Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

skkn định hướng cho học sinh lớp 12 tiếp nhận đoạn trích “ai đã đặt tên cho dòng sông” theo hướng tiếp cận văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 61 trang )


1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: Trường THPT Võ Trường Toản
Mã số:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài
ĐỊNH HƯỚNG CHO HỌC SINH LỚP 12
TIẾP NHẬN ĐOẠN TRÍCH “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG
SÔNG?” THEO HƯỚNG TIẾP CẬN VĂN HÓA
Người thực hiện: Lê Thái Huyền Trân
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục 
- Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn 
- Lĩnh vực khác: 
Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN
 Mô hình  Đĩa CD (DVD)  Phim ảnh  Hiện vật khác
(các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm)
Năm học: 2013 - 2014
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Lê Thái Huyền Trân
2. Ngày tháng năm sinh: 09/10/1978
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: Số 112, ấp Bể Bạc, xã Xuân Đông, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
5. Điện thoại: : 061 3749688 (Cơ quan); ĐTDĐ: 0906 393343.
6. Fax: E-mail:
7. Chức vụ: Tổ trưởng tổ ngữ văn.
8. Nhiệm vụ được giao: Giảng dạy ngữ văn và quản lí chuyên môn tổ Ngữ văn.
9. Đơn vị công tác: Trường THPT Võ Trường Toản.


II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ
- Năm nhận bằng: 2011.
- Chuyên ngành đào tạo: Lí luận và phương pháp dạy học Văn và tiếng Việt.
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm:
+ Giảng dạy ngữ văn, số năm có kinh nghiệm: 14 năm.
+ Tổ trưởng: 09 năm.
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 03
+ Định hướng cho học sinh lớp 12 tiếp nhận một số tác phẩm văn học sau
1975 theo hướng tiếp cận văn hóa (Luận văn Thạc sĩ giáo dục – chuyên ngành
LL&PP dạy học văn và tiếng việt, năm 2010-2011).
+ Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 12 hệ thống kiến thức môn Ngữ
văn để ôn thi tốt nghiệp (Năm 2011-2012).
+ Định hướng cho học sinh lớp 10 tiếp nhận tác phẩm “Tấm Cám” theo
hướng tiếp cận văn hóa (Năm 2012-2013).
2
MỤC LỤC
Trang
I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về mối quan hệ văn hóa với văn học.
1.1.2. Văn hóa là cơ sở, nền tảng cho văn học ra đời và phát triển.
1.1.3. Tiếp cận văn hóa và Bản chất hướng tiếp cận văn hóa đoạn trích
AĐĐTCDS?
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vị trí của đoạn trích AĐĐTCDS? trong chương trình Ngữ văn 12
1.2.2. Thực trạng của dạy - học đoạn trích AĐĐTCDS? trong chương trình Ngữ
văn 12

1.2.3. Nguyên nhân của thực trạng dạy - học đoạn trích AĐĐTCDS?
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu yếu tố văn hóa liên quan đến đoạn trích
AĐĐTCDS? trong phần tiểu dẫn.
2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu yếu tố văn hóa qua phần chú thích (GV cung
cấp thêm) và quá trình đọc đoạn trích AĐĐTCDS?
3. Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề để khai thác yếu tố văn hóa trong
đoạn trích AĐĐTCDS?
4. Tổ chức học sinh hợp tác, trao đổi, thảo luận nhóm để cắt nghĩa và phân tích
bình giá những yếu tố văn hóa trong đoạn trích AĐĐTCDS?
5. Sử dụng các phương tiện trực quan để minh họa các yếu tố văn hóa trong
đoạn trích AĐĐTCDS?
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục đích thực nghiệm
2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
3. Miêu tả quá trình thực nghiệm
4. Kết quả thực nghiệm
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AĐĐTCDS? : “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
CM : Cách mạng
CMT8 : Cách mạng tháng 8
ĐC : Đối chứng
ĐHH : Đại học Huế
ĐHSPH : Đại học sư phạm Huế
ĐHSPHN : Đại học sư phạm Hà Nội
GV : Giáo viên
HS : Học sinh

TN : Thực nghiệm
THPT : Trung học phổ thông
SH : sông Hương
SGK : Sách giáo khoa
HPNT : Hoàng Phủ Ngọc Tường
4
ĐỊNH HƯỚNG CHO HỌC SINH LỚP 12 TIẾP NHẬN ĐOẠN TRÍCH “AI ĐÃ
ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?” THEO HƯỚNG TIẾP CẬN VĂN HÓA
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong bài viết “Toàn cầu hóa và sự tiêu diệt bản sắc văn hóa dân tộc” (Văn
nghệ, 2004), Viện sĩ Vitalicostomorow nói: “văn minh là hợp lí hóa, là trí óc hóa. Còn
văn hóa hướng tới sự hưởng thụ chân chính”. Ông cảnh báo: “văn minh hàm chứa
nguy cơ vô độ, nên loài người không thể hiến tặng gia tài văn hóa cho nó” [31, tr. 3-
4]. Có thể thấy, trong thế giới văn minh, văn hóa đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Một nền văn minh phát triển không thể thiếu sự định hướng của văn hóa. Và nhân loại
luôn ý thức về vai trò quan trọng của văn hóa trong quá trình xây dựng một thế giới
văn minh.
Văn hóa bao gồm nhiều thành tố, trong đó có văn học. Mỗi tác phẩm văn
chương đều chứa đựng trong nó giá trị văn hóa của dân tộc và thời đại. Từ văn hóa
phong tục, văn hóa tín ngưỡng, đến văn hóa nhận thức vũ trụ và xã hội… văn học đều
phản ánh và lưu giữ. Chính vì thế, văn học là một thành tố quan trọng của văn hóa.
Trong “Nghị quyết của Bộ chính trị về văn học nghệ thuật”, Đại hội lần thứ VI
của Đảng chỉ rõ: “không một hình thái tư tưởng nào có thể thay thế văn học và nghệ
thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp
nghĩ, nếp sống của con người”. Và “văn học là bộ môn trọng yếu của cách mạng tư
tưởng và văn hóa, là bộ môn đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của
con người về Chân-Thiện,-Mĩ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm tâm hồn, nhân cách,
bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội”[12, tr.
51-52]. Vì vậy, khi xây dựng chương trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở các cấp học,
Bộ giáo dục và đào tạo rất cẩn trọng trong việc chọn lựa những tác phẩm văn học có

giá trị để đưa vào nhà trường.
Theo quan điểm đổi mới dạy học Văn hiện nay, sách giáo khoa Ngữ văn được
xây dựng như một chương trình “văn hóa mở”. Những vấn đề đang diễn ra trong đời
sống như tìm hiểu về văn hóa truyền thống, bảo vệ và duy trì truyền thống văn hóa
dân tộc trong đời sống hiện đại, vấn đề an toàn giao thông, vấn đề bảo vệ môi
trường… cũng cần phải gắn với chương trình học. Nhìn vào sách giáo khoa Ngữ văn
12, chương trình văn học đã mở rộng đến sau 1975 với một số tác phẩm tác giả tiêu
biểu như Nguyễn Minh Châu với Chiếc thuyền ngoài xa, Ma Văn Kháng với Mùa lá
rụng trong vườn, Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, Hoàng Phủ Ngọc Tường với
Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Thanh Thảo với Đàn ghi ta của Lorca, Lưu Quang Vũ
với Hồn Trương Ba da hàng thịt, cùng với những văn bản nhật dụng được đưa vào
chương trình cũng góp phần làm cho chương trình văn học trong nhà trường gần với
cuộc sống hơn.
5
Tuy nhiên, hiện nay, việc giảng dạy những tác phẩm văn học mới trong chương
trình Ngữ văn nhà trường phổ thông vẫn còn nhiều bỡ ngỡ và rập khuôn. Giáo viên
chỉ tập trung khai thác những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà
chưa chú ý nhiều đến yếu tố văn hóa thể hiện trong tác phẩm. Nhưng trước yêu cầu
mới của xã hội, tác phẩm văn chương không chỉ đơn thuần là câu chuyện văn chương
mà đó còn là câu chuyện tiềm ẩn nhiều tri thức nhân loại, có nhiều tri thức được
chuyển tải trong một văn bản văn học và có thể khẳng định tri thức góp phần làm nổi
rõ yếu tố thẩm mỹ của văn học hơn cả chính là tri thức văn hóa. Vậy nên “không có lí
do gì, chúng ta lại làm nghèo đi một văn bản văn học, làm hạn hẹp tầm nhìn của học
sinh về xã hội, con người và chính bản thân mình” [6]. Do đó cần chú ý đến yếu tố
văn hóa trong văn học, dạy văn không chỉ chú trọng đến tri thức văn chương mà cũng
cần hướng dẫn cho học sinh quan tâm nhiều đến tri thức văn hóa, tự hào, yêu quí và
có ý thức giữ gìn bản sắc và truyền thống văn hóa của dân tộc.
Từ mục tiêu của việc dạy và học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay,
cùng với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức
văn hóa được kết tinh trong những tác phẩm văn học và xuất phát từ yêu cầu đổi mới

phương pháp dạy học văn, tôi mạnh dạn đề xuất Sáng kiến kinh nghiệm với đề tài
“Định hướng cho học sinh lớp 12 tiếp nhận đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” theo hướng tiếp cận văn hóa.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về mối quan hệ văn hóa với văn học
Ở Việt nam, từ những năm 80 trở đi, xu hướng nghiên cứu văn học theo hướng
tiếp cận văn hóa đã thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà văn,… Nhiều công
trình khai thác tính văn hóa trong tác phẩm văn chương được công bố góp phần chỉ ra
một cách khá thuyết phục những giá trị mới của tác phẩm văn chương.
Giáo sư Lê Trí Viễn, nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả Đỗ Lai Thúy lần lượt cắt
nghĩa thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ khác nhau của văn hóa dân gian: cái “tục” trong
thơ, tín ngưỡng thờ “nõ nường”, hoài niệm phồn thực…[43]
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu đi sâu vào nghiên cứu văn học dưới ánh sáng
của Nho giáo, tiêu biểu là tác phẩm “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận
đại”[13]. Trần Ngọc Vương đi sâu vào nghiên cứu loại hình nhà Nho tài tử trong văn
học [33]. Hai nhà nghiên cứu cũng đã tích cực góp sức khai phá hướng tiếp cận văn
hóa với tác phẩm văn chương.
Năm 2003, Trần Nho Thìn xuất bản tập tiểu luận: “Văn học trung đại Việt nam
dưới góc nhìn văn hóa”. Tác giả cho rằng: “cách tiếp cận loại hình học văn hóa được
6
xem như sự bổ sung cần thiết cho các phương pháp khác nhau trong nghiên cứu văn
học trung đại nói chung, Truyện Kiều nói riêng” [27].
Năm 2004, Nguyễn Văn Dân viết bài: “Tiếp nhận văn học bằng văn hóa học”.
Ông đã điểm lại toàn bộ những công trình nghiên cứu văn học từ hướng tiếp cận văn
hóa trước đó để dẫn đến nhận định: “Cách tiếp cận văn học bằng văn hóa đã cung cấp
thêm con đường mới để đến với văn học” [5, tr. 25-29]
Năm 2008, Phó giáo sư Lê Nguyên Cẩn viết: “Tiếp cận Truyện Kiều từ góc
nhìn văn hóa”. Ông xây dựng hệ thống lí luận về “tính văn hóa trong tác phẩm văn
chương: Đó là tính chất đặc thù gắn liền với mỗi tác phẩm văn học, nó cho thấy tác

phẩm văn học không chỉ toát lên vẻ đẹp ngôn từ mà còn cả vẻ đẹp tâm hồn qua cách
ứng xử và cách tiếp cận, xử lí cuộc sống của một dân tộc hay một cộng đồng nhất
định”[3].
Tác giả Trần Hữu Sơn trong cuốn: “Quan niệm con người và tiến trình phát
triển của văn học Trung Đại” đã viết: “Văn học đã là và mãi mãi sẽ là đại lượng tích
hợp văn hóa, một phương thức biểu trưng văn hóa cho mọi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi
vùng văn hóa. Và đến lượt nó những giá trị văn hóa được thử thách qua thời gian lại
trở thành thành tố văn hóa góp phần làm nên bảng màu văn hóa và di sản cho muôn
đời sau” [23]. Từ đó, trong bài viết: “Đặc điểm bài dạy văn học Trung đại Việt Nam”,
tác giả khẳng định: “cần nắm bối cảnh lịch sử-văn hóa tác phẩm, tác giả…đây là đặc
điểm bên ngoài tương đối gián cách với văn bản song lại là tiền đề hết sức quan trọng
để chúng ta tìm hiểu tác phẩm”.
Tác giả Nguyễn Viết Chữ trong cuốn: “Phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương trong nhà trường” cho rằng: việc dạy văn học nước ngoài của giáo viên ít
thành công vì “phông văn hóa có những độ vênh nhất định”. Tác giả đề nghị: “tăng
cường kiến thức lịch sử và văn hóa cho giáo viên” hoặc “đặt tác phẩm trong mối
tương quan văn hóa của hai dân tộc” [4].
Trong bài viết: “Một tiền đề quan trọng cho đổi mới phương pháp”, giáo sư
Phan Trọng Luận cho rằng: “Trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân ngoài giá trị
thẩm mỹ, ý nghĩa nhân văn còn có giá trị văn hóa truyền thống… giữ gìn cái thiêng
liêng trong sáng cũng là nét văn hóa cần được khai thác và giáo dục tình cảm thẩm
mỹ…Thiếu vốn văn hóa cần thiết thì việc cảm thụ văn thơ cũng dễ bị sai lệch hoặc
thiếu sâu sắc”. Và trong bài viết: “Văn học với văn học nhà trường không phải là
một”, giáo sư một lần nữa khẳng định: “Một văn bản văn chương không phải chỉ có
thông tin thẩm mỹ mà còn là một văn bản văn hóa. Học một bài văn, một tác phẩm
văn chương ngoài sự rung cảm còn biết bao nhiêu điều cần khai thác và khám phá về
con người, về cuộc đời, về xã hội, về cuộc sống, về tư tưởng, về văn hóa… ”
Những cơ sở lí luận trên là nền tảng để một số luận văn thạc sĩ thuộc nhiều
trường đại học lựa chọn hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa như:
7

- “Thơ mới nhìn từ giác độ quan hệ văn hóa-văn học”- Hoàng Thị Huế (ĐHH,
ĐHSP Huế).
- “Tích hợp văn học với văn hóa trong dạy học tiếp nhận văn chương ở trường
THPT” - Hoàng Thị Huyền Hương (ĐHH, ĐHSP Huế).
- “Dạy học truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân cho học sinh THPT từ cái nhìn
văn hóa” - Nguyễn Thị Thu Thảo (ĐHPS Hà Nội)
- “Vận dụng tri thức văn hóa để hướng dẫn học sinh lớp 10 đọc hiểu đoạn trích
Nỗi thương mình” (Trích “Truyện Kiều”- Nguyễn Du) – Vương Thị Thanh Nhàn
(ĐHSPHN).
- “Dạy học Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy theo hướng tiếp
cận văn hóa” – Đỗ Bá Đại (ĐHSPHN)
- “Dạy học truyện cổ tích thần kì “Tấm Cám” từ góc độ văn hóa”-Nguyễn Thị
Hồng Minh (ĐHSPHN).
- “Biện Pháp dạy học đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm theo hướng tiếp cận văn hóa” – Nguyễn Thị Hằng.
Nêu lên một vài nét lịch sử vấn đề để thấy được hướng tiếp cận văn học từ góc
độ văn hóa có tính khả thi và phát triển mạnh mẽ trong những thập kỉ gần đây. Tuy
nhiên, dù ảnh hưởng hay chịu tác động của văn hóa thì tác phẩm văn chương vẫn là
tác phẩm văn chương với những đặc thù riêng của loại hình nghệ thuật ngôn từ. Do
đó, khi tổ chức cho học sinh tiếp nhận tác phẩm văn chương phải đi từ những nét đặc
thù của văn bản để từ đó tìm tới cách tiếp cận văn hóa đối với tác phẩm. Và những bài
viết nêu trên là những tư liệu quý giá để chúng tôi tham khảo trong quá trình hoàn
thiện Sáng kiến kinh nghiệm.
1.1.2. Văn hóa là cơ sở, nền tảng cho văn học ra đời và phát triển.
Văn học nghệ thuật là bộ phận cấu thành và rất quan trọng của văn hoá. Thực
tiễn cuộc sống và nền văn hoá dân tộc là mảnh đất màu mở làm nảy sinh và nuôi
dưỡng văn học nghệ thuật. Hiện thực đời sống – nơi tiềm tàng những giá trị văn hóa
vô cùng phong phú, luôn tác động tới nhận thức, tư tưởng nhà văn. Nói cách khác,
nhà văn kiếm tìm giá trị văn hóa từ hiện thực cuộc sống để tái hiện, tái tạo lại trong
tác phẩm văn chương theo phong cách riêng, quan niệm riêng. Như vậy, một tác

phẩm văn học ra đời là kết quả của sự khúc xạ, chưng cất các giá trị văn hóa.
Từ thuở xa xưa, dân tộc Việt nam đã gắn bó với nền sản xuất nông ghiệp. chính
nền nông nghiệp tự nhiên với nền kinh tế tự cấp, tự túc đã để lại dấu khá đậm trong
tâm lí của người Việt, ảnh hưởng đến đời sống, tâm lí, quan hệ ứng xử. Con người
trong nền văn hóa nông nghiệp là con người làng xã, con người cộng đồng. Chính cơ
8
sở văn minh của văn hóa qui định đối tượng thẩm mỹ của văn học. Vì vậy, nhìn vào
hầu hết những tác phẩm văn học truyền miệng đều không ra ngoài phạm vi làng xã,
đều bắt nguồn từ lao động của người dân quê:
Trâu ơi! ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công!
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì con ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn. (Ca dao)
Những phong tục tập quán, nếp sống, cách nghĩ, tâm hồn người Việt là nguồn
cảm hứng vô tận trong các tác phẩm văn học dân gian:
Tháng hai chi chí tháng mười,
Năm mười hai tháng em ngồi em suy:
Vụ chiêm em cấy lúa di,
Vụ mùa lúa ré, sớm thì ba trăng.
Thú quê rau cá đã từng,
Gạo thơm, cơm trắng chi bằng tám xoan.
Việc nhà em liệu lo toan,
Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà. (Ca dao)
Xã hội phong kiến phương Đông theo chế độ quân chủ, làng xóm sống theo
một tổ chức có thứ bậc và quan hệ giữa người và người là quan hệ tình nghĩa “Bán
anh em xa mua láng giềng gần”, “Tối lửa tắt đèn có nhau”. Chính điều đó chi phối
quan hệ ứng xử của người nông dân Việt Nam. Thời phong kiến, hệ tư tưởng của dân
tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho – Phật – Đạo, thuộc văn hóa

phong kiến phương Đông, nặng cảm tính, có cội nguồn văn hóa nông nghiệp. Đối
tượng văn học giai đoạn này chịu ảnh hưởng bởi kiểu văn hóa phong kiến. Tuy sống
trong môi trường văn hoá phong kiến nhưng cái tôi làng xã gắn với văn hóa nông
nghiệp vẫn hằn trong tâm linh người Việt. Với gốc gác nhà quê đó dù đi đâu họ cũng
về nơi chôn nhau cắt rốn, về với cuộc sống của người dân quê:
Anh em làng xóm xin mời cả,
Giò bánh, trâu heo cũng gọi là.
Chú Đáo bên làng lên với tớ
Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta
(Lên lão – Nguyễn Khuyến)
Bài thơ có sức diễn tả không khí, sắc màu, âm thanh của cuộc sống văn hóa độc
đáo ở nông thôn một cách rất rõ nét.
Lịch sử văn học Việt Nam gắn liền với sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Nội dung yêu nước trong các tác phẩm văn học gắn liền với quê hương, hồn
nước được nuôi dưỡng bằng tình làng, văn hoá làng. Không phải ngẫu nhiên mà
người ta đã so sánh tình làng là những dấu son làm nên ngọn cờ đại nghĩa trong “Hịch
9
tướng sĩ”, “Cáo Bình Ngô”. Dù nhìn nhận như thế nào, người ta cũng không thể quên
được chất nhân văn bền vững của văn chương nghệ thuật, xuất phát từ lòng yêu con
người, tình cảm gắn bó với thiên nhiên, cộng đồng. Mối liên hệ biện chứng giữa cuộc
sống và sự sáng tạo văn chương góp phần to lớn tạo nên bản sắc văn hoá, truyền
thống văn hiến của dân tộc.
Từ đầu thế kỉ XX văn hóa Việt Nam dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa
phong kiến Trung Hoa, bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hóa phương Tây mà chủ yếu
là văn hóa Pháp. Luồng văn hóa mới thông qua tầng lớp trí thức Tây học ngày càng
thấm sâu vào ý thức và tâm hồn người cầm bút cũng như người đọc sách. Đến thời
điểm này chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Hán, chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực, từ hành
chính công vụ đến văn chương nghệ thuật. Chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi đã
tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tiếp xúc với sách báo. Nhu cầu văn hóa của
lớp công chúng mới đã làm nảy sinh những hoạt động kinh doanh văn hóa, làm cho

nghề in, nghề xuất bản, nghề báo phát triển khá mạnh. Đây là những nhân tố đã tạo
điều kiện cho văn học Việt Nam đổi mới theo hướng hiện đại hóa. Văn học Việt Nam
giai đoạn đầu của thế kỉ XX do tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã có những chuyển
biến mạnh theo hướng canh tân trên cơ sở bản lĩnh của truyền thống văn hóa dân tộc.
Sự thay đổi của nền kinh tế, đời sống văn hóa xã hội đã đem đến cho văn học những
lĩnh vực hoạt động mới, xuất hiện nhiều trào lưu, khuynh hướng văn học mới… Cùng
với sự chuyển biến của tình hình văn hóa, xã hội và những chuyển đổi về hình thái ý
thức xã hội dẫn đến sự thay đổi tư tưởng sáng tạo văn học, văn học từ thời kì đầu thế
kỉ XX đến 1945, đặc biệt là từ đầu những năm 30 trở đi phát triển với tốc độ khẩn
trương, mau lẹ. Biết bao vấn đề về đất nước, về cuộc sống, con người và nghệ thuật
đòi hỏi văn học thời kì mới phải giải quyết mà ở thời kì trước đó chưa từng có. Cái
cao nhã của văn chương truyền thống không còn thích ứng với xã hội hiện tại. Thể
chế xã hội, văn hóa chuyển đổi mạnh theo hướng duy tân. Văn chương tất yếu phải
chuyển đổi để phù hợp với văn hóa. Một thời trong thơ ca trung đại chỉ tồn tại con
người – lí tưởng, con người – cộng đồng… Khi cơ sở văn hóa thay đổi, văn hóa đô thị
len lỏi vào tận tâm hồn con người, ý thức cá nhân bùng dậy với những khám phá mới
mẻ về các tầng sâu tiềm thức, vô thức trong con người. Và sự ra đời của Thơ mới,
những truyện ngắn, tiểu thuyết của các nhà văn hiện thực, lãng mạn,… giai đoạn này
như là một minh chứng cho sự thay đổi tất yếu của văn học trên nền tảng của sự thay
đổi văn hóa xã hội.
Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công. Từ đây, một nền văn văn học mới
gắn liền với lí tưởng độc lập, tự do, văn học vận động và phát triển dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản, văn học thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, thống nhất về tổ
chức và về quan niệm nhà văn kiểu mới: nhà văn – chiến sĩ. Từ năm 1945 đến năm
1975, trên đất nước ta diễn ra nhiều sự kiện lớn lao: cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm, công cuộc xây dựng cuộc sông mới, con
người mới ở miền Bắc,… những sự kiện đó đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ
đời sống vật chất, tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật. Đáp ứng yêu
10
cầu của lịch sử, vì mục tiêu chung của toàn dân tộc, văn học Việt Nam từ năm1945

đến năm 1975 chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận
mệnh chung của đất nước. Nền văn học được kiến tạo theo mô hình “Văn hóa nghệ
thuật cũng là một mặt trận”, văn học là vũ khí phục vụ sự nghiệp cách mạng, nhà văn
phả dùng ngòi bút để phục vụ kháng chiến, cổ vũ chiến đấu. Và chính hiện thực đời
sống cách mạng và kháng chiến đã đem đến nguồn cảm hứng lớn, những phẩm chất
mới cho văn học: “Văn học phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem dến
cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc lên nền văn nghệ mới của
chúng ta” (Nguyễn Đình Thi, Nhận đường). Gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của
đất nước, nên quá trình vận động và phát triển của nền văn học mới ăn nhịp với từng
chặng đường lịch sử của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Như
vậy , có thể coi văn học như một tấm gương phản chiếu những vấn đề lớn lao, trọng
đại của đất nước và cách mạng từ năm 1945 đến 1975: đấu tranh thống nhất đất nước
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là đề tài bao quát toàn bộ
nền văn học, làm nên diện mạo riêng của văn học giai đoạn này.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ đã kết thúc
thắng lợi. Tuy nhiên từ năm 1975 đến 1985, đất nước ta lại gặp phải những khó khăn,
thử thách mới, nhất là khó khăn về kinh tế chủ yếu do hậu quả nặng nề của chiến
tranh để lại. Từ năm 1986, với công cuộc đổi mới do Đảng Công Sản đề xướng và
lãnh đạo. kinh tế nước ta từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, văn hóa cũng
có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với văn hóa nhiều nước trên thế giới. Đại hội Đảng lần
thứ sáu đã thật sự đem lại niềm tin và sức mạnh cho toàn dân, làm điểm tựa vững chắc
cho văn học bắt đầu những chuyển động mạnh mẽ và mới mẻ. Nghị quyết 05 của Bộ
chính trị khuyến khích văn nghệ đổi mới: “Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng
trong hoàn cảnh cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra với qui mô, tốc độ chưa
từng thấy trên thế gới và việc giao lưu giữa các nước và các nền văn hóa ngày càng
mở rộng, văn hóa văn nghệ nước ta càng phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách
nghĩ cách làm”. Đất nước bước vào công cuộc đổi mới thúc đẩy nền văn học cũng
phải đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhà văn và người đọc cũng như qui luật
phát triển khách quan của nền văn học. Có thể xem từ năm 1975 đến năm 1985 là
chặng đường văn học chuyển tiếp, trăn trở, tìm kiếm con đường đổi mới. Còn từ năm

1986 trở đi là chặng đường văn học đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và khá toàn diện. Văn
học phát triển đa dạng hơn về đề tài, chủ đề; phong phú và mới hơn về bút pháp nghệ
thuật. Văn học giai đoạn này đề đã cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mới cách
nhìn nhận, cách tiếp cận con người và hiện thực đời sống, đã khám phá con người
trong những mối quan hệ đa dạng và phức tạp, thể hiện con người ở nhiều phương
diện của đời sống, kể cả đời sống tâm linh. Cái mới của văn học giai đoạn này là tính
chất hướng nội, quan tâm nhiều tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp,
đời thường. Kinh tế thị trường cũng đã tác động tích cực tới văn học: kích thích các
tài năng sáng tác đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi nhiều mặt của người đọc.
1.1.3. Văn học phản ánh, lưu giữ và sáng tạo văn hóa
11
Thực tế đã cho thấy: văn học của bất kì dân tộc nào, thời đại nào cũng đều phản
ánh và lưu giữ văn hóa của dân tộc đó, thời đại đó. Văn học Việt Nam trong trường kì
phát triển của ngàn năm lịch sử, luôn thể hiện những đặc trưng đầy đủ của văn hóa
con người Việt Nam. Tục thách cưới có từ thời Hùng Vương trong truyện “Sơn Tinh
Thủy Tinh”. Tục ăn trầu trong “Sự tích trầu cau”, tục ăn bánh chưng, bánh dày vào
ngày lễ tết, tục xăm mình… đều được chuyển tải trong những câu chuyện cảm động
trong các tác phẩm văn học. Văn học Việt Nam luôn biểu hiện sâu sắc giá trị nhân văn
cao đẹp của văn hóa Việt Nam: tình yêu đất nước và tình yêu thương trân trọng con
người. Đối với người Việt Nam, yêu nước là yêu thiên nhiên cảnh trí non sông gấm
vóc, là lòng tự hào dân tộc, là tinh .thần đoàn kết chống giặc ngoại xâm, là sẳn sàng
xả thân vì quê hương đất nước… Tất cả những nét đẹp văn hóa ấy in đậm trong văn
học dân gian và văn học viết. Dân tộc Việt Nam sống trong nền văn hóa mang đậm
tính nhân văn, do đó tình yêu thương trân trọng con người dễ dàng trở thành một
trong những nội dung chủ đạo của nền văn học Việt Nam. Những câu chuyện cổ tích,
những câu ca dao, dân ca như những dòng sông chở nặng phù sa của tình yêu thương
con người. Cuộc sống của con người càng đau khổ cay cực bao nhiêu văn học càng
thấm sâu nỗi đau, càng đấu tranh cho con người, càng bảo vệ cho con người bấy
nhiêu. Xuyên suốt chiều dài phát triển của văn học, dấu ấn của nền văn hóa nhân văn
luôn rõ nét trong các tác phẩm. Ngay cả khi văn học mang nội dung yêu nước thì tư

tưởng nhân văn vẫn có vai trò cốt lỏi. Tình yêu quê hương đất nước luôn dựa trên tư
tưởng nhân văn. Đó chính là bản sắc văn hóa Việt Nam mà văn học phản ánh và lưu
giữ qua bao thế hệ người Việt.
Không chỉ phản ánh văn hóa, văn học còn là sự hội tụ kết tinh các nguồn văn
hóa. Bởi lẽ, sự vận dụng vốn sống, vốn hiểu biết của mỗi nhà văn là để hình thành nên
ý thức tư tưởng trong tác phẩm. Văn học là nơi hội tụ nhiều tri thức, nhiều học thuyết
Đông, Tây, Kim, Cổ. Văn học Trung đại là hội tụ các nguồn văn hóa khác nhau, hiện
tượng văn –sử- triết bất phân hay tam giáo đồng nguyên cũng như sự ảnh hưởng của
văn hóa văn học Trung Quốc thường xuyên xuất hiện trong văn học Việt Nam Trung
đại. Nhìn vào Văn học dân gian, tác phẩm “Chữ đồng tử” là sản phẩm tinh thần thể
hiện sự kết tinh của nhiều nguồn văn hóa: tư tưởng Nho, Phật, Đạo, văn hóa địa lí,
văn hóa dân gian. Đặc biệt là tư tưởng nhân văn của nhân dân lao động bao trùm, chi
phối, quán xuyến tác phẩm. Khát vọng về một tình yêu tự do không ràng buộc lễ giáo
phong kiến, không phân biệt đẳng cấp sang hèn và dân gian đã bất tử ước mơ ấy của
mình khi thông qua tác phẩm văn học họ đã cho Chử Đồng Tử và Tiên Dung cùng
tình yêu hạnh phúc bay về trời. “Hịch tướng sĩ” ngời lên tình yêu giang sơn gấm vóc
nhưng dấu ấn văn hóa, văn học Trung Quốc vẫn khá đậm nét trong nội dung và hình
thức tác phẩm. Không chỉ văn học dân gian hay văn học Trung đại, mà văn học ở bất
kì thời nào, của dân tộc nào cũng thấy điều này. Đó là sự giao thoa văn hóa và những
gì cao đẹp và tinh túy của văn hóa đã kết tinh và hội tụ trong văn học. Thuộc tính của
văn học là cái đẹp và đương nhiên văn học cũng lựa chọn tất cả các nguồn văn hóa
khác nhau theo tiêu chí Chân – Thiện – Mĩ. Thơ Xuân Diệu vừa có nét ý nhị của tâm
hồn người Á Đông, vừa có cái táo bạo, sôi nổi rất Tây, rất Pháp. Thơ Huy Cận vừa có
12
cái mênh mang, ưu sầu của tâm hồn của con người thời đại, vừa có cái trầm lắng, sâu
thẳm của chất Đường thi. Các nhà văn lớn của thế giới như Nguyễn Du, Lỗ Tấn, Huy
Gô, Ban Zắc, Puskin, L. Tônxtôi,… đều thể hiện rất đặc sắc sự kết tinh văn hóa trong
các tác phẩm văn học của mình.
Văn học, thông qua bạn đọc, góp phần cải tạo, thúc đấy văn hóa phát triển. Văn
học nơi chứa đựng những tư tưởng văn hóa, những nhận thức thẩm mĩ về muôn mặt

của đời sống con người của nhà văn. Tư tưởng ấy, nhận thức ấy được truyền tải dưới
những hình tượng thẩm mĩ, tác động trực tiếp đến người đọc, hình thành nên những
cách ứng xử thẩm mĩ của con người trong các mối quan hệ: Quan hệ với môi trường
thiên nhiên, quan hệ với môi trường xã hội, quan hệ với quốc gia dân tộc, quan hệ với
chính bản thân. Tư tưởng văn hóa của nhà văn thể hiện trong tác phẩm văn học là sự
phê phán, lên án tố cáo cái ác, cái xấu, cái phản văn hóa, hoặc sự ngợi ca, tôn vinh giá
trị tinh thần nào đó trong cuộc sống con người. Qua những thái độ như vậy, nhà văn
hướng tới cái Chân - Thiện – Mĩ của văn hóa. Những nhà văn lớn với những tác phẩm
nổi tiếng có tác động rất lớn đối với văn hóa của thời đại. Tác phẩm văn học mang ý
nghĩa văn hóa khi nó đi vào trong cuộc sống, nghĩa là nó phải đến được với độc giả.
Do đó yếu tố bạn đọc là vô cùng quan trọng và thiết yếu để tác phẩm gia nhập vào
cuộc sống. Bạn đọc thâm nhập vào tác phẩm cũng có nghĩa là hiểu được các biểu
tượng, hiểu được thái độ, quan điểm tình cảm của nhà văn đối với hiện thực cuộc
sống. Sự ghi nhớ về những điều đã hiểu, đã cảm trong tác phẩm dần dần cấp cho
người đọc cách nhìn nhận, cách xử lí, vốn từ ngữ cùng với sự hiểu biết để người đọc
ứng xử với môi trường văn hóa của họ. Và thực tế đã cho thấy, những tác phẩm ra đời
đã gây một tiếng vang lớn tạo thành những trào lưu thay đổi cách nhìn nhận của con
người đương thời, hoặc tiếp thêm sức mạnh nội lực kì diệu cho cả một thế hệ để họ có
thể vượt qua hoàn cảnh khốc liệt.
Tóm lại, văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác nhau của
văn hoá. Có thể nói nhà văn đích thực là một nhà hoạt động văn hoá, tác phẩm văn
học là một sản phẩm văn hoá và người đọc là một người thụ hưởng văn hoá. Trong
thời đại ngày nay, đa số quốc gia đều là xã hội đa văn hoá, văn học vì vậy cũng đa
dạng như văn hoá. Chính sách đối với văn học là một phần của chính sách văn hoá mà
tiêu điểm là con người với những nhu cầu tinh thần ngày càng phát triển. Và Bản sắc
dân tộc trong các loại hình văn học nghệ thuật không phải nhất thành, bất biến.
1.1.4. Tiếp cận văn hóa và Bản chất hướng tiếp cận văn hóa đoạn trích “Ai
đã đặt tên cho dòng sông?”
1.1.4.1. Tiếp cận văn hóa
Tiếp cận văn hóa (Cultueral Approach) không phải là một thuật ngữ xa lạ với

các ngành khoa học xã hội trên thế giới và ở Việt nam. “Approach” trong tiếng Anh
được dịch là “đường đi đến”, hay “lối vào”. Còn “Cultueral” là tính ngữ chỉ sự thuộc
13
về văn hóa. Như vậy, “Cultueral Approach” là sự xâm nhập đối tượng nào đó bằng
văn hóa.
Tiếp cận văn hóa đối với đoạn trích AĐĐTCDS? là chúng ta đưa cái nhìn văn
hóa để lí giải, khám phá những phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tất
nhiên bằng con đường này, chúng ta sẽ thấy được giá trị văn hóa của tác phẩm.
Tiếp cận văn hóa soi rọi những phương diện nội dung và nghệ thuật của đoạn
trích AĐĐTCDS? bằng văn hóa bên cạnh sự đảm bảo tính chỉnh thể, những đặc trưng
riêng của bộ môn nghệ thuật ngôn từ. Với điều kiện này, mọi cấp độ của tác phẩm từ
ngôn từ đến chi tiết đến hình tượng nghệ thuật đều được khám phá lí giải trên cơ sở
nguồn gốc văn hóa của nó.
Cách tiếp cận văn hóa dựa trên mối quan hệ đặc thù của văn hóa và văn học.
Văn hóa bao trùm lên văn học bởi văn hóa có mặt ở khắp mọi phương diện, mọi lĩnh
vực, mọi khía cạnh trong cuộc sống con người: chính trị, tôn giáo, thiết chế, đạo đức,
thương mại, ngôn ngữ, nghệ thuật, phong tục tập quán… Văn học là bộ phận không
tách rời của văn hóa bởi văn học nhận thức, phản ánh, khám phá muôn mặt của hiện
thực đời sống con người qua văn hóa.
Với hướng tiếp cận văn hóa, sự xác định đối tượng có những phương diện
văn hóa nào là rất quan trọng. Bởi kết quả nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ văn
hóa không phải là một công trình khảo cứu văn hóa mà là sự tìm cho thấy những giá
trị văn hóa của tác phẩm. Sự nghiên cứu và đánh giá phải xuất phát từ chính bản thân
tác phẩm văn học để tránh cái nhìn mang tính áp đặt đồng thời vẫn giữ được và góp
phần tôn thêm vẻ đẹp của thế giới nghệ thuật mà nhà văn đã dày công sáng tạo. Xác
định góc nhìn đồng thời là cũng xác định đối tượng để nhìn là những việc làm luôn
luôn cần thiết trong tiếp cận văn hóa. Bởi lẽ, nếu chúng ta có góc nhìn từ văn hóa
nhưng tác phẩm lại không có những phương diện văn hóa thực sự đậm nét và tiêu
biểu thì sự khám phá lí giải từ góc nhìn văn hóa sẽ không hiệu quả.
1.1.4.2. Bản chất hướng tiếp cận văn hóa đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng

sông?”
Văn học là văn học, chúng ta không thể biến tất cả những cái có trong tác phẩm
văn học thành văn hóa và ngược lại. Nội dung văn hóa và giá trị văn hóa chỉ là một
mặt bên cạnh mặt văn học của tác phẩm văn chương. Do đó không thể lấy việc tiếp
nhận văn hóa thay thế cho việc tiếp nhận văn học trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm
văn chương. Tiếp nhận văn hóa đối với đoạn trích AĐĐTCDS? nhằm mục đích kiếm
tìm những vẻ đẹp văn hóa, những giá trị văn hóa của tác phẩm chứ không phải biến
AĐĐTCDS? thành một công trình khảo cứu văn hóa. Có thể hiểu tiếp cận văn hóa
như là một con đường hiệu lực để khám phá tác phẩm văn chương thêm một phương
diện nữa bên cạnh phương diện văn học – một phương diện mà lâu nay trong dạy học
tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông chúng ta luôn luôn đề cập tới. Tiếp
14
nhận văn hóa không đi trệch mục tiêu tiếp nhận đoạn trích AĐĐTCDS? dưới góc độ
văn học mà là sự hỗ trợ, bổ sung cần thiết để việc tiếp nhận tác phẩm được trọn vẹn,
đầy đủ ý nghĩa hơn.
Có thể khẳng định rằng: mặt văn hóa và mặt văn học trong tác phẩm
AĐĐTCDS? luôn xuyên thấm trong nhau. Có lẽ ai hiểu lịch sử, văn hóa, con người,
thiên nhiên xứ Huế thì người ấy sẽ có nhiều năng lực hơn trong việc tiếp nhận đoạn
trích AĐĐTCDS? với chiều sâu văn hóa của nó Nếu không đi từ văn hóa mà chỉ tìm
hiểu trên phương diện văn bản thì sẽ chỉ nhận được giá trị của tác phẩm ở phương
diện thẩm mĩ. Xét ở phương diện nào đó, tác phẩm văn chương là sản phẩm của sự hư
cấu để tạo nên những giá trị thẩm mĩ, hướng con người đến cái Chân – Thiện – Mĩ.
Tuy nhiên, những giá trị thẩm mĩ của tác phẩm không tách rời với vẻ đẹp văn hóa dân
tộc, văn hóa thời đại. Như vậy hình tượng nghệ thuật thể hiện sự vươn tới giá trị văn
hóa nhưng đồng thời chính văn hóa dân tộc, văn hóa thời đại có tác dụng soi sáng,
định hướng ý nghĩa thẩm mĩ của hình tượng nghệ thuật.
Thực chất, sự tiếp nhận được xem là trọn vẹn hơn khi người đọc chiếm lĩnh
được cả mặt văn học và mặt văn hóa của tác phẩm văn chương. Tiếp cận văn hóa
không thể đứng độc lập, không phải là cách tiếp cận độc tôn trong quá trình dạy học
tác phẩm văn chương nói chung và dạy học AĐĐTCDS? nói riêng. Bởi lẽ, tiếp cận

văn hóa nhấn mạnh tới sự tác động của văn hóa tới việc xây dựng hình tượng nghệ
thuật và nhấn mạnh tới ý nghĩa văn hóa của tác phẩm đối với bạn đọc. Hay nói cách
khác, tiếp cận văn hóa đề cập đến sự ảnh hưởng của văn hóa vào trong sáng tác văn
chương. Trong khi đó, khi sáng tác văn chương, nhà văn không chỉ chịu ảnh hưởng
của văn hóa mà còn phải tuân theo một quá trình của sự tư duy văn học như tư duy
ngôn ngữ, kết cấu, giọng điệu,…Do đó tiếp cận văn hóa là một cách tiếp cận bổ sung
nhưng hết sức cần thiết cho các cách tiếp cận khác trong dạy học văn nói chung, trong
dạy học đoạn trích AĐĐTCDS? nói riêng. Cách tiếp cận văn bản chỉ chú trọng đến
văn bản mà không chú ý đến sự tác động ngoài văn bản. Tiếp cận thi pháp cũng chỉ
căn cứ vào văn bản nhưng có khác ở chỗ là đặt văn bản nghệ thuật trong hệ thống
nguyên tắc sáng tác của giai đoạn văn học, hay xem xét đánh giá nội dung qua các
yếu tố hình thức…Tiếp cận lịch sử phát sinh là đặt văn bản nghệ thuật trong bối cảnh
lịch sử mà nó ra đời và xem văn bản nghệ thuật như là một kết quả tất yếu của bối
cảnh xã hội lịch sử đó. Tiếp cận đáp ứng coi văn bản nghệ thuật ứng với nhu cầu nào
đó của người học và khai thác trên phương diện đó. Có thể thấy, tiếp cận văn hóa là
sự bổ sung đắc lực cho tiếp cận thi pháp. Bởi lẽ, những yếu tố hình thức của tác phẩm
nhiều khi lại chịu sự qui định của văn hóa. Tiếp cận văn hóa hỗ trợ tiếp cận lịch sử
phát sinh, làm mở rộng sự tác động của những yếu tố bên ngoài văn bản. Tiếp cận văn
hóa kết hợp với tiếp cận văn bản làm hạn chế sự hiểu biết, khám phá tác phẩm văn
học một cách nguyên tắc và cứng nhắc. Tiếp cận văn hóa cũng giúp cho cách tiếp cận
đáp ứng không đi quá sự đòi hỏi mang tính chất cá nhân mà đưa sự đáp ứng vào
những quỹ đạo chung của những giá trị văn hóa dân tộc và thời đại.
15
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vị trí của đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” trong chương
trình Ngữ văn 12
Chương trình Ngữ văn 12 hiện nay đã mở rộng mốc lịch sử văn học đến cuối
thế kỉ XX và đưa một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn cuối này vào sách
giáo khoa Ngữ văn. Chương trình quan niệm, văn học Việt Nam từ sau 1975 đến 2000
là thành tựu của văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng tám dưới sự lãnh đạo của

Đảng. Có thể gọi đây là Văn học thời kì đổi mới. Như vậy, so với chương trình và
Sách giáo khoa cũ, chương trình, Sách giáo khoa Ngữ văn 12 hiện nay có thay đổi
trong việc lựa chọn tác giả, tác phẩm mới được chia theo cụm thể loại. Về kí, Ai đã
đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) và hồi kí Những năm tháng không
thể nào quên (Võ Nguyên Giáp) là những tác phẩm mới đưa vào chương trình.
AĐĐTCDS? ban đầu có tên là Hương ơi, e phải mày chăng? là bài bút kí do nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào ngày 4 ngày 1 năm 1981, và được in trong tập sách
cùng tên vào năm 1984. Một phần bài bút kí

đã được đưa vào giảng dạy trong chương
trình Ngữ văn 12, và được đánh giá là một đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về
sông Hương.
AĐĐTCDS? là một bút kí đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu
chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một
biểu tượng của Huế.
Trong sách Tuyển chọn & giới thiệu Ngữ văn

có đoạn phân tích, tóm tắt như:
Vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như
“một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và
mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như
“người mẹ phù sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì
vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm
thiết tha với Huế, với một vốn văn hóa phong phú và một vốn ngôn từ giàu có và đậm
chất thơ của tác giả.
Đọc những trang viết về Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường (trong đó có bài
AĐĐTCDS?), nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, đã nhận xét: Nói rằng
Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên. Tôi
muốn đi xa hơn, tìm một căn nguyên thấm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mỹ mãn
của những trang viết ấy: phải chăng ở đây đã có một sự hòa hợp, tương giao, linh

ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung
động, nhạy cảm, tinh tế. Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh
ra được những áng văn tài hoa không dễ một lần thứ hai viết được như thế. Ngỡ như
không khác được: viết về sông Hương là phải vậy, viết về “văn hóa vườn” ở Huế là
phải vậy. Đó là những áng văn, câu chữ được chọn lựa cân nhắc kỹ càng, vì hình ảnh
16
được sáng tạo đẹp đẽ, vì cảm xúc phong phú bất ngờ, mới mẻ [22]. Và theo Lê
Uyển Văn, thì: Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời
phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân
Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn
Du, những Bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng
mây trời. Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc
Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính
mình
Đoạn trích trong sách Ngữ văn 12 là đoạn miêu tả sông Hương từ bắt đầu nơi
rừng già, dòng sông xuôi về miền đất Châu Hoá, uốn mình qua kinh thành Huế rồi đi
về với biển cả. Thế cho nên có một cách tiếp cận tác phẩm là căn cứ vào hình tượng
dòng sông để phân tích với các luận điểm: sông Hương - mãnh liệt nơi rừng già vùng
thượng nguồn; sông Hương - êm đềm nơi đồng bằng và ngoại vi thành Huế; sông
Hương - thơ mộng soi bóng kinh thành Huế; sông Hương - day dứt chia tay Huế để về
với biển cả.
Viết về một dòng sông văn hoá, quả rất cần một tư thế văn hoá. Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã thể hiện được điều này trong bút kí AĐĐTCDS? Rất nhiều trải
nghiệm của một đời viết luôn gắn bó với con người, dân tộc và đất nước đã được đưa
vào đây. Yêu sông Hương nhưng tình yêu ấy không ngăn cản ta yêu những dòng sông
khác có trên trái đất. Và ngược lại, niềm thích thú được quan sát dáng nét độc đáo của
những dòng sông thuộc các vùng miền từng qua lại làm tươi mới trong ta nỗi rung
động bồi hồi rất đặc biệt trước dòng sông quê hương đã nuôi lớn cuộc đời mình.
AĐĐTCDS? - Câu hỏi ấy không chỉ phản ánh một khoảnh khắc xao xuyến của tâm
tư. Cao hơn, nó hé lộ cho ta thấy một tâm thế sống luôn có trách nhiệm với cuộc đời,

luôn biết ngạc nhiên về cái bí ẩn, phong phú vô tận của tạo vật. Và chúng ta sẽ thiếu
sót với xứ Huế, với học sinh nếu không đưa AĐĐTCDS? vào chương trình, sách giáo
khoa Ngữ văn để giảng dạy ở nhà trường phổ thông. Bởi đây là một bút ký đặc sắc,
mà qua đó học sinh sẽ vừa được làm quen với một thể loại văn học, vừa được biết đến
một phong cách bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường tinh tế tài hoa kết hợp nhuần nhuyễn
chất trí tuệ và tính trữ tình, chất nghị luận sắc sảo và sự hiểu biết uyên bác được tổng
hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, địa lý, lịch sử, hội hoạ, âm
nhạc, thơ ca và một xứ Huế thơ mộng với bề dày lịch sử, văn hóa thâm sâu…
1.2.2. Thực trạng của dạy học đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
trong chương trình Ngữ văn 12
1.2.2.1. Khảo sát Sách giáo khoa
- Phần “kết quả cần đạt”:
Theo định hướng trong Sách giáo khoa, giáo viên và học sinh cần đạt được
những kết quả sau khi dạy học đoạn trích AĐĐTCDS?:
17
Giáo viên tổ chức giảng dạy để giúp học sinh hiểu được tình yêu, niềm tự hào
tha thiết, sâu lắng của tác giả dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu và
cũng là cho đất nước.
Giáo viên phải giúp học sinh nắm được đặc trưng của thể loại bút kí và nghệ
thuật viết bút kí trong bài AĐĐTCDS?.
- Phần “Tiểu dẫn”:
Ở phần tiểu dẫn, các chuyên gia soạn sách cung cấp tương đối đầy đủ những
thông tin cơ bản, cần thiết về tiểu sử và sự nghiệp văn chương của Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
Khi đánh giá về phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, các
chuyên gia soạn sách đã nhận định: Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà
văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong các sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần
nhuyễn giũa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều
được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,…Tất
cả thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. AĐĐTCDS? là

bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế, ngày 4-1-1981, in trong tập sách cùng tên. Bài bút kí
có ba phần, văn bản trích thuộc phần thứ nhất.
Các chuyên gia soạn sách cũng đã khẳng định, kiến thức văn hóa chính là một
trong những yếu tố làm nên nét đặc sắc trong các sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc
Tường trong đó có tác phẩm AĐĐTCDS?. Thế nhưng, trong phần yêu cầu cần đạt,
các chuyên gia soạn sách lại không nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa, một trong những
yếu tố quan trọng làm nên cái hay, sức hấp dẫn, vẻ đẹp của bài kí.
- Phần “văn bản”:
Bài bút kí AĐĐTCDS? có ba phần. Văn bản trích học trong Sách giáo khoa
thuộc phần thứ nhất của bài kí. Đoạn trích AĐĐTCDS? có dấu hiệu phân chia 3
phần :
Phần một: từ đầu đến “dưới chân núi Kim Phụng”.
Phần hai: “Phải nhiều thế kỉ … quê hương xứ sở”.
Phần ba: “Hiển nhiên là sông Hương …” cho đến hết.
Phía cuối mỗi trang văn bản có chú thích những từ khó hiểu, các tư liệu văn
học, văn hóa được tác giả sử dụng trong đoạn trích.
Có thể nhận thấy, phần văn bản đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần hay
nhất trong bài bút kí AĐĐTCDS? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Có rất nhiều tư liệu
văn học, lịch sử, văn hóa,… được tác giả sử dụng trong đoạn trích để làm nên vẻ đẹp
18
đặc biệt của dòng sông Hương, dòng sông văn hóa của xứ Huế. Thế nhưng, phần chú
thích của văn bản lại chưa chú ý nhiều đến những địa danh văn hóa của Huế, nơi dòng
sông Hương chảy qua, chưa chú thích một số câu ca dao, thơ được sử dụng trong
đoạn trích. Sự xuất hiện một loạt các địa danh văn hoá vốn gắn liền với xứ Huế, như
muốn nói với bạn đọc: sông Hương chính là hiện thân, là bộ mặt, là linh hồn của văn
hóa xứ Huế. Yếu tố văn hóa này cần được nhấn mạnh và khắc sâu cho học sinh khi
các em đọc văn bản.
- Phần “Hướng dẫn học bài”:
Các chuyên gia soạn sách đưa ra 5 câu hỏi ở nhiều mức độ khác nhau:
Câu hỏi 1: Sông Hương vùng thượng nguồn được tác giả miêu tả như thế nào?

Những hình ảnh, chi tiết, những liên tưởng và thủ pháp nghệ thuật nào cho thấy nét
riêng trong lối viết kí của tác giả?
Câu hỏi 2: Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố
bộc lộ những phẩm chất nào trong ngòi bút của tác giả? Hiệu quả thẩm mĩ của lối viết
đó?
Câu hỏi 3: Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế có nét đặc trưng gì? Phát
hiện của tác giả về nét riêng biệt của dòng sông cho thấy những điều gì trong tình cảm
của tác giả với xứ Huế và với dòng sông?
Câu hỏi 4: Tác giả đã tô đậm những phẩm chất gì của sông Hương trong lịch sử
và thơ ca? Phân tích cách nhìn độc đáo mang tính phát hiện của tác giả.
Câu hỏi 5: Qua đoạn trích, anh (chị) có nhận xét gì về nét riêng trong văn
phong của tác giả?
Có thể nhận thấy, 5 câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài chỉ tập trung giúp
học sinh nắm được bố cục của đoạn trích. Từ đó, tìm hiểu trong từng phần của đoạn
trích nét đặc sắc về nội dung của bài bút kí và phong cách tác giả trên các bình diện:
Cảm xúc và suy tư, giọng điệu, hình ảnh và ngôn ngữ. Các tri thức văn hóa kết tinh
trong đoạn trích chưa được xem trọng và nhấn mạnh.
- Phần ghi nhớ:
Sau khi dạy học đoạn trích AĐĐTCDS?, giáo viên cần khắc sâu các kiến thức
quan trọng trong phần ghi nhớ cho học sinh:
Đoạn trích bài bút kí AĐĐTCDS? là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về
sông Hương.
19
Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn văn là những xúc cảm sâu lắng được
tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí và văn chương
cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
1.2.2.2. Khảo sát thực trạng dạy đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
của giáo viên (khảo sát 10 giáo viên dạy văn 12)
Câu 1: Thầy cô đã từng đọc toàn bộ tác phẩm AĐĐTCDS? của Hoàng Phủ
Ngọc Tường chưa?

A. Nhiều lần: 0/10 phiếu, chiếm 0%
B. Một lần: 3/10 phiếu, chiếm 30%
C. Chưa lần nào do không tìm được tài liệu: 5/10 phiếu, chiếm 50%
D. Chưa lần nào do thấy không cần thiết: 2/10 phiếu, chiếm 20%
Câu 2: Các thầy cô tham khảo nguồn tài liệu chủ yếu nào để soạn đoạn trích
AĐĐTCDS??
A. Sách giáo viên, Sách tham khảo: 9/10 phiếu, chiếm 90%
B. Tạp chí , truyền hình: 1/10 phiếu, chiếm 10%
C. Internet: 10/ 10 phiếu, chiếm 100%
D. Không tham khảo: 0/10 phiếu, chiếm 0%
Câu 3: Thầy cô chuẩn bị những phương tiện trực quan nào phục vụ cho bài dạy
về đoạn trích AĐĐTCDS??
A. Tranh vẽ về Huế: 1/10 phiếu, chiếm 10%
B. Hình ảnh về Huế: 5/ 10 phiếu, chiếm 50%
C. Phim tư liệu về sông Hương và Huế: 1/ 10 phiếu, chiếm 10%
D. Không dùng phương tiện trực quan nào: 5/10, chiếm 50%
Câu 4: Đánh giá của thầy cô về đoạn trích AĐĐTCDS??
A. Đặc sắc: 2/10 phiếu, chiếm 20 %.
B. Hay: 3/10 phiếu, chiếm 30%
C. Bình thường 5/ 10 phiếu, chiếm 50%
20
D. Khó dạy 9/10 phiếu, chiếm 90 %
Câu 5: Khi dạy đoạn trích AĐĐTCDS? thầy cô quan tâm đến nội dung nào
nhất?
A. Phong cách viết kí của tác giả: 5/10 phiếu, chiếm 50%
B. Tình yêu, niềm tự hào của tác giả đối với Huế: 5/10 phiếu, chiếm 50%
C. Vẻ đẹp văn hóa của Huế: 4/10 phiếu, chiếm 40%
D. Yếu tố địa lí, lịch sử qua dòng chảy của sông Hương: 8/10 phiếu, 80%.
Câu 6: Vẻ đẹp văn hóa của Huế trong đoạn trích AĐĐTCDS? được thầy cô
đánh giá như thế nào?

A. Quan trọng: 2/10 phiếu, chiếm 20%
B. Bình thường: 6/10 phiếu, chiếm 60%
C. Ít quan trọng: 2/10 phiếu, chiếm 20%
D. Không quan trọng: 0/10 phiếu, 0%
Câu 7: Thầy cô được đánh giá như thế nào về bài giảng của mình khi dạy đoạn
trích AĐĐTCDS??
A. Tốt: 2/10 phiếu, chiếm 20%
B. Khá: 4/10 phiếu, chiếm 40%
C. Trung bình: 6/10 phiếu, chiếm 60 %
D. Yếu: 0/10 phiếu, chiếm 0%
Câu 8: Nếu cần khắc sâu vẻ đẹp văn hóa trong đoạn trích AĐĐTCDS?, thầy cô
chú ý đến yếu tố văn hóa nào?
A. Các địa danh văn hóa của Huế: 2/10 phiếu, chiếm 20%
B. Các vẻ đẹp văn hóa truyền thống của Huế: 3/10 phiếu, chiếm 30 %
C. Hình ảnh con người xứ Huế: 2/10 phiếu, chiếm 20 %
D. Thiên nhiên Huế: 5/10 phiếu, chiếm 50%
Qua 8 câu hỏi trong phiếu khảo sát thực tế dạy học đoạn trích AĐĐTCDS? của
giáo viên dạy lớp 12 ở trường THPT Võ Trường Toản, THPT Sông Ray, THPT Xuân
21
Mỹ, chúng tôi nhận thấy phần lớn quí thầy cô đều có tinh thần tốt trong việc soạn
giảng; 100% giáo viên đã có tham khảo các nguồn tài liệu khác nhau nhằm mục đích
làm cho bài giảng của mình sâu sắc hơn; 50% giáo viên có sử dụng các phương tiện
trực quan nhằm làm phong phú hơn cho bài giảng của mình; 70% chú ý đến mục tiêu
cần đạt khi giảng dạy đoạn trích AĐĐTCDS?; 20% giáo viên có cố gắng trong việc
khắc sâu các tri thức văn hóa được kết tinh trong đoạn trích. Tuy nhiên, bên cạnh
những giáo viên tâm huyết, có sự đầu tư cao trong bài dạy của mình, vẫn còn một số
giáo viên chưa thật sự đầu tư nhiều cho việc soạn giảng và tổ chức giảng dạy đoạn
trích AĐĐTCDS?: 20% giáo viên chưa từng đọc hết tác phẩm AĐĐTCDS? vì cho là
không cần thiết; 70% giáo viên không đầu tư nhiều cho soạn giáo án, sao chép giáo án
trên mạng hoặc của các đồng nghiệp khác để đối phó với tổ trưởng, Ban giám hiệu, và

thanh tra Sở. 50% giáo viên không sử dụng các phương tiên trực quan để minh họa
cho bài dạy vì cho là không cần thiết. 80% không chú ý nhiều đến các tri thức văn hóa
được kết tinh trong bài kí.
1.2.2.3. Khảo sát thực trạng học đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
của học sinh (150 phiếu khảo sát)
- Câu 1: Trước giờ học đoạn trích AĐĐTCDS? thầy cô dặn dò em điều gì?
A. Học thuộc bài cũ và soạn bài cho tiết học sau: 100/ 150 phiếu, chiếm 67
%
B. Hướng dẫn một số câu hỏi khó trong phần hướng dẫn học bài của bài học
sắp tới :20/150 phiếu, chiếm 13,3%
C. Phân việc cho mỗi nhóm để chuẩn bị bài cho tiết học sau: 10/150 phiếu,
chiếm 6,4 %
D. Không dặn dò gì: chiếm 20/150 phiếu, chiếm 13,3%
Câu 2: Tình hình soạn bài của em trước giờ học đoạn trích AĐĐTCDS??
A. Soạn đầy đủ, kĩ lưỡng: 50/150 phiếu, chiếm 33%
B. Soạn không đầy đủ: 50/150 phiếu, chiếm 33%
C. Soạn sơ sài: 30/150 phiếu, chiếm 20%
D. Không soạn bài: 20/150 phiếu, chiếm 14%
Câu 3: Khi soạn đoạn trích AĐĐTCDS?, em đã tiếp cận những nguồn tài liệu
nào?
A. Sách giáo khoa, sách tham khảo: 100/150 phiếu, chiếm 67%
22
B. Internet: 10/150 phiếu, chiếm 6,7 %
C. Truyền hình, tạp chí, báo: 0/150 phiếu, chiếm 0%
D. Không sử dụng tài liệu (chép bài bạn): 40/150 phiếu, chiếm 26,3%
Câu 4: Khi học đoạn trích, AĐĐTCDS? em lưu ý những nội dung nào?
A. Dòng chảy sông Hương khi đi qua những vùng miền khác nhau: 75/150
phiếu, chiếm 50%
B. Phong cách viết kí của tác giả: 40/ 150 phiếu, chiếm 27%
C. Vẻ đẹp văn hóa Huế: 20/150 phiếu, chiếm 13%

D. Không lưu ý gì: 15/ 150 phiếu, chiếm 10%
Câu 5: Khi học đoạn trích AĐĐTCDS?, em chú ý đến yếu tố văn hóa nào?
A. Các địa danh văn hóa của Huế: 20/150 phiếu, chiếm 13,3%
B. Vẻ đẹp của người con gái Huế: 10/150 phiếu, chiếm 6,7%
C. Vẻ đẹp của lễ hội, âm nhạc Huế: 10/ 150 phiếu, chiếm 6,7 %
D. Không chú ý: 110/150 phiếu, chiếm 73,3%
Câu 6: Đánh giá của em khi học đoạn trích AĐĐTCDS??
A. Đặc sắc: 20/150 phiếu, chiếm 13,4 %
B. Hay: 30/ 150 phiếu, chiếm 20%
C. Bình thường: 50/150 phiếu, chiếm 33,3%
D. Dài : 50/150 phiếu, chiếm 33,3%
Câu 7: Khi học đoạn trích này em có thích cách dạy của thầy cô không?
A. Có: 50/150 phiếu, chiếm 33,3 %
B. Có nhưng tùy phần: 30/150 phiếu, chiếm 20%
C. Không : 30/150 phiếu, chiếm 20%
D. Bình thường: 40/150 phiếu, chiếm 26,7%
23
Câu 8: Em mong muốn thầy cô thay đổi điều gì trong quá trình dạy học đoạn
trích AĐĐTCDS??
A. Không đọc chép quá nhiều: 30/150 phiếu, chiếm 20%
B. Sử dụng phương tiện trực quan: 50/150 phiếu, chiếm 33,3%
C. Tăng cường hoạt động của học sinh: 60/150 phiếu, chiếm 40%
D. Không cần thay đổi: 10/150 phiếu, chiếm 6,7 %
Qua 8 câu hỏi khảo sát thực tế việc học đoạn trích AĐĐTCDS? của học sinh 12
ở trường THPT Võ Trường Toản, chúng tôi nhận thấy: hầu hết các em học sinh đều
có tinh thần tốt trong việc soạn bài ở nhà. 67% học sinh tự giác soạn bài và tham khảo
các tài liệu mà giáo viên hướng dẫn, trong đó có 33% học sinh soạn bài kĩ và có ý
thức học tập tốt. Về kiến thức, 70% học sinh nắm được kiến thức cơ bản của bài học.
13% học sinh có lưu ý đến các tri thức văn hóa của đoạn trích. 50% học sinh có hứng
thú, yêu thích khi tiếp nhận đoạn trích. Tuy thế, còn nhiều học sinh chưa tích cực và ý

thức trong học tập: Soạn không đầy đủ:chiếm 33%, soạn sơ sài chiếm 20%, không
soạn bài chiếm 14%. 30% không nắm được các kiến thức cơ bản của bài học, học văn
với tính chất đối phó, không mấy chú tâm
1.2.3. Nguyên nhân của thực trạng dạy – học đoạn trích “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?”
Qua quá trình điều tra, khảo sát, phân tích về chương trình, định hướng giảng
dạy của Sách giáo khoa, Sách giáo viên Ngữ văn 12, việc tổ chức giảng dạy của giáo
viên, việc học tập của học sinh về đoạn trích “AĐĐTCDS?”, chúng tôi cho rằng việc
định hướng cũng như việc dạy và học như thế là chưa thể hiện trọn vẹn vẻ đẹp vốn có
của đoạn trích “AĐĐTCDS?” nói riêng cũng như tác phẩm nói chung. Thực trạng
trên là do những nguyên nhân sau:
- Trong phần định hướng giảng dạy đoạn trích AĐĐTCDS?, Sách giáo khoa và
Sách giáo viên đều không nhấn mạnh đến kiến thức văn hóa, một trong những yếu tố
làm nên hương sắc, vẻ đẹp riêng của đoạn trích cũng như của tác phẩm.
- Trong quá trình tổ chức giảng dạy đoạn trích AĐĐTCDS?, thầy cô thường
phụ thuộc quá nhiều vào định hướng của Sách giáo khoa và Sách giáo viên. Giáo viên
xem những định hướng đó là những chuẩn mực cần đạt được và không thể thay đổi
trong giảng dạy. Chính vì thế, thầy cô thường không có những sáng tạo, đổi mới,
Trong khi quá trình tổ chức cho học sinh tiếp nhận một tác phẩm văn chương là một
quá trình dân chủ theo định hướng mở nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của các
em học sinh.
24
- Trong nhà trường phổ thông, khi tiếp nhận tác phẩm văn chương, học sinh
chịu sự chi phối và ảnh hưởng nhiều bởi việc tổ chức, định hướng giảng dạy của giáo
viên. Thầy cô giảng thế nào thì học sinh học thế ấy. Khi dạy đoạn trích AĐĐTCDS?
thầy cô không chú trọng đến kiến thức văn hóa thì học sinh cũng chẳng thiết tha gì. Vì
vậy giá trị văn hóa, vẻ đẹp của đoạn trích vô tình bị bỏ quên. Một trong những kiến
thức quan trọng để giáo dục học sinh niềm tự hào, tình yêu bản sắc văn hóa truyền
thồng của dân tộc.
Từ cơ sở lý luận liên quan đến đề tài và thực tế dạy học đoạn trích AĐĐTCDS?

hiện nay, chúng tôi nhận thấy cần phải tổ chức cho học sinh tiếp nhận đoạn trích theo
hướng tiếp cận văn hóa, nhằm giúp học sinh có thể khám phá vẻ đẹp đa chiều của tác
phẩm đồng thời, thông qua việc tiếp nhận đoạn trích, HS còn nắm bắt được nhiều tri
thức văn hóa bổ ích. Hơn thế nữa, giáo viên cũng phát huy được tính tích cực chủ
động sáng tạo của HS trong tiếp nhận tác phẩm văn học, nâng cao hiệu quả dạy và
học môn Ngữ văn.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội. Nó là cội nguồn,
là động lực phát triển của toàn thể cộng đồng, của bản thân mỗi cá nhân. Nơi nào
càng có bề dày văn hóa thì nơi đó càng có khả năng khẳng định vị thế, sức mạnh của
mình. Văn hóa tồn tại ở dạng hữu hình: đình chùa, miếu mạo, lăng tẩm, danh lam
thắng cảnh,… hoặc vô hình: tình cảm, tâm hồn, cách nghĩ, lối sống,… của con người.
Nó có chức năng giáo dục nhằm hoàn thiện con người và xã hội theo chuẩn mực Chân
– Thiện – Mĩ.
Đoạn trích AĐĐTCDS? có rất nhiều yếu tố văn hóa. Đây chính là những yếu tố
làm nên hương sắc riêng, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm. Nó giúp học sinh trau dồi
những kiến thức văn hóa cần thiết làm hành trang cho cuộc sống của mình. Vì vậy,
khi dạy đoạn trích AĐĐTCDS?, giáo viên phải định hướng cho học sinh tìm và giải
mã các yếu tố văn hóa có trong đoạn trích.
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu yếu tố văn hóa liên quan đến đoạn trích
trong phần tiểu dẫn
Với công trình: “Nghĩ từ công việc dạy văn”, nhà giáo Đỗ Kim Hồi cho rằng:
“Trong Sách giáo khoa Văn, các phần tiểu dẫn, chú thích chỉ được in bằng chữ nhỏ.
Hẳn không mấy giáo viên có thể không nhờ cậy vào các chú dẫn trong sách mà vẫn
dạy nổi, dạy tốt mọi tiết giảng văn. Còn đối với học sinh, những hàng chữ nhỏ lại
chính là lời giảng giải của người hướng dẫn lớn, chúng làm cho các em có điều kiện
thân quen với những áng văn vốn xa lạ với bản thân nhiều mặt”[9].
Vì vậy, những tri thức ngoài văn bản trong phần tiểu dẫn là rất quan trọng và
cần thiết cho quá trình tổ chức, hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm văn chương.
25

×