Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ MÔN KINH TẾ VĨ MÔ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.3 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------***--------

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
MÔN KINH TẾ VĨ MÔ 2
Chuyên ngành:
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
ĐỀ TÀI:
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Nhóm 11 - Lớp K53E – ML80
Giảng viên hướng dẫn: Phạm Văn Quỳnh

TP. Hồ Chí Minh, tháng 04 ăm 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------***--------

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
MÔN KINH TẾ VĨ MÔ 2
Chuyên ngành:
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

ĐỀ TÀI:
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Nhóm 11 - Lớp K53E – ML80
Giảng viên hướng dẫn: Phạm Văn Quỳnh

TP. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2016




I.

DANH SÁCH NHÓM
II.

III.

GHI
CHÚ

VI.

S

IV.

HỌ VÀ TÊN

V.

MSSV

VII.

VIII.

Bành Thị Khánh
Trâm


IX.

140101
5584

X.

XIII.

140101
5590

XIV.

1
XI.

2
XV.

XII.

XVI.

Nguyễn Thị Thùy
Trang

XVII.


140101
5613

XX.

Phạm Thị Thanh
Xuân

XXI.

140101
5700

3
XIX.

4

Trần Thị Ngọc Trâm

XVIII.

Nhóm
trưởng

XXII.


XXIII.
XXIV.


MỤC LỤC


XXV.

LỜI MỞ ĐẦU

XXVI. Cán cân thương mại là một trong những vấn đề cơ bản của nền kinh tế vĩ

mô, là một bộ phận cấu thành của cán cân thanh toán và được phản ánh
cụ thể trong cán cân vãng lai. Tình trạng cán cân thương mại phản ánh
mức độ an toàn hay bất ổn của một nền kinh tế. Nó thể hiện một cách
tổng quát các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, như chính sách thương
mại, chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư và tiết kiện, chính sách cạnh
tranh... Vì vậy, việc điều chỉnh cán cán cân mại để cân đối vĩ mô, kích
thích tăng trường kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh được các quốc
gia trên thế giới hết sức quan tâm.
XXVII.

Ở Việt Nam, tình trạng thâm hụt cán cân thương mại kéo dài trong

suốt những năm gần đây. Tình trạng thâm hụt cán cân thương mại, nếu
tiếp tục kéo dài và không được hạn chế, sẽ gây ảnh hưởng xấu tới cán cân
thanh toán và nợ quốc tế. Việt nghiên cứu và phân tích thực trạng cán cân
thương mại Việt Nam, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm điều chỉnh cán
cân thương mại, thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu là điều rất cần
thiết.
XXVIII.


Chúng em rất mong sẽ nhận được những nhận xét, ý kiến đóng góp,

bổ sung từ thầy để bài tiểu luận được hoàn thiện và chính xác hơn.
XXIX. Chúng em xin chân thành cảm ơn!

XXX.

5


XXXI.

CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM

Khái niệm Cán cân thương mại

1.1.

XXXII.

Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân

thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất
khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất
định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ
đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại
có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân
thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân
thương mại ở trạng thái cân bằng.
XXXIII.


Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư

thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng
dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt,
xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể
gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất
khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý
luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán
cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
1.2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại



Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh
hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu
biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu.
Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng
dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa
hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong
nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và
ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe

6


đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn
đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.

Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia



khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ
yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế
trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh



hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị
trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của
hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ
hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi
cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm.
Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập
khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. Ví dụ, một bộ ấm chén sứ Hải Dương
có giá 115.000 VND và một bộ ấm chén tương đương của Trung Quốc có giá
33 CNY (Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 3400 VND = 1 CNY thì bộ ấm
chén Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 112.200 VND trong khi bộ ấm chén tương
đương của Việt Nam là 115.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén nhập khẩu từ
Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất giá và tỷ giá hối đoái thay đổi
thành 3600 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán với giá
118.800 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn so với ấm chén sản xuất tại Việt Nam.
1.3.

Tác động của cán cân thương mại đến GDP
XXXIV.


Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan

trọng: xuất khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số
nhân đầu tư tư nhân và số nhân chi tiêu chính phủ khác đi do một phần
chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc tế.

7


1.3.1. Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng
XXXV.

XXXVI.

Bảng dưới đây trình bày một nền kinh tế với các bộ phận cấu thành

ban đầu như một nền kinh tế đóng, sau đó bổ sung xuất khẩu, nhập khẩu
cho nền kinh tế mở. Cột 1 là mức GDP ban đầu trong nền kinh tế đóng.
Cột 2 là cầu trong nước bao gồm tổng tiêu dùng (C), đầu tư (I) và mua
hàng hóa, dịch vụ của chính phủ (G). Cột 3 là xuất khẩu và vì xuất khẩu
phụ thuộc tình hình kinh tế của các nước bạn hàng nên giả định nó không
thay đổi. Cột 4 là nhập khẩu, nhập khẩu chủ yếu phụ thuộc GDP nên giả
định nó luôn bằng 10% GDP. Giá trị xuất khẩu ròng tại cột 5 bằng xuất
khẩu trừ đi nhập khẩu, nó mang giá trị dương nếu xuất khẩu lớn hơn nhập
8


khẩu và ngược lại, sẽ mang giá trị âm. Sau khi cộng giá trị đóng góp của
xuất khẩu ròng vào cầu nội địa để tạo thành tổng chi tiêu và chính là tổng
cầu ta được giá trị ghi tại cột 6. Nền kinh tế mở đạt mức cân bằng khi

tổng chi tiêu bằng GDP nghĩa là đường tổng chi tiêu cắt đường phân giác
OO'(ứng với mức GDP ban đầu là 35 tỷ USD). Đó chính là điểm E trên
đồ thị bên phải. Ở điểm này cầu nội địa chỉ có 31,5 tỷ USD nhưng cầu về
xuất khẩu ròng (khoảng cách giữa đường C+G+I+X và đường C+G+I) là
3,5 nên tổng chi tiêu là 35 tỷ USD và đúng bằng GDP. Như vậy nền kinh
tế mở có thể đạt mức sản lượng cân bằng ở mức xuất khẩu ròng khác 0.
Tại điểm có mức xuất khẩu ròng bằng 0 (đường C+G+I cắt đường
C+G+I+X), tổng cầu trong nước bằng với tổng cầu và đều bằng 63 tỷ
USD. Về phía bên trái điểm này, cầu xuất khẩu ròng luôn dương, tổng
cầu nội địa nhỏ hơn tổng chi tiêu và ở bên phải, cầu xuất khẩu ròng luôn
âm, tổng cầu nội địa lớn hơn tổng chi tiêu.

XXXVII. Cân bằng trong nền kinh tế mở

XXXVIII. GDP ban đầu

XXXIX. Cầu tron

XLIV.

75

XLV.

67,5

L.

70


LI.

63

LVI.

65

LVII.

58,5

LXII.

60

LXIII.

54

LXVIII. 55

LXIX.

49,5

LXXIV. 50

LXXV.


45

9


LXXX.

45

LXXXI. 40,5

LXXXVI. 40

LXXXVII.

36

XCII.

35

XCIII.

31,5

XCIX.

30

C.


27

CVI.

1.3.2. Số nhân trong nền kinh tế mở

CVII. Trong đồ thị trên, độ dốc của đường tổng chi tiêu C+I+G+X nhỏ hơn độ

dốc của đường cầu nội địa C+G+I, điều đó là do sự "rò rỉ" qua nhập khẩu.
Giả sử nền kinh tế có xu hướng tiêu dùng cận biên MPC là 0,75 thì khi
GDP tăng 100 USD, chi cho tiêu dùng tăng 75 USD. Nhưng cũng theo
giả định trong ví dụ này, xu hướng nhập khẩu biên MPZ là 0,10 (nhập
khẩu luôn bằng 10% GDP) nên chi tiêu cho nhập khẩu cũng tăng 10
USD. Do đó chi tiêu cho hàng hóa sản xuất trong nước chỉ còn tăng 65
USD mà thôi. Chính vì thế độ dốc của đường chi tiêu giảm từ 0,75 xuống
còn có 0,65. Tác động của "rò rỉ" qua nhập khẩu có tác động mạnh đến số
nhân của nền kinh tế. Trong nền kinh tế đóng, số nhân là 1/(1-MPC) còn
trong nền kinh tế mở, do sự rò rỉ qua nhập khẩu, số nhân chỉ còn 1/(1(MPC-MPZ)). Khi không có ngoại thương, với MPC bằng 0,75 thì số
nhân là 1/(1-0,75) = 4; khi có ngoại thương số nhân chỉ còn 1/(1-(0,750,10)) = 2.857. Những nền kinh tế nhỏ hầu hết đều rất mở, do vậy tác
động của nhập khẩu đến số nhân của nền kinh tế đặc biệt quan trọng. Từ
ví dụ trên có thể dễ dàng suy ra nếu xu hướng nhập khẩu biên là 0,75 thì
số nhân là 1 nghĩa là hiệu ứng số nhân đã bị triệt tiêu hoàn toàn bởi rò rỉ
qua nhập khẩu.
CVIII.

10


CIX.


CHƯƠNG 2. NHẬN DIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM

CX.

Việt Nam đang trở thành một trong những quốc gia có độ mở lớn với
tỷ lệ tổng giá trị xuất nhập khẩu/GDP cao hơn 150%. Đổi lại nền
kinh tế Việt Nam phải đối mặt với bài toán về thâm hụt thương mại.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia kinh tế nhận định cán cân thương mại
đang ngày càng nghiêng về phía sáng sủa hơn.

CXI.
CXII.

2.1. Thực trạng cán cân thương mại của Việt Nam

CXIII.

Trong 5 năm trở lại đây, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những thăng
trầm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như
xuất phát từ nội tại của nền kinh tế: Tăng trưởng cao nhưng chưa ổn định;
Lạm phát tăng cao và đặc biệt là tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai bắt
nguồn từ thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó,
do tác động của cuộc khủng hoảng và môi trường đầu tư của Việt Nam
chưa được cải thiện như mong đợi, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp
nước ngoài vào Việt Nam chưa vững chắc. Mặc dù mức thâm hụt hiện
nay có xu hướng được cải thiện song tình trạng này chắc chắn sẽ gây sức
ép không nhỏ đến cán cân thanh toán quốc tế về khả năng chống đỡ các
cú sốc bên ngoài và tính bền vững của nền kinh tế, khi dự trữ ngoại hối

của Việt Nam thấp và không vững chắc.

CXIV.

Số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan cho thấy, trong tháng
4/2014, giá trị xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 13,07 tỷ USD, trong
khi giá trị nhập khẩu đạt 12,26 tỷ USD, tạo ra mức thặng dư 810 triệu
11


USD. Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng
18,9% so với cùng kỳ năm trước lên 46,51 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu
tăng 12,2% lên 44,46 tỷ USD, đồng nghĩa với việc Việt Nam xuất siêu
2,05 tỷ USD. Trong 4 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước cũng đã mua
vào hơn 10 tỷ USD, nâng dự trữ ngoại hối đạt khoảng 35 tỷ USD. Đây là
dự trữ ròng, tức là nguồn ngoại tệ có thể sử dụng bất cứ lúc nào. Còn dự
trữ ngoại hối tiềm năng của Việt Nam là khoảng 45 tỷ USD.
CXV.

Về cán cân thanh toán, trong 4 tháng, cán cân thương mại tiếp tục thặng
dư. Kiều hối đạt 2,3 tỷ USD trong 3 tháng đầu năm. Cán cân thanh toán
tổng thể thặng dư rất lớn, riêng tháng 4/2014 đạt 2,3 tỷ USD, cộng dồn 4
tháng đạt mức kỷ lục, hơn 10 tỷ USD. Bên cạnh đó, nhìn vào số liệu về
xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ 2000-2013 cho thấy, thâm hụt
thương mại đỉnh điểm vào năm 2008 (hơn 18 tỷ USD), sau đó giảm liên
tiếp và đến năm 2012 - 2013, thặng dư thương mại trở thành dương,
tương ứng 749 triệu USD và 863 triệu USD. Cùng với tỷ giá tương đối ổn
định trong thời gian qua, cho thấy tình trạng thâm hụt thương mại của
Việt Nam đã được cải thiện và không đáng lo ngại.


CXVI.

Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện cấu trúc về sở hữu của xuất, nhập
khẩu thì sẽ khiến cho không ít người lo lắng. Nếu như năm 2000 tỷ trọng
xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước chiếm 53% tổng giá trị xuất
khẩu thì đến năm 2013 chỉ còn 33%, trong khi tỷ trọng của khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tổng giá trị xuất khẩu tăng từ 47% lên 67%.
Riêng 4 tháng năm 2014, tổng kim ngạch xuất khẩu của khối FDI đã đạt
28,943 tỷ USD, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2013 trong khi nhập khẩu
chỉ đạt 25,457 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2013. Lũy kế 4
tháng đầu năm, khối DN này xuất siêu gần 3,5 tỷ USD.

CXVII. Thống kê cho thấy, năm 2000 thặng dư thương mại khu vực FDI 2,4 tỷ

USD và đến năm 2013 thặng dư xấp xỉ 14 tỷ USD, tăng 568%. Trong khi
đó, tuy hai năm 2012 và 2013 xét về tổng quát thặng dư thương mại về
hàng hóa dương nhưng xét về từng khu vực sở hữu, khu vực kinh tế trong
12


nước luôn nhập siêu. Cụ thể, nếu như năm 2000, khu vực kinh tế trong
nước nhập siêu khoảng 3 tỷ USD thì đến năm 2013 đã tăng lên 13 tỷ
USD, tương đương 362%. Theo nhiều chuyên gia kinh tế, trong ngắn hạn,
dường như thặng dư thương mại dương và GDP tăng trưởng do tăng
trưởng của khu vực FDI là điều tốt nhưng về trung và dài hạn, chưa hẳn
đã có lợi, khi nền sản xuất trong nước bị nước ngoài khống chế.
CXVIII. 2.2. Ưu tiên cân bằng cán cân thương mại
CXIX.

Trên thực tế, nhập siêu không hoàn toàn tiêu cực đối với các nền kinh tế.

Những quốc gia đang phát triển có thể phải chấp nhận thâm hụt thương
mại trong quá trình chuyển đổi khi có nhu cầu lớn đối với nguyên vật
liệu, thiết bị máy móc hay công nghệ của nước ngoài trong khi khả năng
và trình độ sản xuất trong nước còn thấp kém, điều kiện nguồn vốn trong
nước còn hạn chế.

CXX.

Tuy nhiên, nếu quy mô nhập siêu tăng cao và kéo dài, thì cũng đồng
nghĩa với quá trình tích lũy tư bản, công nghệ từ nước ngoài trước đã
chuyển hóa không hiệu quả. Bên cạnh đó, tình trạng này cũng phản ánh
những vấn đề nội tại mang tính “cơ cấu” của nền kinh tế. Nhập siêu kéo
dài được coi là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến bất ổn
kinh tế vĩ mô, làm sâu thêm vòng xoáy tỷ giá - lạm phát – tỷ giá và đẩy
nền kinh tế ở trạng thái dễ bị tổn thương từ những cú sốc bên ngoài. Do
vậy, thu hẹp nhập siêu và tiến tới cân bằng cán cân thương mại phải được
coi là một trong những ưu tiên trong thời gian tới.

CXXI.

Theo các chuyên gia kinh tế, tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai của Việt
Nam cũng có phần xuất phát từ nguyên nhân thâm hụt ngân sách nhà
nước (NSNN). Thâm hụt NSNN cao cộng với nợ công tăng cao là minh
chứng cho sự thâm hụt cán cân vãng lai ngày càng gia tăng của Việt Nam.
Thâm hụt NSNN (tiết kiệm ròng của Chính phủ mang dấu âm) ở mức cao
và dai dẳng trong thời gian dài để phục vụ cho mô hình tăng trưởng đã
đóng góp lớn vào tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp. Tất nhiên, thâm hụt cán cân
vãng lai chưa hẳn là xấu. Đôi khi thiếu hụt tài khoản vãng lai thể hiện sự
13



thu hút vốn FDI vào để phát triển sản xuất tăng xuất khẩu và tăng sản
lượng.
CXXII. Ngoài ra, thâm hụt hiện tại chưa hẳn là đáng lo nếu đảm bảo thặng dư

trong tương lai. Tuy nhiên, xét cơ cấu hàng hoá nhập khẩu trong cán cân
thanh toán, nếu hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập
khẩu thì đây có thể là một dấu hiệu không tốt. Nhưng nếu máy móc, thiết
bị và nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn, thì cơ cấu này có thể
đảm bảo thúc đẩy xuất khẩu trong tương lai, tạo ra thặng dư ngoại tệ bù
đắp thâm hụt cán cân vãng lai. Nếu một quốc gia bị thâm hụt cán cân
vãng lai trong tình trạng lạm phát cao, tăng trưởng thấp thì hậu quả của
thâm hụt sẽ là vấn đề đáng lo ngại hơn rất nhiều so với khi quốc gia đó
đang trong tình trạng tăng trưởng cao và lạm phát thấp.
CXXIII. Trong thời gian tới, nhằm góp phần giảm thâm hụt thương mại nói chung,

hạn chế tình trạng nhập siêu nói riêng, cần chú ý vào một số vấn đề sau:
CXXIV. Một là, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng đầu tư có hiệu quả hơn. Trong

đó, việc định hướng lại cơ cấu đầu tư là rất cần thiết để đưa vốn vào các
ngành có độ lan tỏa kinh tế cao và ít kích thích nhập khẩu. Trong nhiều
năm qua, Việt Nam duy trì tăng trưởng bằng cách dựa vào vốn đầu tư
nhưng hiệu quả đầu tư còn chưa cao. Thực tế cho thấy, trong những năm
qua, nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo không tạo ra nhiều giá trị
gia tăng mà chỉ làm tăng thâm hụt thương mại. Trong khi đó, nhóm ngành
nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trở thành khu vực trụ đỡ cho nền
kinh tế. Việt Nam hiện đang tiến hành chuyển đổi mô hình tăng trưởng và
việc tập trung cho nông nghiệp cần đặt lên hàng đầu.
CXXV. Hai là, cần tạo đà cho DN trong nước xác lập lại địa vị của mình, tạo mọi


điều kiện, tạo cơ chế thuận lợi để kinh tế trong nước, đặc biệt kinh tế tư
nhân, cùng phát triển bình đẳng. Cần thực hiện quyết liệt việc tái cấu trúc
nền kinh tế, thể chế và thay đổi thái độ ứng xử của chính sách đối với DN
trong nước.

14


CXXVI. Ba là, có chính sách hỗ trợ nhằm tăng cường mở rộng thị trường, thúc

đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, chính sách này chỉ có tác
dụng làm giảm thiếu hụt (hay tăng thặng dư) cán cân vãng lai lúc ban
đầu. Nhưng sau đó, những chính sách này lại có tác dụng làm tăng tổng
cầu đối với nền kinh tế trong nước và dẫn đến thu nhập quốc dân tăng.
Thu nhập quốc dân tăng sẽ làm cho nhập khẩu tăng và cuối cùng làm cho
sự cải thiện cán cân vãng lai ban đầu giảm đi.

CXXVII.
CXXVIII.
CXXIX.
CXXX.
CXXXI.

CHƯƠNG 3:

CXXXII. CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG NĂM 2015

CXXXIII.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho biết,


trong tháng 12/2015, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt
Nam ước đạt 28,7 tỷ USD, tăng 4,3% so với tháng trước; trong đó
tổng trị giá xuất khẩu ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 2,2% và tổng trị giá
nhập khẩu ước đạt 14,5 tỷ USD, tăng 6,5%.
CXXXIV. Với kết quả trên cả năm 2015, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá

của Việt Nam ước đạt hơn 328 tỷ USD, tăng 10,1% so với năm 2014;
trong đó tổng trị giá xuất khẩu ước đạt 162,44 tỷ USD, tăng 8,1% và tổng
trị giá nhập khẩu ước đạt 165,61 tỷ USD, tăng 12%. Cán cân thương
mại hàng hóa của Việt Nam trong tháng 12/2015 ước tính thâm hụt 300
triệu USD, nâng mức thâm hụt thương mại cả năm 2015 lên 3,17 tỷ USD,
tương đương 2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

15


CXXXV.

CXXXVI. Kim ngạch xuất nhập khẩu các mặt hàng tháng 12/2015 và cả năm

2015 như sau:
CXXXVII. Về xuất khẩu

Dầu thô: Lượng xuất khẩu trong tháng 12/2015 ước đạt 896 nghìn tấn,
tăng 34,2%; trị giá ước đạt 324 triệu USD, tăng 47% so với tháng trước.
Cả năm 2015, tổng lượng xuất khẩu ước đạt 9,25 triệu tấn, giảm 0,6%; trị
giá ước đạt 3,8 tỷ USD, giảm 47,3% so với cùng kỳ năm 2014.
CXXXVIII.


Điện thoại và các loại linh kiện: Trị giá xuất khẩu trong tháng

12/2015 ước đạt 2,2 tỷ USD, giảm 21% so với tháng trước. Tổng trị giá
xuất khẩu cả năm 2015 ước đạt 30,64 tỷ USD, tăng 29,9% so với cùng kỳ
năm 2014.
CXXXIX. Hàng dệt, may: Trị giá xuất khẩu trong tháng 12/2015 ước đạt 2 tỷ

USD, tăng 17% so với tháng trước; Tổng trị giá xuất khẩu cả năm 2015
ước đạt 22,63 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2014.
CXL. Hàng thủy sản: Trị giá xuất khẩu trong tháng 12/2015 ước đạt 600 triệu

USD, giảm 0,2% so với tháng trước. Tổng trị giá xuất khẩu cả năm 2015
ước đạt 6,6 tỷ USD, giảm 15,6% so với cùng kỳ năm trước.
CXLI. Gạo: Lượng xuất khẩu trong tháng 12/2015 ước đạt 750 nghìn tấn, tăng

5,4%; trị giá ước đạt 318 triệu USD, tăng 5% so với tháng trước. Cả năm
16


2015, lượng xuất khẩu ước đạt 6,82 triệu tấn, tăng 7,7%; tổng trị giá đạt
2,9 tỷ USD, giảm 1,1% so với cùng kỳ 2014.
CXLII. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Trị giá xuất khẩu trong tháng

12/2015 ước đạt 1,5 tỷ USD, giảm 0,4% so với tháng trước. Tổng trị giá
xuất khẩu cả năm 2015 ước tính là 15,8 tỷ USD, tăng 38,2% so với cùng
kỳ năm trước.
CXLIII.

Về nhập khẩu


CXLIV.

Máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác: Trị giá nhập khẩu 12/2015

ước đạt 2,5 tỷ USD, tăng 13,9% so với tháng trước. Tổng trị giá nhập
khẩu 12 tháng/2015 ước đạt 27,6 tỷ USD, tăng 23,1% so với cùng kỳ năm
2014.
CXLV. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Trị giá nhập khẩu tháng

12/2015 ước đạt 1,9 tỷ USD, giảm 7% so với tháng trước. Tổng trị giá
nhập khẩu cả năm 2015 ước đạt 23,27 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng
kỳ năm 2014.
CXLVI.

Xăng dầu các loại: Lượng nhập khẩu trong tháng 12/2015 ước đạt 1

triệu tấn, tăng 4,3%; trị giá ước là 420 triệu USD, giảm 6,5% so với tháng
trước. Cả năm 2015, lượng nhập khẩu ước đạt 10,04 triệu tấn, tăng
18,7%; trị giá ước đạt 5,34 tỷ USD, giảm 29% so với cùng kỳ năm 2014.
CXLVII. Điện thoại các loại và linh kiện: Trị giá nhập khẩu trong tháng

12/2015 ước đạt 700 triệu USD, giảm 15,6% so với tháng trước. Tổng trị
giá nhập khẩu cả năm ước đạt 10,65 tỷ USD, tăng 25,4% so với cùng kỳ
năm 2014.
CXLVIII. Sắt thép các loại: Lượng nhập khẩu trong tháng 12/2015 ước đạt 1,25

triệu tấn, tăng 1%; trị giá ước đạt 520 triệu USD, giảm 0,7% so với tháng
trước. Trong cả năm 2015, lượng nhập khẩu ước đạt 15,1 triệu tấn, tăng
28,3% và trị giá là 7,31 tỷ USD, giảm 5,3% so với cùng kỳ năm 2014.
CXLIX.


Ô tô nguyên chiếc các loại: Trị giá nhập khẩu trong tháng 12/2015

ước đạt 14.000 chiếc, tăng 3,1%; trị giá ước đạt 382 triệu USD, tăng
51,5% so với tháng trước. Trong cả năm 2015, lượng nhập khẩu ước đạt

17


125 nghìn chiếc, tăng 76,4%; trị giá ước đạt 2,97 tỷ USD, tăng 87,7% so
với cùng kỳ năm 2014.
CL.

Linh kiện và phụ tùng ô tô: Trị giá nhập khẩu trong tháng 12/2015 ước
đạt 300 triệu USD, tăng 11,8% so với tháng trước. Tổng trị giá nhập khẩu
cả năm 2015 ước đạt 3,02 tỷ USD, tăng 38,3% so với cùng kỳ năm 2014.

18


CLI.

CHƯƠNG 4:

TÌNH HÌNH CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM

CLII.

CLIII.


TRONG QUÝ 1 NĂM 2016

CLIV. Mặc dù có mức tăng đột biến trong tháng Ba, nhưng tính chung cả
quý 1 năm nay, tăng trưởng xuất khẩu của cả nước đang có dấu hiệu
chậm lại so với cùng kỳ năm ngoái.
CLV. Báo cáo tại buổi giao ban của Bộ Công Thương sáng nay (28/3), ông Vũ

Bá Phú, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch cho biết, trong tháng Ba, kim ngạch xuất
khẩu cả nước ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 40,6% so với tháng trước. Tính
chung quý 1, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 33,8 tỷ USD, tăng 4,1%
so với cùng kỳ năm 2015.
CLVI. Trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI (kể cả dầu thô) ước đạt 27

tỷ USD, tăng 5,8%, xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước ước
đạt 10,8 tỷ USD, tăng 0,3%.
CLVII. Quý 1, kim ngạch xuất khẩu của nhóm nông, lâm, thủy sản ước đạt 4,7 tỷ

USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2015, trong khi nhóm công nghiệp
chế biến ước đạt 30,4 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
CLVIII.

Đại diện Vụ Kế hoạch cho biết, giá nhiều mặt hàng vẫn tiếp tục đi

xuống, trong đó giảm mạnh nhất là mặt hàng quặng và khoáng sản với
mức giảm lên tới 44,6%, dầu thô giảm 41%, cao su giảm 21,5%, càphê
giảm 18,7% và phân bón các loại giảm 20% so với cùng kỳ năm ngoái.
CLIX. Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu tháng Ba ước đạt 14,1 tỷ USD,

tăng 37% so với tháng trước, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu chung của
cả nước trong quý 1 ước đạt 37,1 tỷ USD, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm

ngoái.

19


CLX. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt 22,2 tỷ

USD, giảm 5,7% so với cùng kỳ năm ngoái trong khi nhập khẩu của khu
vực doanh nghiệp trong nước ước đạt 14,9 tỷ USD, giảm 3,5% so với
cùng kỳ năm ngoái.
CLXI. Trong quý 1, kim ngạch của nhóm hàng cần nhập khẩu ước đạt gần 32,5

tỷ USD, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch của nhóm
hàng cần kiểm soát nhập khẩu ước đạt 1,5 tỷ USD, tăng 6,2% so với cùng
kỳ, còn nhóm cần hạn chế nhập khẩu ước đạt gần 1,4 tỷ USD, giảm 8,1%
so với cùng kỳ...
CLXII. Như vậy trong quý 1/2016, cả nước xuất siêu 776 triệu USD, chiếm 2%

kim ngạch xuất khẩu. Trong khi khu vực FDI (kể cả dầu thô) xuất siêu
hơn 4,87 tỷ USD tì ngược lại, khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước
lại nhập siêu ước đạt 4,1 tỷ USD.
CLXIII.

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, mức tăng trưởng xuất khẩu thấp

trong quý 1/2016 là do kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp
chế biến đang tăng trưởng chậm lại, chỉ ở mức 6,5% và thấp hơn nhiều so
với mức tăng 8,5% của cùng kỳ năm ngoái.
CLXIV.


"Trong quý 1, khối doanh nghiệp FDI đã đóng góp thêm 2 tỷ USD

cho kim ngạch xuất khẩu chung, trong khi khối doanh nghiệp nội vẫn còn
nhiều khó khăn," đại diện Vụ kế hoạch cho biết.
CLXV. Trước thực tế trên, để đạt mức tăng trưởng xuất khẩu 10% so với năm

2015 thì mỗi tháng, kim ngạch xuất khẩu phải đạt bình quân từ 14,7-14,8
tỷ USD, tức là tăng bình quân 1,3 tỷ USD so với năm 2015, theo lãnh đạo
Bộ Công Thương, trong các tháng tiếp theo, các đơn vị thuộc Bộ cần thực
hiện nhiều giải pháp về thị trường, hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp trong
công tác tìm kiếm đơn hàng, thị trường.

20


CLXVI.

Đặc biệt, các đơn vị chức năng cần giúp doanh nghiệp tận dụng lợi thế

sản phẩm và kết quả thu được từ các Hiệp định thương mại tự do vừa ký
kết để khai thác sâu hơn các thị trường truyền thống và phát triển thị
trường mới cũng như đẩy mạnh triển khai công tác xúc tiến thương mại
nhằm củng cố và phát triển thị trường xuất khẩu và đạt mức tăng trưởng
xuất khẩu đã đề ra trong năm 2016.
CLXVII. "Các đơn vị thuộc Bộ Công Thương cần bám sát tình hình trong và

ngoài nước, tham mưu để lãnh đạo Bộ có các giải pháp kịp thời tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu trong thời gian tới," Thứ
trưởng Trần Tuấn Anh lưu ý"./.
CLXVIII. Tại buổi họp Chính phủ thường kỳ ngày 27/3, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch


và Đầu tư Bùi Quang Vinh cũng lưu ý về những dấu hiệu không thuận lợi
trong bức tranh xuất khẩu của quý 1/2016, cụ thể là tốc độ tăng trưởng
chỉ đạt 4,1% và thấp hơn nhiều so với mức tăng 6,9% của cùng kỳ năm
ngoái.
CLXIX.

Đáng chú ý, mặt hàng dầu thô, nguồn thu chính của ngân sách Nhà

nước đã giảm tới 52,8%.
CLXX. Trong khi đó, nhập khẩu nhóm thiết bị máy móc, nguyên vật liệu là đầu

vào của sản xuất cũng suy giảm... điều này sẽ tác động xấu đến hoạt động
đầu tư và sản xuất trong nước.
CLXXI.

Do vậy, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, nếu không có

nhiều giải pháp trong điều hành vĩ mô, nhất là tập trung tháo gỡ khó khăn
cho lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản và tạo sự đột phá trong lĩnh
vực công nghiệp chế biến, chế tạo thì năm 2016, tốc độ tăng GDP sẽ
không đạt được mức 6,7% mà Quốc hội đề ra.
CLXXII.

CLXXIII.
21


CLXXIV. CHƯƠNG 5. CÁC BIỆN PHÁP CẢI THIỆN CÁN CÂN VÃNG


LAI
Ðể giải quyết tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, có thể tiếp cận các biện pháp theo
hai hướng: thứ nhất, xác định các biện pháp cụ thể nhằm cải thiện từng cán cân bộ
phận trong cán cân vãng lai; thứ hai, nâng cao các biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô của
Chính phủ.
5.1. Biện pháp cải thiện cán cân thương mại
Thứ nhất, thúc đẩy xuất khẩu được coi là biện pháp chủ đạo để cải thiện cán cân
thương mại trong dài hạn. Mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu có thể thực hiện qua một số
biện pháp sau:
- Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa, gia tăng tỷ
trọng hàng công nghiệp chế biến và nguyên liệu chứa nhiều hàm lượng kỹ thuật,
phát triển các ngành chế biến và các lĩnh vực công nghệ hiện đại nhất như: công
nghệ phần mềm, dữ liệu, lắp ráp điện tử… Về lâu dài, cần có chiến lược phát triển
xuất khẩu chủ động thông qua việc xác định các ngành công nghiệp mũi nhọn, ưu
tiên đầu tư cơ sở hạ tầng và các điều kiện thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu trong
tương lai.
- Thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thông qua việc tăng cường đầu tư phát triển các
ngành công nghiệp hỗ trợ. Ða số các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam phụ
thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu đầu vào. Vì vậy, phát triển các ngành
công nghiệp hỗ trợ là một trong những biện pháp quan trọng để giảm nhập khẩu
nguyên vật liệu và phụ kiện, nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu đồng thời
tạo điều kiện thu hút nguồn vốn nước ngoài.
- Cùng với nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu, cần quan tâm đến việc đa dạng
hóa các mặt hàng, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng
thị trường.
- Nâng cao hiệu quả và năng lực sản xuất nhằm giảm giá thành sản phẩm.
22



Thứ hai, với mục tiêu điều chỉnh cán cân vãng lai ở mức độ hợp lý mà vẫn đảm bảo
được cân bằng bên trong nền kinh tế, Việt Nam cần phải thực hiện tốt những biện
pháp kiểm soát và hạn chế nhập khẩu, bao gồm:
- Ðiều chỉnh cơ cấu hàng nhập khẩu theo hướng giảm đến mức tối đa nhập khẩu
hàng tiêu dùng, đặc biệt là những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được như
may mặc, đồ uống, hoa quả… đồng thời hạn chế và kiểm soát chặt chẽ việc nhập
khẩu các mặt hàng xa xỉ.
- Kiểm soát việc nhập khẩu của các doanh nghiệp theo hướng hạn chế tối đa việc
cho phép nhập khẩu hàng tiêu dùng theo phương thức vay trả chậm (thông qua
phương thức thanh toán L/C trả chậm), một trong những nguyên nhân khiến nhập
siêu tăng cao. Các cơ quan, Bộ, ngành chức năng cần kiểm tra chặt chẽ việc nhập
khẩu theo các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các dự án hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA). Ðối với các dự án FDI, việc kiểm tra này là nhằm tránh tình
trạng nhập khẩu gian lận. Với các dự án ODA, giải pháp này nhằm giúp cho các
nguồn vốn vay có thể tái tạo nguồn ngoại tệ, đảm bảo khả năng thanh toán trong
tương lai.
- Áp dụng các rào cản phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu. Khi Việt Nam là
thành viên WTO, phải cam kết không tăng thuế vượt mức đã cam kết đối với phần
lớn các mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu. Cam kết này được gọi là cam kết “ràng
buộc thuế quan”. Trên thực tế, từ sau Vòng đàm phán Uruguay, các thành viên
WTO đã cam kết ràng buộc tới 98% số dòng thuế đối với hàng công nghiệp và
100% đối với hàng nông nghiệp. Như vậy, số dòng thuế ngoại lệ là rất ít. Mặt khác,
qua nhiều vòng đàm phán căng thẳng, mức thuế suất đối với hàng công nghiệp chỉ
còn trung bình 3,8%. Với các sản phẩm nông nghiệp thì các nước phát triển và đang
phát triển đều phải cắt giảm thuế quan tương ứng 36% và 24%. Do đó, để vừa thực
hiện đúng cam kết không tăng thuế, vừa đạt được mục tiêu điều tiết nhập khẩu, Việt
Nam có thể áp dụng các rào cản phi thuế quan. Trong khuôn khổ WTO, trong một
chừng mực nào đó, các biện pháp phi thuế quan có thể được phép áp dụng, nếu nó
tuân theo những tiêu chí của WTO và không được gây cản trở hay bóp méo thương
mại.

23


- Ðặc biệt, trong vòng vài năm trở lại đây nhập siêu với Trung Quốc ngày càng cao
(chiếm tỷ lệ trên 80% trong “giỏ nhập siêu”) là một thách thức trong bài toán giảm
nhập siêu của Việt Nam. Việt Nam cần tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa,
an toàn thực phẩm đối với hàng nhập từ Trung Quốc và tăng cường công tác quản lý
chống nhập lậu, buôn lậu tại các vùng biên giới giáp với Trung Quốc.
5.2. Biện pháp cải thiện cán cân dịch vụ
Thứ nhất, du lịch là một ngành dịch vụ có tiềm năng phát triển ở nước ta, mang lại
nguồn thu ngoại tệ lớn. Bởi vậy, để cải thiện cán cân dịch vụ, cần đẩy mạnh phát
triển ngành du lịch thông qua một số biện pháp:
- Thực hiện chủ trương đa dạng hóa các sản phẩm và hình thức du lịch, không nên
chỉ dựa vào du lịch cảnh quan thiên nhiên đơn thuần, nên kết hợp các hình thức du
lịch với nhau như du lịch sinh thái kết hợp với du lịch văn hóa, du lịch ẩm thực…
- Nhà nước nên có chiến lược khai thác hiệu quả các điểm du lịch vốn đã có tiếng và
được nhiều du khách nước ngoài biết đến. Các địa phương có địa điểm du lịch phải có
kế hoạch phát triển và nâng cấp hệ thống cơ sở lưu trú và công trình dịch vụ du lịch để
phục vụ mọi đối tượng khách du lịch.
- Mặt khác, cần nâng cao trình độ quản lý, nghiệp vụ du lịch cho đội ngũ cán bộ, lao
động, hướng dẫn viên trong ngành du lịch song song với việc tuyên truyền giáo dục
nhận thức cho nhân dân để mỗi người dân phải có thái độ thiện chí và lòng hiếu
khách, chú trọng đến công tác tuyên truyền quảng bá về đất nước, văn hóa, con
người Việt Nam.
Thứ hai, nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân dịch vụ của Việt
Nam là do nước ta phải nhập khẩu rất nhiều dịch vụ từ nước ngoài, đặc biệt là các
dịch vụ liên quan tới ngoại thương như vận tải, bảo hiểm, ngân hàng, tài chính…
Với một nền kinh tế còn non trẻ như Việt Nam thì năng lực cạnh tranh của các
ngành dịch vụ còn yếu so với thế giới là điều dễ hiểu. Trong thời gian tới, Việt Nam
cần có những biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các ngành dịch vụ non

trẻ đó, trong đó tập trung đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng.
24


5.3. Biện pháp cải thiện cán cân thu nhập
Thứ nhất, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động. Hoạt động xuất khẩu lao động
không những giúp giải quyết tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế mà còn tạo ra
khoản thu không nhỏ trong cán cân thu nhập của Việt Nam. Ðể thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu phát triển hơn nữa cả về số lượng và chất lượng, Việt Nam cần thực hiện
một số biện pháp sau:
- Ðẩy mạnh xuất khẩu lao động trên nhiều lĩnh vực. Xây dựng, đánh bắt thủy sản,
thợ mộc, cơ khí… là những lĩnh vực được xem là truyền thống đối với lao động
xuất khẩu của Việt Nam. Với sự phát triển về nhu cầu cuộc sống như ngày nay thì
ngoài việc phát triển các lĩnh vực truyền thống, Việt Nam cần phải chú ý các lĩnh
vực mới mà lao động Việt Nam có thể đáp ứng tốt như nhân viên tạp vụ nhà hàng,
công nhân làm trong các khu công nghệ cao, sản xuất hàng trang trí nội thất cao
cấp…
- Cùng với việc xuất khẩu lao động trên nhiều lĩnh vực và hình thức khác nhau, Việt
Nam cần thực hiện đa dạng hóa thị trường lao động, chủ động tìm kiếm những thị
trường mới nhiều tiềm năng. Trong đó, cần giữ vững những thị trường truyền thống
như Ðài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản… và đẩy mạnh xuất khẩu lao động vào
các thị trường tiềm năng như Mỹ, châu Âu, Trung Ðông, đây là những thị trường có
nền kinh tế phát triển và có chế độ đãi ngộ tốt, mức lương trả cho lao động cao.
- Tăng cường chất lượng nguồn lao động. Muốn có thu nhập cao thì người lao động
phải có trình độ tay nghề vững, có tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật tốt. Vì
vậy, Nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần phải tuyển chọn, bồi
dưỡng và đào tạo bài bản cho người lao động để có thể đáp ứng được yêu cầu, đòi
hỏi ngày càng khắt khe của các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường giàu
tiềm năng nhưng khó tính như Mỹ, Nhật, các nước châu Âu.
Thứ hai, khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Một hạng mục khác trong

cán cân thu nhập mà nếu được quan tâm phát triển đúng mức sẽ mang lại nguồn lợi
nhuận rất lớn đó là các khoản thu nhập từ đầu tư. Tại Việt Nam hiện nay, các hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước còn rất khiêm tốn do
25


×