Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Một số biện pháp gợi hứng thú và phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học bài người cầm quyền khôi phục uy quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GỢI HỨNG THÚ VÀ PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
BÀI“NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYỀN”
(TRÍCH “NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ”) CỦA V.HUY-GÔ,
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 11.

Người thực hiện: Doãn Thị Thúy Ngọc
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2019


MỤC LỤC


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, văn học đi sâu phản ánh hiện thực khách quan và
khám phá thế giới tình cảm và tư tưởng, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con
người. Những chủ đề như tình yêu, hạnh phúc, băn khoăn đau khổ, khát vọng
vươn đến chân- thiện- mĩ,… thường trở đi trở lại với những chiều sâu và sắc thái
khác nhau trong tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn học vĩ đại bao giờ cũng
đạt được sự thống nhất cao của các giá trị về nhận thức, tư tưởng- tình cảm và
thẩm mĩ. Người ta hay gọi đó là sự thống nhất của Chân- Thiện- Mĩ. Vì thế, việc


học văn, đọc văn là cần thiết, nếu không muốn nói là không thể thiếu trong việc
rèn luyện và phát triển nhân cách con người. Có lẽ cũng vì thế mà hiện nay,
trong chương trình Ngữ văn phổ thông, học sinh được đọc các tác phẩm văn học
tiêu biểu của nền văn học Việt Nam và văn học các nước khác trên thế giới.
Tuy nhiên, đề thi Trung học phổ thông quốc gia (THPT QG) môn ngữ văn
có cấu trúc gồm hai phần là Đọc hiểu và Làm văn, không còn phần kiểm tra kiến
thức văn học nước ngoài như từ năm 2013 trở về trước nữa. Thực tế này khiến
nhiều học sinh vốn chỉ học văn để thi không còn quan tâm đến các tác phẩm văn
học nước ngoài, một bộ phận giáo viên chúng ta cũng không chú trọng nhiều
đến việc truyền thụ kiến thức văn học nước ngoài nữa. Điều này khiến hiểu biết
về văn chương của học sinh bị hạn chế, thậm chí là không có vốn kiến thức cơ
bản cần thiết về thành tựu của văn học thế giới và cũng làm ảnh hưởng đến việc
tiếp nhận văn học Việt Nam bởi tiến trình văn học Việt Nam có chịu sự tác động
của văn học nước ngoài (như văn học Trung Quốc, văn học Pháp….). Xuất phát
từ thực tế trên, tôi nhận thấy rằng, ngoài việc cung cấp kiến thức đủ để học sinh
đáp ứng nhu cầu thi cử, chúng ta cũng cần giúp học sinh có hứng thú tiếp nhận
các tác phẩm văn học bởi những giá trị to lớn mà chúng mang lại chứ không
phải chỉ để thi.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, mục tiêu giáo dục xã hội đang đặt
ra những yêu cầu cấp thiết cần phải giải quyết. Đó là yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học: dạy học hướng tới phát huy năng lực người học, phát huy tính chủ
động, tích cực của người học. Vì thế, chúng ta cần có những biện pháp cụ thể
nhằm khơi gợi hứng thu học văn nói chung, học văn học nước ngoài nói riêng,
từ đó phát huy tính tích cực, chủ động cũng như năng lực cho học sinh trong
việc tiếp cận từng tác phẩm văn học cụ thể.
Từ thực tế nghiên cứu và giảng dạy, tôi nhận thấy văn học nước ngoài, đặc
biệt là văn học Pháp thế kỉ XVIII- XIX có ảnh hưởng không nhỏ đến VHVN
thời kì từ đầu TK XX đến CM Tháng Tám 1945 nên việc học sinh được tìm hiểu
kĩ hơn các tác phẩm tiêu biểu của H. Ban-dắc, của V. Huy-gô có trong chương
trình sách giáo khoa là rất cần thiết. Đặc biệt, chương trình Ngữ văn 11 có đoạn

trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” (trích tiểu thuyết “Những người
khốn khổ”) của Vích-to Huy-gô. Đây là tác phẩm nổi tiếng thế giới của nhà văn
3


thiên tài của nước Pháp và của VH thế giới. Tiếp nhận được những giá trị to lớn
mà tác phẩm đem lại sẽ giúp học sinh có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống, về
con người.
Qua thực tế giảng dạy và tìm hiểu, tham khảo các tài liệu về đổi mới
phương pháp dạy học văn, về dạy học tích cực, dạy học theo hướng phát triển
năng lực, nguyên tắc dạy học văn học nước ngoài ở trường phổ thông, tôi xin đề
xuất sáng kiến “Một số biện pháp gợi hứng thú và phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh trong dạy học bài Người cầm quyền khôi phục uy
quyền (trích Những người khốn khổ) của V. Huy-gô, chương trình Ngữ văn
lớp 11”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Sáng kiến “Một số biện pháp gợi hứng thú và phát huy tính tích cực,
chủ động của hs trong dạy học bài Người cầm quyền khôi phục uy quyền
(trích Những người khốn khổ) của Vích-to Huy-gô, chương trình Ngữ văn
lớp 11” nhằm giúp học sinh có hứng thú tìm hiểu tác phẩm, thấy hấp dẫn và từ
đó chủ động, tích cực trong việc khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của
đoạn trích cũng như tác phẩm. Khi học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức, cảm
nhận một cách sâu sắc giá trị của tác phẩm thì các em sẽ hiểu hơn về giá trị của
văn học nói chung và những ảnh hưởng tích cực của văn học Pháp đến sáng tác
của một số nhà văn nhà thơ Việt Nam.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
- Các phương pháp, kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo
- Một số biện pháp dạy học cụ thể phù hợp với bài học “Người cầm quyền khôi
phục uy quyền” (trích “Những người khốn khổ”) của Vích-to Huy-gô

1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành sáng kiến, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tìm hiểu kĩ phương pháp
dạy học văn nói chung, phương pháp dạy học văn học nước ngoài nói riêng;
Nghiên cứu các kĩ thuật dạy học tích cực
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Thực nghiệm giảng
dạy trên lớp, đánh giá và rút kinh nghiệm; Trao đổi với đồng nghiệp để được
góp ý và từ đó hoàn thiện dần thiết kế bài dạy
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: lập bảng thống kê các số liệu thu được về
sự hấp dẫn của bài học, về khả năng tạo hứng thú cho học sinh và tính tỷ lệ %.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học văn
Cải cách giáo dục và đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu tất yếu trong
quá trình phát triển của xã hội. Đây là vấn đề lớn của ngành giáo dục. Ở đây,
chúng ta chỉ giới hạn vấn đề trong việc đổi mới giảng dạy tác phẩm văn chương
trong bộ môn Ngữ văn.
4


“Mục đích giờ dạy học tác phẩm văn chương theo phương pháp mới không
phải là giáo viên truyền thụ lời giảng của mình. Mục đích cao nhất là làm sao để
chủ thể học sinh, dưới sự hướng dẫn của thầy, cảm nhận, khám phá, chiếm lĩnh
tác phẩm. Từ đó, tạo được một sự tự phát triển toàn diện về trí tuệ, tâm hồn,
nhân cách và năng lực” [8].
Do đó, mọi phương pháp, biện pháp, hình thức hoạt động của thầy và trò
đều nhằm làm sao thúc đẩy được sự hoạt động trí tuệ của bản thân từng học
sinh. Giờ dạy học tác phẩm nhất thiết là một quy trình được thiết kế bằng một hệ
thống thao tác, hệ thống việc làm để học sinh thật sự có được sự hoạt động trí
tuệ từ bước tri giác ngôn ngữ, âm thanh đến hồi ức, tưởng tượng, liên tưởng, so

sánh, phân tích, khái quát theo con đường cảm xúc hóa phù hợp với quy luật
cảm thụ văn chương. Học sinh giữ vai trò chủ thể trực tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh
tác phẩm cũng như giáo viên. Vì thế, mọi biện pháp được sử dụng phải thể hiện
mục đích chiến lược trên. Phương pháp không còn là những phương thức tác
động từ bên ngoài mà là phương thức vật chất hóa hoạt động bên trong của học sinh.
2.1.2. Phương pháp dạy học văn theo quan điểm đổi mới
Theo GS. Phan Trọng Luận (Phương pháp dạy học văn, NXB GD, 2001),
trước khi bắt tay vào tiến trình giảng dạy một bài văn, một tác phẩm văn
chương, người giáo viên phải suy nghĩ nghiêm túc, kĩ càng về bài văn, về đối
tượng học sinh, về vị trí đặc biệt của bài văn trong khóa trình, về những nhiệm
vụ cụ thể mà xã hội và nhà trường đang đặt ra cho việc giảng dạy văn trong nhà
trường. Đó là những yêu cầu có tính chất nguyên tắc về nghiệp vụ, chính trị, tư
tưởng, về hiểu biết văn học và sư phạm đối với mỗi giáo viên. Mặt khác, đó
cũng là những tiền đề, những căn cứ toàn diện cho việc xác định mục đích, nội
dung và phương pháp giảng dạy một bài văn cụ thể.
Cũng theo Phương pháp dạy học văn, NXB GD, 2001của GS. Phan Trọng
Luận, để thực hiện triến trình bài dạy, người giáo viên cần thực hiện các bước sau:
a. Bước học sinh chuẩn bị bài ở nhà:
Nội dung công việc chuẩn bị ở nhà của học sinh có nhiều mặt, đa dạng. Có
thể là tập đọc tìm hiểu điển cố, từ ngữ khó, suy nghĩ về một chi tiết nghệ thuật,
một kiến thức cụ thể cần thiết có liên quan đến việc tiếp nhận tác phẩm v.v…
Nhưng nội dung chủ yếu vẫn là nhằm khơi dậy hứng thú của học sinh đối với tác
phẩm và định hướng học sinh vào những vào những vấn đề then chốt của tác
phẩm mà giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh đi sâu phát hiện ở trên lớp. Câu hỏi
chuẩn bị tuyệt đối không được tùy tiện. Mỗi câu hỏi cho học sinh vừa có tác
dụng khơi gợi hứng thú, vừa hướng dẫn đi vào thế giới trung tâm cảm hứng của
tác giả, vừa có tác dụng chuẩn bị cho hoạt động khám phá của giáo viên và học
sinh ở trên lớp. Đến lớp, giáo viên phải kiểm tra công việc chuẩn bị của học sinh
ở nhà. Đây không những chỉ là một công việc thường lệ của nhà giáo trước khi
bắt tay vào giảng dạy một tài liệu mới. Đây còn là bước cần thiết để dẫn dắt học

sinh đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Việc hướng dẫn học sinh khám phá
tác phẩm chỉ có thể thực hiện được một khi giáo viên nắm chắc được tâm trạng

5


học sinh trước khi bước vào học bài. Tạo được tâm thế thâm nhập tác phẩm là
tạo được tiền đề tâm lí cần có cho quá trình thâm nhập và khám phá.
b. Cấu tạo một giờ dạy học tác phẩm trên lớp:
Cấu tạo của một giờ dạy có thể linh hoạt về trật tự và nhịp độ nhưng phải
đảm bảo yêu cầu có tính nguyên tắc. Đó là hoạt động song phương của thầy và
trò. Tiến trình dạy học một tác phẩm văn chương trên lớp là tiến trình thầy trò
từng bước khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm, là tiến trình diễn ra trên cơ sở những
mối liên hệ qua lại một cách hữu cơ, biện chứng giữa ba chủ thể nhà văn- giáo
viên- học sinh. Mọi sáng tạo về phương pháp và tiến độ giờ giảng đều phải xuất
phát từ nguyên tắc nói trên.
c. Bước tổ chức nghiên cứu tác phẩm:
Bốn mươi lăm phút trong giờ học chủ yếu là bốn mươi lăm phút giáo viên
tổ chức và hướng dẫn học sinh thâm nhập, khám phá, chiếm lĩnh văn bản văn
học theo kinh nghiệm và tài năng của mình. Do đó, giáo án lên lớp hay thiết kế
bài dạy không còn là một bản đề cương sơ sài hay chi tiết về nội dung trình diễn
của giáo viên. Giáo án theo quan niệm mới phải là một đề cương chương trình
hóa, vật chất hóa nội dung hoạt động của giáo viên và học sinh để thâm nhập tác
phẩm. Với quan niệm này, giáo viên vừa là người am hiểu tác phẩm vừa là
người nắm chắc học sinh vừa là một nhà phân tích khá sâu sắc tinh tế, vừa là
một kĩ sư thiết kế tỉ mỉ tiến hành chiếm lĩnh tác phẩm hướng vào những mục
tiêu và mục đích được dự tính theo những phương pháp và biện pháp sau đây:
- Kể lại bài văn: Biện pháp này chủ yếu dùng cho giờ dạy văn xuôi, giúp
học sinh nắm được kết cấu nội dung, hệ thống nhân vật, những sự kiện và chi
tiết cơ bản để đi vào thế giới tác phẩm. Nhưng điều quan trọng nhất là khi kể

phải làm nổi bật được giọng điệu kể chuyện, thông tin được tiếng nói tình cảm
cảu tác giả. Kể làm sao cho tiếng nói nội tâm của nhà văn được tái hiện một
cách trung thành.
- Miêu tả bằng lời nói: Trong tác phẩm không phải khi nào và chỗ nào, tác
giả cũng kể lại hay miêu tả tỉ mọi tình huống, mọi tâm trạng, mọi tình tiết, mọi
sự kiện hay hành vi của nhân vật. Có khi chỉ là một nhận xét, một phác thảo hay
một lời dẫn truyện. Để giúp học sinh hiểu sâu hơn hay hình dung được cụ thể
hơn một nét nào đó trong nội dung tác phẩm để hiểu hơn ý đồ nghệ thuật của tác
giả.
- Kể lại có sáng tạo: Sáng tạo được hiểu là tô điểm, bổ sung, nhấn mạnh
một nét, một mặt nào đó để bộc lộ rõ hơn tính cách nhân vật chứ không phải để
thay đổi lời kể của các nhân vật khác nhau trong tác phẩm về cốt truyện tình tiết
của tác phẩm. Khi kể có sáng tạo, học sinh có thể thay đổi nhân vật do tác giả hư
cấu. Có thể là bản thân học sinh đứng ra kể hay để cho một nhân vật khác trong
truyện của tác giả đứng ra kể. Điều cần lưu ý là là không được thay đổi nội dung
tác phẩm.
- Đọc diễn cảm: Đọc để hòa nhập vào thế giới cảm xúc, để phát hiện ý đồ
nghệ thuật của tác giả.

6


+ Tái hiện giọng điệu tình cảm của người kể (tác giả) nhân vật ngôi thứ
nhất, nhân vật trữ tình
+ Tái hiện giọng điệu cảm xúc của nhân vật.
- Khắc họa điểm sáng thẩm mĩ: Hiểu và cảm tác phẩm phải dựa vào chỉnh
thể nhưng bám chắc điểm sáng thẩm mĩ lại cực kì quan trọng. Điểm sáng thẩm
mĩ có khi là nhãn tự, là một chi tiết đắt, là thủ pháp kết cấu cú pháp, tu từ nhiều
giá trị biểu cảm, có khi là lời của nhân vật hay lừi trữ tình ngoại đề của tác giả.
- Định hướng vào những vấn đề cốt lõi của tác phẩm: Học sinh cần phải

hiểu, cảm nhận được sâu sắc tư tưởng của tác phẩm, những vấn đề triết lí nhân
sinh, xã hội, văn chương mà tác giả đẫ đặt ra trong tác phẩm. Học sinh không
phải chỉ cảm thụ mà còn phải biết suy ngẫm về tác phẩm. Suy ngẫm để tự nhận
thức để rồi sống tốt hơn, đẹp hơn, cao thượng hơn.. Vì thế, giáo viên cần phát
hiện được những chi tiết, những yếu tố, những sự kiện, những điểm sáng thẩm
mĩ nào lấp lánh nhất, ý nghĩa tư tưởng lớn của tác phẩm để định hướng học sinh
trong suốt quá trình đọc và học tác phẩm.
- Đối chiếu tác phẩm với những sáng tác thuộc loại hình nghệ thuật khác:
So sánh đối chiếu mở rộng ra ngoài phạm vi tác phẩm để hiểu sâu hơn, chính
xác hơn về tác phẩm là một công việc có ý nghĩa về phương pháp luận và về
biện pháp phân tích. Giáo viên có thể dùng những bức tranh, những bản nhạc…
để khơi gợi trí tưởng tượng, gợi rung động thẩm mĩ để hiểu tác phẩm sâu hơn, tự
nhiên hơn.
- Chuyển thể văn bản: Đây là hình thức mở rộng đào sâu hơn hiểu biết và
tình cảm của học sinh về một tác phẩm đồng thời cũng để hình thành và phát
triển năng lực văn, tình cảm thẩm mĩ nói chung cho học sinh (chủ yếu dùng
ngoài lớp). Hoạt động chuyển thể văn bản có nhiều hình thức như: dựng kịch,
dựng phim, đóng vai nhân vật, trao đổi về một nhân vật trong những loại hình
nghệ thuật khác nhau.
d. Phần kết thúc bài giảng:
Giáo viên nâng nội dung phân tích lên thành những vấn đề có ý nghĩa khái
quát về phong cách biểu hiện của tác giả, về ý nghĩa nội dung của tác phẩm, về
vị trí và vai trò của tác phẩm, tác giả. Chính ở khâu này, những ấn tượng và hiểu
biết về tác phẩm được nâng lên một bước về chất lượng, quá trình đọc hiểu tác
phẩm mới được kết thúc một cách trọn vẹn về văn học và về sư phạm.
e. Hướng dẫn làm bài ở nhà:
Bước này gồm hai nội dung: củng cố và phát triển kết quả học tập tác
phẩm trên lớp, chuẩn bị cho việc học tập bài mới.
g. Bước hướng dẫn chuẩn bị bài mới:
Đây là khâu quyết định phần lớn hiệu quả giờ học tiếp theo nên cần có sự

hướng dẫn chu đáo, có tính toán kĩ lưỡng của giáo viên để tạo tiền đề tâm lí cần
thiết cho học sinh.

7


2.1.3. Một số nguyên tắc dạy học văn học nước ngoài
Trong chương trình Ngữ văn THPT, số lượng các văn bản văn học hay tác
phẩm văn học nước ngoài không nhiều nhưng có vai trò vô cùng quan trọng. Vì
thế, một số nhà nghiên cứu đã đề xuất một số nguyên tắc và kiến nghị giải pháp
về hoạt động dạy học văn học nước ngoài (VHNN).
- Dạy học VHNN qua bản dịch nhưng phải đảm bảo tinh thần, giá trị
nguyên tác
- Dạy học VHNN đảm bảo đặc trưng văn hóa vùng miền, hướng tới tính
dân tộc và tính nhân loại: Đặc trưng VHNN không chỉ là sự khác biệt về ngôn
ngữ mà còn là một khoảng cách rộng lớn về thời gian và không gian. Đó là
khoảng cách văn hóa. Người Việt không phải ai cũng hiểu được văn hóa bản xứ,
huống gì văn hóa nước ngoài là cả một sự thách đố đối với bất cứ ai. Mỗi tác
phẩm văn học đều được sáng tạo trên một cơ tầng văn hóa, và chịu sự tác động
của những quy luật tự nhiên và xã hội cho nên tác phẩm văn học vừa mang tính
dân tộc, vừa mang tính nhân loại. Muốn khai thác được đặc trưng văn hóa thì
phải đặt tác phẩm đúng hoàn cảnh mà tác phẩm đó ra đời. Tức là phải tìm hiểu
về đặc điểm thời đại, hoàn cảnh sáng tác, tập tục xã hội, tâm lý, quan niệm đạo
đức thẩm mỹ của dân tộc,… để từ đó phân tích văn bản một cách hợp lý hơn.
- Dạy học VHNN theo đúng đặc trưng thể loại: Đây là nguyên tắc chung
khi chúng ta tìm hiểu bất kỳ tác phẩm văn học nào. Dạy học theo đặc trưng thể
loại sẽ giúp HS chiếm lĩnh tác phẩm một cách dễ dàng và khoa học hơn, đồng
thời hình thành ở các em kiến thức cơ bản về đặc điểm thể loại trong những
bước đầu của hoạt động nghiên cứu và sáng tạo nghệ thuật.
- Dạy học VHNN theo tinh thần tích hợp với các phân môn khác: Các phân

môn khác trong môn văn như: văn học Việt Nam, Tiếng Việt, Làm văn, Văn học
sử,… và các bộ môn khác như lịch sử, địa lý,…
Dạy học VHNN không chỉ là học những kiến thức về VHNN mà nhằm
củng cố thêm kiến thức về Văn học Việt Nam và tìm ra những nét gần gũi, ảnh
hưởng đến Văn học Việt Nam, để các em thấy được sự phong phú đa dạng của
các nền văn hóa và nét riêng của văn hóa nước ta. Ví như, khi dạy về anh hùng
ca của Homer thì liên hệ đến thiên sử thi Ramayana của Ấn Độ và Sử thi Đăm
Săn của Việt Nam để thấy được những đặc điểm chung của tinh thần thời đại và
sự khác biệt văn hóa Đông Tây. Tích hợp với các bộ môn khác nhằm giúp các
em có được kiến thức nền tảng vững chắc, đầy đủ và hệ thống hơn.

8


2.1.4. Các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
a. Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn,
được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
“Tích cực” trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ
động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái
với tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học
chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy
Một số phương pháp dạy học tích cực:
- Phương pháp vấn đáp:Vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp trong đó giáo
viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau
và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.
- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề: Trong dạy học theo phương pháp
đặt và giải quyết vấn đề, học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được

phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng tạo, được
chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải
quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh.
- Phương pháp hoạt động nhóm: Phương pháp hoạt động nhóm giúp các
thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng
nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi
người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần
học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không
phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên.
- Phương pháp đóng vai : Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau:
Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn; Gây hứng thú và
chú ý cho học sinh; Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh; Khích
lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức và
chính trị – xã hội; Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc
làm của các vai diễn.
- Phương pháp động não: Động não là phương pháp giúp học sinh trong
một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề

9


nào đó. Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các
thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận.
b. Một số kỹ thuật dạy học tích cực
Qua tham khảo tài liệu và các chuyên đề tập huấn, chúng tôi thấy có một số
kỹ thuật dạy học tích cực rất hữu ích sau đây:
- Kỹ thuật dạy học “khăn trải bàn”
- Kỹ thuật “Các mảnh ghép”
- Sơ đồ KWL và Sơ đồ tư duy

- Học theo góc
- Động não
- Kỹ thuật XYZ
- Kỹ thuật “bể cá”
- Kỹ thuật “ổ bi”
- Tranh luận ủng hộ – phản đối
- Kỹ thuật tia chớp
- Kỹ thuật “3 lần 3”
2.2. Thực trạng vấn đề
Qua khảo sát thực tế, chúng tôi thấy việc dạy học tác phẩm VHNN đang
gặp phải những khó khăn, hạn chế nhất định, cần tìm cách giải quyết, khắc phục. Đó là:
- Văn bản văn học là trung tâm của mọi hoạt động tiếp nhận. Vì vậy, muốn
dạy học tốt thì phải trực tiếp tiếp xúc với văn bản. Tuy nhiên, dạy học VHNN vô
cùng bất cập khi không thể phân tích trực tiếp từ nguyên bản (vì rào cản ngôn ngữ).
Hướng đến tinh thần nguyên tác thì bản thân giáo viên (GV) và học sinh
(HS) phải tìm đọc đầy đủ về tác phẩm và những vấn đề liên quan đến tác phẩm,
tác giả. Điều này cần một sự đam mê và nỗ lực của thầy lẫn trò, bên cạnh đó là
yếu tố thời gian.

10


Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động dạy học VHNN thường chỉ dạy qua bản
dịch và trích đoạn trong sách giáo khoa (SGK), vì GV và HS thiếu tài liệu, thiếu
thời gian, thậm chí rất nhiều HS hiếm khi đọc đoạn trích trước khi lên lớp. Vì
vậy, hoạt động dạy học VHNN ở trường THPT phần lớn rất nhàm chán và
thường là hoạt động “áp đặt” kiến thức của GV.
- Dạy học VHNN cần đảm bảo đặc trưng văn hóa vùng miền, hướng tới
tính dân tộc và tính nhân loại. Muốn khai thác được đặc trưng văn hóa thì phải
đặt tác phẩm đúng hoàn cảnh mà tác phẩm đó ra đời, tức là phải tìm hiểu về đặc

điểm thời đại, hoàn cảnh sáng tác, tập tục xã hội, tâm lý, quan niệm đạo đức
thẩm mỹ của dân tộc,… để từ đó phân tích văn bản một cách hợp lý hơn.
Trên thực tế hoạt động dạy học, một phần không nhỏ HS rất yếu kém về
phương diện này, dẫn đến nhầm lẫn, suy diễn một cách ngây ngô, hiểu sai nội
dung tư tưởng tác phẩm. GV cũng không có và không giành nhiều thời gian cho
mục này nên hiệu quả tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm là thấp.
- Dạy học VHNN theo đúng đặc trưng thể loại: Nguyên tắc này trong hoạt
động dạy học đã được GV quan tâm ở thể loại thơ Đường, tuy nhiên với văn
xuôi và kịch, đặc biệt là kịch thì dường như còn rất xa lạ với HS
- Dạy học VHNN theo tinh thần tích hợp với các phân môn khác: Thực tế
dạy học thì GV và HS chưa tìm ra nhiều mối liên hệ lẫn nhau giữa VHNN và
các phân môn khác. Nguyên nhân là do GV chưa chú ý nhiều hoặc chưa thấy
được sự thống nhất trong hệ thống kiến thức. Hơn nữa, nội dung chương trình
cũng không thể hiện nhiều mảng kiến thức cần được tích hợp.
2.3. Giải pháp
Từ sự phân tích một số nguyên tắc và thực trạng hoạt động dạy học trên,
chúng tôi đề xuất một số giải pháp cụ thể khi dạy học đoạn trích “Người cầm
quyền khôi phục uy quyền” (trích “Những người khốn khổ”) của Vích-to Huy-gô như sau:
2.3.1. Xác định đối tượng học sinh: Bởi khả năng tiếp nhận của học sinh có
tính chất quyết định đối với sự thành công của bài giảng.
Ở đây, chúng ta hướng tới đối tượng học sinh học chương trình cơ bản, học
tương đối đều các môn. Vì thế, bài giảng sẽ rất phong phú, sinh động nếu giáo
viên phát huy được tính tích cực của học sinh trong việc kết hợp giảng giải lí
thuyết với bài tập thực hành.
2.3.2. Yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp
Đây cũng là biện pháp hữu ích trong việc phát huy tính tích cực của học
sinh. Bởi khi các em học bài cũ, chuẩn bị bài mới tức là các em đã chủ động tiếp
nhận một phần kiến thức cơ bản. Và việc của giáo viên trong giờ dạy là khuyến
khích và giúp các em phát huy tốt nhất sự chủ động ấy.


11


Cụ thể, để dạy học tốt bài “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” (trích
“Những người khốn khổ”) của Vích-to Huy-gô, giáo viên yêu cầu học sinh tìm
hiểu về nền văn hóa, văn học Pháp; tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp của V. Huygô; tiểu thuyết “Những người khốn khổ” (đọc, xem phim, xem nhạc kịch); tóm
tắt tác phẩm bằng sơ đồ; đọc kĩ đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy
quyền”.
2.3.3. Thiết kế bài giảng trên tinh thần phát huy tính tích cực, chủ động của
học sinh, sử dụng máy chiếu để cung cấp ngữ liệu, bài tập, tổng hợp kiến thức
- Xác định rõ mục tiêu bài học
- Hệ thống các đơn vị kiến thức một cách khoa học, phù hợp
- Sử dụng câu hỏi gợi mở giúp học sinh tự tìm hiểu, tự khái quát được kiến thức
- Sử dụng máy chiếu hỗ trợ: Chiếu các hình ảnh minh họa, sơ đồ tóm tắt tác
phẩm, xem video giới thiệu nhạc kịch “Những người khốn khổ”
2.3.4. Sử dụng phối hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để bài
dạy đạt hiệu quả cao nhất
- Phương pháp vấn đáp: GV đặt câu hỏi về tác giả, tác phẩm, suy nghĩ về nhân
vật, về tư tưởng của tác giả… để HS tìm hiểu, trả lời.
- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề: Giáo viên có thể đặt vấn đề để học sinh
giải quyết theo suy nghĩ, theo cảm xúc của bản thân các em. Ví dụ: quan điểm
của anh/chị về quan niệm sống của Gia-ve và Giăng Van-giăng? Đánh giá hai
nhân vật trong tương quan so sánh?
- Phương pháp hoạt động nhóm: GV chia nhóm để HS thảo luận, tìm ra câu trả
lời được coi là ý kiến chung cho câu hỏi hay vấn đề được đặt ra.
- Sơ đồ KWL: GV phát phiếu cho HS trước giờ học để HS chuẩn bị bài và điền
vào cột Điều đã biết và Điều muốn biết trong phiếu. Căn cứ vào Điều muốn biết
của HS, GV lần lượt hướng HS vào tìm hiểu tác phẩm. Cuối tiết học, HS sẽ điền
vào cột Điều học được. Đây sẽ là căn cứ để GV thấy được HS lĩnh hội được kiến
thức ở mức độ nào và chính HS cũng thấy rằng mình đã chủ động tìm hiểu kiến

thức như thế nào, có hứng thú với điều gì trong tác phẩm.
Theo đó, GV là người tổ chức thiết kế, điều hành giờ học. HS chủ động
tích cực trong hoạt động chiếm lĩnh tác phẩm, mạnh dạn trình bày và nhận xét ý
kiến của nhóm, của bản thân, vừa đảm bảo tinh thần dân chủ, vừa giáo dục ý
thức tôn trọng người khác. Và dạy học gắn với từng đơn vị kiến thức kỹ năng và
đặc trưng thể loại nhằm hình thành ở các em cách tiếp cận tác phẩm, kiểu tư duy,
hơn là nội dung kiến thức của tác phẩm.
Trong khuôn khổ sáng kiến, tôi xin giới thiệu giáo án thực nghiệm tiết đầu
của bài dạy (gồm 2 tiết)

12


GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
Tiết 99: Đọc văn
NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYỀN
(Trích Những người khốn khổ - V. Huygô)
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức:
Qua bài giảng, giúp HS:
- Nắm được những nét đặc trưng của bút pháp lãng mạn Huygô qua hư cấu
nhân vật, diễn biến cốt truyện, nghệ thuật phóng đại, ẩn dụ, so sánh đặc biệt là
nghệ thuật đối lập tương phản, đan xen bình luận ngoại đề trong diễn biến truyện.
- Từ đó hiểu ý nghĩa nội dung: sự đối lập giữa thiện và ác cường quyền và nạn
nhân, phê phán cường quyền, khơi dậy mối đồng cảm với những người khốn
khổ và khẳng định một lí tưởng cao đẹp nhưng không tưởng: dùng sức mạnh của
tình thương dễ cải tạo xã hội.
- Nắm được đặc trưng cơ bản của bút pháp lãng mạn chủ nghĩa của Huy- gô.
2. Kĩ năng:
- Đọc – hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.

- Phân tích tâm lí, tính cách nhân vật và tình huống xung đột trong đoạn trích.
3. Thái độ:
- Biết yêu thương, trân trọng những người có số phận bất hạnh, những người
biết đấu tranh bảo vệ những người yếu đuối
- Biết căm ghét cái xấu, cái ác
B. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
- GV: Thiết kế bài dạy, máy chiếu, SGK, SGV Ngữ văn 11, tài liệu tham khảo
- HS: Vở soạn, vở ghi, SGK
C. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC:
1. Phương pháp chủ đạo: Phát vấn, nêu vấn đề, phân tích, thảo luận nhóm
2. Phương pháp phối hợp: Thuyết giảng
D. TIẾN TRÌNH BÀI HỌC:
1. Ổn định tổ chức: - Kiểm tra sĩ số
- Nhắc nhở nề nếp...
2. Kiểm tra bài cũ:
Kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh, yêu cầu học sinh báo khái quát điều
học sinh đã biết, điều học sinh muốn biết trong phiếu KWL đã chuẩn bị trước.
3. Bài mới:
Khởi động: Trình chiếu một số hình ảnh được coi là biểu tượng của nước
Pháp và giới thiệu về nhà văn V. Huy-gô (có hình ảnh)
Trong nền văn học Pháp, Huy – gô xuất hiện như một ngôi sao nở sớm và
lặn rất muộn ở chân trời trong thế kỷ XIX. Ông đã khẳng định mình như một
chủ soái của trường phái lãng mạn với một loạt những tác phẩm lớn. Và bộ tiểu
thuyết “Những người khốn khổ” của V.Huy- gô là một trong những tác phẩm nổi
tiếng nhất thế giới thế kỷ XIX. Chúng ta sẽ tìm hiểu đoạn trích bài “Người cầm
quyền khôi phục uy quyền” (trích “Những người khốn khổ”)
13


THÁP EP-PHEN


ĐIỆN PANTHÉON

NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PA-RI

VICH-TO HUY-GÔ (1802- 1885)

HĐ CỦA GV- HS

YÊU CẦU CẦN ĐẠT

14


1. Hoạt động 1: GV Hướng dẫn I. Tiểu dẫn
HS tìm hiểu về tác giả
1. Tác giả
- 1802 – 1885
- GV: Dựa vào tiểu dẫn SGK hãy - Gia đình:
trình bày những nét cơ bản về V. Mâu thuẫn
Huygô?
Hưởng sự giáo dục sáng suốt của mẹ
- HS trả lời
Ấn tượng từ hành trình của cha
- Hs khác nhận xét
-> Trải nghiệm hấp dẫn
- Gv ghi bảng
-> Để lại dấu ấn trong sáng tạo nghệ thuật
- Chiếu hình ảnh đám tang - Thời đại: Bão tố cách mạng
V.Huygo để hs thấy được tình -> Thơ – “Tiếng vọng âm vang của thời

cảm và sự trân trọng của người đại”
Pháp đối với ông, từ đó thấy -> Có những hoạt động xã hội và chính trị
được ảnh hưởng của ông đối với không ngừng nghỉ vì sự tiến bộ của con
nền văn học Pháp nói riêng và người
nước Pháp nói chung.
- Là 1 thiên tài nở sớm và rọi sáng từ đầu
thế kỉ XIX cho đến nay.
- Sự nghiệp sáng tác: Thành công lớn ở
nhiều thể loại:
- Chiếu hình ảnh bìa một số tác + Tiểu thuyết: Nhà thờ Đức Bà Pari,
phẩm của V. Huy-gô
Những người khốn khổ…
+ Thơ: Lá thu, Tia sáng và bóng tối, Trừng
phạt
+ Kịch: Héc na ni
-> Thể hiện lòng thương yêu bao la đối với
những người khốn khổ
=> Là nhà văn lãng mạn thiên tài, là danh
nhân văn hóa thế giới.
2. Hoạt động 2: GV hướng dẫn 2. Tác phẩm Những người khốn khổ
HS tìm hiểu tác phẩm Những a. Tóm tắt: Giăng Van-giăng
người khốn khổ
- Thợ xén cây, bị tù khổ sai 19 năm vì ăn
- GV: Gọi HS tóm tắt dựa theo cắp 1 cái bánh mì cho cháu
SGK
-> Ra tù, bị xua đuổi, được Đức giám mục
-> HS tóm tắt ngắn gọn.
Mirien giúp đỡ, cảm hóa
-> Trở thành Thị trưởng ma-đơ-len quyền
lực, giàu có, cứu vớt Phăngtin

-> Bị Giave truy tìm, tự thú để cứu Săng
Ma-chi-ơ bị bắt oan
-> Rơi vào tù tội, vượt ngục, tìm và nuôi
Côdet- con gái Phăng tin
-> Tham gia cách mạng, vun đắp cho hạnh
phúc của Côdet, sống cô đơn
b. Bố cục và nội dung
15


- Nêu bố cục và nội dung của tác
phẩm?
- HS trả lời dựa vào việc tìm
hiểu SGK.

- GV nhấn mạnh giá trị nội dung
của tác phẩm, vị trí của tác phẩm
trong nền văn học thế giới.
- Chiếu video giới thiệu nhạc
kịch “Những người khốn khổ”
để học sinh có cảm nhận chung
về số phận các nhân vật trong tác
phẩm
3. Hoạt động 3: GV hướng dẫn
hs tìm hiểu khái quát về đoạn
trích “Người cầm quyền khôi
phục uy quyền”
- Vị trí đoạn trích trong tác
phẩm?
(Phăng-tin bị Gia-ve bắt, may nhờ có

Ma-đơ-len (Giăng Van-giăng) can
thiệp mới được thoát nạn, rồi lại được
Ma-đơ-len đưa vào nằm ở bệnh xá.
Đang lúc hết lòng cứu giúp Phăng-tin,
Ma-đơ-len lại quyết định tự thú để cứu
một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan và trở
lại với tên thật của mình.)

- Đoạn trích có thể chia làm mấy
đoạn? Nội dung của mỗi đoạn?
HS đưa ra các cách chia
Hs khác nhận xét hoặc đưa ra ý
kiến khác
GV chốt lại
4. Hoạt động 4: GV hướng dẫn
HS đọc hiểu văn bản
- Gọi hs đọc phần 1
- GV hướng dẫn HS tìm hiểu
nhân vật Gia-ve

- Bố cục: gồm 5 phần
+ Phần I: Phăng tin
+ Phần II: Côdét
+ Phần III: Mariúyt
+ Phần IV: Tình ca phố Pơluymê và anh
hùng ca phố Xanhđơni
+ Phần V: Giăng Vangiăng
- Nội dung: Tái hiện khung cảnh Pari, nước
Pháp 3 thập kỉ đầu thế kỉ XIX xoay quanh
số phận nhân vật Giăng Vangiăng từ khi

được ra tù đến lúc qua đời trong lãng quên
thầm lặng với thông điệp cuối cùng: trên
đời, chỉ còn 1 điều ấy thôi đó là thương
yêu nhau
-> Tấm lòng thương cảm sâu xa với những
người khốn khổ; bộc lộ quan điểm lấy tình
thương để cải tạo xã hội
-> Lên án gay gắt xã hội tư bản tàn bạo
-> Lịch sử vẻ vang của nhân dân lao động
3. Đoạn trích
a. Vị trí:
- Nằm ở cuối phần thứ nhất
- Vì muốn cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt
oan, thị trưởng Ma-đơ-len buộc phải thú
nhận mình chính là Giăng Van-giăng. Bởi
vậy, ông đến từ giã Phăng-tin trong khi
nàng đang ốm và chưa biết gì về sự thật tàn
nhẫn đó.Và Gia-ve đã theo ông đến tận
bệnh xá nơi Phăng-tin nằm để canh chừng
và bắt ông…
b. Bố cục
2 phần: trước khi Phăng-tin chết
Sau khi Phăng- tin chết

II. Đọc hiểu văn bản
1. Hình tượng Giave
- Bộ dạng:
+ Bộ mặt gớm ghiếc
+ Cặp mắt nhìn như cái móc sắt, đi thấu
16



* Thảo luận nhóm về nhân vật
Gia-ve
- GV chia lớp thành 4 nhóm thảo
luận và hoàn thành Phiếu học tập
Nhóm 1
Tìm chi tiết miêu tả bộ dạng Giave? Nhận xét về nghệ thuật miêu
tả của tác giả và nêu cảm nhận
của em về Gia-ve?
Nhóm 2
Tìm chi tiết miêu tả ngôn ngữ
của Gia-ve? Nhận xét về nghệ
thuật miêu tả của tác giả và nêu
cảm nhận của em về Gia-ve?
Nhóm 3
Tìm chi tiết miêu tả hành động
của Gia-ve? Nhận xét về nghệ
thuật miêu tả của tác giả và nêu
cảm nhận của em về Gia-ve?
Nhóm 4
Tìm chi tiết miêu tả thái độ của
Gia-ve đối với Phăng-tin? Nhận
xét về nghệ thuật miêu tả của tác
giả và nêu cảm nhận của em về
Gia-ve?
- HS trình bày kết quả tìm hiểu
chi tiết và cảm nhận về nhân vật.
- GV ghi bảng vắn tắt


- GV: qua các chi tiết trên, em có
nhận xét khái quát gì về nhân vật
Gia-ve?
HS phát biểu, GV chốt lại

vào tận xương tuỷ
+ Giọng nói: man rợ và điên cuồng, không
còn là tiếng người mà là thú gầm
+ Cái cười: ghê tởm, phô tất cả 2 hàm răng
- Ngôn ngữ: - Mày- tao
+ Con này, đồ khỉ, con đĩ, lũ gái điếm…
+ có câm họng không?
+ Cái xứ chó đểu gì mà bọn tù khổ sai làm
ông nọ ông kia, còn lũ gái điếm được chạy
chữa như những bà hoàng, tao không đến
đây lí sự…
+ Tao đã bảo không có ông Ma-đơ-len(…).
Chỉ có một tên kẻ cắp, một tên kẻ cướp,
một tên tù khổ sai là Giăng Văn-giăng, tao
bắt được nó đây này
-> Thô lỗ, xúc phạm người khác
- Hành động
+ Gầm gừ, quát tháo trong bệnh xá: “nói
to, nói to lên”.
+ Nắm cổ áo Giăng Van- giăng
+ Giẫm chân, nhìn trừng trừng,
+ Túm lấy cổ áo và ca-vát của Giăng Vangiăng
-> Hách dịch, ngang ngược
- Thái độ, hành động đối với Phăng tin:
+ Dùng những lời lẽ khinh miệt, thô bỉ xúc

phạm Phăngtin : con này, đồ khỉ, con đĩ,
mày…
+ Quát tháo, chửi mắng, không hề nhượng
bộ trước đau khổ của cô: có câm họng
không?
+ Dập tắt niềm hi vọng tìm con
→ Chính Gia-ve là kẻ trực tiếp gây ra cái
chết của Phăng-tin
-> Tàn nhẫn, độc ác
-> NT: miêu tả Giave bằng so sánh, ẩn dụ
-> chân dung của Giave được nhà văn
miêu tả cụ thể, sống động ở từng đường
nét, từng chi tiết cụ thể
=> Gia-ve: Là thanh tra mật thám của
chính quyền tư sản Pháp và cũng là một
con ác thú khiến người ta khiếp sợ, ghê
tởm bởi sự lạnh lùng, thô lỗ, độc ác, tàn
17


- Qua nhân vật Gia-ve, V. Huy- nhẫn
gô muốn nói lên điều gì?
 Phản ánh hiện thực nước Pháp: “đày
- HS trả lời cá nhân
đọa” con người, còn “dốt nát và đau
- Gv chốt ý
khổ” (V. Huy-gô- Lời tựa)
Đoạn văn miêu tả Giave:
- GV giới thiệu thêm: chân dung “ Mũi Giave tẹt có hai lỗ sâu hoắm; hai bên
của Giave được nhà văn miêu tả má hắn có hai chòm râu rậm mọc ngược

là chân dung của 1 con người lên đến chân mũi. Lần đầu nhìn hai cái
thú, 1 con chó giữ nhà trung rừng ấy và hai cái hang ấy, ai cũng thấy
thành của chính quyền tư sản khó chịu. Khi hắn cười- nghĩa là họa hoằn
nước Pháp đương thời. Giave lắm và dễ sợ lắm- khi hắn cười thì đôi môi
làm nhiệm vụ thực thi công bằng mỏng dính dang ra, phơi bày nào răng nào
của luật pháp nhưng lại máy lợi. Lúc ấy, xung quanh cái mũi là cả một
móc, cứng nhắc, không 1 chút vết nhăn nhúm man rợ, trông như mõm ác
tình cảm
thú. Giave mà nghiêm nét mặt thì là một
- Chiếu và đọc đoạn văn miêu tả con chó dữ. Khi cười thì lại là một con
Giave
cọp. Lại còn cái trán hẹp, cái hàm bạnh, tóc
tỏa xuống tận lông mày, giữa hai con mắt
lúc nào cũng có một vết nhíu trông như
luôn luôn giận dữ, tia mắt tối tăm, tia mắt
tối tăm, miệng thì mím lại một cách khắc
nghiệt đáng sợ, cả người hắn toát ra một vẻ
oai nghiêm tàn ác. (…)
Tất cả con người Gia ve thể hiện sự rình
mò, lén lút… Không thấy trán vì cái mũ
sùm sụp; không thấy mắt vì lông mày rậm,
không thấy cằm vì chiếc khăn quàng quấn
kín cổ, không thấy tay vì tay thọc vào túi
áo rộng, không thấy gậy vì gậy giấu dưới
áo. Khi cần đến thì đột nhiên mọi cái ấy từ
trong bóng tối xông ra như một đoàn quân
phục kích: cái trán hẹp và gồ, con mắt ác,
cái cằm khiếp người, hai bàn tay hộ pháp
và chiếc dùi cui to tướng.
Những lúc rỗ rãi, mà Gia ve ít khi rỗi, hắn

có đọc sách tuy ghét sách vở. Bởi thế hắn
không đến nỗi là người dốt lắm. Cứ nghe
văn nói cầu kì của hắn thì biết.
Hắn không có tật xấu gì. Khi nào đắc ý thì
hắn tự thưởng cho mình một mồi thuốc lá.
Người hắn còn có chút gần nhân loại là ở
chỗ đó.”
Hình ảnh trình chiếu
18


Hình ảnh cắt từ đoạn video giới thiệu nhạc kịch “Những người khốn khổ”
Giăng Van-giăng khi bị tù khổ sai
Gia-ve

Phăng-tin

Giăng Van-giăng và Cô-dét

Cuộc đấu tranh của nhân dân Pháp

Hạnh phúc của Cô-dét
19


Phiếu học tập
Nhóm 1
Chi tiết miêu tả bộ
Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác giả và cảm
dạng Gia-ve

nhận của em về Gia-ve
Bộ mặt………………
Cặp mắt……………. ………………………………………………………
Giọng nói………….. ……………………………………………………..
Cái cười……………
Nhóm 2
Chi tiết miêu tả ngôn ngữ của
Gia-ve
…………………………………
…………………………………
Nhóm 3
Chi tiết miêu tả hành động của
Gia-ve
…………………………………
…………………………………
Nhóm 4
Chi tiết miêu tả thái độ của
Gia-ve đối với Phăng-tin
…………………………………
…………………………………

Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác
giả và cảm nhận của em về Gia-ve
……………………………………….
……………………………………….
Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác
giả và cảm nhận của em về Gia-ve
……………………………………….
……………………………………….
Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác

giả và cảm nhận của em về Gia-ve
……………………………………….
………………………………………

Dự kiến nội dung trả lời của hs trong Phiếu học tập
20


Nhóm 1
Chi tiết miêu tả bộ dạng Gia-ve

Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của
tác giả và cảm nhận của em về Gia-ve

Bộ mặt gớm ghiếc
Cặp mắt “như cái móc sắt”
- Nghệ thuật so sánh, phóng đại
Giọng nói man rợ và điên cuồng, - Là một con thú dữ -> Khiếp sợ, Ghê
không còn là tiếng người mà là một tởm
tiếng thú gầm.
Cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai
hàm răng.
Nhóm 2
Chi tiết miêu tả ngôn ngữ của Gia-ve
Nhận xét về nghệ thuật miêu
tả của tác giả và cảm nhận
của em về Gia-ve
- Mày- tao
- Con này, đồ khỉ, con đĩ, lũ gái điếm…
- Tả thực

- có câm họng không?
- Thô lỗ, xúc phạm người khác
- Cái xứ chó đểu gì mà bọn tù khổ sai làm
ông nọ ông kia, còn lũ gái điếm được chạy
chữa như những bà hoàng, tao không đến đây lí sự…
- Tao đã bảo không có ông Ma-đơ-len(…).
Chỉ có một tên kẻ cắp, một tên kẻ cướp, một
tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng, tao bắt
được nó đây này
Nhóm 3
Chi tiết miêu tả hành động của Gia-ve Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của
tác giả và cảm nhận của em về Giave
- Gầm gừ, quát tháo trong bệnh xá: - Miêu tả chân thực
“nói to, nói to lên”.
- Hách dịch, ngang ngược
- Nắm cổ áo Giăng Van- giăng
- Giẫm chân, nhìn trừng trừng,
- Túm lấy cổ áo và ca-vát của Giăng
Van-giăng
Nhóm 4
Chi tiết miêu tả thái độ của Gia-ve
Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của
đối với Phăng-tin
tác giả và cảm nhận của em về Giave
- Dùng những lời lẽ khinh miệt, thô bỉ - Miêu tả sinh động
xúc phạm Phăngtin
- Chính Gia-ve là kẻ trực tiếp gây ra
- Quát tháo, chửi mắng, không hề cái chết của Phăng-tin
nhượng bộ trước đau khổ của cô: có
câm họng không?

- Tàn nhẫn, độc ác
21


- Dập tắt niềm hi vọng tìm con
E. CỦNG CỐ DẶN DÒ:
- Củng cố: Học sinh hoàn thiện phiếu KWL: điều biết được, học được sau tiết
học: Giá trị nhân đạo sâu sắc của tiểu thuyết “Những người khốn khổ”; Chân
dung xấu xí, độc ác, tàn nhẫn của kẻ đại diện cho giới cầm quyền nước Pháp thế
kỉ XIX; Nỗi khổ của những người nghèo trong xã hội Pháp.
- Dặn dò: Chuẩn bị bài mới: Tiết 100- “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”,
trích “Những người khốn khổ” (tiếp theo)
+ Tìm các chi tiết khắc họa nhân vật Giăng Van-giăng (gợi ý: Trong mối quan hệ
với Gia-ve và Phăng-tin)?
+ Ai là người cầm quyền?
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
- Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập.
- Biểu hiện thứ hai của hiệu quả này là chúng tôi đã tạo được bầu không khí văn
chương trong giờ học.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy phương pháp trên thực sự hiệu quả,
phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, sinh động, không khô khan,
tạo được hứng thú cho học sinh.
Tôi đã sử dụng phương pháp và thiết kế bài dạy này trong năm học 20182019 tại 3 lớp 11A3, 11A4, 11A12. Qua khảo sát chất lượng và thăm dò học
sinh, tôi thu nhận được kết quả như sau:
Lớp
Học sinh hiểu bài (%)
Học sinh có hứng thú, tích

cực, chủ động
11A3
90%
85%
11A4
90%
90%
11A12
98%
95%
Như vậy, trong bài viết này, tôi đã đề xuất một số biện pháp cụ thể nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học bài Người cầm
quyền khôi phục uy quyền (trích Những người khốn khổ) của V. Huy-gô. Rất
mong sự ủng hộ, góp ý của đồng nghiệp để bài giảng được hoàn thiện hơn.
3.2. Kiến nghị
Trong quá trình xây dựng, thực hiện đề tài, do sự hạn chế về năng lực, tư
liệu và kinh nghiệm, dù tác giả đã đầu tư, tìm tòi song không tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế ; tác giả hi vọng đề tài này sẽ góp phần làm thay đổi không khí
lớp học, làm cho học sinh của mình ngày càng yêu mến và hứng thú học tập
môn Ngữ văn hơn. Đồng thời, người viết rất mong nhận được sự đóng góp của
các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp để đề tài có tính thực tiễn, có thể áp dụng
có hiệu quả trong quá trình dạy và học môn Ngữ văn.
22


Tôi xin chân thành cảm ơn.

1.
2.
3.

4.
5.
6.
7.
8.
9.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và đào tạo, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn
Ngữ văn lớp 11, NXB Giáo dục, 2010.
Báo Giáo dục và Thời đại, Phương pháp mới trong dạy học Ngữ văn (Thứ
Ba, 7/10/2014)
Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt – NXB VHTT, 2000.
Nguyễn Thái Phong , Phương pháp dạy học tác phẩm văn học nước ngoài
ở trường phổ thông dưới ánh sáng của lí thuyết tiếp nhận, Khóa luận tốt
nghiệp, Đại học An Giang
Nguyễn Thị Tuyết, Một số nguyên tắc và thực trạng hoạt động dạy học văn
học nước ngoài ở trường THPT, https://nguvandhag, ngày 24/4/2013.
Phan Trọng Luận (chủ biên), Ngữ văn 11 tập hai, NXB Giáo dục, 2007.
Phan Trọng Luận (chủ biên), Sách giáo viên Ngữ văn 11 tập hai, NXB Giáo
dục, 2007.
Phan Trọng Luận, Phương pháp dạy học văn, NXB Giáo dục, 2001.
Các văn kiện, chuyên đề về đổi mới giáo dục.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2019
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết:


Doãn Thị Thúy Ngọc

23



×