Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Giúp học sinh hình thành và vận dụng linh hoạt kiến thức lí luận khi làm dạng đề lí luận văn học trong đề thi học sinh giỏi môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.53 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
1.3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
1.4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

TRANG
1
1
1
2
2
2
3
3
3
4
19
20
20


20

0


1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là công việc hàng năm của mỗi giáo viên. Được
giao nhiệm vụ phụ trách đội tuyển vừa là trách nhiệm, niềm vui vừa là nỗi lo lắng
trăn trở của giáo viên. Đây là cơ hội để mỗi thầy cô tự rèn luyện, nâng cao trình độ
chuyên môn. Qua mỗi lần bồi dưỡng học sinh giỏi, trình độ chuyên môn của giáo
viên càng được củng cố và vững vàng hơn trong nghề nghiệp của mình. Nỗi lo
lắng, trăn trở của mỗi thầy cô phụ trách đội tuyển là làm sao để nâng cao được chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi, để kết quả thi đạt được như mong muốn.
Nghề giáo viên là nghề luôn phải buồn – vui vì nghề nghiệp. Niềm vui, nỗi
buồn của người giáo viên gắn liền với niềm vui nỗi buồn của học trò. Mỗi lúc học
trò thành công, thầy cô vui; trò thất bại, thầy cô buồn. Tôi cảm nhận rất rõ niềm
vui, nỗi buồn trong lòng mình mỗi lúc như vậy. Mỗi năm ôn luyện, bồi dưỡng học
sinh giỏi cô trò luôn mong mỏi và đề ra mục tiêu cần đạt được. Nhưng kết quả đôi
lúc vẫn không được như mong muốn. Số lượng học sinh đạt giải tuy năm nào cũng
chiếm 80% đến 100% số học sinh dự thi nhưng chất lượng giải chưa cao. Phần lớn
chỉ dừng lại ở giải khuyến khích hoặc giải ba. Đó là điều mà tôi cũng như nhiều
đồng nghiệp trăn trở: Phải chăng do năng lực học sinh hạn chế? Hay do phương
pháp bồi dưỡng chưa đúng cách? Làm sao để nâng cao chất lượng học sinh giỏi bộ
môn Ngữ văn?
Tham khảo ý kiến nhiều thầy cô giáo có uy tín, kinh nghiệm trong công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi nhận thấy rằng: cần phải trang bị thêm cho học sinh hệ
thống kiến thức lí luận văn học để bài viết của các em đủ độ “dày” hơn, lập luận
sâu sắc hơn, có như vậy thì bài viết mới có sức thuyết phục. Trao đổi với học sinh
về khó khăn của các em khi làm các đề thi học sinh giỏi, các em đều có chung ý

kiến rằng còn lúng túng khi gặp các dạng đề lí luận văn học vì thiếu kiến thức lí
luận văn học, các em thường đi vào chứng minh vấn đề nghị luận bằng cảm tính
mà bỏ qua phần lí luận. Tôi cho rằng đó cũng là một trong những lí do cơ bản
khiến kết quả thi học sinh giỏi chưa cao cho dù học sinh diễn đạt rất tốt, thẩm bình
rất hay. Tôi nghĩ đến việc trang bị kiến thức lí luận văn học cho học sinh ngay từ
khi mới lựa chọn đội tuyển với hi vọng sẽ cải thiện được chất lượng giải học sinh
giỏi. Năm học 2016 -2017, tôi đã làm sáng kiến kinh nghiệm về việc trang bị kiến
thức lí luận văn học để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi và bước đầu đã
có tác động tích cực tới chất lượng giải đội tuyển do bản thân phụ trách. Bởi vậy,
năm học này tôi tiếp tục bổ sung, hoàn thiện sáng kiến lần trước của mình để đạt
hiệu quả cao hơn trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Tôi chọn đề tài: Giúp
học sinh hình thành và vận dụng linh hoạt kiến thức lí luận khi làm dạng đề lí
luận văn học trong đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn, nâng cao hiệu quả bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn trung học phổ thông làm sáng kiến kinh
nghiệm của mình trong năm học 2018 – 2019.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Tôi thực hiện đề tài này nhằm hướng tới một số mục đích cơ bản sau:
1


Thứ nhất: Hình thành, củng cố kiến thức lí luận văn học - một mảng kiến
thức cần có đối với học sinh giỏi môn Ngữ văn.
Thứ hai: Vận dụng linh hoạt kiến thức lí luận khi làm dạng đề lí luận văn
học. Giải quyết khó khăn của học sinh vì thiếu kiến thức lí luận khi làm các đề thi
học sinh giỏi. Học sinh có nền tảng lí luận vững chắc sẽ không còn “ngại”, lúng
túng khi gặp các dạng đề liên quan đến lí luận văn học – dạng đề thường thấy trong
các đề thi học sinh giỏi.
Thứ ba: Nâng cao chất lượng, hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Xây dựng đề tài này, tôi tập trung vào nghiên cứu cách trang bị kiến thức lí

luận, giúp học sinh vận dụng linh hoạt mảng kiến thức này nhằm nâng cao hiệu bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn, giải quyết khó khăn của học sinh khi gặp các
dạng đề lí luận văn học.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
* Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lí thuyết.
Để xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài, tôi đã trao đổi kinh nghiệm trang bị
kiến thức lí luận văn học với nhiều thầy cô giáo có uy tín, bề dày trong công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi, tìm cho mình cách thức tốt nhất để bồi dưỡng mảng kiến
thức này cho học sinh.
* Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
Tìm hiểu ý kiến của học sinh khi giải quyết các đề thi học sinh giỏi để tìm ra
đâu là điểm khó khăn về lí luận văn học mà các em gặp phải để tìm cách bổ sung
kiến thức cho các em.
Đọc bài của học sinh để tìm ra những thiếu hụt về kiến thức lí luận văn học
trong chính bài làm của các em.
*Thu thập, xử lí thông tin.
Tôi tiến hành thu thập ý kiến của học sinh khi giải quyết các đề thi liên quan
đến kiến thức lí luận văn học; sau đó tìm kiếm các tài liệu lí luận văn học cần thiết
đối với học sinh, soạn thành giáo án, biến các vấn đề lí luận khô khan, có tính hàn
lâm thành các bài giảng có dẫn chứng cụ thể, sinh động để học sinh dễ tiếp thu.
1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Tôi phát triển đề tài này từ sáng kiến của năm học 2016 – 2017: Kinh
nghiệm trang bị kiến thức lí luận văn học nhằm giải quyết khó khăn của học
sinh khi làm dạng đề lí luận văn học, nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Ngữ văn THPT. Sáng kiến đã được HĐKH Ngành GD tỉnh xếp loại C.
Qua thực tế ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi thấy rằng vẫn phải bổ sung một
vài giải pháp và nội dung kiến thức lí luận chưa thực sự đầy đủ trong đề tài sáng
kiến kinh nghiệm trước. Những điểm mới của đề tài năm học này là:
2



+ Không chỉ trang bị kiến thức lí luận văn học mà còn đề ra giải pháp để học sinh
vận dụng linh hoạt kiến thức lí luận văn học khi giải quyết các dạng đề lí luận
có đề cập đến nhiều mảng kiến thức lí luận khác nhau.
+ Bổ sung một số vấn đề lí luận văn học còn thiếu hoặc chưa hoàn thiện trong sáng
kiến kinh nghiệm năm học 2016 -2017. Gồm có:
* Đặc trưng ngôn ngữ thơ – Thơ hay.
* Tính nhạc và âm điệu trong thơ.
* Đơn giản hóa một số vấn đề lí luận văn học để học sinh dễ tiếp nhận.
* Làm sâu sắc hơn một số vấn đề lí luận: Chức năng của văn học; Tiếp nhận
văn học; Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống; Mối quan hệ giữa nội
dung và hình thức; Đặc trưng của thơ: Tình cảm – yếu tố sinh mệnh của thơ…
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Lí luận văn học là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lí thuyết khái
quát, bao gồm trong đó sự khảo cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã
hội – thẩm mĩ của nó; đồng thời xác định phương pháp luận và phương pháp phân
tích văn học. Lí luận văn học tuy là kiến thức lí thuyết khái quát có phần khô khan
nhưng nó lại là “kim chỉ nam” cho người học văn, đọc văn, cảm thụ văn chương.
Thiếu kiến thức lí luận, người đọc, học văn không tránh khỏi việc cảm thụ tác
phẩm văn học một cách hời hợt, mơ hồ, chung chung, thiếu chiều sâu, sự bàn bạc,
chứng minh không có cơ sở lí luận vững chắc không thể thuyết phục người đọc.
Đối với đối tượng là học sinh giỏi, việc hình thành và vận dụng linh hoạt
kiến thức lí luận văn học giúp học sinh có những bình luận, đánh giá, nhận xét
chuẩn xác hơn về một hiện tượng văn học nào đó; khắc phục tình trạng thiếu chiều
sâu, giúp bài viết của các em trở nên sâu sắc hơn về ý tưởng, chặt chẽ hơn về lập
luận, thuyết phục hơn khi đưa ra luận cứ.
Vì vậy, việc hình thành và vận dụng kiến thức lí luận văn học là việc làm
cần thiết trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm nâng cao hiệu quả bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn THPT, giúp học sinh không còn lúng túng khi

gặp những dạng đề lí luận văn học.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ KHI CHƯA ÁP DỤNG SÁNG KIẾN.
Như trên đã đề cập đến tầm quan trọng của kiến thức lí luận văn học đối với
học văn, đọc văn, cảm thụ văn chương; càng quan trọng hơn với học sinh giỏi môn
Văn. Nhưng thực tế chương trình sách giáo khoa hiện nay những bài học lí luận
còn quá ít. Như vậy là chưa đủ đối với học sinh giỏi trong khi đề thi đề cập đến hầu
hết các phạm trù lí luận văn học. Tài liệu tham khảo về lí luận văn học tuy nhiều
nhưng đa số trình bày phức tạp, hàn lâm, khó tiếp nhận đối với tầm nhận thức của
học sinh. Ở cấp THCS, các em chưa được tiếp xúc nhiều với dạng đề lí luận văn
học, chưa có kiến thức về lí luận văn học.
3


Những năm học trước, khi chưa áp dụng đề tài này, bồi dưỡng học sinh giỏi
mới chỉ tập trung vào hệ thống kiến thức các tác phẩm, tác giả văn học, việc trang
bị kiến thức lí luận còn sơ sài dẫn đến hiệu quả chưa cao, chất lượng giải còn hạn
chế. Cụ thể:
- Năm học 2011-2012: 02 học sinh dự thi đạt 02 giải khuyến khích.
- Năm học 2012-2013: 02 học sinh dự thi đạt 02 giải ba.
- Năm học 2015-2016: 02 học sinh dự thi đạt 01 giải nhì, 01 giải khuyến
khích.
(Thống kê này là kết quả thi học sinh giỏi của học sinh bản thân tôi phụ trách,
không phải kết quả môn Ngữ văn của cả trường)
Từ kết quả trên cho thấy, mặc dù vẫn đảm bảo số lượng giải nhưng chất lượng
giải nhìn chung chưa cao.
Trao đổi với học sinh về khó khăn khi giải quyết các dạng đề thi học sinh
giỏi các em học sinh của đội dự tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn đều có chúng ý
kiến rằng rất lúng túng khi gặp các dạng đề thi học sinh giỏi vì đó đều là dạng đề lí
luận văn học trong khi bản thân lại không đủ hiểu biết về mảng kiến thức này.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.

2.3.1. Tìm hiểu, trao đổi với học sinh về các vướng mắc khi làm các dạng đề lí
luận văn học.
Qua tìm hiểu, trao đổi với học sinh về những khó khăn khi làm các dạng đề
lí luận văn học thì hầu hết các em đều cho rằng phần lí luận của mình còn chưa tốt;
các em thường lúng túng khi bắt tay làm các dạng đề này vì thiếu kiến thức lí luận.
Các em cho rằng những bài học lí luận văn học trong chương trình rất ít và sách
giáo khoa trình bày tương đối sơ lược nên không đủ kiến thức để làm bài trong khi
các đề thi lí luận văn học khá đa dạng và đề cập tới hầu như tất cả các vấn đề lí
luận. Từ việc nắm bắt được khó khăn vướng mắc ấy, tôi lập kế hoạch tự nghiên
cứu tài liệu và bổ sung kiến thức lí luận cho học sinh để kịp thời cung cấp những
kiến thức còn thiếu hụt cho các em.
2.3.2. Giáo viên đọc bài của học sinh và tìm ra những thiếu hụt về kiến thức lí
luận trong bài làm của các em để bổ sung, củng cố mảng kiến thức còn thiếu
hụt.
2.3.3. Giáo viên nghiên cứu tài liệu, tự bồi dưỡng kiến thức lí luận văn học.
Để có tư liệu phục vụ cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi đã phải tìm đọc
nhiều tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, sau đó ghi chép, tổng hợp, phân chia các
phạm trù lí luận. Qua học tập, nghiên cứu, tôi thấy rằng, các vấn đề lí luận văn học
rất rộng, tôi dành sự quan tâm tới các vấn đề lí luận học sinh còn thiếu hụt và các
vấn đề lí luận thường xuất hiện trong các đề thi học sinh giỏi. Gồm có:
-

Chức năng (giá trị) của văn học.

- Tiếp nhận văn học (mối quan hệ nhà văn và độc giả)
4


- Mối quan hệ nội dung và hình thức.
- Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đời sống.

- Đặc trưng của thơ: Tình cảm – yếu tố sinh mệnh của thơ ca.
- Phong cách văn học.
- Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật.
- Đặc trưng ngôn ngữ thơ: Thơ hay.
- Tính nhạc và âm điệu trong thơ.
2.3.4. Hình thành kiến thức lí luận văn học cho học sinh bằng những bài giảng
đã được chuẩn bị chu đáo. Chuyển hóa các vấn đề lí luận văn học khô khan
thành các bài giảng có dẫn chứng cụ thể về thực tế văn học.
Các sách viết về lí luận văn học thường đề cập vấn đề ở lí thuyết khái quát
nên có phần khô khan và hàn lâm, đôi khi khó hiểu, nếu giáo viên cung cấp kiến
thức theo kiểu “bê nguyên si” từ sách vở đến học sinh thì không tránh khỏi việc
học sinh chán học văn, ngại phần lí luận. Vì vậy, từ kiến thức sách vở, giáo viên
phải chuyển hóa thành các bài giảng sinh động, kết hợp giữa lí thuyết và dẫn chứng
cụ thể chứng minh cho lí thuyết. Thêm những lời bình, sự đánh giá giàu cảm xúc
văn học để học sinh hứng thú với vấn đề lí luận mà giáo viên truyền đạt.
Vấn đề 1: Chức năng (giá trị) của văn học.
Nói đến chức năng của văn học là nói đến mục đích, ý nghĩa xã hội của văn
học. Mĩ học và lí luận nghệ thuật macxít hiện nay cho rằng văn học có nhiều chức
năng song tựu chung lại nó có các chức năng chủ yếu sau đây: Chức năng nhận
thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mĩ.
+ Chức năng nhận thức (còn gọi là chức năng phản ánh của văn học).
Văn học với chức năng nhận thức, phản ánh có thể đưa lại cho con người
biết bao tri thức. Văn học có thể đưa ta về với quá khứ xa xưa, làm sống lại trong
ta hình ảnh các phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ, niềm vui nỗi buồn, cái
sướng cái khổ, lời ăn tiếng nói…; tóm lại là đời sống tinh thần và đời sống vật chất
của cha ông, của nhân loại bao đời nay. Người ta nói: Văn học là bộ Bách khoa
toàn thư về cuộc sống là vì vậy.
Nội dung chính của chức năng nhận thức văn học là nhận thức về con người.
Ý nghĩa nhận thức về con người của văn học bộc lộ trong nhiều mặt khác nhau:
trong việc khám phá ra tính cách xã hội điển hình của một giai đoạn, một xã hội,

một tầng lớp nào đó (ví dụ: Chí Phèo, chị Dậu…); trong những lí giải về số phận
con người (như Truyện Kiều, Chiến tranh và hòa bình…); và đặc biệt là sự thâm
nhập vào thế giới bên trong của con người, vào các quá trình tư duy và tình cảm
con người. Nghệ thuật không giải phẫu cơ thể nhưng nó là sự giải phẫu tinh thần
con người, đi vào những ngõ ngách tâm hồn con người, cao hơn là giúp con người
nhận thức bản thân mình: giá trị của mình, vị trí của mình, biết mình phải làm gì và
có thể làm gì cho cuộc sống.
5


Một đặc điểm đáng chú ý của nhận thức nghệ thuật là ở đây dường như
“biết” chưa đủ mà còn “hiểu” mới là cái chính. Tác phẩm thường không nói cái gì
hoàn toàn chưa biết, chưa nghe, chưa nói bao giờ. Nghệ thuật là sự ngạc nhiên vì
khám phá ra điều mới mẻ trong cái quen thuộc hàng ngày, nhận ra cái chí lý sâu xa
trong những gì bình thường, đơn giản.
+ Chức năng giáo dục.
Văn học có chức năng giáo dục ở chỗ nó góp phần tích cực trong việc bồi
dưỡng tâm hồn, trí tuệ, tình cảm, đạo đức…, nói một cách khái quát là góp phần
hình thành, nâng cao, phát triển nhân cách con người. Nghệ thuật trở thành phương
tiện tác động quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm; bởi vì
văn nghệ chính là tình cảm, văn nghệ tác động vào con người cũng là tác động vào
tình cảm. Văn nghệ giáo dục con người bằng con đường tình cảm, vì thế mà văn
nghệ là vũ khí rất sắc bén.
Con đường văn nghệ đến với độc giả, tác động, cải biến độc giả rất tinh tế.
Văn nghệ không phải là người thầy thuyết giáo đạo đức mà như một người bạn
đồng hành tâm tình, đối thoại với độc giả về những vấn đề nhân cách: lương tri và
tội lỗi, cao thượng và thấp hèn, thiện và ác…Văn nghệ như một tấm gương để
người đọc tự soi mình nào đó, người đọc hiểu mình và tự thanh lọc tình cảm của
mình theo cái thiện. Văn nghệ chuyển quá trình giáo dục thành tự giáo dục. Người
đọc say mê vẻ đẹp hình tượng, tự nguyện sống theo vẻ đẹp hình tượng.

Cuối cùng cũng cần lưu ý thêm rằng, sở dĩ nghệ thuật dễ tác động, cải biến
được con người là vì nó hấp dẫn, vui tươi. Ở đây dường như giáo dục, giải trí, vui
chơi là một. Thậm chí chính trong những tác phẩm có vẻ thiếu “nghiêm chỉnh”
nhất (như các thể loại hài hước, châm biếm) thì việc giáo dục, trước hết là giáo dục
đạo đức, lại được đặt ra hết sức nghiêm chỉnh. Chính vì sức mạnh cải biến, tác
động của văn học âm thầm mà mãnh liệt như vậy nên rất đòi hỏi ở người nghệ sĩ
lương tâm, trách nhiệm trước ngòi bút của mình; tránh lối viết cẩu thả để rồi gây
nên những tác động xấu đến sự phát triển, hoàn thiện nhân cách của con người.
+ Chức năng thẩm mĩ.
Nhìn chung chức năng thẩm mĩ của văn học bộc lộ ở chỗ nó có nhiệm vụ
thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Cần hiểu rằng nhu cầu hưởng thụ cái
đẹp là nhu cầu rất tự nhiên, mang tính bản chất của con người. Dù ở đâu, làm gì,
khi nào con người cũng luôn có xu hướng vươn tới cái đẹp. Thỏa mãn nhu cầu về
cái đẹp không phải chỉ riêng văn học nhưng văn học thiên về cái đẹp nhiều hơn cả.
Nhà mĩ học, nhà phê bình văn học nổi tiếng nước Nga Biêlinxki đã nói: “Cái đẹp
là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và
không thể có nghệ thuật. Đó là một định lý”.
Văn học thể hiện chức năng thẩm mĩ, nghĩa là đưa cái đẹp đến với đến với
con người thông qua hình tượng nghệ thuật. Mỗi hình tượng nghệ thuật trong tác
phẩm văn học là kết quả sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ sau quá trình công phu
nhào nặn chất liệu tự nhiên. Một Nguyễn Bá Ngọc dũng cảm cứu bạn thoát chết
6


khỏi bom Mĩ nhưng mình lại hy sinh. Một Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ
châu mai cho bộ đội ta tiến lên diệt giặc Pháp. Một cuộc đời “nâng niu tất cả chỉ
quên mình" của Bác Hồ. Một tiếng thét “Anh em ơi tuốt gươm ra” để giành lại Tổ
quốc của Phan Bội Châu. Một tiếng chửi của Hồ Xuân Hương “Chém cha cái kiếp
lấy chồng chung”. Một tiếng chim chiền chiện hót trên cao. Một áng mây chiều
nhè nhẹ trôi trên bầu trời. Tất cả đều đẹp! Văn học sẽ giúp ta nhận ra cái đẹp đó.

Mặt khác, thấy Sở Khanh ta ghét, Bá Kiến ta thù…Cái ghét cái thù đó cũng đưa ta
đến với cái đẹp bằng con đường phản cảm. Đưa con người đến với cái đẹp, lí luận
coi đó là chức năng thẩm mĩ của văn học.
Vấn đề 2: Tiếp nhận văn học.
* Tiếp nhận trong đời sống văn học:
Bên cạnh hoạt động sản xuất ra của cải vật chất để tồn tại và phát triển, loài
người còn có hoạt động sản xuất rất quan trọng đó là sản xuất ra của cải tinh thần.
Văn chương nghệ thuật là một trong những dạng sản xuất của cải tinh thần của con
người. Quá trình sản xuất ra của cải tình thần – tác phẩm nghệ thuật diễn ra như thế
nào? Phải chăng khi nhà văn nung nấu ý đồ rồi lập sơ đồ, viết, sửa chữa và hoàn
thành tác phẩm là quá trình sản xuất tinh thần đã hoàn tất? Không phải như vậy.
Hiểu một cách đúng đắn và nghiêm ngặt thì xong khâu sửa chữa, việc sáng tạo
nghệ thuật mới chỉ hoàn thành được một công đoạn trong cả quá trình sản xuất. Đó
là công đoạn hoàn thành văn bản tác phẩm. Nếu ví tác phẩm nghệ thuật là đứa con
tinh thần của nhà văn, nhà văn thai nghén, mang nặng đẻ đau thì hoàn thành văn
bản tác phẩm chỉ ứng với lúc đứa con sinh ra, đứa con chào đời. Còn sự sống, cuộc
đời, số phận của nó thế nào thì chưa được nói đến. Số phận của đứa con sẽ được
định đoạt như thế nào là tùy thuộc vào nó và xã hội xung quanh. Số phận của tác
phẩm nghệ thuật như thế nào là tùy thuộc vào nó và những người tiếp nhận nó. Chỉ
đến khi được người đọc tiếp nhận thì hoạt động sáng tạo nghệ thuật mới hoàn tất.
Hoạt động sản xuất tinh thần này cũng giống như hoạt động sản xuất vật chất. Chỉ
có sử dụng mới hoàn tất hành động sản xuất. Một vật phẩm làm ra nhưng không
được đưa vào sử dụng thì nó chẳng có ích lợi gì cho sự sống, nó chẳng có giá trị gì
cả. Một tác phẩm nghệ thuật được viết xong nằm im trong ngăn kéo của nhà văn
hoặc không được ai đoái hoài tới thì chưa phải là tác phẩm nghệ thuật thực sự. Vì
nó chưa được sử dụng. Nghệ thuật có chức năng giao tiếp, khi chưa được giao tiếp
với người đọc thì nghệ thuật chưa sống đúng với vai trò của nó. Quá trình giao tiếp
của nghệ thuật là quá trình sử dụng sản phẩm của nghệ thuật, là quá trình phát huy
tác dụng chức năng của nghệ thuật. Quá trình đó xác định con đường sống, số phận
lịch sử của tác phẩm nghệ thuật.

Sơ đồ của quá trình sáng tác – giao tiếp của văn chương như sau:
Nhà văn – Tác phẩm – Bạn đọc
Như vậy, có 3 giai đoạn của quá trình sinh tồn tác phẩm văn chương: Giai
đoạn 1 là giai đoạn hình thành ý đồ sáng tác, giai đoạn 2 là giai đoạn sáng tác. Đây
là giai đoạn ý đồ sáng tác cộng với tài năng sáng tạo được vật chất hóa trong chất
liệu ngôn ngữ, thành tác phẩm. Giai đoạn 3 là giai đoạn tiếp nhận của bạn đọc. Đây
7


là giai đoạn văn bản tác phẩm thoát li khỏi nhà văn để tồn tại một cách độc lập
trong xã hội, trong từng người đọc:
“ Rồi tác phẩm rời anh như con thuyền rời bến.
Sống cuộc đời riêng anh không dự kiến.
Nó trôi đến các thời gian xa, những năm tháng mơ hồ
Với ngọn gió anh thổi vào buồm trang giấy lúc xa bờ”.
(Con thuyền – Chế Lan Viên)
* Bàn về sự đồng cảm giữa nhà văn và bạn đọc.
M.Gorki từng khẳng định: “Người tạo ra tác phẩm là tác giả nhưng người
quyết định số phận tác phẩm là độc giả”. Tác phẩm văn chương chỉ sống được
trong tấc lòng của người tri kỉ - là bạn đọc. Thế nhưng không phải bạn đọc nào
cũng hiểu được tác phẩm, hiểu được thông điệp thẩm mĩ của tác giả. Thực tế văn
học đã có biết bao chuyện đáng buồn: Người đọc hiểu hoàn toàn sai lệch giá trị của
tác phẩm và tư tưởng của nhà văn. Cho nên ở bất cứ thời đại nào, bất cứ nền văn
học của dân tộc nào cũng đều rất cần tiếng nói tri âm của bạn đọc dành cho tác giả.
Tiếp nhận văn học thực chất là một quá trình giao tiếp. Sự giao tiếp giữa tác giả với
người tiếp nhận là mối quan hệ giữa người nói với người nghe, người viết và người
đọc, người bày tỏ và người sẻ chia cảm thông. Bao giờ người viết cũng mong
người đọc hiểu mình, cảm nhận được những điều mình muốn gửi gắm, kí thác.
Thế nhưng cơ sở nào đem lại sự cảm thông, chia sẻ giữa người đọc và người
viết? Trước hết cần được bắt đầu bằng quy luật sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ

cầm bút trước tiên là để giải bày lòng mình. Khi những trăn trở, suy nghĩ, day dứt,
dằn vặt, vui hay buồn không thể nói với ai thì người nghệ sĩ tìm đến văn học, bởi
“thơ là tiếng lòng”, là tiếng nói hồn nhiên nhất của trái tim. Người nghệ sĩ sáng tác
trước hết là cho chính mình và cho những người thực sự hiểu mình mà thôi. Phải
chăng vì vậy mà khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã đắn đo: “Câu thơ nghĩ
đắn đo không viết/ Viết đưa ai, ai biết mà đưa”. Thế nhưng thơ là “tiếng nói đồng
điệu đi tìm những tâm hồn đồng điệu”. Nhà thơ đồng thời là bạn đọc thơ, như Tế
Hanh nói: Đọc thơ đồng chí ngỡ thơ mình. Nhà văn viết tác phẩm như rải phấn
thông vàng đi khắp nơi, mong có người theo phấn mà tìm về. Cho nên, bạn đọc là
một mắt xích quan trọng trong chu trình sáng tác – tiếp nhận tác phẩm. Bạn đọc
cũng là người có suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc, có niềm vui và nỗi buồn, có cảnh
ngộ và tâm trạng, nhiều khi bắt gặp sự đồng điệu với nhà văn, nhà thơ. Khi hai
luồng sóng tâm tình ấy giao thoa thì tác phẩm sẽ rực sáng lên, trở thành nhịp cầu
nối liền tâm hồn với tâm hồn, trái tim với trái tim. Phải chăng vì thế mà Lưu Quí
Kì viết: “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy
tâm tình của chính mình”. Muốn vậy, người nghệ sĩ ngôn từ phải là người vừa hiểu
mình, vừa hiểu người. Hiểu khát khao mà mình muốn hướng tới và hiểu người đọc
mong muốn điều gì, nói cách khác là phải thấu hiểu mong muốn, khát vọng, của
con người, phải xem những nhu cầu của người đọc là mục đích sáng tạo của thơ
ca:
8


Tả một môi son có khi anh chỉ nói sắc sen hồ.
Phải giấu đi tình cảm của anh như ém quân trong rừng vắng.
Chỉ vì anh nghĩ đến người độc giả mai sau có cái thú đi tìm vàng trên
trang giấy.
Đang bơi thuyền giữa sen hồ bỗng bắt gặp môi son.
(Tín hiệu – Chế Lan Viên)
Văn Cao khi bàn đến vai trò của người đọc đã viết: “Họ không muốn nghe

lại những lời đã cũ như không muốn mua lại những đồ cũ mà họ thải đi từ lâu rồi”.
Như vậy, cả Văn Cao và Chế Lan Viên đều nhận ra rằng: Những đòi hỏi của người
đọc chính là động lực để người nghệ sĩ phát huy cá tính sáng tạo của mình. Và bởi
người đọc là người đồng hành trong sáng tạo, là động lực sáng tạo của tác giả nên
chính người đọc cũng là người quyết định số phận của tác phẩm văn chương:
“ Những phong thư anh gửi vào hư vô đều bị trả về
Dù tem vẽ các vĩ nhân, thần thánh.
Chi bằng anh đưa cho cô hàng xóm ở hàng rào bên cạnh.
Viết cho người đọc bình thường gần gụi đọc thơ anh”.
(Thơ cao cả - Chế Lan Viên).
Những câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?
luôn là những câu hỏi mà mỗi người nghệ sĩ ngôn từ cần đặc biệt quan tâm mỗi khi
cầm bút.
Như vậy, tiếng nói tri âm giữa người đọc và người viết là điều văn học dân
tộc nào, thời đại nào cũng hướng tới. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với nghệ sĩ phải
sáng tác những tác phẩm bằng những cảm xúc chân thành nhất, da diết nhất, hướng
tới và ngợi ca những giá trị Chân Thiện Mĩ muôn đời. Và người đọc, hãy sống hết
mình với tác phẩm để hiểu được thông điệp thẩm mĩ của tác giả, để chia sẻ, cảm
thông, thấu hiểu nỗi lòng, những khát vọng tác giả gửi gắm. Mỗi người hãy rung
lên khúc đàn Ba Nha và Chung Tử Kì để văn chương mãi mãi tươi đẹp, kì diệu.
Vấn đề 3: Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.
* Sự hài hòa máu thịt giữa nội dung phản ánh và hình thức nghệ thuật.
Nội dung và hình thức vốn là một phạm trù triết học liên quan đến mọi hiện
tượng trong đời sống. Hình thức tất yếu phải là hình thức của một nội dung nhất
định và nội dung bao giờ cũng là nội dung được biểu hiện qua một hình thức.
Không thể có cái này mà không có cái kia và ngược lại. Tác phẩm nghệ thuật là
một hiện tượng xã hội, cho nên trong những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, nội
dung và hình thức luôn luôn thống nhất khăng khít với nhau. Có lẽ không ai diễn
đạt sự thống nhất chặt chẽ này ấn tượng hơn nhà phê bình văn học Nga Biêlinxki:
“Trong tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng và hình thức phải hòa hợp với nhau một

cách hữu cơ như là tâm hồn và thể xác, nếu hủy diệt hình thức cũng có nghĩa là
9


hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng vậy”. Ông cho rằng: “Khi hình thức là biểu
hiện của nội dung thì nó gắn chặt với nội dung tới mức nếu nó tách khỏi nội dung
có nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung; và ngược lại, nội dung tách khỏi hình
thức, có nghĩa là tiêu diệt hình thức”
Trong tác phẩm văn học, hình thức là cái để biểu hiện nội dung, hình thức
phải phù hợp với nội dung. Mối quan hệ này bắt nguồn từ chỗ nhà văn có nhu cầu
phát biểu quan điểm, sự đánh giá một nội dung nào đó của hiện thực dưới hình
thức nghệ thuật. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn
học, nội dung đóng vai trò quyết định còn hình thức góp phần làm định hình và
biểu hiện nội dung đó. Trong một tác phẩm cụ thể, nội dung quyết định việc lựa
chọn hình thức thể loại, ngôn ngữ, nhân vật, kết cấu…Ví dụ: Để diễn tả những cảm
xúc của con người đối với thế giới, nghệ sĩ thường tìm đến thể loại trữ tình. Với
mục đích răn dạy, giáo huấn về những chân lí đời sống phổ biến, giản dị, thể loại
ngụ ngôn là hình thức phù hợp. Để trình bày dự cảm sâu xa về sự truyền kiếp của
những số phận như Chí Phèo, Nam Cao đã để cho hình ảnh cái lò gạch cũ xuất
hiện đầu và cuối tác phẩm… Nội dung muốn được thể hiện tốt nhất cần phải tìm
được một hình thức phù hợp. Do đó, hình thức phù hợp với nội dung trở thành tiêu
chuẩn để đánh giá tác phẩm nghệ thuật. Hêghen khẳng định: “Chỉ những tác phẩm
nghệ thuật mà nội dung và hình thức đồng nhất với nhau mới là những tác phẩm
nghệ thuật đích thực”. Ông cũng nói: “Nội dung chẳng phải cái gì khác, mà chính
là sự chuyển hóa của hình thức vào nội dung, và hình thức cũng chẳng có gì khác
hơn là sự chuyển hóa của nội dung vào hình thức”. Chế Lan Viên từng nói về vai
trò của hình thức trong thơ:
Hình thức cũng là vũ khí.
Sức mạnh câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí.
(Nghĩ về thơ)

Nội dung tác phẩm văn chương phải sâu sắc, tuy nhiên, “Đi tìm cái Thiện
cái Chân nhưng phải biểu hiện ra bằng hình thức đẹp “ (Nghĩ cạnh dòng thơ – Chế
Lan Viên). Xét cho cùng, cái cốt tử làm nên tên tuổi một nhà văn, nhà thơ, cái cốt
tử khiến cho tác phẩm sống mãi không chỉ ở nội dung, tư tưởng mà còn ở hình
thức đẹp: “Thơ hay như người con gái đẹp/ Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng”
(Sổ tay thơ – Chế Lan Viên)
Nếu một tác phẩm nghệ thuật không đạt được sự thống nhất chặt chẽ ấy thì
sẽ như thế nào? Biêlinxki cho rằng: Dù một bài thơ dù có chất chứa những tư
tưởng đẹp đến mấy đi nữa… nhưng nếu trong nó không có tính thơ thì nó cũng chỉ
là một dụng ý đẹp được thực hiện tồi. Rêpin cũng nói: Ý tưởng anh đẹp đẽ như vậy
nhưng anh vẽ tồi thì anh chỉ làm cho người ta ghê sợ và coi rẻ ý tưởng của anh mà
thôi. Còn nếu một tác phẩm chỉ coi trọng hình thức mà xem nhẹ nội dung thì dễ rơi
vào nông cạn, hời hợt và tất nhiên không thể là một tác phẩm nghệ thuật giá trị.
Vấn đề 4: Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đời sống.
* Vai trò của hiện thực cuộc sống.
10


Cuộc sống bao giờ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của những
tâm hồn nghệ sĩ. Văn chương cũng như các loại hình nghệ thuật khác nếu không
bén rễ vào cuộc đời, không hút nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng
cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây non èo uột, không mang trên mình những
cành cây săn chắc, những phiến lá xanh tươi phơi phới dưới ánh nắng mặt trời. Là
nhà văn, ngòi bút của anh phải chấm vào nghiên mực cuộc đời thì thơ anh mới tươi
màu và neo chặt trong bến tâm hồn người thưởng thức. Danh sĩ Lê Quí Đôn từng
nói: “Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnh núi sông
kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được”. “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng
khép”; “Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng/ Chớ ngồi trong phòng ăn
bọt bể anh ơi!” (Chế Lan Viên). Có thể nói, cuộc đời là mạch sữa ngọt ngào tuôn
chảy muôn đời để nuôi dưỡng thi ca. Đến với Chế Lan Viên, ta không thể quên

những tháng ngày con người ấy rơi vào hố sâu tuyệt vọng của sự chán chường:
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa;
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh,
Những ưu phiền, đau đớn với buồn lo”.
Thế là cuộc sống mới chan hòa hơi thở nồng ấm của cách mạng đã làm tan
mọi giá băng trong trái tim người nghệ sĩ ấy. Người sà vào lòng nhân dân, sung
sướng đón nhận nguồn cảm hứng thi ca từ cuộc đời:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
(Tiếng hát con tàu)
Một lần khác, quan niệm “nhà thơ phải bám sát cuộc sống hiện thực” lại
được Chế Lan Viên hình tượng hóa thành hình ảnh con ong cần mẫn hút nhụy của
những vườn hoa trăm miền để tạo nên chất mật ngọt cho đời:
Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật
Một giọt mật thành đòi vạn chuyến ong bay
Nay rừng nhãn non Đoài, mai rừng cam xứ Bắc
Ngọt mật đồng bằng mà hút nhụy tận miền Tây
(Ong và mật)
Cuộc sống mênh mông và kì diệu! Cuộc sống là nơi cung cấp chất liệu cho
thơ ca. Văn học bắt nguồn từ cuộc sống nên văn học bao giờ cũng chứa đựng bóng
hình cuộc sống, bóng hình con người. Văn chương là nơi con người gửi gắm tâm
tình, ước mơ, khát vọng, những băn khoăn, rạo rực, ưu tư. Văn học không thể tách
khỏi cuộc đời. Cuộc đời ban truyền nhựa sống cho thơ ca và thơ ca nở hoa làm đẹp
11


cuộc đời, cống hiến cho con người những phút giây tuyệt vời lắng đọng nhiều nỗi

suy tư.
* Vai trò của người nghệ sĩ trong nhận thức hiện thực cuộc sống.
Trong bài thơ “Sổ tay thơ”, thi sĩ Chế Lan Viên từng thể hiện quan điểm về
mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống:
“Bài thơ anh, anh chỉ làm một nửa mà thôi
Còn một nửa để mà thu làm lấy.
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá,
Nó không phải là anh nhưng nó là mùa”.
Rõ ràng, Chế Lan Viên rất coi trọng hiện thực cuộc sống đối với sáng tạo thơ
ca. Nhưng trong quan điểm của Chế Lan Viên, ta cũng thấy rằng yếu tố người sáng
tác cũng quyết định phần nửa hoạt động sáng tạo này. Văn học là cuộc đời, nhưng
văn học không phải là những trang giấy in nguyên vẹn hình bóng của cuộc đời
rộng lớn, không phải là sự photocopy cuộc sống một cách cứng nhắc, khuôn mẫu.
Vậy phải kể đến vai trò của người nghệ sĩ trong hoạt động sáng tạo thơ ca. Hiện
thực miêu tả trong văn học là hiện thực đã được ý thức, là hiện thực thông qua lăng
kính chủ quan của con người. Thế giới chủ quan của nhà văn là một thế giới phức
tạp bao gồm thế giới quan, tài năng, cá tính, tình cảm, lí tưởng, khát vọng…Tác
phẩm nghệ thuật là cách nhìn, cách đánh giá của nhà văn về cuộc sống, là khao
khát công lí xã hội, là tiếng nói tâm tình, là lẽ ưu tư trước cuộc đời. Biêlinxki từng
khẳng định: “Tác phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, không có
sự thôi thúc chủ quan mạnh mẽ nào đó có cội nguồn từ trong tư tưởng bao trùm
thời đại, nếu nó không phải là tiếng kêu đau khổ hay một lời ca tụng hân hoan;
nếu nó không đặt ra những câu hỏi và không trả lời những câu hỏi ấy”. Như vậy,
sáng tác văn học không đơn thuần chỉ là hoạt động phản ánh mà còn là hoạt động
sáng tạo- một sự sáng tạo mang tính cá nhân trực tiếp mà kết quả là tác phẩm văn
học như một hiện tượng thẩm mĩ mới mẻ, độc đáo, không lặp lại.
Vai trò của nhà văn gắn liền với yếu tố nghệ thuật trong thơ ca: Biêlinxki
cũng khẳng định: “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Ông coi
trọng yếu tố hàng đầu là “cuộc đời” song cũng không xem nhẹ yếu tố nghệ thuật
của văn chương. Thiếu nghệ thuật, nghĩa là thiếu bàn tay nhào nặn của người nghệ

sĩ thì thơ ca chỉ là thứ nguyên liệu thô, không thể khơi dậy trong trái tim người đọc
những rung động sâu xa. Thơ ca ví như cánh diều, cuộc đời tạo cho cánh diều hình
hài sắc vóc còn nghệ thuật là làn gió nâng cánh diều bay bổng trên bầu trời cao
rộng. Ta yêu Truyện Kiều đâu phải chỉ vì “đoạn trường tân thanh” đau xé cất lên từ
quãng đời mười lăm năm lưu lạc chuân chuyên của nàng Kiều tài hoa bạc mệnh; ta
còn yêu Truyện Kiều vì những “ngôn ngữ gấm hoa” giàu sức biểu cảm, vì âm
hưởng ca dao dịu dàng man mác trong lục bát thân thương: “Long lanh đáy nước
in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”. Cảnh mùa thu long lanh mĩ lệ
đọng đầy chất thơ ấy có lẽ còn sống mãi trong lòng người dân đất Việt đến nhiều
thế kỉ mai sau.
12


Để viết nên những trang văn có sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua
mọi qui luật băng hoại của thời gian không thừa nhận cái chết (Sêđrin), nhà thơ
phải có tài năng và tâm huyết, vừa đắm mình vào cuộc đời vừa không ngừng tìm
tòi khám phá, khơi những nguồn chưa ai khơi. Nhà thơ Nga Maiakôpxki từng thấm
thía giá trị cao quí của lao động thi ca:
“Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Nhưng chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”.
Mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và hiện thực cuộc đời cũng mật thiết
như mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của thơ ca. Không thể thiếu yếu tố
nào trong sự thành công của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Thiếu yếu tố cuộc đời,
văn chương chỉ là thứ “ánh trăng lừa dối”, thiếu yếu tố nghệ thuật (nghĩa là vai trò
của nhà văn) văn chương sẽ chẳng thể tìm được mối đồng cảm của những tấc lòng
tri âm. Thơ ca luôn nồng nàn ấm áp hơi thở cuộc đời và mang dấu ấn sáng tạo của
người nghệ sĩ. Người cầm bút phải yêu “cuộc đời” và trân trọng “nghệ thuật” mới
làm nên những vần thơ, những trang văn có giá trị đến muôn đời.

Vấn đề 5: Đặc trưng của thơ: Tình cảm – yếu tố sinh mệnh của thơ.
Nói đến thơ là nói đến thể loại trữ tình. Yếu tố bộc lộ, lan tỏa tình cảm là yếu
tố cơ bản, quan trọng bậc nhất của thơ. Không có tình cảm chân thành rung lên từ
những cung bậc cảm xúc thì không phải là thơ. Nói một cách hình ảnh thì tình cảm
là yếu tố sinh mệnh của thơ.
Thơ ca khởi phát từ tâm hồn, đó là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc, là khúc
hát của tâm hồn. Nếu các tác phẩm tự sự (tiểu thuyết, truyện ngắn, kí…) thể hiện
tư tưởng, tình cảm của tác giả thông qua việc tái hiện một cách khách quan các
hiện tượng của đời sống với những tình huống, sự kiện thì thơ ca – một thể loại
tiêu biểu của loại hình trữ tình lại hướng vào thế giới nội tâm, hiện thực bên trong
tâm hồn con người với những rung cảm tinh tế, sâu sắc trước cuộc sống muôn
màu. Lê Quí Đôn nói: “Thơ ca khởi phát tự lòng lòng”, Tố Hữu thì cho rằng: “Thơ
chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Nhà thơ Pháp Alfret de Mussé
chia sẻ: “Hãy biết rằng chính quả tim ta đang nói và than thở lúc bàn tay ta đang
viết”, “nhà thơ không viết một chữ nào nếu toàn thân không rung động” (dẫn theo
PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hương, tạp chí Nghiên cứu văn học số 01/2009). Có
thể nói, tình cảm là yếu tố sinh mệnh của thơ ca, “thiếu tình cảm thì có thể trở
thành người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà thơ” (Jose Marti).
Nhưng tình cảm trong thơ không tự nhiên mà có. Nói về điều này, nhà văn M.
Gorki cũng cho rằng: “Thơ trước hết phải mang tính chất tình cảm. Tình cảm
trong thơ gắn trực tiếp với chủ thể sáng tạo nhưng không phải là một yếu tố đơn
độc, tự nó nảy sinh và phát triển. Thực ra đó chính là quá trình tích tụ những cảm
xúc, những suy nghĩ của nhà thơ do cuộc sống tác động và tạo nên. Không có cuộc
sống, không có thơ”.
13


Ra-bin-đra-nát Ta-go đã từng khẳng định: “Khi tình cảm tự tìm cho nó một
hình thức để bộc lộ ra ngoài, chúng ta có thơ”. Ý kiến của Ta-go một lần nữa nhấn
mạnh yếu tố tình cảm trong thơ. Quy luật sáng tạo trong thơ ca nghệ thuật là quy

luật tình cảm. Sáng tác thơ nói riêng và văn chương nói chung chính là để thể hiện
những tư tưởng, tình cảm, những ước mơ, khát vọng của người cầm bút. Thơ là
tiếng nói của tình cảm khi tình cảm ấy ở độ sâu sắc, mãnh liệt nhất. Khi những thôi
thúc của trái tim trở nên dồn đập, mạnh mẽ, nó sẽ tự tìm đến một hình thức biểu
hiện phù hợp nhất, truyền tải hết những tình cảm ấy. Cảm xúc trong thơ chính là
yếu tố quan trọng nhất góp phần tạo nên sự đặc sắc và nét riêng độc đáo của mỗi
tác phẩm thơ ca. Không có tình cảm của nhà thơ thổi nguồn sống thì những câu
chữ hiện lên trên trang giấy sẽ chỉ là những câu chữ “thẳng đơ”, vô nghĩa, vô cảm.
Chính tình cảm, cảm xúc đã làm nên nét đặc trưng của thơ so với các thể
loại khác. Nếu trong văn xuôi, trong các thể tự sự, người nghệ sĩ bộc lộ tư tưởng,
tình cảm qua hệ thống nhân vật, cốt truyện, tình huống thì trong thơ, người nghệ sĩ
thể hiện trực tiếp những tình cảm này bằng ngôn từ. Thơ trao cho người sáng tác
quyền bộc lộ trực tiếp những cảm xúc của mình. Cảm hứng sáng tác chỉ được xây
dựng trên hệ thống tình cảm phong phú, sâu sắc của nhà thơ về cuộc sống. Trong
thơ không chấp nhận thứ tình cảm hời hợt, nông cạn. Tình cảm trong thơ phải là
tình cảm mãnh liệt, sâu sắc và dâng trào trong trái tim nhà thơ. Chính cảm xúc ấy
đã truyền tải sức sống cho những hình tượng nghệ thuật trong thơ, làm cho những
hình tượng ấy trở nên sinh động, hấp dẫn đối với người đọc. nếu không có tình
cảm, thơ chỉ là những con chữ vô hồn ghép thành vần, thành điệu. Nhưng tình cảm
trong thơ vừa mang màu sắc cá nhân vừa phải là tiếng nói chung mang ý nghĩa xã
hội, nhân loại và có giá trị thẩm mĩ, giá trị nhân văn sâu sắc. Nghĩa là thơ hay phải
bồi dưỡng tình cảm đúng, tình cảm lớn và người đọc thơ cũng phải có tình cảm
lớn, tình cảm đúng mới cảm thấy cái hay, cái thật của thơ như cách nói của Hoài
Thanh
Vấn đề 6: Phong cách văn học (Trình này ở phụ lục 1)
Vấn đề 7: Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật. (Trình bày ở phụ lục 2)
Vấn đề 8 : Đặc trưng ngôn ngữ thơ – Thơ hay. (Trình bày ở phụ lục 3)
* Tính nhạc và âm điệu trong thơ. (Trình bày ở phụ lục 4)
Trên đây là những vấn đề lí luận cơ bản mà tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu
nhằm trang bị những kiến thức lí luận văn học cần thiết, gần gũi nhất đối với học

sinh. Chắc chắn, những vấn đề lí luận văn học không chỉ dừng lại ở những phạm
trù trên, song đây là những kiến thức học sinh còn thiếu hụt, thuộc về bản chất của
văn chương và những vấn đề lí luận này thường thấy xuất hiện trong các đề thi học
sinh giỏi môn Ngữ văn. Nhiệm vụ của giáo viên là truyền đạt một cách tốt nhất, dễ
hiểu nhất đến học sinh; học sinh cần có thái độ nghiêm túc, tích cực khi học tập
mảng kiến thức tương đối khó này.
2.3.5. Hình thành - vận dụng linh hoạt kiến thức lí luận văn học - Quá trình
kép.
14


Hình thành, trang bị kiến thức lí luận văn học mới chỉ là một khâu trong quá
trình ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi. Khâu quan trọng hơn nữa để quyết định
đến hiệu quả của bài làm học sinh là việc vận dụng linh hoạt các kiến thức bộn bề
này vào từng đề bài cụ thể. Các em không thể “ôm đồm” tất cả các nội dung lí luận
của một vấn đề nào đó cho một bài làm mà cần lựa chọn nội dung nào phù hợp
nhất đối với đề bài để tránh tình trạng “khoe kiến thức” hoặc trình bày những nội
dung kiến thức không trọng tâm so với yêu cầu của đề bài.
Thực tế cho thấy, đề thi học sinh giỏi có thể hướng tới không chỉ một mà
còn nhiều vấn đề lí luận trong nội dung một đề. Vậy học sinh phải xác định rõ đề
bài hướng tới những vấn đề lí luận nào, vấn đề nào là chính, quan trọng nhất. Xác
định được điều này các em sẽ lựa chọn được kiến thức lí luận trọng tâm và cũng
không bỏ quên kiến thức lí luận có liên quan của đề bài; xác định được độ nặng
nhẹ của từng mảng kiến thức lí luận đúng với yêu cầu của đề bài. Ví dụ đề sau đây:
“Đối với tôi, văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự
thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực
mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa
làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
(Thạch Lam, “Lời nói đầu” viết trong tập “Gió đầu mùa”, NXB Đời nay, Hà
Nội, 1937)

Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bàn luận và làm sáng rõ qua truyện
ngắn “Chí Phèo” (Nam Cao). Liên hệ với đoạn trích “Trao duyên” (trích “Truyện
Kiều” – Nguyễn Du).
Đề này phải vận dụng nhiều mảng kiến thức lí luận văn học: Mối quan hệ
giữa văn học và hiện thực đời sống (Văn chương không phải là cách đem đến cho
người đọc sự thoát li hay sự quên); giá trị nhận thức (hay giá trị phản ánh): tố cáo
và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác; giá trị giáo dục của văn học: làm cho
lòng người thêm phong phú và trong sạch. Ngoài việc vận dụng kiến thức về mối
quan hệ giữa văn học và hiện thực đời sống để phê phán thứ văn chương thoát li thì
học sinh cần vận dụng kiến thức lí luận về giá trị nhận thức và giá trị giáo dục của
văn học để bàn luận quan niệm văn chương của Thạch Lam.
Mặt khác, có những đề văn vấn đề lí luận đặt ra không rõ ràng mà qua cách
nói hàm ý, học sinh cần có hiểu biết bản chất của kiến thức lí luận mới xác định
đúng vấn đề lí luận đặt ra trong đề bài. Ví dụ:
“Tác phẩm văn học đi vào cuộc sống giống như quả pháo bông bắn lên bầu
trời. Bản thân nó phải có thuốc pháo và các hợp chất hóa học khác mới tạo nên
ánh sáng và màu sắc trên nền trời. Nhưng vẻ đẹp đó còn phụ thuộc vào chính
không gian bầu trời : trong sáng hay u ám, có ánh trăng hay không có ánh trăng,
có sương mù hay không có sương mù…”.
(Dẫn theo Lí luận văn học – vấn đề và suy nghĩ, tái bản lần thứ 2, NXB
Giáo dục, 1999, tr.153).
15


Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Làm sáng tỏ qua bài thơ “Đây thôn Vĩ
Dạ” – Hàn Mặc Tử. Liên hệ với đoạn trích “Trao duyên” (trích “Truyện Kiều” –
Nguyễn Du).
Vấn đề lí luận của đề bài này thực chất là quá trình tiếp nhận văn học. Chu
trình Nhà văn – Tác phẩm – Bạn đọc. Tác phẩm văn học là kết quả quá trình sáng
tạo của nhà văn. Tác phẩm ấy đi vào cuộc sống giống như quả pháo bông bắn lên

bầu trời. Bản thân nó phải có thuốc pháo và các hợp chất hóa học khác mới tạo
nên ánh sáng và màu sắc trên nền trời , nghĩa là cái ban đầu tạo nên sức sống của
tác phẩm văn học phụ thuộc vào tài năng, tâm huyết của người sáng tạo nên nó.
Nhưng yếu tố thứ hai quyết định đến vẻ đẹp của quả pháo bông ấy là không gian
bầu trời : trong sáng hay u ám, có ánh trăng hay không có ánh trăng, có sương mù
hay không có sương mù…nghĩa là bạn đọc, người tiếp nhận tác phẩm văn học,
người quyết định số phận của tác phẩm văn học ấy. Nếu người đọc đến với tác
phẩm của nhà văn bằng cái nhìn hời hợt, định hướng sai lạc thì dù quả pháo bông
có được tạo ra công phu đến mấy, tác phẩm văn học hay đẹp đến mấy cũng thể
“sống” đối với lớp độc giả như vậy. Cũng như vậy, đối với bài thơ “Đây thôn Vĩ
Dạ” - Hàn Mặc Tử và đoạn trích “Trao duyên” (trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du),
người đọc không thể cảm được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn học ấy nếu
tiếp nhận trong tâm thế hời hợt, nông cạn.
Như vậy, yêu cầu đối với học sinh khi làm dạng đề lí luận văn học là ngoài
nắm vững, ghi nhớ kiến thức lí luận còn phải vận dụng linh hoạt, xác định đúng
kiến thức lí luận được nêu trong đề bài. Nếu không xác định đúng vấn đề lí luận sẽ
dẫn đến tình trạng lạc đề. Điều này phụ thuộc vào việc học sinh có nắm bắt được
bản chất của kiến thức lí luận, có nhạy cảm và tinh tế trong nhận diện đề bài hay
không. Bởi vậy, bên cạnh việc hình thành, trang bị kiến thức lí luận văn học cho
học sinh, giáo viên cần giúp học sinh vận dụng linh hoạt mảng kiến thức này bằng
việc thực hành nhiều đề văn lí luận đa dạng khác nhau.
2.3.6. Sau khi hình thành, trang bị kiến thức, giáo viên cho học sinh thực hành
các dạng đề lí luận văn học để rèn kĩ năng vận dụng linh hoạt kiến thức lí
luận; giáo viên chấm, chữa bài và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện mảng kiến thức
này cho học sinh qua thực tế bài làm của các em. (Trong giới hạn về dung lượng
của SKKN, tôi chỉ xin nêu một vài ví dụ về các dạng đề lí luận văn học ở mỗi vấn
đề lí luận văn học đã trang bị cho học sinh)
Chức năng văn học:
Đề bài: Bàn về văn học, Thanh thảo cho rằng: “Văn chương giúp ta trải nghiệm
cuộc sống ở những tầng mức và chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con người

sống ra người hơn, sống tốt hơn, nếu ta biết tìm trong mỗi cuốn sách những vệt
sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con
người”
(Theo “Nhà văn nói về môn Văn” – Văn học và tuổi trẻ - NXB GD, 2015)

16


Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Làm sáng tỏ ý kiến trên qua việc cảm
nhận tác phẩm “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam). Liên hệ với đoạn trích “Trao duyên”
(trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Đề văn này hướng tới giá trị nhận thức và giá trị giáo dục của tác phẩm văn
học. Học sinh vận dụng kiến thức về giá trị nhận thức và giá trị giáo dục của văn
học để giải quyết vấn đề này. Chú ý giá trị giáo dục là kiến thức lí luận trọng tâm
của đề này.
Phong cách văn học:
Đề 1: “Nghệ thuật là lĩnh vực độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có
phong cách nổi bật, tức là nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của
mình”.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Làm sáng tỏ qua bài thơ “Tự tình”
(Hồ Xuân Hương). Liên hệ với bài thơ “ Cảnh ngày hè” (Nguyễn Trãi)
Đề 2: “Trong đời sống văn học, những nhà văn có tài năng, người thì đóng góp
vào một cách viết, người thì đóng góp vào cách sử dụng ngôn ngữ, có người thì lại
chỉ cho ta thấy những thứ rất nhỏ bé, đặc sắc mà giàu giá trị. Nhưng trên tất cả,
anh ta phải cho người đọc thấy được tiếng nói riêng của anh ta trong một vấn đề
mà nhiều người quan tâm”. (Nguyễn Minh Châu)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm nổi bật tiếng nói riêng của
Huy Cận trong bài thơ “Tràng giang”. Liên hệ với tiếng nói riêng của Nguyễn
Bỉnh Khiêm trong bài thơ “Nhàn”.
Cả hai đề thi trên đều đề cập đến nét riêng, độc đáo, đóng góp mới của nhà

văn trong cách tiếp cận, phản ánh cuộc sống. Học sinh cần vận dụng tốt kiến thức
lí luận về Phong cách văn học để giải quyết các vấn đề này.
Tiếp nhận văn học:
Đề 1: “Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông, sẻ chia giữa người đọc và người
viết là trên hết”. (Nhà văn Bùi Hiển, báo văn nghệ, số ra ngày 10/2/2001).
Bằng hiểu biết văn học, anh/chị hãy bàn luận ý kiến trên.
Đề 2: Trong bài văn “Đọc Kiều một ngày kia”, Chế Lan Viên viết: “Trong câu Kiều
xưa ta tìm ra Nguyễn Du và tìm ra chính mình”.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Làm sáng tỏ qua bài thơ “Vội vàng”
(Xuân Diệu). Liên hệ với bài thơ “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Các đề văn này đều đề cập đến mối quan hệ giữa nhà văn và độc giả, tiếng
nói đồng cảm, tri âm giữa người viết và người đọc. Học sinh cần vận dụng kiến
thức lí luận về Tiếp nhận văn học để giải quyết yêu cầu của đề bài.
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn học:
Đề 1: “Tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua
những hình thức nghệ thuật độc đáo”.
17


Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua
truyện ngắn “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân). Liên hệ với đoạn trích “Trao
duyên”(trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Nói tôn vinh con người là nói đến là nói đến phương diện nội dung phản
ánh của tác phẩm văn học; hình thức nghệ thuật độc đáo là vẻ đẹp nghệ thuật của
tác phẩm ngôn từ. Như vậy, đề bài này liên quan trực tiếp đến vấn đề mối quan hệ
giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn học. Học sinh vận dụng kiến thức lí
luận về mối quan hệ mật thiết này để làm sáng tỏ vấn đề bàn bạc.
Đề 2: Cái đẹp mà văn học mang lại không phải cái gì khác hơn là cái đẹp của sự
thật đời sống được khám phá một cách nghệ thuật” (Hà Minh Đức).
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua

truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam). Liên hệ với đoạn trích “Trao duyên”(trích
Truyện Kiều – Nguyễn Du).
Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống:
Đề bài:
Bàn về mối quan hệ giữa thơ ca với hiện thực cuộc sống, nhà thơ Chế
Lan Viên viết trong “Sổ tay thơ”:
“Bài thơ anh, anh chỉ làm một nửa mà thôi
Còn một nửa để mà thu làm lấy.
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá,
Nó không phải là anh nhưng nó là mùa”.
Hãy làm rõ quan niệm về thơ của Chế lan Viên qua bài thơ “Vội vàng” –
Xuân Diệu. Liên hệ với bài thơ “Cảnh ngày hè”- Nguyễn Trãi.
Nhà thơ Chế Lan Viên thể hiện quan niệm về mối quan hệ giữa thơ ca với
cuộc đời: cảm xúc, tài năng của người nghệ sĩ là một nửa yếu tố làm nên thơ ca,
hiện thực cuộc đời là nửa còn lại. Một tác phẩm nghệ thuật là sự chuyển hóa nhuần
nhuyễn hai yếu tố ấy. Thơ cũng như nghệ thuật nói chung đều bắt nguồn từ chính
hiện thực cuộc sống. Sức sống của câu thơ chính là hơi thở phập phồng của cuộc
sống trong nó. Không có mùa thu đẹp đẽ của cuộc đời thì không thể có mùa thu
đẹp đẽ của thơ ca. Điều đó không có nghĩa là người nghệ sĩ không có vai trò gì.
Hiện thực bản thân nó là “một nửa”, nửa còn lại vẫn là con người tác giả, cảm xúc
chân thành của tác giả khi đứng trong âm vang của đời sống và dùng tài năng nghệ
thuật để đời sống ấy hiện lên sinh động qua thơ ca. Chữ “mùa thu” ở đây được hiểu
là cuộc sống hiện thực; “bài thơ” là tác phẩm nghệ thuật, “anh” là người nghệ sĩ
sáng tạo. Nhà thơ đề cao vai trò của hiện thực cuộc sống đối với thơ và cũng không
quên vai trò của nhà thơ trong việc làm sống lại những hình ảnh, hương sắc của
cuộc sống. Ở đây, Chế Lan Viên muốn nói đến một điều tất yếu làm nên tác phẩm
nghệ thuật đó là cuộc sống và vai trò của người nghệ sĩ. Nếu thiếu cuộc sống tác
phẩm nghệ thuật sẽ thoi thóp, sẽ đi vào siêu hình và bế tắc dù người nghệ sĩ có tài
ba đến mấy. Đồng thời phẩm chất, tài năng của nghệ sĩ sẽ đánh thức cuộc sống và
làm cho cuộc sống ấy cựa quậy trên trang giấy.

18


Đặc trưng của thơ: tình cảm
Đề 1: Nhà thơ Pháp Alfret de Mussé chia sẻ: “Hãy biết rằng chính quả tim ta đang
nói và than thở lúc bàn tay ta đang viết”.
Từ một bài thơ mà anh/chị yêu thích hãy bàn luận ý kiến trên.
Đề 2: “Một nhà thơ không có tài thì không thể vận chuyển được tâm linh”; “không
có tình thì không phải là tài”(Viên Mai).
Từ trải nghiệm văn học của mình, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Các đề văn trên đều đề cập đến yếu tố tình cảm trong thơ – một đặc trưng cơ
bản và quan trọng nhất của thơ. Học sinh vận dụng kiến thức lí luận đã học để bình
luận và chứng minh vấn đề nghị luận.
Đặc trưng ngôn ngữ thơ – Thơ hay:
Đề bài: “Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài
công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó
những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh
sáng động đậy. Sức mạnh của câu thơ chính là ở sức gợi ấy”. (Nguyễn Đình Thi)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài
thơ “Tự tình” - Hồ Xuân Hương và liên hệ với sức gợi của những câu thơ trong
bài thơ “Cảnh ngày hè” - Nguyễn Trãi.
Đề văn này đề cập đến đặc trưng của ngôn ngữ thơ – thơ hay: Câu thơ hay là
câu thơ giàu sức gợi. Học sinh vận dụng kiến thức lí luận về đặc trưng ngôn ngữ
thơ để giải quyết yêu cầu của đề bài.
Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật: (Phụ lục 5)
Tính nhạc, âm điệu trong thơ: (Phụ lục 6)
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Để đánh giá hiệu quả của đề tài, tôi lấy ý kiến của học sinh khi giải quyết
các dạng đề lí luận văn học sau khi đã được trang bị kiến thức, tất cả các em đều
cho rằng đã không còn lúng túng, “ngại” khi làm dạng đề này nữa.

Tôi so sánh kết quả thi học sinh giỏi các năm học trước và sau tác động:
- Trước tác động
+ Năm học 2011-2012: 02 học sinh dự thi đạt 02 giải khuyến khích.
+ Năm học 2012-2013: 02 học sinh dự thi đạt 02 giải ba.
+ Năm học 2015-2016: 02 học sinh dự thi đạt 01 giải nhì, 01 giải khuyến khích
- Sau tác động của đề tài SKKN năm 2016 -2017: 03 học sinh dự thi đạt 01 giải
nhất, 01 giải ba, 01 giải khuyến khích
- Sau tác động của đề tài SKKN năm học này 2018 -2019: 05 học sinh dự thi đạt
03 giải nhì, 01 giải ba, 01 giải khuyến khích. Xếp thứ 2 về thành tích thi học sinh
giỏi toàn tỉnh.
19


Từ kết quả thực tế trên cho thấy, việc giúp học sinh hình thành và vận dụng
linh hoạt kiến thức lí luận văn học thực sự đem lại hiệu quả tích cực đối với việc
nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn, giải quyết được khó
khăn của học sinh khi làm dạng đề lí luận văn học.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Với việc áp dụng sáng kiến Giúp học sinh hình thành và vận dụng linh
hoạt kiến thức lí luận khi làm dạng đề lí luận văn học trong đề thi học sinh giỏi
môn ngữ văn, nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn trung
học phổ thông, tôi thấy học sinh không còn khó khăn, lúng túng khi giải quyết các
đề thi lí luận văn học; đồng thời kết quả thi học sinh giỏi năm học này đã có giải
cao và đồng đều hơn các năm trước. Vì vậy, tôi cho rằng đề tài này có tính thiết
thực trong việc nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học giỏi môn Ngữ văn trung học phổ
thông.
3.2. Kiến nghị.
Lí luận văn học là một mảng kiến thức khó, không chỉ khó đối với học sinh
mà còn với cả giáo viên, bởi những bài học lí luận văn học trong sách giáo khoa

trình bày khá sơ lược; những giáo trình, tài liệu lí luận văn học đôi khi vẫn mang
tính hàn lâm gây khó khăn cho giáo viên và học sinh trong quá trình học tập, tiếp
nhận. Vì vậy, bản thân người giáo viên phải đầu tư nghiêm túc, tự nghiên cứu, bồi
dưỡng mảng kiến thức này để phục vụ cho hoạt động dạy học, nhất là hoạt động
bồi dưỡng học sinh giỏi.
Trên đây là kinh nghiệm được rút ra trong thực tế quá trình bồi dưỡng học
sinh giỏi của bản thân tôi, tôi rất mong được sự góp ý, bổ sung của đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2019.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Hiền
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn THPT (Sở Giáo dục và Đào tạo
Thanh Hóa. Chủ biên Trịnh Trọng Nam, 2015).
20


2. Giáo trình Lí luận văn học (NXB giáo dục, Trường Đại học Sư Phạm – Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1997).
3. Tuyển chọn những bài văn đoạt giải Quốc gia – Học sinh giỏi THPT (20042014) (NXB Giáo dục Việt Nam).
4. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1, tập 2 (NXB Giáo dục Việt Nam)

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐÃ ĐƯỢC SỞ GD&ĐT XẾP LOẠI.


21


TÊN ĐỀ TÀI SKKN

XẾP
LOAI

NĂM

1. Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong bài văn nghị luận

C

2009

2. Phát hiện, lựa chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ
văn ở trường Trung học phổ thông.

C

2012

3. Kinh nghiệm trang bị kiến thức lí luận nhằm giúp học
sinh giải quyết khó khăn khi làm dạng đề lí luận văn học,
nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn
THPT.

C


2017

PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Phong cách văn học.
* Khái niệm phong cách văn học.
22


“Thế giới không được tạo lập một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo
xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập” (Mác xen Prút). Chính cái độc đáo
ấy đã tạo nên phong cách văn học, dấu hiệu trưởng thành về bản lĩnh nghệ thuật
của một cá nhân nhà văn.
Phong cách văn học hay phong cách nghệ thuật nảy sinh do chính những
nhu cầu của cuộc sống, bởi vì cuộc sống luôn đòi hỏi sự xuất hiện những nhân tố
mới mẻ, những cái không lặp lại. Phong cách là những nét riêng biệt, độc đáo của
một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy
thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm. Nói cách
khác, phong cách là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ trong việc đưa đến cho
độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời thông qua những phương thức, phương
tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân người sáng tác. Vì thế, Buy-phông viết:
“Phong cách chính là người”. Trong tác phẩm của Sếch-xpia “mỗi một ưu điểm
nhỏ nhất cũng in dấu ấn riêng, dấu ấn đó có thể lập tức nói với toàn thế giới rằng:
Tôi là Sếch-xpia” (Lét-xinh).
* Những biểu hiện của phong cách văn học.
Phong cách văn học biểu hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ có tính
chất khám phá, giọng điệu riêng biệt của tác giả. Bản thân nghệ thuật (trong đó có
văn chương) là lĩnh vực của cái mới lạ, cái độc đáo. Vì thế nó đòi hỏi rất cao ở
người nghệ sĩ năng lực sáng tạo. Quá trình sáng tạo tác phẩm văn học là quá trình
sản xuất đơn lẻ, cá biệt, nó không chấp nhận sự sản xuất hàng loạt, rập khuôn máy
móc. Tác phẩm nghệ thuật phải đem đến cho người đọc những điều người ta chưa

rõ, chưa biết, những điều mới lạ trong cuộc sống, hoặc cách khám phá độc đáo từ
những cái đã biết. Bản thân nhà văn chân chính không thể dẫm chân lên con đường
người khác đã đi, họ mong muốn được tìm tòi, khám phá, sáng tạo, “khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo nhưng gì chưa có”. Viết về đèo Ngang, Phạm Tiến
Duật có một cách nhìn mới: “Bao nhiêu người làm thơ đèo Ngang/ Mà không biết
con đèo chạy dọc”. Thật thú vị!. Cách cảm thụ hài hước của Nguyễn Công Hoan
khơi ra một điều nghịch lí, nghịch cảnh: “Sự thành công của anh cu Bản đã làm
cho vợ anh góa chồng”. Giai đoạn văn học 1930-1945 ghi dấu nhiều phong cách
độc đáo bởi cách nhìn, cách cảm thụ có tính khám phá, ở giọng điệu riêng biệt:
Một Thạch Lam “duy cảm” – phám phá con người ở đời sống nhạy cảm của tâm
hồn với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh, tinh tế; một Nguyễn Tuận
“duy mĩ” – luôn nhìn con người ở phẩm chất tài hoa, nhân cách; một Nam Cao
“duy lí” – tiếp cận con người ở đời sống nội tâm, diễn biến tâm lí tinh vi phức tạp,
khám phá “con người bên trong con người”…
Phong cách văn học là cái thống nhất trong sự đa dạng của sáng tác. Cái độc
đáo, vẻ riêng phải xuất hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại, có tính chất bền vững,
nhất quán trong nhiều tác phẩm thì mới tạo nên phong cách. Thống nhất từ cốt lõi
nhưng triển khai phải đa dạng, đổi mới (ví dụ: Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình
Ngô, Quân trung từ mệnh tập rất hào hùng đanh thép, nhưng trong Quốc âm thi
tập lại u hoài, trầm lắng, suy tư. Hồ Chí Minh trong truyện và kí thì hiện đại,
23


nhưng thơ chữ Hán lại giàu sắc thái phương Đông cổ kính, thơ tiếng Việt đậm cốt
cách dân gian…)
Độc đáo, đa dạng, bền vững mà luôn đổi mới, nhưng phong cách còn phải có
phẩm chất thẩm mĩ, nghĩa là phải đem lại cho người đọc một sự hưởng thụ mĩ cảm
dồi dào qua những tác phẩm giàu tính nghệ thuật, hay, sinh động, hấp dẫn. Chỉ khi
đó dấu ấn của phong cách trong quá trình văn học mới được ghi nhớ mãi mãi, nói
một cách hình ảnh như nhà thơ Lê Đạt:

Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn.
(Vân chữ)
Phụ lục 2: Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật.
Nếu như màu sắc, ánh sáng, đường nét là chất liệu của hội họa; âm thanh,
tiết tấu, nhịp điệu là chất liệu của âm nhạc; hình khối là chất liệu của điêu khắc…
thì ngôn từ là công cụ, là phương tiện, chất liệu cơ bản và đặc thù của văn học. Bởi
thế, Gorki nói: “Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học”. Có người còn gọi “nhà
văn là nghệ sĩ ngôn từ”. Những nhà văn lớn đều là những nhà ngôn ngữ trác tuyệt.
Trong sự sáng tạo của nhà văn, sự sáng tạo ngôn ngữ có vai trò quan trọng. Trước
hết, nhà văn dựa trên ngôn ngữ toàn dân để sáng tạo ra ngôn ngữ văn học. Giữa
ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ văn học có sự khác biệt. Theo Go-ro-ki, ngôn ngữ
toàn dân là tiếng nói “nguyên liệu” còn ngôn ngữ văn học là tiếng nói đã được
những người thợ tinh xảo nhào luyện. Vì vậy, ngôn ngữ văn học có những đặc
điểm riêng:
Thứ nhất: Ngôn ngữ văn học chính xác, tinh luyện:
Thường thì một khái niệm có nhiều từ để diễn tả nhưng chỉ một từ là chính
xác nhất. Trong khi viết, nhà văn phải lựa chọn từ ngữ nào là chính xác nhất.
Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân: “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”; và tả
Thúy Kiều: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Thua và nhường, ghen và
hờn là những từ “định mệnh” của hai nhân vật, chính xác một cách tuyệt đối. Nói
đến tính chính xác của ngôn từ nghệ thuật ta lại nhớ đến ý kiến của Huy-go:
“Trong tiếng Pháp không có từ nào hay, từ nào dở. Từ nào đặt đúng chỗ là từ đó
hay”.
Thứ hai: Ngôn ngữ văn học mang tính hình tượng.
Ngôn ngữ văn học có khả năng gợi lên những hình tượng nghệ thuật, đưa ta
thâm nhập vào thế giới cảm xúc, ấn tượng, suy tưởng mà các loại hình nghệ thuật
khác khó đạt được: Điệu tâm hồn gay gắt, bứt rứt của Hồ Xuân Hương làm sao hội
họa, âm nhạc, điêu khắc…có thể diễn đạt được ngoài nghệ thuật ngôn từ: chín

mòm mõm, đỏ lòm lom, trơ cái hồng nhan, xiên ngang mặt đất, đâm toạc chân
mây…Cái vội vàng, cuống quýt, say đắm, ngất ngây của Xuân Diệu phải chăng
24


×