Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tìm hiểu vẻ đẹp sông hương trong đoạn trích ai đã đặt tên cho dòng sông của tác giả hoàng phủ ngọc tường tích hợp với môn địa lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.95 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................3
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM................................................4
1. Cơ sở lý luận..............................................................................................4
2. Thực trạng của vấn đề...............................................................................6
3. Những giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề....................................6
3.1. Cảm hứng sáng tác:............................................................................6
3.2. Vẻ đẹp sông Hương............................................................................6
4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường ..................................................................................14
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................15
1. Kết Luận..................................................................................................15
2. Kiến nghị , đề xuất:.................................................................................16
2.1. Đối với nhà trường:..........................................................................16
2.2. Đối với Sở GD& ĐT:.......................................................................16

1


Cầu Tràng Tiền

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, quê gốc ở
làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ơng là
người gắn bó chặt chẽ với xứ Huế và có vốn hiểu biết sâu trên nhiều lĩnh vực
nhất là lịch sử, địa lý, văn hóa Huế. Tác giả là nhà văn chuyên viết về thể loại


bút kí [5]. Ơng từng được nhà văn Ngun Ngọc đánh giá là “một trong mấy
nhà văn viết kí hay nhất của văn học nước ta hiện nay”. Nét đặc sắc trong
phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, với những liên tưởng mạnh mẽ và một lối
hành văn mê đắm tài hoa.
Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là bài kí xuất sắc được viết tại Huế ngày
04/01/1981, sau đó dược in trong tập sách cùng tên. Đoạn trích tập trung nói
về cảnh quan thiên nhiên sông Hương, tuy nhiên một phần cho ta thấy được
sự gắn bó của sơng Hương với văn hóa xứ Huế. Để giúp học sinh hiểu biết
2


thêm về dịng sơng Hương qua tác phẩm, đồng thời trau dồi và vận dụng một
cách hiệu quả kiến thức của bộ môn Địa lý, thấy được sự cần thiết và hấp dẫn
của các môn học Ngữ văn, Địa lý, từ đó các em sẽ u thích những mơn học
này. Giúp học sinh phát huy suy nghĩ, tư duy sáng tạo trong học tập và ứng
dụng trong thực tiễn, ý thức được trách nhiệm về bảo vệ môi trường và thêm
yêu quê hương đất nước. Là một giáo viên dạy văn tơi rất tâm đắc với tác
phẩm và u thích dịng sơng Hương thơ mộng của một vùng văn hóa xứ sở,
và chỉ tiếp cận sông Hương là một sản phẩm của văn học qua những trang
sách thì cịn khá trừu tượng, nên cần cụ thể hóa nó qua bộ mơn Địa lý để học
sinh có cái nhìn về cảnh sơng Hương nói riêng và vẻ đẹp xứ Huế nói chung
một cách trực quan, sinh động hơn. Đó là lý do tơi chọn đề tài “Tìm hiểu vẻ
đẹp sơng Hương trong đoạn trích Ai đã dặt tên cho dịng sơng? của tác
giả Hồng Phủ Ngọc Tường tích hợp với bộ mơn Địa lý” làm nội cho sáng
kiến để có dịp trao đổi với các bạn đồng nghiệp dạy bộ môn Ngữ văn nói
chung và bài kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”
2. Mục đích nghiên cứu.
Thực hiện sáng kiến này tơi biết đã có nhiều bài viết, nhiều bài nghiên
cứu hay về tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?’’ (Tuy nhiên trong phạm

vi nghiên cứu này từ thực tế giảng dạy, tìm tịi của bản thân tự đúc rút ra để
viết), do đó thật khó để cá nhân tơi có thể tìm tịi, phát hiện được những ý
tưởng, nhận định và kinh nghiệm sâu sắc, độc đáo. Nhận thức được điều đó,
từ ý tưởng đó nên trong phạm vi sáng kiến tôi chỉ đi sâu nghiên cứu tác phẩm
với mục đích: Tìm hiểu vẻ đẹp sơng Hương kết hợp với kiến thức bộ môn Địa
lý để từ đó thấy được vẻ đẹp tư tưởng của tác phẩm.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Sáng kiến chỉ tập trung nghiên cứu về vẻ đẹp sơng Hương ở các góc
nhìn khác nhau, từ đó để thấy cách nhìn nhận cuộc sống, thiên nhiên và con
người cũng như quan niệm nghệ thuật của tác giả.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện sáng kiến này tôi đã vận dụng các phương pháp sau:
3


* Phương pháp thống kê: Chọn lựa và thống kê các ngữ liệu, dẫn chứng tiêu
biểu trong tác phẩm để phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
* Phương pháp phân tích, so sánh: Phân tích ngữ liệu kết hợp với đối chiếu,
so sánh nhằm khơi sâu, mở rộng cách tìm hiểu để thấy được ý nghĩa của vấn
đề.
* Thu thập thông tin, đúc rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy ở trường THPT
Ngọc Lặc năm học 2016 - 2017 và năm học 2017 - 2018.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận.
*Sơng Hương dưới góc nhìn địa lý: Sơng Hương có hai nguồn chính bắt
nguồn từ dãy núi Trường Sơn, dịng chính là Tả Thạch dài khoảng 67km, bắt
nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, ven khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy
theo hướng Tây Bắc với 55 thác nước hùng vĩ, qua thị Trấn Nam Đơng rồi sau
đó hợp lưu với dịng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng (Khoảng 3km về phía

khu vực lăng Minh Mạng). Hữu Trạch dài khoảng 60 km là nhánh phụ, chảy
theo hướng Bắc, qua 14 thác và vượt qua Phà Tuần đền ngã ba Bằng Lãng,
nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương [4].
Từ Bằng Lãng đến cửa sông Thuận An, sông Hương dài 33km và chảy
rất chậm ( bởi vì mực nước sơng khơng cao so với mực nước biển), khi chảy
quanh dọc chân núi Ngọc Trản, sắc nước sông Hương xanh hơn - đây là địa
điểm Điện Hịn Chén, tại đây có vực rất sâu. Sông Hương được cho là rất đẹp
khi chiêm ngưỡng nó từ thượng nguồn và khi chảy quanh các núi, xuyên qua
các cánh rừng rậm của hệ thống thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua
các làng mạc như Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Bao Vinh…Nó từng là
nguồn cảm hứng của du khách khi họ đi thuyền dọc theo dịng sơng để nhìn
ngắm phong cảnh và lắng nghe những điệu hát truyền thống.
Các cơng trình kiến trúc hai bên bờ sơng gồm có thành qch, vườn
tược, chùa chiền, tháp và đền đài…ánh phản chiếu trên dòng nước khiến con
sơng mang theo nhiều chất thơ và tính nhạc.

4


Bản đồ Sơng Hương
* Sơng Hương dưới góc nhìn văn học:
Theo sách cổ, trước khi mang tên sơng Hương, nó cịn có nhiều tên gọi
khác nhau: Sách “Dư địa trí” của Nguyễn Trãi (1435) viết là sơng Linh, sách
“Ơ chậu cận lục” do Dương văn An nhuận xác năm 1555 sơng có tên là Kim
Trà, từ 1469 dưới thời Lê Thánh Tông, Kim Trà là tên của một huyện ở phủ
Triệu Phong thuộc Thừa Tuyên - Thuận Hóa đến năm 1558 được đổi tên là
Hương Trà. Sông Hương không chỉ là một dòng chảy tự nhiên mà là một sinh
thể có tâm hồn, lúc như mơt cơ gái Di-gan phóng khống và man dại, lúc như
người mẹ phù sa, có lúc như thiếu nữ tình tứ, dịu dàng, chung thủy [1].
Như vậy ở mỗi góc độ sơng Hương được đánh giá, cảm nhận khác

nhau. Vì vậy để học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của sông Hương một cách
trực quan, việc kết hợp với bộ môn Địa lý sẽ giúp học sinh cảm nhận dịng
chảy sơng Hương cụ thể hơn, sinh động hơn.

5


2. Thực trạng của vấn đề
Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là một trong những bài kí xuất sắc của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, là một trong những tác phẩm thể hiện nét đặc sắc
của phong cách nghệ thuật của tác giả: kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí trí và trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và miêu tả nhiều chiều, được tổng hợp từ vốn
kiến thức sâu rộng. Tác phẩm đã đưa vào chương trình Ngữ văn THPT gần
mười năm, đây là một quãng thời gian khá dài nhưng đối với mơt tác phẩm
hay, có liên quan đến một danh lam thắng cảnh của đất nước – sông Hương
xứ Huế, thì cũng chưa thể khám phá hết vẻ đẹp và giá trị của nó. Mơn Ngữ
Văn là mơn học đặc thù, yêu cầu học sinh đọc - hiểu và phát huy trí tưởng
tượng của các em là một điều, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số ở miền
núi, đầu vào thấp, điều kiện để học tập còn hạn chế, khơng có điều kiện đến
Huế để cảm nhận sông Hương.
Như vậy khi học xong tác phẩm này học sinh cịn mơ hồ, trừu tượng về
sơng Hương - một dịng sơng của vùng văn hóa xứ sở. Cho nên tôi mạnh dạn
áp dụng đề tài hướng dẫn các em tìm hiểu vẻ đẹp sơng Hương tích hợp với
bộ mơn địa lý mong rằng để có thể nâng cao chất lượng dạy học ở tác phẩm
này và học sinh có cái nhìn trực quan, sinh động hơn về sơng Hương.
3. Những giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề.
3.1. Cảm hứng sáng tác:

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở
trường về thể loại bút kí, tùy bút, lời văn của Hồng Phủ Ngọc Tường được

cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ sang trọng, đậm chất trữ tình của cái tơi un
bác, tài hoa. Ơng là một trí thức u nước, đã từng gắn bó với cuộc kháng
chiến chống Mĩ gian khổ, anh hùng của dân tộc. Để rồi, sau 1975 khi đất nước
thống nhất, ơng đã chắp bút viết bài kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”
3.2. Vẻ đẹp sơng Hương

3.2.1 Sơng Hương ở thượng lưu:
* Sơng Hương được ví như “bản trường ca của rừng già”, ở nơi khởi nguồn
của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sơng tốt lên

6


vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, vừa hùng tráng vừa trữ tình, như bản
trường ca bất tận của thiên nhiên, mãnh liệt qua những thác ghềnh thác, cuộn
xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn, và có lúc trở nên dịu dàng và say đắm
giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng [5].
* Sơng Hương được hình dung như “cơ gái Di-gan phóng khống và man
dại”, rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và
trong sáng. Đây là một liên tưởng thú vị và độc đáo, những cô gái Bô - hê miêng thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát, nhảy múa có vẻ đẹp man dại
đầy quyến rũ. Đó là một sức mạnh bản năng của người con gái, sức mạnh ấy
được chế ngự bởi cấu trúc địa lí lãnh thổ để đi ra khỏi rừng.
* Sông Hương được nhân hóa như “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa
xứ sở” [5]. Hồng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một cái nhìn sâu sắc hơn về
sơng Hương, xem nó như một “đấng sáng tạo” đã góp phần tạo nên, gìn giữ
và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở. Sơng Hương khơng chỉ
đẹp mà cịn chính là một khơi nguồn, là sự bắt đầu cuả khơng gian văn hóa văn hóa Huế, có lẽ khơng có sơng Hương thì khó có thể có văn hóa Huế ngày
nay. Chính vì vậy, từng ngày từng giờ sơng Hương vươn mình chảy ra cửa
Thuận thì cũng là từng ngày từng giờ sơng Hương duy trì và bồi đắp “phù
sa” cho cả một vùng văn hóa thẩm mĩ đã được hình thành ở hai bên bờ sơng.

* Mơn Địa lí: Để học sinh có có cái nhìn cụ thể hơn về dịng chảy của sơng
Hương ở thượng lưu tơi sẽ cung cấp cho các em kiến thức về đặc điểm địa
hình Việt nam qua Chương trình địa lý lớp 12, bài 6 “Đất nước nhiều đồi
núi” sách giáo khoa trang 29 - 30: Cấu trúc địa hình nước ta khá đa dạng, địa
hình nước ta có cấu trúc cổ được vận động Tân kiến tạo làm trẻ lại, tạo nên sự
phân bậc rõ rệt theo độ cao, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đơng Nam và phân
hóa đa dạng [4]. Cấu trúc địa hình gồm 2 hướng chính:
- Hướng Tây Bắc - Đông Bắc thể hiện rõ nét từ hữu ngạn sơng Hồng đến dãy
Bạch Mã
- Hướng vịng cung thể hiện ở vùng núi Đông Bắc và khu vực Nam Trung Bộ
(Trường Sơn Nam).

7


Khu vực đồi núi: Địa hình núi chia thành 4 vùng là: Đông Bắc, Tây
Bắc, Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam. Địa hình Đơng Bắc cũng thấp dần
từ tây bắc xuông đông nam. Những đỉnh cao trên 2000m nằm trên vùng
Thượng nguồn sông Chảy. Giáp biên giới Việt - Trung là các khối núi đá vôi
đồ sộ ở Hà Giang, Cao Bằng, còn ở trung tâm là vùng đồi núi thấp có độ cao
trung bình 500 - 600m. Vùng núi Tây Bắc nằm giữa sông Hồng và sông Cả,
cao nhất nước ta với 3 dải địa hình chảy cùng hướng tây bắc - đơng nam. Phía
đơng là dãy núi cao đồ sộ Hoàng Liên Sơn giới hạn từ biên giới Việt - Trung
tới khuỷu sơng Đà, có đỉnh Phanxipăng (3143m); phía tây là địa hình núi
trung bình của các dãy núi chạy dọc biên giới Việt - Lào từ Khoan La San
đến sông Cả; ở giữa thấp hơn là các dãy núi, các sơn nguyên và cao nguyên
đá vôi từ Phong Thổ đến Mộc Châu tiếp nối những đồi núi đá vơi ở Ninh
Bình - Thanh Hóa. Xen giữa các dãy núi là các thung lũng sông cùng hướng:
sông Đà, sông Mã, sông Chu.
Vùng núi Trường Sơn Bắc (thuộc Bắc Trung Bộ) giới hạn từ phía nam

sơng Cả tới dãy Bạch Mã, gồm các dãy núi song song và so le nhau theo
hướng tây bắc - đông nam. Trường Sơn Bắc thấp và hẹp ngang, được nâng
cao ở hai đầu: phía bắc là vùng núi Tây Nghệ An và phía Nam là vùng núi
Tây Thừa Thiên - Huế, ở giữa thấp trũng là vùng đá vơi Quảng Bình và vùng
đồi núi thấp Quảng Trị. Mạch núi cuối cùng (dãy Bạch Mã) đâm ngang ra
biển là ranh giới với vùng núi Trường Sơn.
Việc học các bài học Địa lí giúp các em hiểu địa hình Việt nam, cá
dịng chảy từ tây sang đông, hầu hết ở thượng nguồn đều là vùng núi cao,
nhiều vực thẳm, rừng già khiến cho nước chảy xiết dữ dội. Điều đó giúp các
em hiểu vẻ đẹp của sông Hương vùng thượng nguồn “là một bản trường ca
của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những thác ghềnh,
cuộn xoáy như những cơn lốc vào vực đáy bí ẩn”

8


Dãy Trường Sơn
3.2.2 Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
* Sông Hương giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng” giữa cánh đồng
Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây, thủy
trình của sơng Hương khi nó bắt đầu về xi tựa “một cuộc tìm kiếm có ý
thức” người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu chuyện
tình u lãng mạn nhuốm màu cổ tích [3]. Sơng Hương như người gái đẹp
bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Nó thể hiện một vóc dáng mới, sức sống
mới,đầy khao khát và lãng mạn: “sơng Hương chuyển dịng liên tục, vịng
giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”.
Hành trình đến với “người tình trong mộng” của “người gái đẹp” khá gian
truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt qua một loạt các “chướng ngại vật”
(Hịn Chén Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Qn), nhưng chính trong q
trình ấy sơng Hương lại như có cơ hội phô khoe tất cả đường cong tuyệt mĩ

của người gái đẹp đi ra từ “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, “qua điện
Hịn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc,vòng” qua thềm
bãi Nguyêt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật trịn về phía
đơng bắc, ôm lấy châ đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông
Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu
dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trơi đi
giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Mỗi đường đi nước bước của
9


con sông gắn liền với những địa danh khác nhau của xứ Huế đã được nhà văn
dành cho một cách diễn đạt riêng. Nhờ đó mà hành trình về xi của sông
Hương không đơn điệu, nhàm chán mà trái lại, nó khiến người đọc đi từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác, thú vị này đến bất ngờ, thích thú khác.

Đảo Cồn Hến
Nhà văn không chỉ tái hiện một cách chân thực dịng chảy tự nhiên trên
bản đồ địa lí của dịng sơng mà quan trọng hơn biến cái thủy trình ấy thành
một hành trình của một người con gái đẹp, dun dáng và tình tứ .
* Sơng Hương cịn có “vẻ đẹp trầm mặc”, “như triết lí, như cổ thi”. Đi giữa
thiên nhiên, sơng Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên lăng tẩm, thành
quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sơng hiền hịa ở ngoại vi thành phố
Huế như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của vua chúa” được phong
kín trong lịng “những dịng sơng u tịch”. Chảy bên những di sản văn hóa ấy,
sơng Hương như khốc lên mình tấm áo “trầm mặc” mang “cái triết lí cổ
thi” của cổ nhân. Dịng chảy hay chính là dòng chảy của lịch sử bền bỉ chảy
qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm nay.

10



Cánh đồng Châu Hóa
* Mơn Địa lí : Sử dụng bản đồ sông Hương để Học sinh nhận biết địa hình
của dịng chảy một cách cụ thể, học sinh dễ dàng hình dung các chi tiết, các
địa danh mà sơng Hương chảy qua, chi tiết “sông Hương uốn một cánh cung
rất nhẹ sang Cồn Hến”, và đường cong ấy làm cho dịng chảy mềm hẳn đi, sẽ
là khó hình dung khi các em khơng nhìn thấy đường cong dun dáng ấy trên
bản đồ sông Hương. Hơn nữa trước khi sông Hương đổ ra biển, dịng chảy
của nó cịn quay lại một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh cổ xưa. Việc học các bài
học Địa lí giúp các em hiểu địa hình Việt Nam, các dịng chảy từ tây sang
đơng, hầu hết ở thượng nguồn đều là vùng núi cao, nhiều vực thẳm, rừng già
khiến cho dòng nước chảy xiết dữ dội. Địa lí 12, bài 6 “Đất nước nhiều đồi
núi ”[4]

11


Điện Hịn Chén
3.2.3 Sơng Hương giữa lịng thành phố Huế
* Sơng Hương - “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”: Khi về đến thành
phố thân u của mình sơng Hương có thêm những vẻ đẹp mới, độc đáo và
hiếm thấy ở các dịng sơng khác trên thế giới. Tác giả tiếp cận sơng Hương ở
góc độ âm nhạc, nó chính là cho Huế” “điệu slow tình cảm dành riêng cho
Huế”. Trong tiếng Anh, “slow” nghĩa là chậm và sông Hương như một giai
điệu trữ tình chậm rãi dành riêng cho xứ Huế. So với các dịng sơng khác ở
Viêt Nam và thế giới, lưu tốc của sông Hương không nhanh, nhà văn đã liên
tưởng, so sánh với con sông Nê - va băng băng lướt qua trước cung điên Pê téc - pua cũ để ra bể Ban - tích. Lưu tốc của con sơng này nhanh đến mức “
Khơng kịp cho lũ hải âu một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ
trông theo”. Mượn câu nói của Hê - ra - clit - nhà triết học Hi Lạp, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã đem đến một kiến giải khác, đó là cách lí giải từ “trái

tim”: sơng Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố thân
thương của mình trước khi phải chia xa!

12


Chùa Thiên Mụ
* Sông Hương “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”
Hồng Phủ Ngọc Tường khơng qn những nét văn hóa gắn liền với
dịng sơng thơ mộng này. Một trong số đó là những đêm trình diễn âm nhạc
cổ điển Huế. Ở góc nhìn âm nhạc này, tác giả gọi sông Hương là “người tài
nữ đánh đàn lúc đêm khya”. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, chỉ thực sự là nó “khi
sinh thành trên mặt nước Hương Giang trong một khoang thuyền nào đó,
giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.Ở đây có cái
thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng
cũng có cái quy luật của nghệ thuật biểu diễn trên khơng gian sơng nước.
Trong Tì bà hành, Bạch Cư Dị đã từng viết: “Thuyền mấy lá đơng tây lặng
ngắt / Một vầng trăng trong vắt lịng sông”. Nguyễn Du cũng miêu tả tiếng
đàn của Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa
vời”.
* Sơng Hưong - người tình dịu dàng và chung thủy [5]: Khi rời khỏi kinh
thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên do đặc điểm địa lí ở
nước ta ( hầu hết mọi con sơng đều chảy về hướng Đơng đổ ra biển), thủy
trình của con sơng đã thay đổi. Nó phải chuyển dịng sang hướng Đong và
như vậy sẽ lại đi qua một góc của thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ.

13


Đó là đặc điểm địa lí tự nhiên của dịng sông. Nhưng trong con mắt cả người

nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy lại là biểu hiện của nỗi “vương vấn”, thậm chí
có chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và chí tình. Nhà văn hình
dung sơng Hương như nàng kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề
trước khi đi xa, đây là một sự liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn
chương của tác giả về dịng sơng thân thương của xứ Huế.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dịng sơng từ nhiều
khơng gian và thời gian khác nhau. Ở mỗi góc độ, nhà văn đều thể hiện một
cảm nghĩ sâu sắc và khá mới mẻ về con sơng đã trở thành biểu tượng của
Huế, qua đó ta thấy một tình cảm u mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào
và thái độ trân trọng của nhà văn đối với những vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu
sắc văn hóa của dịng sơng q hương.
* Mơn Địa Lí: Như chúng ta đã biết, sơng Hương khi chảy về đồng bằng, địa
hình thấp, dịng chảy của nó chậm hơn, êm đềm hơn. Bài 7 (Đất nước nhiều
đồi núi), Địa lí 12 - trang 33-34: Đồng bằng nước ta chiếm khoảng 1/4 diện
tích lãnh thổ. Dải đồng bằng ven biển miền trung có tổng diện tích khoảng 15
nghìn km2. Học sinh hiểu biết thêm về đặc điểm sông ngịi miền nhiệt đới ẩm
gió mùa, ở nước ta mạng lưới sơng ngịi dày đặc, nước lên theo mùa, các con
sông thường nhiều nước nhiều phù sa bồi đắp cho bờ bãi ven sơng. Sơng
Hương vì thế khi ra khỏi rừng đã trở thành “người mẹ phù sa của vùng văn
hóa xứ sở”. Mạng lưới sơng ngịi dày đặc, chỉ tính những con sơng có chiều
dài trên 10km thì nước ta đã có tới 2360 sơng. Dọc bờ biển, trung bình cứ
20km lại gặp một cửa sơng. Sơng ngịi nhiều nước, nhiều phù sa, sơng ngịi
nước ta có lượng nước lớn, tổng lượng nước là 839 tỉ m3/năm, tổng lượng
phù sa hằng năm của sơng ngịi trên lãnh thổ nước ta là khoảng 200 triệu tấn
(Địa lí 12, Bài 10 - Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa - SGK trang 45) [4].
4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường .
Năm học 2017 - 2018 tôi được phân công giảng dạy ở hai 12A3 và
12A6 trong giờ đọc văn “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” tơi đã áp dụng sáng
kiến này, cho các em tìm hiểu vẻ đẹp sơng Hương kết hợp với kiến thức của

14


bộ mơn Địa lí. Sau khi học xong tơi đã làm một cuộc khảo sát và kết quả thu
được:
Lớp

Số HS

Số HS hiểu bài

Số HS yêu thích

12A3
12A6

được khảo sát
40
45

sau khi học tác phẩm
38
42

sau khi học tác phẩm
35
39

Từ kết quả trên tôi thấy hướng dẫn học sinh đọc hiểu như cách trên đã
có hiệu quả rõ rệt khơng chỉ giúp các em hiểu hơn về vẻ đẹp sông Hương

trong tác phẩm mà cịn giúp các em có cái nhìn trực quan hơn về một dịng
sơng, đồng thời giúp các em sẽ u thích hơn mơn học này, góp phần bồi tình
u thiên nhiên quê hương đất nước. Qua đó hiểu thêm về tình cảm u mến ,
gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và thái độ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối
với những vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dịng sơng q hương.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết Luận
Qua việc tìm hiểu vẻ đẹp sơng Hương trong tác phẩm “Ai đã đặt tên
cho dịng sơng?” kết hợp với kiến thức bộ mơn địa lí ta có thể co đây là một
giải pháp cụ thể để các em tiếp cận tác phẩm dễ dàng hơn, từ đó có hướng suy
nghĩ, tư duy mới khi tiếp cận các tác phấm khó và hay trong chương trình.
Với đề tài này tơi nghĩ khơng q khó thực hiện và cũng không cần sự hỗ trợ
của các phương tiện dạy học hiện đại. Tôi hi vọng đáp ứng được yêu cầu phần
nào thực tế dạy học môn ngữ văn trong chương trình hiện nay. Hi vọng bài
viết này của tơi có đóng góp được chút ít gì đó cho học sinh, cho đồng nghiệp
để môn văn được học sinh yêu thích hơn, khơng có cảm giác ngại học, sự học,
khó tiếp cận.

15


2. Kiến nghị , đề xuất:
2.1. Đối với nhà trường:

- Thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy lẫn nhau
trong Tổ, nhóm, nhất là trao đổi về phương pháp giảng dạy.
- Đầu tư thêm tài liệu tham khảo về các tác giả, tác phẩm mới được đưa
vào chương trình Ngữ văn THPT trong đó có bài “Ai đã đặt tên cho dịng
sơng?”.

- Có thể tổ chức cho học sinh hoạt động ngoại khóa về bộ mơn Ngữ văn.
- Tăng cường sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học.
2.2. Đối với Sở GD& ĐT:

- Cung cấp, giới thiệu thêm nhiều tài liệu, sách tham khảo mới về những
tác giả, tác phẩm trong chương trình Ngữ văn THPT, nhất là những tác phẩm
mới và khá trừu tượng được đưa vào trong chương trình.
- Có thể cung cấp thêm những hình ảnh minh họa cho học sinh dễ tiếp cận
tác phẩm hơn và hiệu quả học tập được tốt hơn.
Ngọc Lặc, ngày 15 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của
mình tự làm, khơng sao chép nội dung
XÁC NHẬN CỦA

của người khác

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Người viết

HIỆU TRƯỞNG

Ngô Thị Tuyết

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phân Tích Tác Phẩm Ngữ Văn 12 – Nhà Xuất Bản Giáo Dục – Tác giả:
Trần Nho Thìn.

2. Kĩ Năng Đọc Hiểu Văn Bản 12 – Nhà Xuất Bản Giáo Dục - Tác giả :
Nguyễn Kim Phụng – Đặng Tương Như.
3. Bình Giảng Văn Học 12 Chọn Lọc – Tác giả : Trần Đình Sử.
4. Địa Lí 12 – Nhà Xuất Bản Giáo Dục – Tác giả: Lê Thông – Nguyễn Viết
Thịnh.
5. Ngữ Văn 12 - tập 1 – Nhà Xuất Bản Giáo Dục –Tác giả: Phan Trọng Luận.

17



×