Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tiết 15: Vua Lý Công Uẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.05 KB, 3 trang )

Tiết 15 sử 7:
LÝ CÔNG UẨN (LÝ THÁI TỔ)
Tiểu sử
Lý Công Uẩn là người ở làng Cổ Pháp, nay là làng (cũng là xã) Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Mẹ
là Phạm Thị. Khi lên ba tuổi, mẹ ông đem ông cho sư Lý Khánh Văn, trụ trì chùa Cổ Pháp làm con nuôi và
được đặt tên là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn đi tu từ đó. Lớn lên, với sự bảo hộ của sư Lý Vạn Hạnh (anh trai
sư Lý Khánh Vân), ông vào kinh đô Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê, thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ
huy sứ. Các sử viết về nguồn gốc của vua như sau:
• Đại Việt Sử Ký Toàn Thư , bản ký, quyển II, trang 240 chép: "Thái tổ hoàng đế, họ Lý, tên húy là Công
Uẩn, người châu Cổ Pháp Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao
hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 thời
Đinh. Lớn lên làm quan nhà Lê, thăng đến chức Điện tiền chỉ huy sứ. Khi Ngọa Triều băng, tự lập làm
vua... là người khoan thứ nhân từ, tinh tế hòa nhã có lượng đế vương. Song chưa làm sáng chính học,
lại ưa thích dị đoan, bị lụy vì chuyện đó."
• Đại Việt Sử Ký Tiền Biên , bản kỷ, quyển II, trang 192 chép: "Theo bài Tiêu Sơn tự ký thì Thái hậu
cảm thụ tinh con khỉ bạch mà sinh ra vua ở chùa này, sư Vạn Hạnh đưa về nuôi. Theo ngoại truyện thì:
mẹ vua năm 20 tuổi, do nghèo túng lam lũ không có chồng, nương tựa vào vị sa môn già ở chùa Ứng
Thiên cho làm việc nấu bếp, đêm đêm dậy đồ xôi. Một hôm bà ngủ quên, lửa tắt, sa môn vô tình chạm
phải, giật mình tỉnh dậy thấy lòng xáo trộn rồi có thai, bị sa môn đuổi đi, bà vào chùa khác, đủ tháng thì
sinh ra vua... Vua lúc bé thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường, khi 7 tuổi Khánh Văn gởi nhờ sư
Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ dạy cho học".
Sự nghiệp
Lên ngôi
Tượng Lý Công Uẩn ở trung tâm thành phố Bắc Ninh
Năm 1009, sau khi vua Lê Long Đĩnh mất, ông 35 tuổi. Lực lượng của Đào Cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh
đã tôn ông lên làm vua. Các sử gia trong Đại Việt sử ký toàn thư chép Lê Long Đĩnh mất ở trong cung, riêng
Đại Việt Sử Ký Tiền Biên trang 185 khẳng định Lý Công Uẩn giết Lê Long Đĩnh và truy đặt thuỵ hiệu xấu
(Ngoạ Triều) để đoạt ngôi
"Lý Thái Tổ rất căm phẫn trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh Vương, nhân
lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó, nên
sử không được chép."


Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép thái độ của Lý Công Uẩn sau khi nghe Vạn Hạnh khuyên giành lấy ngai
vàng: "Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh em đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Song từ đấy cũng
lấy thế tự phụ, mới nảy lòng ngấp nghé ngôi vua".
Nhận xét về việc lên ngôi của Lý Thái Tổ, Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên nói: "Lý Thái Tổ dấy
lên, trời mở điềm lành hiện ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về, lại vừa sau lúc
Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời thường tìm chủ cho dân, dân theo
về người có đức, nếu bỏ vua thì còn biết theo ai"!
Còn Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên Quyển thứ I thì nêu ra lời phê về sấm truyền họ
Lý sẽ làm vua: "Bờ cõi Bắc Nam tuy có khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê thì có chuyện khoác áo
long cổn, nhà Lý thì lời sấm truyền ghi trên thân cây, sao mà giống chuyện với bên Tống thế! Hay là người làm
sử thấy thế, gò ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời kia có ý làm ra như thế đâu? " Tuy
vậy, Chính biên quyển thứ 2 thừa nhận: "Nhà Lý được nước, cũng không phải chính nghĩa cho lắm, nhưng
đương buổi Lê Ngoạ Triều, lòng người lìa tan, sinh dân vô củ, không về với Công Uẩn còn biết theo ai?"
Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên (nghĩa là "theo ý trời"). Ông phong cha là Hiển
Khánh Vương, mẹ là Minh Đức Thái Hậu, chú là Vũ Đạo Vương, anh ruột là Vũ Uy Vương, em ruột là Dực
Thánh Vương. Khi mất, ông được an táng tại Thọ Lăng và được đặt miếu hiệu là Lý Thái Tổ.
Dời đô về Thăng Long
Vua Thái Tổ thấy đất Hoa Lư, kinh đô cũ của nhà Đinh chật hẹp không có thể mở mang ra làm chỗ đô hội
được, bèn định dời đô về thành Đại La (hay La Thành), ngày nay là Hà Nội. Tháng 7, Thuận Thiên nguyên
niên (1010) thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La Thành, Thái Tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên trời
nên đổi tên Đại La thành sang Thăng Long thành, và cải Hoa Lư làm Trường An phủ và Cổ Pháp làm Thiên
Đức phủ.
Quyết định rời bỏ hẳn một kinh đô từ vùng núi non hiểm trở ra vùng đồng bằng trung tâm thể hiện bản lĩnh và
tầm nhìn sáng suốt của một vị vua khai sáng ra một triều đại hưng thịnh trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Chính trị
Lúc bấy giờ nhà Tống ở Trung Quốc bận nhiều việc nên không sinh sự lôi thôi gì với Việt Nam. Bởi vậy khi
Thái Tổ lên làm vua, sai sứ sang cầu phong, vua nhà Tống liền phong cho làm Giao Chỉ Quận Vương, sau lại
gia phong làm Nam Bình Vương. Nước Chiêm Thành và nước Chân Lạp đều sang triều cống, cho nên việc
bang giao thời bấy giờ được yên trị.
Ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn Châu (thuộc Nghệ An) và ở mạn thượng du hay

có sự phản nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp mới yên được. Thời bấy giờ các hoàng tử đều phong
tước vương và phải cầm quân đi đánh giặc, bởi vậy ai cũng giỏi nghề dùng binh.
Vua Thái Tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi
Hoan Châu và Ái Châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù
sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi
xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Vua cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy.
Vua trị vì được 19 năm thì băng hà, thọ 55 tuổi. Vua được táng ở Thọ Lăng, Thiên Đức phủ, miếu hiệu là Thái
Tổ, thuỵ hiệu là Thần Vũ hoàng đế.
Đánh giá
Các sử gia phong kiến Việt Nam theo quan điểm Nho giáo có chê trách ông ở mặt quá sùng tín vào đạo Phật,
chê trách cơ cấu tổ chức của triều đình ông không phù hợp với quan niệm của họ, ví dụ sử gia Lê Văn Hưu
viết:
"Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà
trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm
tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc
không biết chừng nào mà kể Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần
làm thay, há chẳng phải là vét màu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là
làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa
xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất
trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước,
có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm
sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?"
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
"Lý [Thái Tổ] dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi,
bởi lòng người theo về, lại vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua thì
vốn có tiếng khoan nhân, trời thường tìm chủ cho dân, dân theo về người có đức, nếu
bỏ vua thì còn biết theo ai! Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước,
lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc
thông hiếu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc
đế vương. Duy có việc ham thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém."

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chính biên quyển thứ 2 nhận định:
"Nhà Lý được nước, cũng không phải chính nghĩa cho lắm, nhưng đương buổi Lê
Ngoạ Triều, lòng người lìa tan, sinh dân vô củ, không về với Công Uẩn còn biết theo
ai?"
Nhưng tất cả đều thừa nhận ông là người sáng suốt. Sử gia Lê Văn Hưu viết: "Lý Thái Tổ lo tính lâu dài... nên
noi theo họ Lý". Sử gia Ngô Sĩ Liên viết: "Lý Thái Tổ biết nghĩ xa hơn Lê Đại Hành".

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×