Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp - 9,5 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.23 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là
xu thế nổi bật của kinh tế thế giới thời nay. Phù hợp với xu thế đó từ năm 1986 đến
nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc
tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại”. Vì vậy,
càng ngày càng nhiều các quốc gia nước ngoài đầu tư vào nước ta đặc biệt càng
nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau
như nông nghiệp, thủy sản,… Đối với những doanh nghiệp đầu tư hiệu quả sẽ có
thể mở rộng đầu tư, còn lại những doanh nghiệp không hiệu quả sẽ tự đào thải qua
các phương thức như giải thể doanh nghiệp hay phá sản. Phá sản là kết quả của sự
chọn lọc và đào thải tự nhiên của nền kinh tế, và nó cũng có những ảnh hưởng nhất
định đối với nền kinh tế - xã hội. Luật Phá sản ra đời như một công cụ giúp Nhà
nước can thiệp vào hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và
khai thác những mặt tích cực của phá sản. Vì vậy, em xin chọn đề tài: “Bất cập,
hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục phá sản
doanh nghiệp – Một số kiến nghị giải pháp” để có thể hiểu rõ hơn về trình tự cũng
như ý nghĩa của thủ tục này. Đề tài của em được chia thành 2 chương:
Chương 1: Khái quát chung về doanh nghiệp và trình tự, thủ tục phá sản doanh
nghiệp.
Chương 2: Một số bất cập, hạn chế và kiến nghị giải pháp về quy định thủ tục phá
sản.


NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát chung về doanh nghiệp và trình tự, thủ tục phá sản
doanh nghiệp.
1. Khái quát chung Doanh nghiệp
Trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế ở bất kì quốc gia nào, doanh
nghiệp cũng là đơn vị cơ sở, một tế bào của nền kinh tế tạo ra của cải vật chất cho
xã hội, trực tiếp phối hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý nhằm tạo ra những
sản phẩm hoặc dịch vụ một cách có hiệu quả nhất. Theo khoản 7 Điều 4 Luật


doanh nghiệp 2014, “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích kinh doanh”.
2. Trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp
Theo Khoản 2 Điều 4 Luật phá sản 2014 quy định về: “Phá sản là tình trạng
của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra
quyết định tuyên bố phá sản”.
Đặc điểm của thủ tục phá sản doanh nghiệp là tuân theo các quy định của
pháp luật; thủ tục đòi nợ, trả nợ đặc biệt; thủ tục phục hồi doanh nghiệp đặc biệt.
Cũng tại khoản 1 điều nay quy định về tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác
xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán. Trình
tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp được tiến hành theo Luật phá sản 2014 như sau:
2.1 Người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
Theo Điều 5 Luật phá sản 2014 như sau:


Thứ nhất, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ
đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Thứ hai, người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở
ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các
khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp tác xã không
thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Thứ ba, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa
vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán.
Thứ tư, chủ doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ
phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành

viên trở lên, chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành viên
hợp danh của công ty hợp danh có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Thứ năm, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông
trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán. Cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06
tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả
năng thanh toán trong trường hợp Điều lệ công ty quy định.
Thứ sáu, thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác
xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mất khả năng thanh toán.


2.2 Thông báo doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán:
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khi phát hiện doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh toán có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho những người có
quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản quy định tại Điều 5 của Luật
này.
2.3 Hồ sơ thủ tục phá sản
Khi yêu cầu Tòa án nhân dân mở thủ tục phá sản, những người có quyền phải
làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Đơn yêu cầu mở thủ tục đó thường có những
nội dung cơ bản sau: ngày, tháng, năm; tên Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải
quyết phá sản; tên, địa chỉ của người làm đơn; tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp
tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản và các giấy tờ liên quan đến doanh nghiệp,
hợp tác xã bị yêu cầu.
2.4 Phương thức nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Theo điều 30 Luật phá sản 2014 quy định:
1. Người có yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp đơn và tài liệu, chứng cứ
kèm theo đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền bằng một trong các phương thức

sau:
a) Nộp trực tiếp tại Tòa án nhân dân;
b) Gửi đến Tòa án nhân dân qua bưu điện.
2. Ngày nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được tính từ ngày Tòa án nhân
dân nhận đơn hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi.
2.5 Mở hoặc không mở thủ tục phá sản


Sau khi được phân công Thẩm phán hoặc một Tổ thẩm phán, họ phải xem xét
xử lý đơn yêu cầu xem đúng yêu cầu của pháp luật. Trường hợp, trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
hợp lệ, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và chủ nợ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản có quyền đề nghị bằng văn bản gửi Tòa án nhân dân để các
bên thương lượng việc rút đơn. Tòa án nhân dân ấn định thời gian thương lượng
nhưng không quá 20 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
hợp lệ.
Sau khi xem xét, Thẩm phán ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản
theo Điều 42 Luật phá sản 2014 nội dung như sau:
1. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản,
Thẩm phán phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản, trừ trường hợp
quy định tại Điều 105 của Luật này.
2. Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã
mất khả năng thanh toán.
3. Trường hợp cần thiết, trước khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm
phán có thể triệu tập phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp
tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản, cá nhân, tổ chức có liên quan để xem xét,
kiểm tra các căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán.
4. Quyết định mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chủ yếu sau:

a) Ngày, tháng, năm;
b) Tên của Tòa án nhân dân; họ và tên Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản;


c) Ngày và số thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; tên, địa chỉ của người
làm đơn yêu cầu;
d) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán;
đ) Thời gian, địa điểm khai báo của các chủ nợ và hậu quả pháp lý của việc
không khai báo.
5. Tòa án nhân dân ra quyết định không mở thủ tục phá sản nếu xét thấy
doanh nghiệp, hợp tác xã không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Trong trường hợp này, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được trả
lại tiền tạm ứng chi phí phá sản; yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán thực hiện nghĩa vụ về tài sản đã bị tạm đình chỉ theo quy định tại Điều
41 của Luật này được tiếp tục giải quyết.
6. Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản có hiệu lực thi hành kể từ
ngày ra quyết định.
Đặc biệt, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết
định mở thủ tục phá sản theo Điều 47 như sau:
Thứ nhất, sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã
vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của Thẩm phán và
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Thứ hai, trường hợp xét thấy người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp,
hợp tác xã không có khả năng điều hành, doanh nghiệp, hợp tác xã có dấu hiệu vi
phạm khoản 1 Điều 48 của Luật phá sản số 51/2014/QH13 thì Thẩm phán ra quyết
định thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã đó theo
đề nghị của Hội nghị chủ nợ hoặc Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản.



2.6 Hội nghị chủ nợ
Theo điều 75 Luật phá sản quy định:
1.Thời hạn Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ là 20 ngày kể từ ngày kết
thúc việc kiểm kê tài sản trong trường hợp việc kiểm kê tài sản kết thúc sau việc
lập danh sách chủ nợ hoặc kể từ ngày kết thúc việc lập danh sách chủ nợ trong
trường hợp việc kiểm kê tài sản kết thúc trước việc lập danh sách chủ nợ, trừ
trường hợp không phải tổ chức Hội nghị chủ nợ theo quy định tại Điều 105 của
Luật này.
2. Thông báo triệu tập Hội nghị chủ nợ và tài liệu khác có liên quan phải
được gửi cho người có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ và người có nghĩa vụ tham
gia Hội nghị chủ nợ quy định tại Điều 77 và Điều 78 của Luật này, chậm nhất là
15 ngày trước ngày khai mạc Hội nghị. Giấy triệu tập Hội nghị chủ nợ phải ghi rõ
thời gian và địa điểm tổ chức Hội nghị chủ nợ, chương trình, nội dung Hội nghị
chủ nợ.
3. Thông báo triệu tập Hội nghị chủ nợ, tài liệu gửi bằng phương thức giao
trực tiếp, thư bảo đảm, thư thường, fax, telex, thư điện tử hoặc bằng phương thức
khác có ghi nhận việc gửi này.
2.7 Phục hồi doanh nghiệp
Theo điều 87 Luật phá sản quy định:
1. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Hội nghị chủ nợ thông qua nghị quyết
có nội dung áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp, hợp
tác xã mất khả năng thanh toán phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh và gửi cho Thẩm phán, chủ nợ, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh
lý tài sản cho ý kiến.


2. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã thì chủ nợ, Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản gửi ý kiến cho doanh nghiệp, hợp tác xã để
hoàn thiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh báo cáo Quản tài viên,

doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, chủ nợ, Ban đại diện chủ nợ (nếu có).
3. Ngay sau khi nhận được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh theo
quy định tại khoản 2 Điều này, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản có nhiệm vụ báo cáo Thẩm phán.
4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Thẩm
phán xem xét trước khi đưa phương án ra Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua.
2.8 Ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản
2.9 Thi hành Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản
Thứ nhất, thanh lý tài sản phá sản.
Thứ hai, phân chia tiền thu được từ việc bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã cho các đối tượng theo thứ tự phân chia tài sản.
Chương 2: Một số bất cập, hạn chế và kiến nghị giải pháp về quy định
thủ tục phá sản.
2.1 Một số bất cập, hạn chế về quy định thủ tục phá sản
Trong thực tế, để xử lý vụ việc phá sản, tòa án nhân dân gặp rất nhiều khó
khăn trong quá trình xử án. Các vụ việc thường phải kéo dài, gặp nhiều khó khăn.
Một trong những bất cập, hạn chế đó như sau:
Thứ nhất, bất cập, khó khăn trong việc thực hiện các quy định của thủ tục phá
sản, như là:


Tại khoản 1 Điều 4 Luật phá sản quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”. Việc thanh
toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán là bất cập vì
chưa có quy định cụ thể.
Tại khoản 1 Điều 42 Luật phá sản quy định: “Trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Thẩm phán phải ra quyết định mở
hoặc không mở thủ tục phá sản”. Đối với thủ tục phá sản, vì thủ tục này liên quan

đến nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức như ngân hàng, thuế. Việc quy định 30 ngày là
hơi ngắn vì nguồn thông tin tài liệu, cũng như những các trình tự thủ tục liên quan
còn nhiều bất cập đặc biệt đối với những thành phố lớn như Hà Nội hay Hồ Chí
Minh thì người nộp đơn phá sản diễn ra hằng ngày.
Tại khoản 5 Điều 42 Luật phá sản quy định: “Tòa án nhân dân ra quyết định
không mở thủ tục phá sản nếu xét thấy doanh nghiệp, hợp tác xã không thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Trong trường hợp này, người nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản được trả lại tiền tạm ứng chi phí phá sản; yêu cầu
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán thực hiện nghĩa vụ về tài sản
đã bị tạm đình chỉ theo quy định tại Điều 41 của Luật này được tiếp tục giải
quyết.” Theo quy định, Thẩm phán được phân công phải nghiên cứu hồ sơ, nếu xác
định doanh nghiệp hợp tác xã mất khả năng thanh toán thì phải ra Quyết định mở
thủ tục phá sản. Trường hợp, thẩm phán ra quyết định không mở thủ tục phá sản
khi xác định doanh nghiệp, hợp tác xã không mất khả năng thanh toán. Khi ban
hành ra quyết định, không có điều luật nào quy định ra quyết định phải kèm hồ sơ
giải thích vì sao ra Quyết định không mở thủ tục phá sản. Vì vậy, rất khó khăn
trong việc xem xét hồ sơ cũng như xem quyết định đó dựa trên tiêu chí gì.


Thứ hai, chưa có quy chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến thủ tục
phá sản, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan nhà nước.
Thứ ba, những doanh nghiệp hiện hành chưa biết những rõ về những quy định
về phá sản cũng như giải thể doanh nghiệp. Vì giải thể doanh nghiệp và phá sản là
phương thức chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp nên gây nhầm lẫn. Từ đó, ảnh
hưởng tới nhiều trong việc giải quyết.
Thứ tư, đối với những tài sản doanh nghiệp khi phá sản sẽ được liệt kê rất
nhiều và ở nhiều nơi khác nhau. Vì vậy, cần phải nhiều Quản tài viên bảo quản tài
sản; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán;
ngăn chặn việc tẩu tán tài sản; tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã khi bán, thanh lý tài sản.

Thứ năm, sau khi ra quyết định mở thủ tục phá sản thì Thẩm phán giải quyết
vụ phá sản đó ra văn bản chỉ định một Quản tài viên và văn bản này được tống đạt
ngay đến Quản tài viên được chỉ định đó. Tuy nhiên, đến ngày thứ ba kể từ ngày ra
quyết định mở thủ tục phá sản thì Quản tài viên được chỉ định lại có văn bản từ
chối tham gia vụ phá sản đó vì cho rằng, vụ phá sản này quá phức tạp hoặc do
Quản tài viên không có điều kiện tham gia… Vấn đề này xảy ra trong thực tiễn làm
cho các Thẩm phán lúng túng trong xử lý tình huống, đồng thời, việc trì hoãn này
sẽ khiến cho một số trường hợp giải quyết phá sản trở lên rắc rối hơn vì DN, HTX
bị yêu cầu tuyên bố phá sản sẽ nhân cơ hội đó để tẩu tán tài sản….1
Thứ sáu, việc giải quyết vụ việc phá sản là loại việc khó, được đánh giá là
“siêu vụ án” trong khi thực tiễn nhiều Tòa án chưa có nhiều vụ việc phải giải quyết
dẫn đến lúng túng.

/>1


2.2 Kiến nghị giải pháp về quy định thủ tục phá sản:
Thứ nhất, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước (thuế, đăng ký
doanh nghiệp,...) trong việc thông báo doanh nghiệp rơi vào tình phá sản thể gửi
tới cơ quan tòa án.
Thứ hai, nhận thức pháp luật phá sản còn chưa đồng đều. Đối với những
thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh thì Thẩm phán sẽ được tiếp cận rất
thường xuyên vì đây là 2 đầu cầu kinh tế trọng điểm của đất nước. Còn đối với
những thành phố nhỏ, việc có hồ sơ phá sản là chuyện rất khó tiếp cận vì ở đó họ
rất ít vụ án liên quan đến thủ tục phá sản. Vì vậy, cần tăng cường nhận thức pháp
luật phá sản của những doanh nghiệp nói riêng và cũng như tất cả các người có
quyền liên quan đến thủ tục đó như Thẩm phán, Quản tài viên.
Thứ ba, tăng cường học hỏi, trau dồi kinh nghiệm của những người có thẩm
quyền làm công tác phá sản này. Đồng thời, nêu cao tinh thần tự học hỏi những
thành phố lớn, những người có kinh nghiệm hơn.

Thứ tư, nghiên cứu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chia sẻ dữ
liệu trên các cơ sở dữ liệu chuyên ngành như cơ quan thuế, tòa án, thi hành án và
các tổ chức cá nhân liên quan như ngân hàng.
Thứ năm, tăng chế tài xử lý đối với các trường hợp không thực hiện thủ tục
phá sản doanh nghiệp khi doanh nghiệp đã ngừng hoạt động. Để tăng ý thức, trách
nhiệm của chủ doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật trong việc tuân thủ
pháp luật, cũng như có cơ chế pháp lý rõ ràng cho các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quản lý doanh nghiệp cần thiết lập và quy định rõ các biện pháp chế tài đối
với chủ doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Như cấm
thành lập công ty mới, cấm đảm nhiệm chức vụ.


KẾT LUẬN
Với sự phát triển lớn mạnh của nền kinh tế thị trường sẽ làm cho số lượng các
doanh nghiệp, hợp tác xã mới được hình thành ngày càng nhiều. Những doanh
nghiệp, hợp tác xã đáp ứng được các đòi hỏi, yêu cầu của thị trường thì tồn tại,
phát triển, còn những doanh nghiệp, hợp tác xã không đáp ứng được sẽ bị đào thải,
loại bỏ ra khỏi đường ray kinh tế đó. Vì vậy, thủ tục phá sản giúp rất nhiều trong
việc đào thải này.
Dưới góc nhìn của sinh viên ngành luật năm thứ tư về vấn đề còn nhiều khá
bàn luận này thì khó có thể tránh được thiếu sót. Chính vì vậy, em rất mong được
nhận sự đánh giá và góp ý của quý thầy cô sau khi đọc qua bài tiểu luận này. Em
xin chân thành cảm ơn!


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật doanh nghiệp 2014
2. Luật phá sản 2014
3. Giáo trình luật thương mại, trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
4. Cùng một số trang web: vienkiemsatlangson.gov.vn; ;

;



×