gian đã nhận ra tính tất yếu
của cuộc chiến tranh thị tộc – đó là cuộc chiến tranh không kìm hãm sự phát
triểu của xã hội Ê-đê, mà trái lại, nó giúp những tập thể lẽ tẻ, rời rạc tập hợp
thành những tập thể lớn hơn, mạnh hơn. Đây cũng là cách để dân gian ngợi ca
tâm vóc và sứ mệnh lịch sử của người anh hùng.
Bảng minh họa 7
Sử thi Đăm Săn

9


×