Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.9 KB, 73 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

TẠ THỊ HỒNG THANH

ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

TẠ THỊ HỒNG THANH

ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Th.S Nguyễn Thị Giang


HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, em
đã nhận đƣợc sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành nhất tới Th.S Nguyễn Thị Giang - ngƣời cô đã tận tình chỉ bảo,
giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục
Chính trị cùng các thầy cô giáo trong trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã
giảng dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng nhƣ bạn bè đã góp ý,
ủng hộ em hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng
nhƣ kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy cô cũng nhƣ các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Ngƣời thực hiện

Tạ Thị Hồng Thanh


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của
Th.s Nguyễn Thị Giang.
Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Ngƣời thực hiện

Tạ Thị Hồng Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:................................................................ 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 7
6. Ý nghĩa của khóa luận ................................................................................... 7
7. Kết cấu của khóa luận ................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN SINH
QUAN PHẬT GIÁO ......................................................................................... 8
1.1. Khái quát về sự ra đời Phật giáo ................................................................ 8
1.1.1. Sự hình thành và phát triển Phật giáo ..................................................... 8
1.1.2. Quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Việt Nam .............................. 9
1.2. Nhân sinh quan Phật giáo......................................................................... 13
1.2.1. Nhân sinh quan Phật giáo trong tƣ tƣởng triết học Phật giáo ............... 13
1.2.2. Khái niệm nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo .......................... 15
1.2.3. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo ...................................................... 17
1.3. Đạo đức và kết cấu của đạo đức............................................................... 23
1.3.1. Khái niệm đạo đức trong lịch sử triết học............................................. 23
1.3.2. Khái niệm đạo đức theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin ................. 24
1.3.3. Kết cấu của đạo đức .............................................................................. 26
CHƢƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT
GIÁO ĐẾN ĐẠO ĐỨC CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY .................. 28

2.1. Ảnh hƣởng nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của con ngƣời Việt
Nam ................................................................................................................. 35
2.1.1. Ảnh hƣởng nhân sinh quan Phật giáo đến ý thức đạo đức ................... 35
2.1.2. Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến hành vi đạo đức ........... 40
2.1.3. Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến quan hệ đạo đức .......... 47
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
VÀ HẠN CHẾ NHỮNG TIÊU CỰC CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT
GIÁO TRONG ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ............ 50


3.1. Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo
và đạo đức tôn giáo ......................................................................................... 50
3.1.1. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo...................... 50
3.1.2. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo ................... 54
3.1.3. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo ....................................... 56
3.2. Một số khuyến nghị để phát huy tính tích cực của nhân sinh quan Phật
giáo đối với đạo đức của con ngƣời Việt Nam hiện nay................................. 58
3.2.1.Việc phát triển kinh tế thị trƣờng gắn với đạo đức của ngƣời Việt Nam
......................................................................................................................... 58
3.2.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo trong đời sống xã
hội .................................................................................................................... 59
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 66


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới đƣợc du nhập
vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên. Trong một thời gian dài từ khi
du nhập cho đến nay, Phật giáo đã sớm khẳng định đƣợc mình và tìm đƣợc

một chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn hóa xã hội của con ngƣời Việt
Nam”.
“Phật giáo có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, xã hội ở
Việt Nam. Bên cạnh việc lựa chọn đúng đƣợc con đƣờng, cách thức truyền bá
phù hợp với tâm lý, truyền thống văn hóa thì nội dung giáo lý của nhà Phật
gần gũi với đời sống tinh thần của ngƣời Việt. Với tinh thần từ, bi, hỉ, xả của
mình trong nhân sinh quan, Phật giáo đã có sự khác biệt với những hệ tƣ
tƣởng cùng thời đƣợc du nhập truyền bá vào Việt Nam và đƣợc con ngƣời
Việt Nam đón nhận một cách rất tự nhiên nhƣ “nƣớc ngấm vào lòng đất” và
đã len lỏi vào trong đời sống của từng cá nhân, từng cộng đồng ngƣời Việt
sinh sống. Nếu nhƣ Nho giáo phải mất một thời gian khá dài khi mà xã hội
Việt Nam đã tƣơng đối phát triển mới đƣợc nhân dân trọng dụng, bên cạnh đó
Phật giáo ngay từ buổi đầu du nhập vào Việt Nam đã nhanh chóng đƣợc hòa
mình vào cùng với nền văn hóa của ngƣời bản địa bằng chính những câu
chuyện thần thoại mang đến cho con ngƣời sự thoải mái trong tâm lý và đầy
tính nhân văn cao cả (Hình ảnh ông Bụt hiện lên giúp đỡ con ngƣời khi gặp
khó khăn, hoạn nạn,…). Điều này, đã đƣợc minh chứng trong lịch sử dựng
nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam. Ngƣời Việt tiếp thu Phật giáo và đã
có những vận dụng những giáo lý này phù hợp với đời sống xã hội và hoàn
cảnh lịch sử của dân tộc mình. Phật giáo ở Việt Nam mang một nét rất riêng,
khác hẳn với Phật giáo ở các quốc gia khác nhƣ: Trung Quốc, Thái Lan, Lào..
Ngƣời Việt đã biết rằng Phật giáo không đơn thuần là một tôn giáo với hệ
thống thần linh và những nghi lễ thờ cúng của mình, mà nó còn là một học
thuyết triết học tƣơng đối thâm sâu. Trong những tƣ tƣởng triết học đó, ngoài
sự lí giải về quan niệm sống của con ngƣời thì Phật giáo đã dành nhiều những

1


nội dung cho những vấn đề liên quan đến con ngƣời và cuộc đời của con

ngƣời, đó chính là nội dung nhân sinh quan của Phật giáo”.
“Có thể khẳng định rằng, những tƣ tƣởng của Phật giáo có ảnh hƣởng
rất sâu đậm trong xã hội và con ngƣời Việt Nam, đa phần và chủ yếu là những
quan niệm xoay quanh vấn đề về con ngƣời và cuộc đời con ngƣời. Tất cả
những quan niệm đã cùng với thời gian không ngừng ngấm sâu vào từng hành
vi, lời nói, việc làm trong sinh hoạt hàng ngày của ngƣời Việt (Những quan
niệm về thiện ác, nhân quả và báo ứng, khuyên con ngƣời sống làm việc
thiện, tránh việc ác,…)”.
“Trong bối cảnh đất nƣớc hội nhập nền kinh tế thị trƣờng và giao lƣu
hội nhập quốc tế trên rất nhiều lĩnh vực và đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế.
Kinh tế thì trƣờng đã đem lại cho đất nƣớc sự phát triển mới với sức bật rất
tốt nhƣng bên cạnh đó những mặt trái của nó cũng làm đã nảy sinh rất nhiều
các vấn đề liên quan đến con ngƣời và xã hội, đặc biệt là vấn đề suy thoái về
đạo đức con ngƣời. Sự xuống cấp và băng hoại về đạo đức trong lối sống của
con ngƣời và có bộ phận ngƣời lợi dụng những triết lý nhân sinh của Phật
giáo để làm những việc sai trái với quy phạm đạo đức con ngƣời và ảnh
hƣởng xấu đến xã hội”. Trong Hội nghị Trung ƣơng 9 khóa XI về “ xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước”, Đảng ta đã khẳng định: “Chăm lo xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Xây dựng và phát huy
lối sống mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người; kết hợp hài hòa
tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối
với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp,
tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”.
“Trong giai đoạn hiện nay, với xu thế biến đổi không ngừng của thời
đại và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại và đặc biệt là sự lớn mạnh
của thông tin truyền thông đại chúng thì việc giáo dục đạo đức con ngƣời là
vô cùng cần thiết. Chúng ta phải có những chuẩn mực đạo đức riêng biệt cho
dân tộc thì sẽ không bị hòa tan với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Vì


2


vậy với chức năng truyền đạo của mình với nội dung triết lí nhân sinh quan
của Phật giáo đã có những đóng góp không nhỏ trong công cuộc xây dựng đất
nƣớc ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay”. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực
tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài “Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo
đến đạo đức con ngƣời Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhân sinh quan Phật giáo là một trong những đề tài đã đƣợc rất nhiều
nhà khoa học, Phật tử nghiên cứu, đặc biệt trong thời gian gần đây khi nền
kinh tế ngày càng phát triển và rất nhiều vấn đề đặt ra cần đƣợc giải quyết, cụ
thể là:
“Tác giả Peter D.Santina (1984), viết cuốn sách“Fundamentals of
Buddhism" ( Nền tảng của đạo Phật). Cuốn sách này đƣợc Thích Tâm Quang
dịch sang tiếng Việt năm 1996. Trong cuốn sách này tác gỉa đã trình bày
mƣời hai bài giảng về lịch sử ra đời của đạo Phật và những giáo lý của đạo
Phật nhƣ: Tứ diệu đế, triết lý nhân duyên, nghiệp,… Tác giả đã xuất phát từ
quan điểm của một Phật tử phƣơng Tây, có hiểu biết sâu sắc phần giáo lý nên
khi trình bày đã làm rõ nội dung trong quan niệm nhân sinh của đạo Phật. Qua
cuốn sách này đã giúp cho em có hiểu biết thêm về cách nhìn của ngƣời
phƣơng Tây đối với nhân sinh quan Phật giáo, từ đó có thể thấy đƣợc sự khác
biệt giữa nhân sinh quan Phật giáo ở Việt Nam với nhân sinh quan Phật giáo
nguyên thuỷ và nhân sinh quan Phật giáo đƣợc truyền bá và vận dụng trong
đời sống tinh thần của một số quốc gia khác”.
“Năm 1984, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện triết học xuất
bản cuốn “Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam” tập hợp 25
bài tham luận của các nhà nghiên cứu có tên tuổi của giới khoa học nƣớc ta

nhƣ các Giáo sƣ Trần Văn Giầu, Nguyễn Tài Thƣ, Phan Đại Doãn, Trần Đình
Hƣợu,… trong cuộc hội thảo về “Mối quan hệ giữa Phật giáo và lịch sử tƣ
tƣởng Việt Nam”; Cuốn sách “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của Viện Triết
học do PGS Nguyễn Tài Thƣ chủ biên (1988), do Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội xuất bản”.

3


“Các tác giả đã phân tích và làm sáng tỏ mối quan hệ tác động qua lại
giữa Phật giáo và lịch sử tƣ tƣởng của Việt Nam, tính chất chung của Phật
giáo và đặc điểm Phật giáo Việt Nam và đề cập tới một số tông phái Phật giáo
Việt Nam, ảnh hƣởng của Phật giáo tinh thần truyền thống yêu nƣớc, tới các
nét văn hóa của Việt Nam,…Những bài nghiên cứu này đã khái quát lịch sử
Phật giáo Việt Nam từ khi du nhập vào Việt Nam đến năm 1980. Những bài
nghiên cứu phần nào phản ảnh đƣợc ảnh hƣởng của Phật giáo đến đời sống
của ngƣời Việt từ văn hoá, tinh thần, lễ hội và quan trọng nhất đã chỉ ra đƣợc
ảnh hƣởng của nó đến chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam từ khi du nhập đến năm
1980. Mặc dù vậy, với sự phát triển không ngừng của xã hội, những nghiên
cứu này cần phải đƣợc tiếp tục trong thời đại ngày nay và đề tài khoá luận giải
đáp vấn đề này”.
“Tác giả Thích Tâm Thiện (1994), viết cuốn “Tìm hiểu nhân sinh quan
Phật giáo” do Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất bản và
cuốn:“Chữ nghiệp trong đạo Phật”, do tác giả Thích Thiện Siêu viết (2002),
Nxb Tôn giáo, Hà Nội. Theo các tác giả, quan niệm về “định mệnh” và “định
nghiệp” thƣờng đƣợc nêu ra cùng với nhau và có liên quan đến thuyết nhân
quả của nhà Phật tác giả đã trình bày về Duyên sinh - Vô ngã qua các thời kỳ.
Trong tác phẩm này, các tác giả đã trình bày nhân sinh quan Phật giáo dƣới
góc độ là một Phật tử. Khi tiếp cận với những tài liệu này, giúp cho em trong
quá trình làm khoá luận có một cách nhìn toàn diện và phong phú trong quá

trình nghiên cứu về ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đạo đức
con ngƣời. Thấy đƣợc những ảnh hƣởng tích cực và tiêu cực từ những ảnh
hƣởng trên”.
“Nhà tu hành Thích Chân Quang với tác phẩm “Luận về nhân quả”
(2005), Nxb Tôn giáo. Trong cuốn sách này, tác giả Thích Chân Quang
cho rằng đối với đạo Phật, chúng sinh có ba mục đích cần nhắm đến:
“Một là, sống trong luân hồi bớt đau khổ, có phƣớc bão cõi trời cõi ngƣời;
Hai là, thoát khỏi luân hồi, chấm dứt sinh tử, có đƣợc niết bàn an vui”;
Ba là giáo hóa cho chúng sinh cùng đƣợc thành tựu trí tuệ giải thoát,
gọi là hạnh đạo Bồ tát”.

4


“Đây cũng là cách nhìn của những ngƣời tu hành về nhân sinh quan
Phật giáo, khi nghiên cứu cũng giúp cho em có sự so sánh giữa những nhà
nghiên cứu về Phật giáo không phải là nhà tu hành và những nhà nghiên cứu
Phật giáo là nhà tu hành để thấy rõ sự ảnh hƣởng của Phật giáo trong đời sống
tinh thần của ngƣời Việt hiện nay”.
“Ngoài những tác phẩm trên còn có ra còn một số công trình khác (sách
tham khảo, bài đăng trên các tạp chí khoa học,…) cũng có ít nhiều đề cập đến
nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo nhƣ: Lê
Hữu Tuấn “Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn
hóa tinh thần ở Việt Nam” (1988), Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Tài Thƣ (chủ biên),“Ảnh hưởng của các
hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay” (1997), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đăng Duy (1999), “Phật giáo với văn
hóa Việt Nam”, Nxb Hà Nội; Nguyễn Hùng Hậu (2002), “Đại cương triết học
Phật giáo Việt Nam”, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Thị Bảy
(1997), “Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ

Bắc Bộ”, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội; Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức
Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam của Đặng Thị Lan, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội..v.v…”
“Có thể nhận xét một cách khái quát rằng những công trình nghiên cứu
ở trên đều thống nhất với nhau rằng:
Phật giáo có những ảnh hƣởng lớn trong đời sống xã hội Việt Nam.
Những triết lý nhân sinh của Phật giáo kết hợp với nét văn hóa truyền thống
của Việt Nam đã tạo nên sự phong phú trong đời sống văn hóa xã hội của con
ngƣời Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu nói trên, đã trực tiếp hoặc gián tiếp ở các
mức độ và khía cạnh khác nhau, đã thể hiện tƣ tƣởng triết học thâm sâu của
Phật giáo và ảnh hƣởng của nó đến đạo đức của ngƣời Việt Nam.
Do đó,trong giai đoạn hiện nay việc đánh giá những ảnh hƣởng tích cực
và tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo để có thể đƣa ra đƣợc một số khuyến
nghị nhằm phát huy những ảnh hƣởng tích cực và hạn chế những ảnh hƣởng

5


tiêu cực của tƣ tƣởng triết học này trong đạo đức của ngƣời Việt Nam hiện
nay là một việc làm hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên, việc làm rõ sự ảnh hƣởng
của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đối với đạo
đức của ngƣời Việt Nam hiện nay thì còn chƣa nhiều. Vì vậy, khóa luận có
nhiệm vụ là trên cơ sở tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu
đi trƣớc để đánh giá đƣợc sự ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo
đức con ngƣời Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận làm rõ ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức
của ngƣời Việt Nam hiện nay; từ đó đƣa ra một số khuyến nghị nhằm phát

huy những ảnh hƣởng tích cực và hạn chế những ảnh hƣởng tiêu cực của nhân
sinh quan Phật giáo đến đạo đức của ngƣời Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
“Để đạt đƣợc mục đích trên khóa luận có nhiệm vụ:
- Khái quát một số vấn đề lý luận chung về Phật giáo và nhân sinh quan
Phật giáo.
- Nghiên cứu ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đạo đức
của ngƣời Việt trên các lĩnh vực: Ý thức đạo đức; hành vi đạo đức; quan hệ
đạo đức.
- Đƣa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực và hạn
chế những ảnh hƣởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con
ngƣời Việt Nam hiện nay”.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hƣởng của nó đối với đạo đức trong
xã hội Việt Nam hiện nay.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nhân sinh quan Phật giáo từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay..
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp luận: Khóa luận sử dụng phƣơng pháp luận chung của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác
- Lênin. Đồng thời, khoá luận còn sử dụng các phƣơng pháp: logic - lịch sử,
phƣơng pháp phân tích - tổng hợp, khái quát hóa, trừu tƣợng hóa, so sánh,…
6. Ý nghĩa của khóa luận
- Khoá luận có thể làm tài liệu cho các bạn sinh viên và nhà nghiên cứu
khi nghiên cứu về Phật giáo ở Việt Nam hiện nay.

- Khoá luận cũng có thể sử dụng trong nghiên cứu giảng dạy về Phật
giáo.
- Khoá luận cũng góp phần làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách về tôn giáo, văn hoá, xã hội.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
khoá luận bao gồm 3 chƣơng, với 7 tiết.
- Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về nhân sinh quan Phật giáo
- Chƣơng 2: Những ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo
đức của ngƣời Việt Nam hiện nay
- Chƣơng 3: Một số khuyến nghị để phát huy tính tích cực và hạn chế
những tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đạo đức của ngƣời Việt
Nam hiện nay

7


CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN SINH
QUAN PHẬT GIÁO
1.1. Khái quát về sự ra đời Phật giáo
1.1.1. Sự hình thành và phát triển Phật giáo
Đạo Phật “đƣợc hình thành vào khoảng thế kỷ thứ VI (TCN) ở Ấn Độ,
ngƣời sáng lập là thái tử Sidharta, ngƣời đời sau gọi là đức Phật. Chúng ta
ngày nay thƣờng gọi Ngài là Đức Phật, hoặc Đức Phật Cồ-đàm”.
“Đức Phật sống vào khoảng 25 thế kỷ trƣớc tại vùng Bắc Ấn độ. Ngài
sinh ra là một vị hoàng tử của vƣơng quốc Thích-ca (Sakya) tại vùng chân
núi Hy mã lạp sơn, nay thuộc nƣớc Nepal. Ngài sống cuộc sống trong nhung
lụa, có một thời niên thiếu cao sang và đã kết hôn với công chúa Da-du-đàla (Yasodhara), và có một ngƣời con trai tên là La-hầu-la (Rahula). Nhƣng,
bản thân Đức Phật lại không hề muốn sống cuộc sống cuộc sống nhung lụa kế
vị vua cha mà ngƣợc lại, ngài rời bỏ hoàng cung theo các nhà tƣ tƣởng học

tập, cuối cùng Thích Ca tự mình sáng lập học thuyết và đã đƣợc truyền bá
khắp nơi sau đó đƣợc phát triển thành một tôn giáo lớn trên thế giới”.
“Một ngày nọ Ngài đánh xe ngựa dạo chơi trên đƣờng phố, Ngài đã
nhìn thấy những cảnh vật làm thay đổi cách suy nghĩ của Ngài. Ngài thấy
một cụ già run rẩy, một ngƣời bệnh rên siết và một tử thi sình thối. Những
cảnh tƣợng này đã khiến chô Đức Phật phải suy nghĩ rất nhiều và quyết tâm
tìm ra đƣợc cách để giúp cho toàn nhân loại thoát khỏi những khổ đau của đời
sống đem lại, để con ngƣời thoát khỏi hoạn khổ đau”.
“Lúc 29 tuổi, Sĩ-đạt-đa rời hoàng cung, rời xa gia đình và vợ con, bỏ lại
cả vƣơng quốc của mình để gia nhập sống đời sống của một đạo sĩ khất thực
trong 6 năm, để đi tìm con đƣờng diệt khổ cho cuộc đời con ngƣời. Vào đêm
trăng rằm tháng Tƣ, khi ngồi thiền dƣới cội cây Bồ đề ở Gaya, Ngài tìm đƣợc
lời giải đáp và giác ngộ. Lúc đó, Ngài đƣợc 35 tuổi. Đấng Giác Ngộ giờ đây
đƣợc gọi là Đức Phật”.
“Trong cả cuộc đời hoằng hóa, dù phải đối phó với bao nhiêu trở ngại,
Đức Phật lúc nào cũng giữ một phong thái an nhiên tự tại, và ngay cả trong
giờ phút lâm chung, Ngài vẫn bình thản cho dù thân xác đã suy kiệt. Ngay
trong giờ phút cuối cùng đó, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy và khuyên bảo các

8


đệ tử để họ tiếp tục tu tập theo giáo pháp của Ngài: “Nầy các tỳ kheo, Như Lai
khuyên quý vị rằng mọi pháp hữu vi đều vô thường, quý vị hãy tinh tấn với
chánh niệm”. Đó là những lời cuối cùng của đức Phật, và Ngài nhập diệt vào
năm 80 tuổi, trong năm 543 trƣớc Công Nguyên”.
“Sự ra đời của Phật giáo cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm là
một cuộc cách mạng trong xã hội Ấn Độ cổ đại bởi vì đạo Phật đã xóa bỏ đi
những thể chế giai cấp truyền thống, những tín ngƣỡng lỗi thời và những quan
điểm triết học thịnh hành để hình thành nên một tín ngƣỡng có thể đƣợc gọi

là tinh thần khoa học và lý trí. Kể từ đó trở đi Phật giáo đã lan truyền khắp
các nƣớc Á Châu và có ảnh hƣởng rất lớn đến những nét truyền thống, văn
hóa, phong tục của ngƣời dân bản địa các khu vực mà nó đến”.
1.1.2. Quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Việt Nam
Đến ngày nay, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam chƣa thống nhất đƣợc
với nhau về thời điểm Phật giáo du nhập vào Việt Nam. Có ý kiến cho rằng từ
những thế kỷ trƣớc công nguyên, nhiều thuyền buôn Ấn Độ đã cập bến nƣớc
ta, các thƣơng nhân của Ấn Độ đã mang theo nền văn hóa Ấn Độ đến Việt
Nam. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, Phật giáo đƣợc du nhập vào
nƣớc ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Việt
Nam đã tiếp thu Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Hoa và một số ít từ Campuchia.
Từ khoảng thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V đã có rất nhiều nhà sƣ Ấn Độ
và Trung Quốc cùng vào Việt Nam để truyền đạo nhƣ Mahakyvuc, Khƣudala,
Mâu Bác Cƣ sĩ. Ở thế kỷ thứ III có Khƣơng Tăng Hội và Chi Lƣơng Cƣơng
ngƣời Ấn Độ, thế kỷ thứ IV có Du Pháp Lan, Du Đạo Toái ngƣời Trung
Quốc, thế kỷ thứ V có Đàm Hoằng. Ở thời kỳ này cũng có một số nhà sƣ Việt
Nam danh tiếng nhƣ Huệ Thắng, Thích Đạo Thiền. Quá trình truyền đạo này
đã hình thành nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam, từ thế kỷ VI đến thế kỷ X vẫn đƣợc xem đây là giai đoạn truyền giáo.
Tuy nhiên trong giai đoạn này, ảnh hƣởng của các nhà truyền giáo Ấn Độ đã
giảm và các nhà truyền giáo Trung Quốc tăng lên và đặc biệt hơn là còn du
nhập các phái thiền của Trung Quốc vào Việt Nam. Trong mƣời thế kỷ đầu
truyền bá vào Việt Nam, mặc dù trong hoàn cảnh đất nƣớc bị xâm lăng đô hộ
nhƣng Phật giáo vẫn tạo ra sức ảnh hƣởng và phát triển trong nhân dân và có

9


những chuẩn bị cho sự phát triển mới trong giai đoạn đất nƣớc độc lập, tự
chủ.

Đến thế kỷ X, khi nƣớc ta đã giành đƣợc quyền tự chủ, trong thời kỳ
này Phật giáo bắt đầu phát triển hƣng thịnh và có những đóng góp tích cực
cho sự phát triển đất nƣớc. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng định ra phẩm trật
tăng già và ban chức cho tăng sĩ. Vua Đại Hành sau khi hòa với nhà Tống đã
sai sứ sang triều cống Trung Hoa và xin thỉnh kinh Phật đem về truyền bá.
Nhiều thiền sƣ nhƣ Thiền sƣ Pháp Thuận, Thiền sƣ Vạn Hạnh đã đƣợc vua Lê
Đại Hành mời tham gia vào chính sự, góp phần to lớn vào sự hƣng thịnh của
đất nƣớc.
Triều Lý, triều đại đƣợc xem là triều đại Phật giáo đầu tiên trong các
triều đại phong kiến Việt Nam. Lý Thái Tổ vị vua đầu tiên sáng lập nên nhà
Lý là ngƣời xuất thân từ cửa Phật, đƣợc nuôi dƣỡng và trƣởng thành ở chốn
thiền môn. Mọi công việc lớn nhỏ của nhà nƣớc trong giai đoạn này đều có sự
đóng gớp ý tƣởng của các vị thiền sƣ. Triều đình lúc này đã cử sứ thần sang
Trung Quốc thỉnh kinh và khuyến khích việc xuất gia tu hành . Phật giáo
đƣợc trọng dụng nên phát triển rất nhanh, chùa Phật đƣợc xây dựng ở hầu
khắp các làng xã và trở thành trung tâm tôn giáo lớn nhất ở nông thôn miền
Bắc lúc bấy giờ. Có thể nói, hơn 200 năm dƣới triều đại nhà Lý Phật giáo đã
chiếm vị trí độc tôn và có những ảnh hƣởng mạnh mẽ đến mọi phƣơng diện
của đời sống xã hội Đại Việt.
Sang đến thời nhà Trần, bộ máy hành chính nhà nƣớc đã dần đƣợc xây
dựng và hoàn chỉnh hơn. Nho giáo lúc này dần chiếm vị trí quan trọng trong
đời sống tinh thần và tổ chức xã hội. Nhƣng Phật giáo thời Trần đến giữa thế
kỷ XIV vẫn giữ đƣợc sự hƣng thịnh của nó. Các vua đời nhà Trần ý thức
đƣợc rõ vai trò của Nho giáo và Phật giáo đối với xã hội. Trải qua quá trình
du nhập và phát triển đến thời Trần, Phật giáo ở Việt Nam đã có sự góp mặt
của ba thiền phái từ Ấn Độ và Trung Quốc là Tỳ Ni Đa Lƣu chi, Vô Ngôn
Thông và Thảo Đƣờng. Các tăng sĩ đời Trần đã không còn trực tiếp đóng góp
vào sự nghiệp chính trị nhƣ trƣớc nữa, nhƣng Phật giáo vẫn là một yếu tố
quan trọng để liên kết nhân tâm và cố kết cộng đồng. Ở thời kỳ này rất nhiều
chùa pháp quy mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã đƣợc xây dựng, Phật giáo

thời Trần đã có sự phát triển đến cực thịnh.

10


Từ giữa thế kỷ XIV, cùng với sự suy vi của triều đại nhà Trần, Phật
giáo cũng dần mất đi tính nhập thế tích cực và ngày càng suy vong. Bảy năm
dƣới triều đại nhà Hồ, Phật giáo suy vi một cách nhanh chóng. Quân Minh
sang xâm lƣợc nƣớc ta mƣợn cớ là muốn khôi phục nhà Trần và đặt chế độ
cai trị hà khắc, với âm mƣu Hán hóa văn hóa Đại Việt, quân Minh đã tịch thu
và đốt hết sách vở trong đó có kinh sách nhà Phật, chùa chiền bị đốt phá, sƣ
tăng bị giết hại.
Đến thời hậu Lê, ở nƣớc ta xuất hiện thêm hai phái thiền là Thiền Tào
Động ở Đàng Ngoài và Thiền Lâm Tế ở Đàng Trong.
Thời Minh Mạng và Thiều Thị bắt đầu có sự khởi sắc trùng tu những
ngôi chùa và Tổ đình quan trọng, nhƣng trong nhân dân thì ảnh hƣởng của
Phật giáo không còn sâu đậm nhƣ trƣớc nữa. Thời vua Tự Đức nƣớc ta rơi
vào vòng đô hộ của Pháp, Phật giáo lúc này lại càng suy vy hơn. Dƣới sự cai
trị của nhà Nguyễn cả trƣớc và sau khi Pháp xâm lƣợc, Phật giáo tiếp tục suy
tàn.
Những năm 30 của thế kỷ XX, một sô nhà tu hành và một số nhân sĩ, trí
thức Phật giáo đã đứng ra vận động phong trào “Chấn hƣng Phật giáo”, kể từ
đó Phật giáo đã có sự khởi sắc hơn. Một bộ phận Phật giáo đi vào hoạt động
có tổ chức, một số cơ sở đào tạo tăng tài lần lƣợt ra đời nhƣ An Nam Phật học
hội, Hội Phật học Bắc Kỳ,…
Thời kỳ Mỹ - Diệm, Phật giáo ở hai miền có sự khác biệt nhất định. Ở
miền Bắc, Phật giáo đƣợc quy tụ trong một tổ chức duy nhất là “Hội Phật giáo
thống nhất Việt Nam” sinh hoạt tín ngƣỡng gắn với các hoạt động yêu nƣớc,
gắn bó với dân tộc. Ở miền Nam, do tình hình chính trị phức tạp, Phật giáo bị
phân rã theo nhiều xu hƣớng chính trị khác nhau và hình thành nên 14 hệ

phái.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nƣớc hòa bình, hai miền Bắc
Nam thu về một mối đã tạo điều kiện cho các hệ phái Phật giáo thống nhất.
Tháng 11/1981, Đại hội đại biểu thống nhất Phật giáo đã đƣợc tổ chức tại Hà
Nội. Đại hội đã lập ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam thông qua hiến chƣơng,
chƣơng trình hành động và bầu ra cơ quan lãnh đạo. Đến nay, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam đã trải qua sáu kỳ Đại hội và không ngừng trƣởng thành và
phát triển.

11


Đánh giá khái quát quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt
Nam chúng ta có thể rút ra đƣợc một số nhận xét sau:
Thứ nhất, Phật giáo vào Việt Nam bằng con đƣờng dân dã và mang tính
tự phát thông qua các thƣơng nhân Ấn Độ và các nhà truyền giáo Trung
Quốc. Khác với đạo Công giáo, Phật giáo vào Việt Nam hoàn toàn mang tính
tự phát. Công lao đầu tiên của việc Phật giáo du nhập vào Việt Nam phải kể
đến vai trò của các thƣơng nhân Ấn Độ. Từ những năm đầu công nguyên
ngƣời Ấn Độ đã đi buôn bán với nhiều nƣớc trong vùng Địa Trung Hải,
Trung Đông, Đế quốc La Mã. Họ đi nhiều nơi để tìm nguồn nguyên liệu và
hàng hóa, chính trong quá trình đó họ đã tới Đông Nam Á trong đó có Việt
Nam. Họ đến Việt Nam mang theo: y thuật, phong tục tập quán và sinh hoạt
tôn giáo của ngƣời Ấn Độ. Những đặc điểm văn hóa này đã có những ảnh
hƣởng đến đời sống của ngƣời dân bản địa Việt Nam. Họ đã đem Phật giáo
đến Việt Nam một cách tự phát và không có chủ đích.
Thứ hai, Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu bằng con đƣờng hòa bình và
ít gây ra xung đột với văn hóa bản địa. Phật giáo xâm nhập vào cuộc sống tinh
thần ngƣời Việt Nam một cách rất tự nhiên. Ngay từ buổi đầu mới du nhập,
Phật giáo đã nhanh chóng đƣợc ngƣời Việt Nam đón nhận mà hầu nhƣ không

gặp phải bất kỳ một trở ngại nào. Nó còn đƣợc tiếp nhận một cách nhanh
chóng vì bản thân nó có rất nhiều điểm phù hợp với hệ thống tín ngƣỡng dân
gian của ngƣời Việt. Ngƣời Việt thời kỳ này tin tƣởng có ông trời trên cao
nhìn thấu mọi việc ở trần thế, trừng phạt kẻ ác và giúp đỡ ngƣời thiện. Bên
cạnh đó họ còn có tin tƣởng vào các thế lực siêu nhiên có ảnh hƣởng lớn đến
con ngƣời, đó là các vị thần tự nhiên và các Mẫu trong tự nhiên chi phối đến
đời sống của con ngƣời và cũng với những mong muốn ngƣời tốt đƣợc báo
đáp, kẻ ác phải đền tội… Trong bối cảnh xã hội, văn hoá, tín ngƣỡng đó, Phật
giáo với thuyết Nhân quả nghiệp báo, luân hồi, với những quan niệm công
đức,… những lý thuyết này rất phù hợp với tín ngƣỡng của ngƣời Việt nên đã
đƣợc tiếp nhận nhanh chóng. Đồng thời, trong hoàn cảnh đất nƣớc bị đô hộ
bởi thế lực ngoại bang, ngƣời Việt đã tìm thấy ở Phật giáo một nền tảng tƣ
tƣởng để củng cố bản sắc dân tộc, khi phản kháng không tiếp thu tƣ tƣởng của
kẻ thống trị đƣa vào trong quá trình đô hộ.

12


Với thái độ khoan dung, mềm dẻo, linh hoạt nên quá trình truyền bá
Phật giáo vào Việt Nam nhìn chung không gây ra những xung đột về văn hóa
và tôn giáo. Phật giáo còn chấp nhận chung sống và hòa đồng một cách tích
cực với hệ thống tôn giáo và tín ngƣỡng dân gian bản địa. Vào Việt Nam,
Phật giáo không những không loại trừ hệ thống tín ngƣỡng dân gian bản địa
mà còn dung nạp nó, làm phong phú thêm giá trị của bản thân. Với phƣơng
châm “hoằng hóa tùy duyên phƣơng tiện”, Phật giáo là một tôn giáo khá linh
hoạt và thích ứng nhanh với các điều kiện nơi mà nó dừng chân đến. Chính vì
vậy, vào Việt Nam Phật giáo đã không gây nên những xáo trộn về mặt văn
hóa. Nó đã nhanh chóng hòa đồng, bén rễ trong lòng dân tộc và chiếm tình
cảm của ngƣời Việt Nam.
Thứ ba, trong quá trình du nhập và phát triển, Phật giáo luôn gắn bó,

đồng hành cùng dân tộc và góp phần quan trọng vào việc xây dựng và bảo vệ
nền độc lập dân tộc, góp phần to lớn vào việc hình thành bản sắc văn hóa của
Việt Nam. Đây cũng là điểm riêng biệt ở Phật giáo Việt Nam, khi những giáo
lý của Phật giáo đƣợc hiện thực hoá trong đời sống, đƣợc nhân dân vận dụng
vào công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc. Điển hình nhất của quan điểm này
phải kể đến Phật giáo thời Lý, Trần trong lịch sử Việt Nam.
1.2. Nhân sinh quan Phật giáo
1.2.1. Nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học Phật giáo
Ph.Ăngghen đã nói: “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự
phản ảnh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở
bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lương ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần
thế”[17, tr 176]. Đây có nghĩa là, tôn giáo do con ngƣời sáng tạo ra và tôn
giáo không sáng tạo ra con ngƣời song bên cạnh đó nó lại có những ảnh
hƣởng rất lớn đến rất nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống con ngƣời.
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, đã đƣợc truyền
bá và ảnh hƣởng tới rất nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới nhƣ: Xiry, Ai
Cập, Thái Lan, Việt nam, Trung Quốc, Mianma và một phần các quốc gia
Anh, Đức, Pháp,…và nó đã nhanh chóng trở thành tôn giáo có tính ảnh hƣởng
lớn trên thế giới.

13


“Đức Phật đã đƣợc chứng kiến những nỗi khổ cực của cuộc sống con
ngƣời trong xã hội. Qua thời gian học đạo, Đức Phật đã nhìn thấy những con
đƣờng sai lầm của cuộc sống vật chất con ngƣời. Đức Phật cho rằng, cuộc
sống dù giàu sang đến đâu cũng chỉ là tầm thƣờng, còn cuộc đời tu hành khổ
hạnh thì tăm tối, mà chỉ có con đƣờng trung đạo thì mới là con đƣờng đúng
đắn cho con ngƣời. Từ đó, với những suy tƣ sâu thẳm, Đức Phật đã giác ngộ

đƣợc chân lý. Ngƣời đã chỉ ra đƣợc nguồn gốc sinh ra nỗi khổ của con ngƣời
và những để giúp con ngƣời giải thoát khỏi nỗi đau khổ đó. Với tƣ cách là
một tôn giáo, Phật giáo đã xoa dịu đi những nỗi khổ đau của con ngƣời phải
gánh chịu trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp vô cùng khắc nghiệt nhƣ ở
Ấn Độ cổ đại và cả các quốc gia khác trên thế giới. Bao trùm lên đó, là nhân
sinh quan từ bi của đạo Phật”.
“Giáo lý của đạo Phật là hệ thống các quan niệm về nhận thức luận, thế
giới quan và nhân sinh quan có hệ thống kết cấu rất chặt chẽ. Mục đích chủ
yếu của Phật giáo đó là thoát khổ, là giải phóng con ngƣời, mang giá trị nhân
sinh sâu sắc. Nhân sinh quan Phật giáo cũng đƣợc đƣợc bắt nguồn từ thế giới
quan. Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhìn thấy rõ đƣợc những nỗi khổ đau của con
ngƣời và có những triết lí để giải thoát con ngƣời khỏi những nỗi khổ đau của
cuộc đời. Những tƣ tƣởng triết học phƣơng Đông thiên về nghiên cứu, tìm
hiểu những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc biệt là vấn đề con
ngƣời hơn là việc tìm hiểu giới tự nhiên. Triết học phƣơng Đông nghiên cứu
thế giới để làm sáng tỏ con ngƣời, vạch ra nguyên tắc ứng xử, giải quyết các
mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, chú ý đến đời sống tâm linh mà ít quan
tâm đến mặt sinh vật của con ngƣời. Mục đích nhận thức thế giới của triết học
đều nhằm phục vụ cho đời sống của con ngƣời và xã hội. Còn triết học
phƣơng Tây chú trọng nghiên cứu thế giới, tìm hiểu giới tự nhiên, xây dựng
nên các học thuyết, các phạm trù v.v... Cũng nhƣ nhiều trào lƣu tƣ tƣởng triết
học phƣơng Đông, Phật giáo đề cao và nhấn mạnh vấn đề nhân sinh. Đây
cũng là một trong những đặc điểm cơ bản khác biệt của triết học phƣơng
Đông so với phƣơng Tây. Điều này góp phần vào việc lý giải vì sao mặt vũ
trụ quan của thế giới quan của Phật giáo, nhất là Phật giáo nguyên thủy, hơi
mờ nhạt, trong khi nội dung nhân sinh quan lại khá rõ ràng và mang tính nổi
trội”.

14



“Mục đích cuối cùng của Phật giáo là giải thoát con ngƣời khỏi nỗi khổ
trần thế thông qua con đƣờng tu tập về mặt tâm linh. Do đó, Phật giáo hầu
nhƣ không đề cập và không có chủ trƣơng giải quyết nhữngvấn đề có tính
chất siêu hình. Khi các đệ tử hỏi Đức Phật về vấn đề siêu hình trừu tƣợng nhƣ
vũ trụ có vĩnh hằng không? Nó vô hạn hay hữu hạn, linh hồn và thể xác là
một hay khác nhau, Nhƣ Lai sau khi chết có tồn tại hay không?... thì ngƣời im
lặng vì mục đích chủ yếu là cứu khổ cho con ngƣời”.
“Nhƣ vậy, qua việc nghiên cứu những nội dung trên cho thấy, đối
tƣợng nghiên cứu chủ yếu của Phật giáo là con ngƣời, là giá trị nhân sinh.
Qua việc phải chứng kiến nỗi khổ của con ngƣời ở đời sống trần thế mà Thích
Ca Mâu Ni đã xây dựng học thuyết mang đậm giá trị nhân sinh để giải thoát,
cứu khổ cho con ngƣời khỏi khổ nạn. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ,
với sự thống trị của tƣ tƣởng duy tâm tôn giáo Bà la môn và chế độ phân biệt
đẳng cấp khắt khe, Phật giáo ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận uy
thế của kinh Vêđa và đạo Bà la môn, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do
tƣ tƣởng và sự bình đẳng xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời sống của ngƣời dân
Ấn Độ. Đây là sự thể hiện tinh thần phản kháng của quần chúng nhân dân đối
với chế độ xã hội đƣơng thời. Đức Phật tuyên bố: Không có đẳng cấp trong
dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nƣớc mắt cùng mặn, con
ngƣời sinh ra không phải đã mang sẵn trong bào thai dây chuyền ở cổ hay dấu
tin ca (dấu hiệu quý phái của dòng Bà la môn) trên trán. Qua đó thể hiện mặt
tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong lĩnh vực sinh hoạt xã hội. Nguyện
vọng cứu khổ của Đức Phật mang tính nhân văn sâu sắc, còn có cứu đƣợc khổ
hay không lại là chuyện khác. Do vậy, Phật giáo rất gần gũi với con ngƣời”.
1.2.2. Khái niệm nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo
Từ lâu trong triêt học, khái niệm “nhân sinh quan” thƣờng đƣợc các
học giả bàn đến và đƣợc sử dụng trong sự tƣơng quan so sánh trong mối quan
hệ với thế giới quan. Vì vậy, khi nhắc đến nhân sinh quan, trƣớc hết chúng ta
xem xét đến khái niệm “thế giới quan”.

Khái niệm thế giới quan: Có rất nhiều những nhận định của các tác giả,
các nhà triết học về khái niệm thế giới quan khác nhau. Trong cuốn giáo trình
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đƣa ra khái niệm về
thế giới quan:“Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của

15


con người về thế giới, về bản thân con người, về bản thân con người , về cuộc
sống và vị trí của con người trong thế giới đó”[17, tr33]. Theo ý nghĩa trên, ta
thấy đƣợc thế giới quan đóng vai trò định hƣớng giúp con ngƣời xác định
đƣợc mục tiêu phƣơng hƣớng hoạt động của bản thân, từ thực tiễn thực tiễn
đến hoạt động nhận thức thế giới cũng nhƣ sự tự nhận thức bản thân để từ đó
xác định lí tƣởng, hệ giá trị, lối sống, nếp sống, ƣớc mơ, hoài bão của mình.
Nhƣ vậy, thế giới quan đúng đắn, khoa học là tiền đề để xác lập nhân sinh
quan tích cực.
Khái niệm nhân sinh quan: “Nhân sinh quan” có rất nhiều cách hiểu và
cách định nghĩa khác nhau, theo “Đại từ điển Tiếng Việt” là cuộc sống của
con ngƣời. Theo “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” thì nhân sinh quan là:
“quan niệm về cuộc đời, thành một hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối
sống,…Sống ở mỗi một thời đại khác nhau thì con người lại có một nhân sinh
quan khác nhau gắn liền với cuộc đời và thời đại mà mình đang sống”. Trong
mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, nhân sinh quan đƣợc thể hiện khác
nhau dựa trên những cơ sở kinh tế - xã hội nhất định. Bởi theo quy luật triết
học của chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin thì khi tồn tại xã
hội thay đổi thì những hình thái ý thức xã hội cũng thay đổi theo cho phù hợp.
Trong khi đó, nhân sinh quan là quan niệm sống của con ngƣời nên nhân sinh
quan sẽ thay đổi khi tồn tại xã hội thay đổi.
“Nhƣ vậy chúng ta có thể thống nhất nhân sinh quan là: Toàn bộ
những quan niệm về cuộc sống con ngƣời, nhân sinh quan đã đề ra và giải đáp

những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của con ngƣời. Đây là vấn đề rất
quan trọng đối với cuộc sống của con ngƣời. Trong chính cuộc sống của
mình con ngƣời luôn suy nghĩ về cuộc sống của mình và không ngừng hoạt
động để phục vụ cho cuộc sống đó, nhân sinh quan nói lên quan niệm đƣợc
chính quan niệm của con ngƣời về bản chất,về mục đích của cuộc sống và
chính những thái độ sống của con ngƣời đối với con ngƣời trong xã hội và
con ngƣời đối với tự nhiên - xã hội. Có nhân sinh quan đúng đắn thì con
ngƣời mới có đƣợc những bƣớc đi đúng đắn và vững chắc hơn trong cuộc
sống”.
Nhƣ vậy, qua những tìm hiểu nhƣ trên, tôi thấy rằng: “Nhân sinh quan
Phật giáo là quan niệm của Phật giáo về con người, cuộc sống con người,

16


bản chất con người, thái độ và hành vi tu tập của con người nhằm mục đích
giải thoát”.
1.2.3. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo
Những triết lý nhân sinh của đạo Phật đƣợc bắt nguồn chính từ thế giới
quan, do thế giới quan của Phật giáo chi phối.
Vì khuôn khổ của khóa luận có hạn, nên em chỉ nghiên cứu ảnh hưởng
của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay
trong thuyết “Tứ diệu đế” của nhân sinh quan Phật giáo. Đây là một hệ thống
gồm các quan niệm về con ngƣời và cuộc đời của con ngƣời.
1.2.3.1. Học thuyết về cấu tạo con người
“Phật giáo tập trung vào nghiên cứu về sự xuất hiện và tái sinh của con
ngƣời và những học thuyết về cấu tạo con ngƣời. Đạo Phật cho rằng bản thân
con ngƣời đƣợc cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết Danh sắc và
thuyết Lục đại”.
“Thuyết Danh sắc: Học thuyết này cho rằng con ngƣời đƣợc cấu tạo từ

hai yếu tố chính là vật chất và tinh thần”.
“Thuyết Lục đại: Học thuyết này cho rằng con ngƣời đƣợc cấu tạo từ
sáu yếu tố là: Địa; Thủy; Hỏa; Phong; Không và Thức. Trong 6 yếu tố này thì
5 yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có một yếu tố cuối cùng là thuộc về tinh
thần”.
“Thuyết Ngũ uẩn: Nhìn nhận con ngƣời đƣợc cấu tạo từ năm yếu tố
gồm: Sắc; Thụ; Tƣởng; Hành; Thức”.
“Các học thuyết về cấu tạo con ngƣời của Phật giáo, chúng ta thấy rằng
thuyết Ngũ uẩn là phổ biến hơn cả. Nhƣ vậy, Phật giáo cho rằng, con ngƣời
không có thực thể là "không", gọi là "nhân vô ngã" (nhân không). Con ngƣời
đƣợc tạo thành từ Ngũ uẩn cho nên không có chủ thể hằng thƣờng tự tại. Theo
Phật giáo, có hai loại vô thƣờng, đó là: sát na vô thƣờng và tƣơng tục vô
thƣờng. Trong đó, sát na vô thƣờng chỉ sự biến hóa trong khoảng thời gian
cực ngắn. Còn tƣơng tục vô thƣờng chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau đều có
sinh - trụ - dị - diệt (đối với sinh vật), hay thành trụ - hoại - không (đối với sự
vật), đối với con ngƣời là sinh - lão - bệnh - tử”.
“Quan niệm của nhà Phật cho rằng, con ngƣời là sự kết hợp động của
những yếu tố động, cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã. Với cách nhìn

17


nhƣ thế, Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tƣợng là giả danh không có thực,
con ngƣời chỉ là giả hợp của Ngũ uẩn tùy duyên giả hợp mà thành, cho nên là
hƣ vọng huyễn hóa. Đủ nhân duyên hợp lại thì gọi là sống, hết nhân duyên tan
ra gọi là chết. Sống, chết là giả hợp tan của Ngũ uẩn. Do mê lầm, mà vô
thƣờng con ngƣời tƣởng là thƣờng, vô ngã mà tƣởng có ngã. Thân xác con
ngƣời là nguồn gốc của mọi khổ đau. Mọi đau khổ nhƣ đói khát, sinh, lão,
bệnh, tử, nóng, giận, dâm dục v.v... đều có gốc từ con ngƣời mà ra. Điều này
cho thấy, Phật giáo nhìn nhận cuộc đời con ngƣời là khổ”.

“Nếu quan niệm chết là hết là chƣa hiểu đúng Phật giáo, mà theo Phật
giáo, chết là điều kiện để có cái sinh mới sắp tới. Phật giáo giải thích sự chết
của con ngƣời bằng thuyết luân hồi nghiệp báo... Cuộc đời con ngƣời là một
mắt xích trong chuỗi dài vô tận, chỉ là một gợn sóng trên mặt biển bao la.
Cuộc sống của con ngƣời trên trần thế không thay đổi đƣợc, nó do nghiệp cũ
quy định theo luật nhân quả; mọi việc làm của con ngƣời đều là nhân của sự
kết hợp Ngũ uẩn tiếp theo. Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con
ngƣời gieo nhân nào hƣởng quả ấy, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão. Đời này
ra sức học tập thì đời sau thông minh sáng suốt; đời này lƣời biếng thì đời sau
ngu đần dốt nát; đời này sát sinh thì đời sau chết yểu; đời này phóng sinh thì
đời sau sống lâu; đời này làm khổ chúng sinh thì đời sau đau khổ; đời này có
tâm vỗ về an ủi ngƣời khác thì đời sau hạnh phúc; đời này giận dữ cáu kỉnh
thì đời sau tƣớng mạo xấu xí...”
1.2.3.2. Học thuyết về cuộc đời con người
Toàn bộ quan niệm về cuộc đời con ngƣời để đi tới giải thoát đã đƣợc
Đức Phật trình bày trong thuyết “Tứ diệu đế” của nhân sinh quan Phật giáo.
Gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Theo lời Đức Phật bàn về cuộc
đời con ngƣời đã xuất phát từ: Khổ đế, “Này các Tỳ kheo, xưa cũng như nay.
Ta chỉ nói lên khổ và sự diệt khổ”. Phật giáo quan niệm cuộc đời của con
ngƣời là khổ đau, khổ đau là điều tất yếu và là chân lý. Đức Phật đã hết sức
rung động trƣớc những khổ đau của loài ngƣời và cho rằng: “Đời là bể khổ,
đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phƣơng đều là bể khổ, nƣớc mắt
chúng sinh nhiều hơn nƣớc biển, vị mặn của máu và nƣớc mắt chúng sinh
mặn hơn nƣớc biển”.

18


*Khổ đế: là “nói lên bản chất của nhân sinh. Quan niệm nhân sinh
trong triết học Phật giáo mang tính tiêu cực yếu thế, coi đời chỉ là ảo hóa tạm

bợ. Do vô minh, con ngƣời không nhận thức đƣợc điều đó, do đó cứ lặn lội
mãi trong biển sinh tử, luân hồi. Cuộc đời con ngƣời đầy rẫy những nỗi khổ,
nhƣng không ai nhìn thấy tƣờng tận và rõ ràng”.
Nỗi khổ của thế gian là khốn cùng mà con ngƣời phải chịu trong cuộc
đời của mình: “Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi là khổ,
ƣu não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly khổ, cầu không đƣợc là khổ.
Trong kinh Phật nói về khổ nạn có thể nói đến theo hai tiêu chí: Về mặt thể
chất và về mặt tinh thần”.
Về thể chất gồm có:
Sinh khổ: “Đã có sinh là có khổ, vì đã sinh ra thì nhất định có diệt, bị
quy luật vô thƣờng chi phối, nên có khổ. Khi sinh ra con ngƣời có một cơ thể
có hình, có tƣớng nên phải chịu đựng và chống lại quy luật tự nhiên nóng
lạnh, tìm cách duy trì cái thân tứ đại, phải đối phó với mọi tai nạn do thiên
nhiên hay do chính con ngƣời gây ra, nên suốt cuộc đời phiền não khổ đau”.
Lão khổ: “Con ngƣời luôn luôn mong muốn bản thân đƣợc trẻ và khỏe
mãi nhƣng cái già thì cứ ập đến, cái già đến đâu thì sự suy yếu đấy cũng làm
cho ngƣời ta phiền não”.
Bệnh khổ: Khi con ngƣời bị bệnh tật hành hạ, con ngƣời sẽ khổ đau.
Tử khổ: “Là cái khổ khi mà ngƣời ta chết đi. Tất cả mọi ngƣời đều phải
chết, dù là sớm hay muộn. Ngƣời sắp chết mà biết đƣợc mình sắp chết thì tâm
lí cũng đầy dao động, bi thƣơng. Cuộc đời con ngƣời càng muốn sống, ham
sống mãnh liệt thì lại càng sợ cái chết. Cái chết nó có thể xảy đến bất cứ lúc
nào trong cuộc đời con ngƣời với bất lỳ một lý do nào, do đó ma lực của cái
chết và sự sống nó lại càng lớn hơn và kéo dài đến suốt cả cuộc đời của con
ngƣời”. Đó là nỗi khổ đau về cái chết.
“Trên đây là bốn cái khổ sinh lý, cái khổ về thể chất mà bất cứ ai cũng
phải gặp trong cuộc đời. Những nỗi khổ hạn này là không thể tránh khỏi trong
cuộc đời của mỗi con ngƣời cho dù cuộc sống có sung sƣớng hay nghèo nàn
vất vả và kể cả là có sảy ra sự tranh đấu nhƣ thế nào đi nữa thì khổ nạn do
sinh nở, tuổi già, bệnh tật và cái chết là hoàn toàn không thể tránh khỏi trong

cuộc đời của mỗi con ngƣời”.

19


×