Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Đa dạng giới tính, quyền sở hữu của nhà quản lý ảnh hưởng đến việc chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 51 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------

Lê Phú Thịnh

ĐA DẠNG GIỚI TÍNH, QUYỀN SỞ HỮU CỦA NHÀ
QUẢN LÝ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CHẤP NHẬN
RỦI RO CỦA DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2019



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------

Lê Phú Thịnh

ĐA DẠNG GIỚI TÍNH, QUYỀN SỞ HỮU CỦA NHÀ
QUẢN LÝ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CHẤP NHẬN
RỦI RO CỦA DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng (hướng ứng dụng)
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ ĐẠT CHÍ



TP. Hồ Chí Minh - Năm 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác. Nếu không
đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề tài của mình..

Người cam đoan
Lê Phú Thịnh


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT
ABSTRACT
Chương 1:

Giới thiệu đề tài ........................................................................................ 1

1.1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
1.2. Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu ................................................................... 4
1.3. Đối tượng phạm vi và phương pháp nghiên cứu ................................................ 4
1.4. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài ............................................................................ 4

1.5. Bố cục của đề tài ................................................................................................. 6
Chương 2:

Khung lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước................................ 7

2.1. Khung lý thuyết .................................................................................................. 7
2.1.1.

Khung lý thuyết về chi phí đại diện ......................................................... 7

2.1.2.

Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực................................................................. 8

2.1.3.

Chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp .......................................................... 9

2.1.4.

Đa dạng giới tính .................................................................................... 10

2.1.5.

Quyền sở hữu của người quản lý ............................................................ 10

2.2. Phát triển nghiên cứu: ....................................................................................... 11


2.3. Phát triển giả thuyết: ......................................................................................... 15

2.3.1.

Ảnh hưởng của sự đa dạng giới tính của thành viên HĐQT đối với việc

chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp: ....................................................................... 15
2.3.2.

Ảnh hưởng của quyền quản lý đối với chấp nhận rủi ro doanh nghiệp . 15

Chương 3:

Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 18

3.1. Mô tả biến ......................................................................................................... 17
3.1.1.

Biến phụ thuộc........................................................................................ 17

3.1.2.

Biến độc lập ............................................................................................ 17

3.1.3.

Biến kiểm soát ........................................................................................ 18

3.2. Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................................... 23
3.3. Phân tích mẫu quan sát ..................................................................................... 23
3.4. Mô hình nghiên cứu .......................................................................................... 26
3.5. Phương pháp định lượng .................................................................................. 26

Chương 4:

Kết quả nghiên cứu ................................................................................. 27

4.1. Thống kê mô tả ................................................................................................. 28
4.1.1.

Thống kê mô tả các biến......................................................................... 28

4.1.2.

Tương quan giữa các biến ...................................................................... 29

4.2. Kết quả nghiên cứu ........................................................................................... 30
4.2.1.

Hồi qui phương trình .............................................................................. 30

4.2.2.

Phân tích kết quả .................................................................................... 32

Chương 5:

Kết luận .................................................................................................. 35

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 1 Tóm tắt mô tả các biến....................................................................................... 21
Bảng 2: Các ngành nghề của mẫu quan sát .................................................................... 25
Bảng 3: Tỷ lệ nam nữ trong HĐQT của mẫu quan sát .................................................. 25
Bảng 4: Tỷ lệ nữ giới trong HĐQT qua các năm ........................................................... 25
Bảng 5: Quyền sở hữu của nhà quản lý qua các năm từ 2012- 2016 ............................. 26
Bảng 6 thống kê mô tả các biến: .................................................................................... 28
Bảng 7: Ma trận hệ số tương quan: ................................................................................ 29
Bảng 8: Kết quả hồi quy mô hình cho toàn bộ công ty của phương trình .................... 31


TÓM TẮT
Nghiên cứu của luận văn xem xét về ảnh hưởng giữa sự đa dạng về giới tính trong hội
đồng quản trị, quyền sở hữu của nhà quản lý đến việc chấp nhận rủi ro của các công ty
Việt Nam. Việc chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp được chú trọng trong các bài nghiên
cứu ở các nước phát triển, việc kiểm tra vấn đề này vẫn còn hạn chế ở các nước đang
phát triển. Bài luận văn này khảo sát 251 công ty phi tài chính thuộc 9 ngành nghề khác
nhau được niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn từ 2012 –2016 để tìm thấy sự ảnh hưởng
giữa sự đa dạng về giới tính trong hội đồng quản trị, quyền sở hữu của nhà quản lý đến
viêc chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp.
Kết quả cho thấy sự đa dạng về giới tính trong HĐQT và sở hữu của người quản lý có
ảnh hưởng đáng kể đến việc chấp nhận rủi ro của công ty. Tuy tỉ lệ 2 biến trên vẫn còn
thấp ở Việt Nam, trung bình chỉ có 14% HĐQT là nữ giới tham gia và 28% nhà quản lý
trong HĐQT là cổ đông lớn của công ty, nhưng 2 biến đó có xu hướng ảnh hưởng ngược
hướng đến các quyết định chấp nhận rủi ro của công ty. Nghiên cứu khuyến nghị tăng
sự đa dạng giới và quyền sở hữu của người quản lý để làm giảm hành vi chấp nhận rủi
ro quá mức của doanh nghiệp.

TỪ KHÓA: HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ, ĐA DẠNG GIỚI TÍNH, QUYỀN SỞ HỮU CỦA

NHÀ QUẢN LÝ, CHẤP NHẬN RỦI RO.


ABSTRACT
The study examined the influence of gender diversity among company boards of
directors and managerial ownership on corporate risk-taking of Vietnamese companies.
Corporate risk-taking is emphasized in research in developed countries, but the
examination of this problem is still limited in developing countries. This sample was 251
non-financial companies in 9 different industries listed on Ho Chi Minh City Stock
Exchange (HOSE) and Hanoi Stock Exchange (HNX) in the period from 2012 - 2016
selected using the purposive sampling method. Data was examined using multiple
regression methods.
The results showed that the gender diversity in the Board of Directors and the ownership
of managers have a significant affect corporate risk-taking decisions. Although the rate
of these two variables is still low in Vietnam, only 14% of the Boards have women
participating on average and 28% of managers are major shareholders of the company,
but they do tend to affect corporate risk-taking decisions. The study recommends
increased gender diversity and managerial ownership to reduce corporate risk-taking
behavior for real sustainable business.

Keywords: Board of directors, corporate risk-taking, gender diversity, managerial
ownership


1

CHƯƠNG 1:

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI


1.1. Lý do chọn đề tài
Chấp nhận rủi ro doanh nghiệp là một biện pháp để cải thiện lợi nhuận của một công ty,
hiệu suất sẽ lần lượt tăng và từ đó có lợi cho cổ đông. HĐQT có vai trò quan trọng trong
các quyết định của công ty, bao gồm cả rủi ro doanh nghiệp. Việc chấp nhận rủi ro có
tác động cùng chiều về sự tăng trưởng dài hạn của công ty (Faccio, Marchica, & Mura,
2011).
Ngày nay, các cổ đông có xu hướng bắt đầu yêu cầu hội đồng quản trị đảm nhận vai trò
và trách nhiệm ngày càng lớn hơn để hoàn thành mục tiêu của họ bằng cách thông qua
đa dạng hóa trong công ty. Sự đa dạng của các thành viên trong hội đồng có thể được đo
lường qua các biến sau: tuổi, dân tộc, giới tính, kinh nghiệm, trình độ học vấn và địa vị
xã hội (Jackson & Alvarez, 1992; Sessa & Jackson, 1995). Gần đây, sự đa dạng về giới
tính ở các cấp quản lý cao hơn đã được quan tâm nhiều hơn vì các bằng chứng thực
nghiêm cho thấy nó giúp việc ra quyết định hiệu quả hơn.
Nghiên cứu này xem xét vai trò của phụ nữ ở các cấp quản lý cao trong công ty vì số
lượng phụ nữ trong HĐQT đã tăng lên hàng năm gần đây. Sự hiện diện của các bóng
hồng trong hội đồng quản trị, ban điều hành doanh nghiệp được nhiều quốc gia trên thế
giới đặt thành mục tiêu hướng tới, thậm chí được “luật hóa”. Theo báo cáo của hãng
kiểm toán Deloitte, Na Uy là quốc gia đầu tiên trên thế giới đưa ra “hạn ngạch” về sự đa
dạng giới tính trong hội đồng quản trị và ban điều hành doanh nghiệp từ năm 2013.
Cách tiếp cận này đã được nhiều nước Tây Âu khác học tập. Hiện Na Uy cũng là nước
có tỷ lệ nữ giới trong hội đồng quản trị cao nhất thế giới, chiếm tới 42% và 7% số ghế
chủ tịch của các công ty đang thuộc về lãnh đạo nữ.


2

Trong khi đó, Vương quốc Anh khởi xướng mục tiêu Chính phủ do Lord Davies dẫn
đầu, kêu gọi 33% đại diện hội đồng quản trị là nữ giới trên sàn chứng khoán niêm yết
FTSE (Financial Times Stock Exchange) vào năm 2020.
Tại khu vực châu Á, vấn đề thúc đẩy đa dạng giới trong ban lãnh đạo các doanh nghiệp

niêm yết cũng ngày càng được chú trọng hơn. Ví dụ tại Hong Kong, doanh nghiệp niêm
yết bắt buộc phải công bố thông tin về chính sách đa dạng giới tính trong ban lãnh đạo
và phải giải trình nếu doanh nghiệp không tuân thủ. Quy định đa dạng giới tính trong hội
đồng quản trị doanh nghiệp bắt đầu được thực hiện từ tháng 9/2013, sau khi sửa đổi của
Bộ luật Quản trị doanh nghiệp Hong Kong.
Tại Malaysia, nội các nước này đã thông qua một chính sách vào năm 2011, bắt buộc nữ
giới phải chiếm ít nhất 30% các vị trí quản lý hoặc trong hội đồng quản trị của các doanh
nghiệp.
Tại Singapore, Bộ luật Quản trị doanh nghiệp 2012 yêu cầu doanh nghiệp phải xem xét
sự đa dạng như một phần của quá trình đề cử hội đồng quản trị. Hiện bộ luật này đang
trong quá trình sửa đổi và làm thế nào để cải thiện sự đa dạng về giới trong hội đồng
quản trị là một trong những mục tiêu quan trọng của lần sửa đổi này.
Ngoài khía cạnh giới, Laeven và Levine (2009) đã báo cáo rằng trong quá trình quản trị
công ty, chấp nhận rủi ro của công ty cũng bị ảnh hưởng bởi cấu trúc sở hữu. Các nghiên
cứu trước đây được tìm thấy cấu trúc sở hữu ảnh hưởng đến hoạt động của công ty, điều
này sẽ ảnh hưởng đến các mục tiêu tối đa dạng hóa giá trị của nó (Tam & Sze-Tan, 2007;
Wahyudi & Pawestri, 2006). Jensen và Meckling (1976) cho rằng một cách để khắc phục
vấn đề chi phí đại diện là bằng cách cải thiện cấu trúc quản lý sở hữu để thực thể có thể
giảm xung đột lợi ích giữa người quản lý và cổ đông. Wright, Ferris và Awasthi (1996)
nhận thấy rằng có một mối quan hệ cùng chiều giữa quyền sở hữu của người quản lý và
chấp nhận rủi ro của công ty nếu cổ phần thấp ( ngược lại quyền sở hữu sẽ ngược chiều
với chấp nhận rủi ro nếu HĐQT nắm giữ cổ phần cao).


3

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về vai trò của đa dạng giới tính và quyền sở hữu
của người quản lý đối với rủi ro doanh nghiệp ở các nước phát triển, nhưng không nhiều
nghiên cứu tập trung vào các nước đang phát triển như Việt Nam. Nghiên cứu này xem
xét sự đa dạng giới tính và quyền sở hữu của người quản lý có thể làm giảm các vấn đề

của xung đột để điều chỉnh lợi ích của cổ đông và quản lý. Giả định rằng các nhà quản
lý kiêm chủ sở hữu sẽ có xu hướng nỗ lực nhiều hơn vì lợi ích của công ty.
Để chứng minh tầm quan trọng của 2 mối quan hệ này đến các hoạt động doanh nghiệp
Việt Nam, tác giả đã đưa ra 2 lý do sau đây. Thứ nhất các công ty Việt Nam là ví dụ điển
hình cho sự thống trị của nam giới trong HĐQT. Kết quả tính toán từ dữ liệu thu thập
của tác giả thấy tỷ lệ trung bình của thành viên nữ trong HĐQT chỉ là 14,252%, và chỉ
có 2 trong số 1255 quan sát là 100% HĐQT là thành viên nữ .
Thứ hai, ở Việt Nam tỷ lệ quyền sở hữu của nhà quả ảnh hưởng đến hoạt động chấp nhận
rủi ro của các doanh nghiệp vẫn còn lớn. Cơ cấu cổ đông là vừa là thành viên hội đồng
quản trị vừa là cổ đông lớn của công ty ở Việt Nam còn nhiều (28% mẫu quan sát của
bài luận văn là thành viên HĐQT cũng là cổ đông lớn ở công ty).
Vì thế, câu hỏi được đặt ra là: Có nữ giới trong HĐQT, cũng như thành viên HĐQT là
cổ đông lớn có ảnh hưởng đến việc chấp nhận rủi ro của công ty?
Để trả lời cho những câu hỏi này, tác giả đã thực hiện bài nghiên cứu “ Đa dạng giới
tính, quyền sở hữu cổ phần của nhà quản lý ảnh hưởng như thế nào đến chấp nhận
rủi ro của doanh nghiệp tại Việt Nam ” nhằm xem xét mối liên hệ giữa yếu tố đa dạng
giới tính trong HĐQT và quyền sở hữu của nhà quản lý ảnh hưởng đến việc chấp nhận
rủi ro của doanh nghiệp như thế nào?


4

1.2. Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu
Thông qua kết quả thực nghiệm của bài luận văn, tác giả mong rằng sẽ giúp ích cho các
doanh nghiệp xem xét được những nhân tố nào là ưu điểm hay khuyết điểm trong việc
hành vi chấp nhận rủi ro của công ty.
Từ mục tiêu trên, trong bài nghiên cứu tác giả tập trung giải quyết hai câu hỏi chính:
-

Đa dạng giới tính, tăng thành viên nữ trong HĐQT có làm giảm việc chấp nhận

rủi ro hay không?

-

Quyền sở hữu của nhà quản lý có làm tăng việc chấp nhận rủi ro của công ty hay
không?
1.3. Đối tượng phạm vi và phương pháp nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Bài nghiên cứu này kiểm tra các yếu tố tác động đến mức độ chấp
nhận rủi rỏ của doanh nghiệp. Các yếu tố này bao gồm: tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT,
tỷ lệ số cổ phần được thành viên HĐQT nắm giữ, ROA, quy mô công ty, số năm thành
lập của công ty, đòn bẩy nợ, tốc độ phát triển doanh thu của công ty.
Phạm vi nghiên cứu: Mẫu quan sát bao gồm 251 công ty phi tài chính niêm yết trên sàn
HOSE và HNX trong giai đoạn từ 2012-2016.
Phương pháp nghiên cứu:
-

Thống kê mô tả các biến cho toàn bộ dữ liệu

-

Phương pháp ước lượng FEM
1.4. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về vai trò của đa dạng giới và quyền sở hữu của
người quản lý đối với rủi ro doanh nghiệp ở các nước phát triển, nhưng không nhiều
nghiên cứu tập trung vào các nước đang phát triển như Việt Nam. Đóng góp quan trọng
nhất của tác giả tập trung vào 2 nội dung chính:



5

Thứ nhất, trong khi các nghiên cứu thực nghiệm trước đây ở các nước châu á như Trung
Quốc, Indonesia ( những đất nước có nền văn hóa giống Việt Nam) nhận thấy rằng tầm
quan trọng của đa dạng giới tính trong HĐQT là một lợi thế giúp DN cải thiện hoạt động
quản trị rủi ro (Gul và cộng sự, 2011), và các nghiên cứu khác cũng tìm bằng chứng thấy
rằng phụ nữ có cảm xúc và tình cảm mạnh mẽ hơn đàn ông (Harshman & Paivio, 1987);
Do đó, họ có xu hướng lo lắng và sợ hãi hơn khi phải đối mặt với kết quả ngược chiều
(Brody 1993; Frank Fujita, Ed Diener, & Ed Sandvik, 1991), vì vậy, họ sẽ có xu hướng
không thích rủi ro hơn khi đối mặt với một tình huống rủi ro.
Ngoài khía cạnh giới tính, Laeven và Levine (2009) đã phát hiện rằng trong quản lý
doanh nghiệp, rủi ro của công ty cũng bị ảnh hưởng bởi cấu trúc sở hữu. Các nghiên cứu
trước đây được tìm thấy cấu trúc sở hữu ảnh hưởng đến hoạt động của công ty, điều này
sẽ ảnh hưởng đến các mục tiêu tối đa hóa giá trị của nó (Tam & Sze-Tan, 2007; Wahyudi
& Pawestri, 2006). Jensen và Meckling (1976) cho rằng một phương pháp để khắc phục
vấn đề chi phí đại diện là bằng cách cải thiện cấu trúc quản lý sở hữu để có thể giảm
xung đột lợi ích giữa người quản lý và cổ đông. Wright, Ferris và Awasthi (1996) nhận
thấy rằng có một mối quan hệ ngược chiều giữa quyền sở hữu của người quản lý và chấp
nhận rủi ro của công ty nếu thành viên HĐQT cũng là cổ đông lớn của công ty( nếu tỷ
lệ nắm giữ cổ phần của hội đồng quản trị trên 7.5%).


6

1.5. Bố cục của đề tài
Phần 1: Giới thiệu khái quát: Trình bày lý do nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phương
pháp nghiên cứu, ý nghĩa của bài nghiên cứu, cấu trúc bài nghiên cứu.
Phần 2: Tổng quan cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu gần đây: Tác giả cung cấp tổng
quan các lý thuyết và những nghiên cứu có liên quan trước đây.
Phần 3: Dữ liệu và mô hình nghiên cứu: Mô tả tên, ý nghĩa của biến và phương pháp tiến

hành nghiên cứu một cách chi tiết nhất.
Phần 4: Kết quả nghiên cứu: Thống kê mô tả cho từng biến trong mô hình và các kết quả
hồi quy trên toàn bộ công ty.
Phần 5: Kết luận: Tổng kết lại các vấn đề nghiên cứu, hạn chế đề tài và hướng nghiên
cứu tiếp theo.


7

CHƯƠNG 2:

LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

2.1. Khung lý thuyết
2.1.1. Khung lý thuyết về chi phí đại diện
Lý thuyết chi phí đại diện ra đời vào những năm 1970 khi các nhà kinh tế học nghiên
cứu việc phân chia rủi ro giữa người ủy quyền và người đại diện. Do họ có mục tiêu và
sự phân công lao động khác nhau, người ủy quyền (chủ sở hữu) giao phó công việc cho
người đại diện thông qua hợp đồng, những vấn đề mà lý thuyết chi phí đại diện nghiên
cứu chỉ xuất hiện trong chừng mực mà lợi ích của người ủy quyền và người đại diện có
sự khác nhau, nhất là giữa họ có thông tin không hoàn hảo (không có toàn bộ thông tin
xác đáng) về trạng thái và hành vi của các tác nhân, thông tin không đối xứng giữa các
tác nhân (thường thì người đại diện biết nhiều hơn người ủy quyền về công việc mình
phải làm). Sự tồn tại của thông tin không hoàn hảo và thông tin không đối xứng dẫn tới
hành vi cơ hội. Ngoài ra, các công ty lớn thường có rất nhiều cổ đông, do vậy không thể
thoả mãn việc tất cả các cổ đông cùng điều hành một công ty, cần có những nhà quản lý
ưu tú để đại diện cho toàn bộ công ty. Vì vậy vai trò nhân khẩu học trong HĐQT rất
quan trọng trong hoạt động quản trị công ty.
Theo Fama & Jensen (1983) cho rằng sự quản lý và kiểm soát hiệu quả của HĐQT là
nhân tố chính giúp giảm thiểu những xung đột. Ngoài ra, Hampel (1998) tìm thấy bằng

chứng thực nghiệm gia tăng thành viên nữ trong HĐQT sẽ khiến việc ra quyết định của
HĐQT không bị chi phối bởi các một thành viên riêng lẻ nào, trở nên công bằng và sáng
suốt hơn khi ra quyết định, từ đó giảm chi phí đại diện, giảm rủi ro và tăng hiệu quả cho
công ty.
Lý thuyết đại diện (Eisenhardt, 1998) giải thích hành vi tổ chức bằng cách nhấn mạnh
mối quan hệ giữa người quản lý và người làm công, các cổ đông và ông chủ". Theo lý
thuyết này, một cá nhân sẽ hành động dựa trên sở thích của mình, vì vậy những xung đột
lợi ích là không thể tránh khỏi (Nordberg, 2011). Eisenhardt (1989) cho biết rằng có ba
giả định hành vi tự nhiên của con người; tư lợi, lý trí bị ràng buộc, và mức ngại rủi roi.


8

Quản trị doanh nghiệp (CG) là một cơ chế giám sát và hệ thống quản lý của một công ty
(Diễn đàn quản trị doanh nghiệp Indonesia [FCGI], 2002). Các cơ chế quản trị doanh
nghiệp có thể được chia thành hai thể loại là quản trị nội bộ và bên ngoài. HĐQT là một
thành phần quan trọng của quản trị nội bộ vì vai trò của nó trong việc xác định tầm nhìn
và chiến lược của công ty. Jensen (1993) đã mô tả vai trò quan trọng của HĐQT bằng
cách đưa ra các đề xuất, giám sát quản lý, thực hiện tuyển dụng và xác định mức thù lao
của các nhà quản lý cấp cao.
Bên cạnh vai trò của hội đồng quản trị, thành phần quan trọng khác là cơ cấu sở hữu, cụ
thể là quyền sở hữu của người quản lý, được nghiên cứu trong nghiên cứu này, có thể
làm giảm xung đột lợi ích giữa quản lý và cổ đông (Carter, Souza, Simkins, & Simpson,
2007; Crutchly & Hansen, 1989; Iturriaga & Sanz, 2001; Leland & Pyle, 1977). Jensen
và Meckling (1976) khẳng định rằng để giảm xung đột giữa quản lý và cổ đông, có thể
xem xét tăng quyền sở hữu quản lý của công ty.
2.1.2. Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực
Lý thuyết này thường được sử dụng để giải thích sự đa dạng giới tính. Theo Hillman,
Canella và Paetzold (2000), HĐQT có vai trò quan trọng trong việc kết nối công ty với
các nguồn bên ngoài khác thông qua các kênh truyền thông và đề xuất, tư vấn và quyết

định. Hillman và cộng sự (2000) báo cáo sự đa dạng về giới tính trong HĐQT sẽ mang
lại lợi ích cho công ty bằng cách đảm bảo các nguồn lực thiết yếu cho nó. Một HĐQT
đa dạng sẽ dẫn đến các nguồn lực đáng kể và nhiều thông tin tiềm năng cho phép ra
quyết định tốt hơn, bao gồm cả rủi ro tài chính tiềm ẩn khi quyết định.
Bằng chứng thực nghiệm từ Hillman và cộng sự (2000) đã chỉ ra một số yếu tố ảnh
hưởng đến đại diện của thành viên hội đồng quản trị là nữ: bao gồm chiến lược, quy mô
tổ chức, hiệu ứng mạng và loại hình doanh nghiệp.
Sự đa dạng về giới tính được hỗ trợ bởi các nghiên cứu trước đó (Joshi & Roh, 2009;
Miller & Triana, 2009). Cụ thể hơn, tác giả thấy rằng một nhóm đồng nhất về giới tính


9

có thể ngăn cản sự đổi mới (Miller & Triana, 2009), trong khi một nhóm không đồng
nhất cung cấp cho tổ chức một phạm vi về kiến thức và hiểu biết rộng hơn, dễ đổi mới
hơn và tốt hơn về chất lượng ra quyết định (Hoffman, 1959; Joshi & Roh, 2009). Điều
này bao gồm việc ra quyết định trong việc xác định cấp độ rủi ro doanh nghiệp.
Ngược lại, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng một nhóm không đồng nhất về giới tính
cũng có thể gây ra xung đột, làm giảm hiệu quả trong giao tiếp và gây khó khăn trong
việc ra quyết định (Carpenter, 2002; Smith và cộng sự, 2006). Tuy nhiên, HĐQT đa dạng
về giới tính thường đánh giá khách quan và cẩn thận hơn trước khi đưa ra quyết định
(Coffey & Wang, 1998), kết quả tốt hơn và nâng cao hiệu suất công ty.
2.1.3. Chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp
Định nghĩa chấp nhận rủi ro:
Đơn giản Rủi ro là những sự kiện có thể khiến doanh nghiệp không đạt được mục tiêu.
Và vì thế, để đạt được mục tiêu, thực thi được chiến lược, công ty phải quản trị được rủi
ro. Rủi ro luôn đi song hành với cơ hội, quản trị được rủi ro là nắm bắt được cơ hội (take
opportunities). Chứ không phải rủi ro là "Xấu". Vấn đề đặt ra là chấp nhận rủi ro đến
đâu, và chiến lược thực thi của công ty như thế nào. Một khái niệm quan trọng là "Khẩu
vị chấp nhận rủi ro".

Dựa trên lý thuyết người đại diện và lý thuyết phụ thuộc vào nguồn lực, chấp nhận rủi
ro doanh nghiệp có thể được giảm bởi đa dạng giới tính của thành viên HĐQT và giảm
nhẹ bởi cơ cấu sở hữu quản lý.
Chấp nhận rủi ro được định nghĩa là độ lệch của kết quả mong đợi và giá trị thu được
(Jogiyanto, 2003). Hành vi chấp nhận rủi ro được quản lý tốt có thể là nguồn tăng trưởng,
đổi mới và phát triển cho một công ty. Tuy nhiên, việc chấp nhận rủi ro quá mức có thể
đe dọa đến một công ty đang gặp khó khăn, điều này có thể dẫn đến việc công ty phá
sản.


10

Liên quan đến việc chấp nhận rủi ro, các nhà quản lý có thể lựa chọn khẩu vị rủi của
mình, ví dụ như không thích rủi ro, trung lập rủi ro hoặc ưa chuộng rủi ro. Tsai và Luan
(2016) đã tìm thấy một số yếu tố làm tăng hành vi chấp nhận rủi ro của công ty : tỷ lệ sở
hữu cao, hiệu suất trong quá khứ tốt,kinh nghiệm đầu tư và tiếp cận các nguồn lực cần
thiết và mối quan hệ giữa chính phủ và ngân hàng.
2.1.4. Đa dạng giới tính
Croson và Gneezy (2009) đã tìm thấy các biểu hiện sau đây về đa dạng giới tính và mạo
hiểm hành vi:
Cảm xúc: Phụ nữ có cảm xúc tình cảm mạnh mẽ hơn đàn ông (Harshman & Paivio,
1987); do đó, họ có xu hướng lo lắng và sợ hãi hơn khi phải đối mặt với kết quả ngược
chiều (Brody 1993; Frank Fujita, Ed Diener, & Ed Sandvik, 1991). Vì vậy, bản năng tự
nhiên họ sẽ không thích rủi ro hơn khi đối mặt với một tình huống rủi ro.
Quá tự tin: cả nam và nữ đều có xu hướng tự tin thái quá, nhưng nam giới sẽ tự tin hơn
và thành công khi đối mặt với những tình huống không chắc chắn so với phụ nữ (Deaux
& Farris 1977; Lichtenstein, Fischhoff, & Phillips, 1982; Lundeberg, Fox, & Punccohar,
1994).
Chấp nhận rủi ro là một thách thức hoặc một mối đe dọa: đàn ông có xu hướng xem các
tình huống rủi ro là một thách thức hấp dẫn, trong khi phụ nữ xác định một tình huống

rủi ro là một mối đe dọa mà họ sẽ cố gắng tránh né hoặc phòng thủ.
2.1.5. Quyền sở hữu của người quản lý
Theo Christiawan và Targian (2007), quyền sở hữu của người quản lý là một cấu trúc
mà nhà quản lý cũng là cổ đông lớn trong công ty. Davies, Hillier và McColgan (2005)
định nghĩa quyền sở hữu của người quản lý là tất cả các thành viên trong HĐQT đều là
cổ đông lớn trong công ty. Theo Jensen và Meckling (1976), chi phí đại diện sẽ giảm


11

khi quyền sở hữu của người quản lý tăng do sự liên kết giữa người chủ và người làm
công.
Morck, Shleifer và Vishny (1988) giải thích rằng quyền sở hữu của người quản lý giúp
gắn kết lợi ích của người làm chủ và người được thuê (hiệu ứng liên kết khuyến khích)
bởi vì xu hướng các nhà quản lý hành động vì lợi ích cá nhân của họ sẽ bị giảm.
2.2. Phát triển nghiên cứu:
“Board of Directors’ Gender, Managerial Ownership and Corporate Risk-taking:
Evidence from Indonesia” của nhóm tác giả Lana Meutia Firdaus and Desi Adhariani
(2017). Bài nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của sự đa dạng giới tính của các thành viên
trong HĐQT công ty và quyền sở hữu quản lý về chấp nhận rủi ro của công ty. Mẫu quan
sát bao gồm 464 công ty sản xuất trên sàn chứng khoán Indonesia từ năm 2010 đến năm
2013. Dữ liệu được kiểm tra bằng phương pháp hồi quy Fixed Effect. Kết quả cho thấy
sự đa dạng về giới tính của các thành viên trong HĐQT và quyền sở hữu của nhà quản
lý không có ảnh hưởng đáng kể đến việc chấp nhận rủi ro của công ty. Điều này có thể
là do tỷ lệ tương đối thấp của cả hai biến ở Indonesia, nữ giới chỉ chiếm trung bình 10%
trong HĐQT và trung bình chỉ có 2% nhà quản lý là cổ đông lớn của công ty. Vì thế, các
biến này không có xu hướng ảnh hưởng đến việc quyết định chấp nhận rủi ro của công
ty. Nghiên cứu khuyến nghị tăng sự đa dạng giới tính và quyền quản lý trong quá trình
chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp đối với kinh doanh bền vững.
“Gender diversity, state control, and corporate risk-taking: Evidence from China” của

nhóm tác giả Karren Lee-Hwei Khawa, Jing Liaob, David Tripe, Udomsak Wongchoti
(năm 2016). Bài nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ về đa
dạng giới tính, quyền sở hữu nhà nước ảnh hưởng đến việc chấp nhận rủi ro doanh nghiệp
ở Trung Quốc. Mặc dù chấp nhận rủi ro doanh nghiệp được nghiên cứu kỹ ở các thị
trường phát triển, việc kiểm tra vấn đề này còn thiếu thị trường mới nổi.


12

Mẫu quan sát bao gồm các công ty phi tài chính được niêm yết trên các sàn giao dịch
chứng khoán Thượng Hải hoặc Thâm Quyến trong giai đoạn từ 1999 đến 2010, mẫu
được lấy từ 1361 công ty tương ứng với 8904 mẫu quán sát của công ty, Dữ liệu được
thu thập từ cơ sở dữ liệu tài chính của thị trường chứng khoán Trung Quốc CSMAR. Dữ
liệu được kiểm tra bằng phương pháp hồi quy Fixed Effect, và chữa nội sinh bằng
phương pháp Hausman-Taylor.
Kết quả bài nghiên cứu cho HĐQT có nhiều thành viên là nam giới (đa dạng giới tính
thấp hơn) làm tăng hành vi chấp nhận rủi ro của công ty ở Trung Quốc. Bằng chứng này
bổ sung cho phát hiện thực nghiệm của Faccio và cộng sự (2016) cho rằng chấp nhận rủi
ro doanh nghiệp thấp hơn trong các công ty châu Âu do nữ lãnh đạo, bài nghiên cứu cho
thấy rằng việc chấp nhận rủi ro thấp hơn do sự đa dạng giới tính trong HĐQT có thể có
lợi cho các nhà đầu tư thị trường như Trung Quốc. Mặc dù người ta hy vọng rằng việc
chấp nhận rủi ro có thể mang lại lợi ích cho sự tăng trưởng dài hạn của các công ty
(Faccio và cộng sự, 2011), kết quả cho thấy việc tăng rủi ro của công ty thực sự dẫn đến
hiệu quả tồi tệ hơn ở Trung Quốc. Bằng chứng này ủng hộ đề xuất giảm việc chấp nhận
rủi ro ở các quốc gia nơi sự bảo vệ nhà đầu tư còn thấp (John và cộng sự, 2008).
Mối quan hệ cùng chiều giữa chấp nhận rủi ro của công ty và sự thống trị của nam giới
trong HĐQT trở nên nổi bật hơn sau khi Chính phủ giảm quyền kiểm soát sở hữu sau cải
cách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (NTS) từ năm 2005. Việc giảm chấp nhận rủi
ro của công ty thông qua sở hữu nhà nước có xu hướng suy yếu sau cải cách NTS.
Nói chung, những phát hiện của bài nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc

đẩy các thành viên nữ trong HĐQT của Trung Quốc. Điều này rất quan trọng đối với các
tập đoàn Trung Quốc và tư nhân hóa bền vững của họ nếu họ muốn hoạt động trong môi
trường thị trường tự do.
Các nghiên cứu trước đó đã điều tra sự liên kết giữa đa dạng giới, quyền sở hữu quản lý
và rủi ro doanh nghiệp được hiển thị trong bảng sau.


13

STT

TÁC GIẢ

TÊN ĐỀ TÀI

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1

Adhariani,

Financial management and

Các công ty có thành viên HĐQT

Sciulli and

corporate governance from

là nữ có xu hướng để duy trì mối


Clift (2017)

the feminist ethics of care

quan hệ tốt hơn với các phòng ban

perspective

và kết quả là hoạt động tài chính
ổn định, bớt chấp nhận rủi ro hơn.

2

Faccio,March CEO Gender, Corporate Risk- Đa dạng giới tính của các CEO
ica and Mura Taking, and the Efficiency of ảnh hưởng đáng kể đến chấp nhận
(2016)

Capital Allocation

rủi ro doanh nghiệp. Các công ty
do nữ lãnh đạo có xu hướng lựa
chọn chiến lược tài chính và đầu
tư với mức rủi ro thấp hơn so với
các CEO nam. Biến động ROA
của các công ty do nữ CEO lãnh
đạo thấp hơn của các công ty được
dẫn dắt bởi các CEO nam.

3


Murni (2015)

The influence of managerial

• Quyền sở hữu của nhà quản lý có

ownership, insti tutional

một phần đáng kể ảnh hưởng đến

ownership and voluntary

hiệu quả tài chính của các công ty

disclosure on f inancial

niêm yết trên thị trường chứng

performance and

khoán Indonesia

itsimplication on corporate

• Quyền sở nhà của người quản lý

value

có ảnh hưởng đáng kể đến giá trị

doanh nghiệp


14

4

Christiawan

Managerial ownership, debt

and

Tarigan policies, performance and
(2007)
firm value

• Nhà quản lý cũng là cổ đông lớn
có xu hướng cẩn thận hơn trong
chính sách nợ.
• Thành quả của các công ty có
quyền sở hữu của nhà quản lý tốt
hơn những công ty không có.

5

Wright, Ferris Impact of corporate insider,

Ban quản lý trong công ty có thể


and Awasthi

blockholder, and institutional

ảnh hưởng đến chấp nhận rủi ro

(1996)

equity ownership on firm

doanh nghiệp.
risktaking

Khi sở hữu của ban quản lý trong
công ty là thấp, nó có thể có tác
động cùng chiều đến việc chấp
nhận rủi ro. Tuy nhiên, ban quản
lý tăng quyền sở hữu, chấp nhận
rủi ro của công ty thấp hơn.

Dựa trên các nghiên cứu thực hiện ở trên, có thể kết luận rằng ảnh hưởng của sự đa dạng
giới tính đối với HĐQT là đa dạng. Quyền sở hữu của nhà quản lý có tác động đến giá
trị và hiệu suất của công ty, nó cũng liên quan trực tiếp đến việc chấp nhận rủi ro của
công ty. Sự không nhất quán về các nghiên cứu trước đây tạo ra những khoảng trống
nghiên cứu thúc đẩy nghiên cứu này. Thực tế chỉ có trung bình 14% trong HĐQT tại
Việt Nam là phụ nữ (dữ liệu nghiên cứu của tác giả), điều đó chỉ ra rằng ít có phụ nữ để
đạt được vị trí cao trong một công ty ở Việt Nam so với nam giới. Điều này có nghĩa rất



×