Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

HOẠT ĐỘNG văn hóa của NHẬT bản tại ĐÔNG DƯƠNG TRONG THỜI kỳ CHIẾN TRANH CHÂU á THÁI BÌNH DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.4 KB, 20 trang )

HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA CỦA NHẬT BẢN TẠI
ĐÔNG DƯƠNG TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH
CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
Võ Minh Vũ

mở đầu
Chính sách của Nhật Bản đối với Đông Dương thời kỳ Chiến tranh Châu
Á - Thái Bình Dương được cho rằng có nét khác biệt mang tính quyết định
so với chính sách của Nhật Bản đối với những khu vực khác ở Đông Nam Á.
Đó là từ khi quân đội Nhật tiến quân vào Đông Dương năm 1940 đến ngày 9
tháng 3 năm1945, Nhật Bản vẫn duy trì sự tồn tại của chính quyền Thực dân
Pháp. Với danh nghĩa là cắt đứt con đường viện trợ quân sự của Anh - Mỹ cho
quân đội Tưởng Giới Thạch, Nhật Bản đã tiến quân vào Đông Dương nhưng
vẫn giữ nguyên chính quyền Thực dân Pháp tại Đông Dương và xác lập khuôn
khổ Nhật - Pháp đồng cai trị Đông Dương. Đối với Nhật Bản, việc duy trì
chính quyền Thực dân Pháp ở Đông Dương được cho là phương sách “hợp lý”
để cướp bóc một cách hữu hiệu nguồn tài nguyên cần thiết nhằm theo đuổi
chiến tranh1. Tuy nhiên, chính sách duy trì chính quyền Thực dân Pháp tại
Đông Dương lại có mâu thuẫn với phương châm trong Bản yếu cương quốc sách cơ
bản công bố tháng 7 năm 1940, cụ thể là chủ trương xóa bỏ ách cai trị của chủ
nghĩa thực dân Âu Mỹ ở Trung Quốc, Đông Nam Á và xây dựng Khu vực Thịnh
vượng chung Đại Đông Á của người châu Á.
Để cướp bóc tài nguyên, đương nhiên công tác kinh tế, chính trị thông
qua các hiệp định kinh tế, ngoại giao là rất cần thiết nhưng nếu chỉ như vậy thì
rõ ràng là chưa đủ. Trong việc đảm bảo nguồn cung cấp quân nhu, sự ủng hộ
của cư dân bản địa là không thể thiếu. Vì vậy, công tác văn hóa với mục đích
thu hút sự ủng hộ của cư dân bản địa cũng được xác định là có vị trí hết sức
quan trọng.
1. Furuta Motoo - Shiraishi Masaya, 1976, tr. 1-37.

161




Sau khi chính sách Nam tiến bằng vũ lực trở thành quốc sách và được thực
thi trên thực tế, từ năm 1940 hoạt động văn hóa của Nhật Bản đã hướng tới
các khu vực ở Đông Nam Á với hình thức “xây dựng nền văn hóa Đại Đông Á”.
Hoạt động văn hóa của Nhật Bản thời kỳ chiến tranh được cho rằng có hai
trụ cột chính là giáo dục văn hóa và tuyên truyền văn hóa. Giáo dục văn hóa là
những công việc có mục đích giới thiệu nền văn hóa của bản thân mình, “làm
đồng hóa một phần nhân cách dân tộc đối phương”1. Do đó, để đạt được mục
đích này, cần phổ cập tiếng Nhật cho dân tộc đối phương và tập trung sức lực vào
việc cải cách chế độ xã hội, tập quán, tinh thần, ý thức của dân tộc đối phương.
Tuyên truyền văn hóa là hình thức tuyên truyền mạnh mẽ, là biện pháp có tính
ép buộc và là “chính sách có mục đích kêu gọi sự tôn kính và tính mô phỏng
của các quốc gia khác, khiến cho các dân tộc khác trở thành người tùy tòng trên
thực tế hay người hợp tác với văn hóa nước ta [Nhật Bản - VMV]”2. Để đạt được
mục tiêu này, bằng các hình thức trung gian như phim ảnh, phát thanh, tranh cổ
động, thông qua “việc gợi ý có thể thu hút tình cảm, cảm xúc của đối phương”,
“nền văn hóa đang cố gắng mở rộng của chúng ta sẽ cho thấy sự ưu tú, vĩ đại hơn
văn hóa của dân tộc khác”, làm cho đối phương “tin tưởng rằng đây là nền văn
hóa cao hơn nền văn hóa của bản thân mình và là sự lý tưởng cần đạt đến”3.
Như vậy, với mâu thuẫn giữa triết lý chính sách là duy trì chính quyền
Thực dân Pháp ở Đông Dương với việc xây dựng Khu vực Thịnh vượng chung Đại
Đông Á như đã trình bày ở trên, công tác văn hóa của Nhật ở Đông Dương đã
được thực hiện như thế nào? Bài viết này sẽ dựa trên hai trụ cột chính trong
công tác văn hóa để khảo sát xem Nhật Bản đã thực hiện công tác văn hóa tại
Đông Dương trong thời kỳ Chiến tranh Châu Á - Thái Bình Dương như thế
nào thông qua những ví dụ cụ thể như việc phổ cập tiếng Nhật, giới thiệu văn
hóa Nhật Bản, giao lưu văn hóa, công tác điện ảnh...
1. Công tác phổ cập tiếng Nhật và giới thiệu văn hóa Nhật Bản
Tại Đông Dương, Nhật Bản đã cố gắng truyền bá tiếng Nhật bằng cách

gắn kết tiếng Nhật với nhu cầu cuộc sống và gắn việc học tiếng Nhật với lợi
ích. Nhật Bản đã cổ xúy lợi ích của việc học tiếng Nhật từ mức độ thấp như
“khi binh sĩ Nhật đến mua hàng, nếu không hiểu (tiếng Nhật) thì lính Nhật
sẽ hét to và tức giận”, hay “lính Nhật khi đi mua sắm ở cửa hàng bách hóa, nếu
1. Yonegawa Keizo, 1943, tr.242.
2. Yonegawa Keizo, 1943, tr.242.
3. Yonegawa Keizo, 1943, tr.244-245.

162


không phải là tiếng Nhật thì họ không hiểu, và người bán nếu hiểu tiếng Nhật
thì lương sẽ cao hơn 5 yên”. Như vậy, Nhật Bản đã cố gắng thu hút hứng thú
học tiếng Nhật bằng cách nếu ai học tiếng Nhật thì người đó có thể nhận được
lợi ích gì đó. Kết quả là cuốn hội thoại đơn giản gồm ba thứ tiếng Nhật - Việt Pháp do Cục Du lịch quốc tế Nhật Bản ấn hành đã được các thương nhân Việt
Nam sử dụng1. Theo tạp chí Tiếng Nhật (số tháng 5 năm 1942) do Hội Chấn
hưng Giáo dục Tiếng Nhật phát hành2, binh lính Nhật “vì không hiểu cả tiếng
Pháp lẫn tiếng Việt nên họ đã bắt đầu hào hứng vì cuối cùng người An Nam
đã phải học tiếng Nhật”. Còn theo lời kể của Oya Kusuo thuộc hãng thông tấn
Domei Tsushinsha (Đồng Minh thông tín xã), khi quân Nhật tiến quân vào
Nam Bộ tháng 7 năm 1941, ở Sài Gòn “hoàn toàn không thấy ảnh hưởng của
tiếng Nhật” nhưng sang năm 1942, những thương nhân người Việt Nam và
người Ấn Độ trên đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi), xuất phát từ yêu
cầu trong buôn bán, đã nhận thức được sự cần thiết của việc học tiếng Nhật và
họ đã bắt đầu học tiếng Nhật một cách tự phát3.
Ngày 7 tháng 3 năm 1942, Trưởng phòng Hành chính Đại sứ quán Nhật
Bản tại Hà Nội là Kuriyama đã gửi điện báo cho Bộ trưởng Ngoại giao Togo
Shigenori, báo cáo rằng “ngày 3 tháng 3, Hội thương vụ Hoa kiều ở Hà Nội đã
thành lập trường tiếng Nhật dưới sự chỉ đạo của Đại sứ quán”. Trong bức điện
ngày 16 tháng 3 sau đó, Đại sứ quán báo cáo đã cho thành lập trường tiếng Nhật

Hoa kiều, hơn nữa hiện đang chuẩn bị thành lập trường tiếng Nhật cho người
An Nam4. Theo hai bức điện này, Nhật Bản bắt đầu tiến hành hoạt động giáo dục
tiếng Nhật một cách có tổ chức và bài bản có lẽ là từ tháng 3 năm 1942. Vào tháng
6 năm 1942, Đại sứ Nhật Bản tại Đông Dương là Yoshizawa Kenkichi đã báo cáo
cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Tani Masayuki rằng “việc truyền bá tiếng Nhật tại
Hà Nội là do Đại sứ quán phụ trách dưới danh nghĩa Hội người Nhật”.
Tháng 6 năm 1942, Nhóm giảng dạy tiếng Nhật của Hội người Nhật đã
được thành lập tại Bắc Kỳ. Sau đó, tháng 4 năm 1943, nhóm này được cải tổ
thành Hội Truyền bá tiếng Nhật tại Bắc Kỳ với tư cách là cơ quan duy nhất giới
thiệu văn hóa Nhật Bản, đặt trụ sở chính tại Hà Nội có chi nhánh tại Hải Phòng
và Huế. Hội Truyền bá tiếng Nhật tại Bắc Kỳ đảm nhận các công việc có liên
quan đến giáo dục tiếng Nhật như điều hành các trường tiếng Nhật ở Bắc Kỳ,
1. Báo Taiwan Nichinichi Shimpo, số ngày 25 tháng 7 năm 1941.
2. Hội Chấn hưng Giáo dục Tiếng Nhật là cơ quan nằm trong Hiệp hội Văn hóa Nhật ngữ được
thành lập tháng 12 năm 1940. Đến tháng 8 năm 1941, nó được cải tổ trên cơ sở kết hợp giữa
Bộ Giáo dục và Viện Hưng Á (Ko’a in), đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Giáo dục.
3. Tạp chí Nihongo, số 5 quyển 2, 1942, tr.88.
4. JACAR (Trung tâm Tư liệu lịch sử châu Á), Hồ sơ Ref. B04011413000.

163


liên lạc, chỉ đạo giáo viên tiếng Nhật, in ấn, phân phát các ấn phẩm và tư liệu
khác có liên quan đến giáo dục tiếng Nhật. Đồng thời, Hội này cũng duy trì liên
lạc với Hội Chấn hưng giáo dục tiếng Nhật và thực thi những phần việc với tư
cách là chi nhánh của Hội Chấn hưng giáo dục tiếng Nhật ở Bắc Kỳ1.
Tại Hà Nội, Hội truyền bá tiếng Nhật tại Bắc Kỳ đã đàm phán với Phủ
Toàn quyền Đông Dương mượn phòng học của 2 trường tiểu học (trường
Pierre Pasquet và trường Trần Trọng Huê), mở 2 lớp: một lớp buổi tối, một
lớp ban ngày. Lớp nào cũng học 1 tuần 3 buổi, mỗi buổi 1 tiếng, cứ 3 tháng

thì hoàn thành 1 khóa (trong 1 năm có 3 học kỳ), và nếu hoàn thành 3 học kỳ
sẽ được trao bằng tốt nghiệp. Tổng số người học là 896 người. Ngoài ra, phía
Nhật còn được cho mượn miễn phí trường học Phúc Kiến và trường trung học
Trung Hoa để mở khóa tiếng Nhật buổi tối cho khoảng 120 Hoa kiều. Ngoài
ra, tại trường Tiểu học Phúc Kiến và Trung học Trung Hoa, tiếng Nhật cũng
được giảng dạy như là 1 môn học chính thức.
Tại trường Trung học Hoa kiều ở Hải Phòng, tiếng Nhật được dạy 10
tiếng 1 tuần như một môn học chính khóa. Ngoài ra, các khóa tiếng Nhật dành
cho người Việt và dành cho Hoa kiều cũng được mở. Số người học là khoảng
270 người.
Tại Nam Kỳ, công tác giáo dục tiếng Nhật một cách có tổ chức và bài
bản do người Nhật quản lý, điều hành bắt đầu từ tháng 4 năm 1942 bởi bộ
phận tuyên truyền ở khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn2. Sau đó, do số trường tiếng
Nhật tăng lên, nên tháng 4 năm 1943, Hội Truyền bá tiếng Nhật tại Nam Kỳ
được thành lập, đặt trụ sở chính ở Sài Gòn và có chi nhánh ở Chợ Lớn và
Phnompenh. Hội này không trực tiếp điều hành các trường tiếng Nhật mà
chủ yếu giữ vai trò liên lạc giữa các trường tiếng Nhật, chỉ đạo giáo viên tiếng
Nhật và biên soạn, phân phát các tài liệu cần thiết trong giảng dạy tiếng Nhật3.
Tại Sài Gòn - Chợ Lớn, cho đến năm 1943 có 7 trường tiếng Nhật và khóa
tiếng Nhật như Học viện Nhật ngữ Kyoei của Kyoeikai (Cộng Vinh Hội) của
Đài Loan, trường Nhật ngữ Sài Gòn, trường tiếng Nhật thuộc Nanyo Gakuin...
Ngoài ra còn có khóa tiếng Nhật trong trường Chasseloup Laubat4 do Nha
Học chính Đông Dương thành lập. Thành phần người học bao gồm nhân viên
bán hàng người Việt, người Việt làm việc cho các công ty Nhật như Dainan
1.
2.
3.
4.

Tạp chí Nihongo, số 9 quyển 3, 1943, tr.43.

Tạp chí Nihongo, số 8 quyển 4, 1944, tr.12.
Tạp chí Nihongo, số 9 quyển 3, 1943, tr.42.
Nay là trường Trung học Phổ thông Lê Quý Đôn (Thành phố Hồ Chí Minh).

164


Koshi (Đại Nam công ty), con cháu thương nhân Hoa kiều, viên chức người
Pháp và người Việt trong cơ quan chính quyền cai trị Đông Dương, tổng cộng
khoảng 900 người. Phần lớn các trường tiếng Nhật - khóa tiếng Nhật dạy 1
tuần 3 buổi, mỗi buổi 1 tiếng.
Đến năm 1944, theo tờ Asashi Shimbun, về số người học tiếng Nhật, “5
trường ở Sài Gòn - Chợ Lớn đứng đầu với khoảng 1000 học sinh, Hà Nội,
Hải Phòng, Huế, Phnompenh có khoảng 11 trường với 1500 học sinh”1. Còn
Koseki To’ichiro, nhân viên của Trung tâm Văn hóa Nhật Bản (Nihonbunka
kaikan - Nhật Bản văn hóa hội quán) tại Đông Dương khi đó, kể rằng vào năm
1944, “số trường tiếng Nhật ở Sài Gòn - Chợ Lớn, bao gồm cả trường tiếng
Nhật trong Lycée Chasseloup Laubat là 4 trường và số học sinh học tiếng
Nhật tại đó là hơn 1000 người” và nếu tính cả con số khoảng 200 học sinh của
2 trường ở Phnompenh thì tổng số người học là hơn 1200 người2. Con số học
sinh này không bao gồm những học sinh đã tốt nghiệp. Giữa hai lời kể này có
sự khác biệt về số lượng trường tiếng Nhật ở Sài Gòn - Chợ Lớn nhưng nếu so
với số trường vào thời điểm năm 1943 thì ta thấy có sự giảm sút.
Công tác giảng dạy tiếng Nhật tại Đông Dương có tồn tại một số hạn
chế. Thứ nhất là vấn đề tài liệu học tiếng Nhật. Cả Đại sứ quán Nhật Bản tại
Hà Nội cũng như Bộ Ngoại giao Nhật đều khá khó khăn trong việc giải quyết
vấn đề này. Trong bức điện ngày 16 tháng 3 năm 1942, Đại sứ quán Nhật Bản
tại Hà Nội đã yêu cầu Bộ Ngoại giao Nhật gửi gấp sách giáo khoa tiếng Nhật
dành cho người nước ngoài vì “cảm thấy sự bất tiện do không có sách giáo
khoa”. Tiếp đó, trong bức điện ngày 1 tháng 4 năm 1942, Đại sứ quán Nhật đã

yêu cầu chính phủ gửi băng ghi âm dạy phát âm để hỗ trợ việc truyền bá tiếng
Nhật. Tuy nhiên, trong bức điện gửi Đại sứ Yoshizawa ngày 29 tháng 5 năm
1942, Bộ Ngoại giao Nhật đã trả lời rằng hiện nay trong nước vẫn chưa có băng
ghi âm dùng trong giảng dạy tiếng Nhật. Cũng trong bức điện này, về vấn đề
sách giáo khoa tiếng Nhật, Bộ Ngoại giao Nhật đã trả lời như sau: “trong nước
không chỉ bằng tiếng An Nam mà sách giáo khoa tiếng Nhật bằng tiếng Pháp
vẫn chưa được phát hành. Hiện tại, Hội chấn hưng và các tổ chức khác đang có
kế hoạch xuất bản nhưng cho đến khi xuất bản thì cần một khoảng thời gian
tương đối. Cho đến lúc đó tôi muốn [phía Đại sứ quán - VMV] cho sử dụng
cuốn sách tự học tiếng Nhật do Leon Gracy viết đã có ở Đông Dương”3. Đồng
thời, Bộ Ngoại giao Nhật cũng yêu cầu Đại sứ quán Nhật tại Hà Nội xác nhận
1. Báo Asahi Shimbun ngày 5 tháng 5 năm 1944.
2. Tạp chí Nihongo, số 8 quyển 4, tr.13.
3. JACAR, Hồ sơ Ref. B04011413000.

165


xem có khả năng tái bản nhanh cuốn sách này hay không. Trả lời bức điện này,
ngày 3 tháng 6 năm 1942, Đại sứ Yoshizawa đã phúc đáp: “Theo chỗ hỏi nhà
xuất bản Mai Lĩnh, cuốn sách này hiện đã bán hết, đang chuẩn bị tái bản và sẽ
có thể hoàn thành bản in trong khoảng một tháng”.
Chính vì nguyên do không có sách giáo khoa tiếng Nhật dành riêng cho
khu vực Đông Dương nên sách giáo khoa tiếng Nhật được sử dụng trong các
trường tiếng Nhật, khóa tiếng Nhật ở Đông Dương không thống nhất. Sách
giáo khoa tiếng Nhật được sử dụng khi đó bao gồm Nihongo kyokasho (Nhật Bản
ngữ giáo khoa thư) của Kokusai Gakuyukai (Quốc tế Học hữu hội), Kokateki
sokuseishiki hyojun nihongo dokuhon (Hiệu quả đích tốc thành thức tiêu chuẩn
Nhật Bản ngữ độc bản), Hanashikotoba, Nihongo dokuhon (Nhật Bản ngữ độc
bản), Nihon bunka dokuhon (Nhật Bản văn hóa độc bản) của Hội Chấn hưng

giáo dục tiếng Nhật, Kanyo kokugo dokuhon (Giản dụng quốc ngữ độc bản) của
Đài Loan, sách giáo khoa tiếng Nhật của Nanyo Kyokai, sách giáo khoa tại các
trường quốc lập của Nhật1. Ngoài ra cũng có trường hợp sử dụng giáo trình do
giáo viên tự soạn.
Trong việc học tiếng Nhật, ngoài sách giáo khoa còn có những vấn đề
khác là không có từ điển và không có khóa tiếng Nhật dành cho người có
trình độ cao. Về vấn đề từ điển, nếu ngược dòng thời gian, tờ Đài Loan nhật
nhật tân báo đã đưa tin chính quyền Đông Dương cấm phát hành cuốn Từ điển
Nhật - An Nam. Nếu nội dung bài báo trên là chính xác thì vào thời điểm năm
1941, chúng ta có thể suy đoán là ở Đông Dương đã tồn tại một cuốn từ điển
Nhật - Việt nhưng cũng như cuốn sách học tiếng Nhật đề cập ở phần trên, hiện
người viết vẫn chưa xác định được cuốn từ điển này do ai viết và do nhà xuất
bản nào ấn hành.
Chính phủ Nhật nhận thức rõ vai trò của việc biên soạn từ điển. Trong
quyết định của Nội các Nhật Bản về “Vấn đề phổ cập tiếng Nhật ở các khu vực
phía Nam” ngày 18 tháng 8 năm 1942, việc biên soạn từ điển Nhật - Việt đã
được quyết định2. Và theo các tư liệu có liên quan đến Trường Đào tạo tiếng
An Nam (Annango koshujo - An Nam ngữ giảng tập sở) thuộc Toyo Kyokai
(sau là Học viện Đông Dương - Futsuin gakuin), một cuốn từ điển có tên là
Nichi An jiten (Nhật An từ điển) đã được biên soạn trong năm 19433. Cũng theo
tư liệu này, cuốn từ điển đó đã được mang đến Việt Nam và dự định sẽ được
1. Tạp chí Nihongo, số 9 quyển 3, tr.42-47.
2. Báo Osaka Asahi Shimbun (số buổi tối) ngày 19 tháng 8 năm 1942.
3. Ban Biên tập bộ sử liệu 100 năm, 2004, tr.201.

166


hiệu đính và in tại Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế cuốn từ điển này có được
xuất bản hay không thì do tư liệu hạn chế nên chúng ta vẫn chưa rõ. Theo ghi

chép của Ashihara Eiryo khi đó làm việc ở Trung tâm Văn hóa Nhật Bản tại
Đông Dương, cuốn từ điển được bán chạy vào năm 1944 là cuốn Từ điển Nhật Pháp của Maruyama Juntaro và cuốn Nhật - Pháp đại từ điển của Ceslin Gustave
Jean Baptiste (1873-1944).
Để nâng cao ham muốn học tập tiếng Nhật của người học, nhiều hoạt
động truyền bá văn hóa Nhật đã được tổ chức. Tại Hà Nội, Hội Phu nhân
người Nhật đã mời các nữ sinh học tiếng Nhật đến nhà, tạo ra các cơ hội để
các nữ sinh này tiếp xúc với văn hóa Nhật như Ikebana, trà đạo, lễ hội búp bê
hina… Lễ tốt nghiệp được tổ chức rất lớn với một mục đích khác là tuyên
truyền về Khu vực Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Ví dụ như lễ tốt nghiệp được
tổ chức tại rạp chiếu phim Eden, phụ huynh học sinh tốt nghiệp, những học
sinh đang theo học, các nhân vật có liên quan thuộc lục hải quân trong Đại
sứ quán Nhật, Hội người Nhật, các nhân vật chủ chốt phía Pháp, phóng viên
Nhật, Pháp, Việt cũng tham gia. Sau lễ tốt nghiệp thường tổ chức chiếu những
bộ phim về đề tài chiến tranh với mục đích cổ xúy cho sức mạnh của quân đội
Nhật như phim “Trận hải chiến Hawai và hải chiến vịnh Malay” (Hawai-Marei
oki kaisen), “Thần binh trên trời” (Sora no shinpei)1... Lễ tốt nghiệp được coi
là một cơ hội quan trọng để Nhật tuyên truyền về việc xây dựng Khu vực thịnh
vượng chung Đại Đông Á.
Hoạt động giới thiệu văn hóa Nhật cũng được tiến hành với nhiều hình
thức khác nhau. Công tác văn hóa đối với Đông Dương của Nhật bắt đầu từ
năm 1941, nguyên tắc cơ bản của nó là: (1) Trao đổi giáo sư, (2) Trao đổi
tạp chí, xuất bản phẩm, (3) Phát hành xuất bản phẩm dành riêng cho Đông
Dương, (4) Trao đổi hiện vật trưng bày, (5) Tổ chức triển lãm lưu động tại
Đông Dương, (6) Khuyến khích và triển khai hoạt động thăm quan Nhật Bản
của họa sĩ Đông Dương…2.
Hoạt động trao đổi giáo sư bắt đầu bằng việc Giáo sư Ota Masao thuộc
khoa Y Đại học Đế quốc Tokyo được cử sang Đông Dương năm 1941. Tháng
9 cùng năm, Giáo sư Victor Kolbe thuộc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp đã đến
Nhật Bản. Tiếp đó, trong năm 1942, hoạt động trao đổi giáo sư lần thứ hai đã
diễn ra. Từ tháng 12 năm đó đến tháng 1 năm 1943, Giáo sư Umehara Sueji

thuộc Khoa Nhân văn Đại học Đế quốc Kyoto đã được cử đến Đông Dương.
1. Tạp chí Nihongo, số 8 quyển 4, 1944, tr.11.
2. Tạp chí Kokusai bunka, số 1, 1938.

167


Giáo sư Umehara đã tiến hành các buổi giảng ở một số nơi ở Đông Dương.
Phía Pháp dự kiến cử Giáo sư Boudet sang Nhật Bản vào tháng 9 nhưng kế
hoạch này sau đó đã bị hoãn lại. Năm 1943, Giáo sư Henri Galliard - Hiệu
trưởng Đại học Y Hà Nội đã đến Nhật Bản và có một số buổi giảng bài tại
Tokyo, Nagoya, Osaka, Fukuoka.
Song song với việc giao lưu giáo sư, việc phái cử sinh viên, giao lưu sinh
viên cũng được tiến hành. Năm 1941, chính quyền Pháp ở Đông Dương đã
cử Phạm Đại Thái sang Nhật. Đây là lưu học sinh đầu tiên, khi đó mới 22
tuổi. Phạm Đại Thái xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc ở Hà
Nội, anh trai là Phạm Huy Thông – một nhà thơ mới rất được ưa thích ở
miền Bắc khi đó cùng với Thế Lữ. Phạm Đại Thái xuất thân từ trường Thăng
Long và được cử đi từ báo Trinh Mới. Tại Nhật Bản, ông đã gặp chủ bút báo
Osaka Asahi Shimbun và đưa tin về tình hình Nhật Bản tiến quân vào miền
Nam Đông Dương1.
Ngày 7 tháng 9 năm 1942, Nhật Bản và chính quyền Thực dân Pháp ở
Đông Dương đã ký kết Hiệp định trao đổi sinh viên Nhật-Đông Dương, gia tăng thêm
hoạt động trao đổi sinh viên, coi đây là một phần trong chính sách văn hóa
của Nhật Bản. Cơ quan phía Nhật Bản phụ trách vấn đề tiếp nhận lưu học
sinh Đông Dương là Kokusai gakuyu kai (Quốc tế Học hữu hội) và trên cơ
sở hiệp định này, năm 1943 đã có 10 lưu học sinh Đông Dương được cử sang
Nhật. Theo lời kể của giáo sư Đặng Văn Ngữ, 10 lưu học sinh này được chia
làm 2 nhóm, một nhóm là nghiên cứu sinh gồm Đặng Văn Ngữ, Hà Thứ, 1
người Pháp, và một nhóm là lưu học sinh đại học gồm Phan Thị Đào, Phạm

Thị Lý, Hoàng Đình Lương, Lê Văn Quý, Nguyễn Thanh Nguyên, Rivoalen,
Barthelemy (Đặng Văn Ngữ, 1988). Phía Nhật Bản đã cử Akagi Nihe’ei - trợ
giảng tại Đại học Đế quốc Tokyo, Trần Kinh Hòa - trợ giảng tại Đại học Keio,
họa sĩ Sekiguchi Shingo, sang Đông Dương bằng học bổng của chính phủ Pháp.
Về việc trao đổi ấn bản phẩm, việc trao đổi ấn bản phẩm chính thức định
kỳ giữa Nhật Bản và Đông Dương bắt đầu năm 1941 và cho tới tháng 2 năm
1943, hai bên đã trao đổi 1087 cuốn của Nhật Bản và 1510 cuốn của Đông
Dương. Ở Nhật Bản, số sách này đã được phân bổ cho các trường Đại học Đế
quốc Tokyo, Kyoto, Tohoku và Toyo Bunko (Đông Dương văn khố). Hơn nữa,
với câu chuyện giữa Chabas - Ủy ban Quan hệ văn hóa với các nước láng giềng
của Đông Dương và trưởng phòng Hành chính Kuriyama thuộc Đại sứ quán
Nhật tại Đông Dương, hai bên đã trao đổi 148 cuốn tạp chí phía Nhật Bản và
1. Báo Osaka Asahi Shimbun, số ngày 31 tháng 10 năm 1941 và ngày 2 tháng 11 năm 1941.

168


25 cuốn Tạp chí Y khoa Viễn Đông của Pháp (Shibazaki Atsushi, 1999). Ngoài
ra, Nhật Bản còn trao đổi với Pháp 12 cuốn tạp chí của Hội Nghiên cứu hóa
học Nhật Bản và ngược lại, Pháp đã gửi cho Nhật các cuốn kỷ yếu của Viện
Pasteur. Phía Đông Dương đã gửi 428 tạp chí Y khoa bao gồm cả các tạp chí ở
trên cho Nhật Bản và phía Nhật Bản đã gửi 573 cuốn tạp chí cho Đông Dương.
Từ tháng 10 năm 1941, trong khoảng thời gian hai tháng, Triển lãm mỹ
thuật hiện đại Nhật Bản đã được tổ chức theo hình thức lưu động tại Hà Nội,
Hải Phòng, Huế, Sài Gòn. Khoảng 160 tác phẩm hội họa theo phong cách
Nhật Bản của các họa sĩ nổi tiếng như Yokoyama Taikan, Tokuoka Shinsen, Ito
Shinsui, Hashimoto Kansetsu… và 200 tranh khắc gỗ của 19 họa sĩ đã được
trưng bày. Điều đáng lưu ý ở đây là toàn bộ các tác phẩm được trưng bày đều
là tranh Nhật Bản – được coi là quốc họa của Nhật, và tranh khắc gỗ, không
có một bức tranh nào được sáng tác theo kiểu phương Tây. Việc chỉ trưng bày

tranh Nhật Bản và tranh khắc gỗ đương nhiên được xác định là nhằm mục
đích giới thiệu truyền thống của văn hóa Nhật Bản, sự nho nhã, thâm sâu, tinh
túy của tinh thần Nhật Bản, đồng thời tuyên truyền tính cách phương Đông
của tranh Nhật Bản hay tinh thần của Khu vực Thịnh vượng chung Đại Đông
Á và đây được coi là một phần trong “công tác văn hóa đối với phương Nam”
(Kuwahara Noriko, 2007).
Ngày 21 tháng 10 năm 1941, buổi triển lãm được khai mạc tại Hà Nội,
toàn quyền Đông Dương là Decoux và đại diện giới quan chức, tài chính đã
tham dự. Tại Nhật Bản, phía Nhật đã tuyên truyền về buổi triển lãm với sự có
mặt của những nhân vật chủ chốt của Đông Dương như toàn quyền Decoux
là “một bước tiến văn hóa” đề cao văn hóa Nhật Bản. Số người đến tham dự
buổi triển lãm tại Hà Nội trong 12 ngày là khoảng 15000 người, trong đó
80% là người Việt và 20% là người Pháp. Nếu nhìn từ số lượng người đến xem
thì có thể nói buổi triển lãm đã thành công nhưng về ảnh hưởng của nó có
nhiều ý kiến khác nhau. Theo báo cáo của Fujita Tsuguhara, người tham gia
với vai trò thuyết minh viên tại buổi triển lãm, và Komatsu Kiyoshi - người
được cử sang để điều tra về tình hình văn hóa Đông Dương khi đó, phần lớn
các tác phẩm được trưng bày là các tác phẩm ôn hòa, thiếu đi sức mạnh nên
kết cục, buổi triển lãm đã trở thành “một thứ trạng thái nửa giới thiệu văn hóa
Nhật Bản qua tranh Nhật Bản, nửa triển lãm bán tranh” (Kuwahara Noriko,
2007). Do vậy, có lẽ có thể nói mục đích của buổi triển lãm này đã chệch
so với dự tính ban đầu. Và cũng có ý kiến cho rằng, nếu chỉ trưng bày hình
ảnh mang tính bề mặt của “Nhật Bản truyền thống” tạo nên một dạng thức
“Đông Phương học” (Orientalism) đối kháng với cường quốc phương Tây thì
169


sẽ không thể làm cho người dân Đông Dương tâm phục khẩu phục (Komatsu
Kiyoshi, 1943).
Sau đó, từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1943, triển lãm mỹ thuật hiện đại Đông

Dương đã được tổ chức lần lượt tại Tokyo, Osaka, Kobe, Fukuoka. Đồng thời,
ba họa sĩ Việt Nam là Nguyễn Nam Sơn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Ký
đã tới Nhật Bản theo lời mời của Hội chấn hưng văn hóa quốc tế Nhật Bản1.
Tháng 10 năm 1942, hiệp định văn hóa Nhật - Thái được ký kết và tháng
3 năm 1943, Trung tâm văn hóa Nhật - Thái được thành lập. Trước tình hình
đó, trong bức điện tín gửi Bộ trưởng Bộ Đại Đông Á Aoki ngày 15 tháng 4 năm
1943, Đại sứ Nhật Bản tại Đông Dương là Yoshizawa đã đề nghị xúc tiến ký
kết Hiệp định văn hóa Nhật - Đông Dương vốn đã được trao đổi từ cuối năm
1942 và thành lập Trung tâm văn hóa Nhật Bản tại Đông Dương giống như
Hiệp định văn hóa giữa Nhật Bản và Thái Lan2. Kết quả là, Hiệp định văn hóa
Nhật-Đông Dương đã được ký kết và tháng 6 cùng năm, Trung tâm văn hóa
Nhật Bản với mục đích “đóng góp cho sự phát triển quan hệ thân thiện giữa
Nhật Bản và Đông Dương” đã được thành lập tại Hà Nội và Sài Gòn.
Sau khi Trung tâm Văn hóa Nhật Bản tại Đông Dương được thành lập,
hoạt động giới thiệu văn hóa Nhật Bản tại Đông Dương đã được triển khai với
vai trò nòng cốt là trung tâm này. Những sự kiện văn hóa như triển lãm tranh,
triển lãm ảnh, hòa nhạc, biểu diễn kịch đã được tổ chức ở nhiều thành phố.
Tuy nhiên, bước sang năm 1944, cùng với việc tình hình chiến sự ở Châu Á Thái Bình Dương chuyển sang tình trạng bất lợi cho Nhật Bản, hoạt động giới
thiệu văn hóa đã ít dần đi và bắt đầu thoái trào.
Như đã trình bày ở phần trên, Nhật Bản đã vừa gắn kết việc học tiếng Nhật
với những lợi ích kinh tế vừa truyền bá tiếng Nhật cho người dân Đông Dương
như là ngôn ngữ chung ở châu Á và coi đó là một kênh để giới thiệu văn hóa của
mình. Bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là giao lưu văn hóa, Nhật Bản
đã giới thiệu văn hóa của mình và thông qua các hoạt động này, Nhật Bản đã cố
gắng thu hút sự ủng hộ của người dân Đông Dương đối với Nhật Bản.
2. Công tác tuyên truyền bằng điện ảnh
Như đã trình bày ở trên, sau khi tiến quân vào Đông Dương, để đảm bảo
Đông Dương là một cứ điểm quan trọng trong việc theo đuổi chiến tranh, Nhật
1. Về chuyến thăm Nhật Bản của 3 họa sĩ này, xin tham khảo thêm Ushiroshoji Masahiro (2010).
2. JACAR, Hồ sơ Ref. B04011321300.


170


Bản đã “tôn trọng” chủ quyền của Pháp, áp dụng chính sách hợp tác với chính
quyền Thực dân Pháp ở Đông Dương. Chính sách này rõ ràng là mâu thuẫn với
triết lý của Khu vực Thịnh vượng chung Đại Đông Á mà Nhật Bản đề ra. Với những
mâu thuẫn về lập trường như vậy, cùng với sự nghiệp giới thiệu văn hóa Nhật Bản,
Nhật Bản đã triển khai tích cực công tác tuyên truyền về sức mạnh quân sự của
Nhật Bản, về tinh thần của Khu vực Thịnh vượng chung Đại Đông Á.
Trong bức điện số 151 ngày 19 tháng 2 năm 1942 gửi Bộ trưởng Bộ ngoại
giao Togo, Công sứ Uchiyama đã báo cáo về Yếu cương phương châm tuyên truyền ở
Nam Kỳ1. Theo bức điện này, phương châm tuyên truyền được xác định trong 7
điểm: (1) “hy vọng kết thúc chiến tranh Đại Đông Á, dốc sức đề cao sức mạnh
của hoàng quân”, (2) “hướng tới thực hiện triệt để tôn chỉ trong quan hệ kinh
tế và quân sự phòng vệ chung giữa Nhật Bản và Đông Dương”, (3) “trên cơ sở
xem xét vị trí đặc thù của Sài Gòn trong Khu vực Thịnh vượng chung Đại Đông
Á, giới hạn mục tiêu tuyên truyền vào Đông Dương, còn với Thái, miền Nam
Trung Hoa, Mã Lai, Miến Điện, Indonesia thuộc Hà Lan, Philippin sẽ thống
nhất trong toàn khu vực Nam Dương2”, (4) “đặc biệt lưu tâm đến sự khác biệt
về văn hóa giữa các cư dân người Pháp, người Hoa và người bản địa nói chung
ở Đông Dương”, (5) “thực hiện công tác nhằm điều chỉnh người Pháp thành
các phần tử hòa điệu trong khu vực thịnh vượng chung”, (6) “việc thực thi
công tác thông tin tuyên truyền sẽ tuân theo chỉ thị của Bộ Ngoại giao và Đại
sứ quán”, (7) “duy trì liên lạc mật thiết với bộ phận tin tức lục hải quân tại
các khu vực khác và hãng thông tấn Domei Tsushin”. Từ phương châm tuyên
truyền này, chúng ta có thể thấy Đông Dương được coi là trọng điểm trong
công tác tuyên truyền của Nhật Bản. Tại Đông Dương, ngoài những nội dung
tuyên truyền giống với những khu vực khác như tinh thần của Khu vực Thịnh
vượng chung Đại Đông Á, ca ngợi Nhật Bản, phê phán Âu Mỹ thì Nhật Bản chú

ý đến đặc trưng riêng của Đông Dương, cố gắng tối đa va chạm với Pháp, tỏ
ra có thái độ cố gắng hài hòa với Pháp. Hơn nữa, trong công tác tuyên truyền,
Nhật Bản cũng chú ý tới sự khác biệt trong các thành phần cư dân ở Đông
Dương. Chủ thể của công tác tuyên truyền được xác định là Bộ Ngoại giao, có
sự hợp tác của lục hải quân và hãng thông tấn Domei Tsushin.
Trong thời kỳ chiến tranh, ở Đông Nam Á bao gồm cả Đông Dương,
các bộ phim có mục đích tuyên truyền chống Nhật của Mỹ, Anh và chính
quyền Tưởng Giới Thạch được trình chiếu rộng rãi. Vì vậy, khi tiến hành tuyên
1. JACAR, Hồ sơ Ref. B02033022700.
2. Đương thời trong tiếng Nhật chưa có thuật ngữ “Đông Nam Á”. Người Nhật sử dụng từ
“Nam Dương” để chỉ khu vực Đông Nam Á ngày nay.

171


truyền chống lại những tuyên truyền như vậy, Nhật Bản đã nhận thức phim
ảnh là một vũ khí tuyên truyền hết sức quan trọng và đã đầu tư khá nhiều công
sức vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, dưới khuôn khổ đồng trị Nhật - Pháp, cho
dù Nhật Bản cùng với Pháp cai trị Đông Dương nhưng Nhật Bản lại không sở
hữu các rạp chiếu phim riêng của mình. Hơn nữa, Nhật Bản cũng không có
hệ thống truyền thanh riêng, chỉ được phép sử dụng đài phát thanh Sài Gòn thuộc quyền quản lý của nhà đương cục Đông Dương - trong một khoảng thời
gian nhất định, và phải chịu sự kiểm duyệt của nhà đương cục Pháp ở Đông
Dương đối với các xuất bản phẩm. Như vậy, có thể nói Nhật Bản đã không có
các công cụ để thực thi tuyên truyền một cách tự do. Trong phần này, người
viết sẽ tập trung vào công tác điện ảnh của Nhật Bản để khảo sát xem Nhật
Bản đã tiến hành tuyên truyền như thế nào tại Đông Dương.
Công tác điện ảnh của Nhật Bản tại Đông Nam Á bắt đầu cùng với việc
Nhật Bản tiến quân vào Đông Dương năm 1940. Tháng 12 năm 1940, Hiệp
hội Điện ảnh Nam Dương đã được thành lập trên cơ sở trung gian của Bộ
Tổng tham mưu, Lục hải quân, Phòng Thông tin chính phủ và sự đầu tư của

các hãng Shochiku, hãng Toho, hãng Towa Shoji, hãng Điện ảnh Trung Hoa.
Mục đích của Hiệp hội Điện ảnh Nam Dương là “đảm bảo trị an, nắm bắt lòng
người, tuyên truyền” đối với cư dân bản địa. Hiệp hội Điện ảnh Nam Dương
lấy Đông Dương làm đối tượng chính, triển khai các chi nhánh để tiến hành
công tác điện ảnh bằng cách xâm nhập thị trường thông qua việc cung cấp
phim ảnh. Đến cuối tháng 12, với việc thành lập chi nhánh Hà Nội, Hiệp hội
đã thành công trong việc nắm giữ hệ thống cung cấp tại khu vực Đông Dương
và tiến hành cung cấp phim ảnh một cách tập trung.
Sau khi Chiến tranh Châu Á - Thái Bình Dương bùng nổ, cùng với việc
khu vực chiếm đóng của Nhật được mở rộng, phạm vi hoạt động của Hiệp hội
Điện ảnh Nam Dương cũng trở nên rộng hơn. Lần lượt trong tháng 3, tháng 6,
tháng 7 năm 1942, các chi nhánh ở Sài Gòn, Băng Cốc, Manila đã được thành
lập. Không dừng ở đó, để có thể đối ứng nhanh chóng với sự thay đổi của chiến
cuộc, giữa các cơ quan có liên quan như Lục hải quân, Bộ Ngoại giao, Cục
Thông tin đã có thảo luận về việc cải tổ Hiệp hội Điện ảnh Nam Dương. Ngày
10 tháng 9 năm 1942, tại Hội nghị cấp thứ trưởng tổ chức định kỳ giữa Lục
hải quân, Bộ Ngoại giao, Cục Thông tin, Yếu cương xử lý công tác điện ảnh phương
Nam đã được công bố. Theo yếu cương này, công tác điện ảnh ở phương Nam
sẽ được chia làm hai lĩnh vực, Hiệp hội Điện ảnh Nam Dương được phân tách
thành hai công ty: Công ty Cung cấp phim ảnh và Công ty Điện ảnh Nhật Bản,
hai công ty này trở thành chủ thể thực hiện hai lĩnh vực trên. Những lĩnh vực
172


mà Hiệp hội Điện ảnh Nam Dương phụ trách trước đây sẽ được hai công ty
này kế thừa, Công ty Cung cấp phim ảnh phụ trách việc cung cấp, kinh doanh
rạp chiếu phim, xuất nhập khẩu phim, cung cấp thiết bị có liên quan đến phim
ảnh; còn Công ty Điện ảnh Nhật Bản đảm nhiệm việc sản xuất tại hiện trường
phim thời sự, phim văn hóa. Nghĩa là, công tác điện ảnh được phân tách thành
hai hệ thống cung cấp và sản xuất.

Phạm vi công việc của Công ty Cung cấp phim ảnh lớn hơn Công ty Điện
ảnh Nhật Bản vốn chỉ đảm nhiệm việc sản xuất phim thời sự và phim văn hóa.
Sau khi thành lập, Công ty Cung cấp phim ảnh đã lập Cục Phương Nam tại
công ty mẹ. Công ty Cung cấp phim ảnh đã sáp nhập các chi nhánh ở Đông
Dương, Thái Lan - những chi nhánh của Hiệp hội Điện ảnh Nam Dương trước
đây - vào phạm vi quản lý của mình nhằm mở rộng chi nhánh. Công ty Điện
ảnh Nhật Bản đã thành lập Cục Hải ngoại tại công ty mẹ và đặt ra Ủy ban
Chính sách điện ảnh phương Nam tại cục này, trên cơ sở đó triển khai chi
nhánh tại các khu vực, trong đó Singapore là chi nhánh chính.
Đương thời, tại Đông Dương có khoảng 90 rạp chiếu phim, phần lớn là
thuộc hai hệ thống rạp Eden của Công ty Phim & Chiếu bóng Đông Dương
(Société Indochiné Films et Cinémas) và hệ thống rạp Majestic thuộc Công
ty Chiếu bóng Đông Dương (Société Ciné-Théatres d’Indochine) được thành
lập với vốn của Pháp và tư bản Hoa kiều. Tại Đông Dương, phim không được
sản xuất nhiều, tất cả các phim được chiếu đều là phim nhập khẩu, trong đó
phim của Pháp là nhiều nhất, tiếp đó là phim Mỹ, số còn lại là phim của Trung
Quốc. Công ty Phim và Chiếu bóng Đông Dương có khuynh hướng thân
Nhật còn Công ty Chiếu bóng Đông Dương do có vốn của Trung Quốc nên
có khuynh hướng chống Nhật.
Hiệp hội Điện ảnh Nam Dương sau khi thành lập đã ký kết hợp đồng
cung cấp với Công ty Phim và Chiếu bóng Đông Dương, lên kế hoạch đưa
phim Nhật Bản vào thị trường Đông Dương. Ban đầu, Hiệp hội Điện ảnh
Nam Dương đã dự kiến giới thiệu ở Đông Dương các bộ phim của Cục Du
lịch quốc tế như “Nghề đánh cá ở miền Bắc Nhật Bản”, “Tokyo-Bắc Kinh”,
“Tin tức Nhật Bản”… Ngày 31 tháng 12 năm 1940, phim “Tin tức hải ngoại
Nhật Bản” là bộ phim Nhật Bản đầu tiên được công chiếu ở Đông Dương,
sau đó phim “Tin tức Nhật Bản” đã được chiếu tại rạp Eden ở Sài Gòn. Tuy
nhiên, phim “Tin tức Nhật Bản” là phim tiếng Nhật nên khi chiếu cần phải
có nhân viên biết tiếng Pháp giải thích cho người xem. Để cải thiện nhược
điểm này, yêu cầu sản xuất phim bản tiếng Trung dành cho công tác Hoa

173


kiều, bản tiếng Việt dành cho người Việt nói chung và bản tiếng Pháp dành
cho người Pháp cũng như người Việt tầng lớp trên đã tăng lên1. Đáp ứng yêu
cầu đó, bộ phim “Actualités du Monde” là phiên bản tiếng Pháp của phim
“Tin tức Nhật Bản” đã được sản xuất tại Nhật, sau đó gửi sang Đông Dương
và được chiếu mỗi tháng 2 lần.
Đồng thời, bốn bộ phim truyện là “Bản giao hưởng đồng quê” được sản
xuất dành cho người Pháp trên nguyên tác cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà
văn Pháp Andre Gide, phiên bản tiếng Pháp phim “Danryu” (Dòng nước
ấm), “Đêm Trung Hoa” dành cho Hoa kiều, “Nishizumi senshacho den” (Câu
chuyện người chỉ huy xe tăng Nishizumi) kể về nhân vật Nishizumi Kojiro vốn
được coi là thần binh trong cuộc chiến tranh Nhật - Trung đã lần lượt được
đưa sang Đông Dương. Bốn bộ phim truyện này là những phim được Ủy ban
Xét chọn phim dành cho phương Nam gồm các thành viên đến từ Lục hải
quân, Cục Thông tin, Hội Chấn hưng văn hóa quốc tế, Cục Du lịch, hai công
ty điện ảnh tuyển chọn. Tuy nhiên, do phản ứng của người Pháp và người Việt
cũng như sự kiểm duyệt của đương cục Pháp ở Đông Dương nên 4 bộ phim
này đã không được phép công chiếu.
Bộ phim truyện đầu tiên được trình chiếu ở Đông Dương là phim “Bản
giao hưởng đồng quê”, được chiếu từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 11 năm 1941
tại hệ thống rạp Eden ở Hà Nội. Sau khi Hiệp hội Điện ảnh Nam Dương thành
lập chi nhánh ở Sài Gòn, bộ phim này đã được chiếu tại hệ thống rạp Eden
ở Sài Gòn trong 7 ngày, từ ngày 18 đến ngày 24 tháng 3 năm 1942. Sau đó,
phim “Đêm Trung Hoa”, “Dòng nước ấm”, “Câu chuyện người chỉ huy xe tăng
Nishizumi”, “Bó hoa Nam Hải” cũng lần lượt được trình chiếu.
Trong số các bộ phim này, việc trình chiếu bộ phim “Đêm Trung Hoa”
là một sự kiện đáng lưu ý. Sau khi Chiến tranh Nhật - Trung bùng nổ, các bộ
phim cổ xúy tinh thần chống Nhật như “Đại địa thần đồng”, “Đài nhi trang”

của Trung Quốc đã được nhập khẩu nhiều vào Đông Dương và được chiếu tại
khu Đại thế giới ở Chợ Lớn với đối tượng chính là Hoa kiều2. Vì vậy, như là
một phần của công tác Hoa kiều nhằm xóa bỏ thái độ chống Nhật, kháng Nhật
đã biểu hiện rõ ràng trong Hoa kiều ở Chợ Lớn, yêu cầu trình chiếu những bộ
phim truyện dành cho Hoa kiều đã trở nên mạnh mẽ. Phim “Đêm Trung Hoa”
là bộ phim biểu hiện tinh thần thân thiện Nhật - Trung kể về câu chuyện một
phụ nữ Trung Quốc có ý thức kháng Nhật đã hóa giải sự hiểu nhầm bằng lòng
1. Ichikawa Aya, 2003, tr.343.
2. Ichikawa Aya, 2003, tr.342.

174


nhiệt tình của một người đàn ông Nhật Bản và sau đó hai người đã kết hôn với
nhau. Có thể thấy rằng việc trình chiếu bộ phim này ở Đông Dương đã nhận
được sự ủng hộ của quân đội với mong muốn nâng cao hiệu quả tuyên truyền
đối với Hoa kiều. Trước khi bộ phim này được trình chiếu tại Đông Dương, từ
ngày 26 tháng 11 đến ngày 19 tháng 12 năm 1941, trong khoảng 3 tuần, đoàn
kịch Nichigeki Dancing1 đã đến Đông Dương với mục đích chính là ủy lạo
quân sĩ, trình diễn tại Hà Nội và Hải Phòng, trong đó có vở kịch “Đêm Trung
Hoa”. Trong vở kịch này, bài hát chính là “Đêm Trung Hoa” đã được trình bày.
Sau đó bài hát này đã được phổ biến rộng khắp ở Đông Dương. Vì vậy, ở Đông
Dương đã xuất hiện yêu cầu mong muốn được xem bộ phim này2. Kết quả là
ngày 24 tháng 2 năm 1942, phim “Đêm Trung Hoa” đã được trình chiếu tại rạp
Eden. Ban đầu, bộ phim này dự kiến được chiếu trong khoảng 1 tuần nhưng
do được hưởng ứng nên thời gian chiếu đã kéo dài thành 2 tuần. Trong tuần
đầu tiên, số tiền thu được là 8900 piastre, lập kỷ lục về doanh thu kể từ khi rạp
Eden khai trương3. Sau đó, “Đêm Trung Hoa” tiếp tục được chiếu ở Sài Gòn,
Chợ Lớn, Hà Nội với tổng số buổi chiếu là 48 buổi, lập kỷ lục cao nhất về số
buổi chiếu4. Tuy nhiên, những khán giả chào đón bộ phim này nhất, khác với

dự kiến, không phải là người Pháp, Hoa kiều mà là người Việt. Vào ngày chiếu,
“ghế ngồi ở cả tầng trên lẫn tầng dưới đều kín chỗ, người Pháp rất ít, đến 90%
là người An Nam”5. Đĩa hát ghi bài hát chính của phim “Đêm Trung Hoa” đã
bán được khoảng 200 đĩa6. Song, những bộ phim khác như “Dòng nước ấm”,
“Câu chuyện người chỉ huy xe tăng Nishizumi”, “Bó hoa Nam Hải” lại không
thu hút được sự chú ý.
Với Yếu cương xử trí công tác điện ảnh phương Nam, tháng 9 năm 1942, chi
nhánh Sài Gòn của Công ty Điện ảnh Nhật Bản đã được thành lập. Nhiệm
vụ chính của chi nhánh này được quy định là tuyển chọn phim, biên tập các
bộ phim Nhật Bản nhập khẩu và sản xuất các phiên bản ngôn ngữ khu vực,
đồng thời đây còn được coi là cứ điểm để xuất khẩu phim sang các khu vực
khác. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của chi nhánh Sài Gòn của Công ty
Điện ảnh Nhật Bản chỉ dừng lại ở việc bổ sung những tin tức ghi hình ở Đông
Dương vào trong phim “Tin tức Đại Đông Á” và làm phiên bản tiếng Pháp
cho nó. Sau đó, tháng 12 năm 1942, giống như Công ty Điện ảnh Nhật Bản,
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Đương thời được gọi là Tohobutotai.
Eiga Junho, ngày 1 tháng 11 năm 1942.
Eiga Junho, ngày 1 tháng 12 năm 1942.
Eiga Junho, ngày 1 tháng 9 năm 1943.
Eiga Junho, ngày 1 tháng 5 năm 1942.
Ichikawa Aya, 2003, tr.345.

175



Công ty Cung cấp phim ảnh đã thành lập chi nhánh Đông Dương tại Sài Gòn,
trưởng chi nhánh là Yamane Masakichi, nhân vật trung tâm trong thời kỳ Hiệp
hội Điện ảnh Nam Dương. Chi nhánh Đông Dương của Công ty Cung cấp
phim ảnh đã duy trì cả hai chi nhánh Sài Gòn và chi nhánh Hà Nội của Hiệp
hội Điện ảnh Nam Dương trước đây. Hai chi nhánh tại Đông Dương đã dốc
sức vào hoạt động chiếu phim lưu động dành cho đối tượng là quân đội Nhật
và cư dân Đông Dương. Hoạt động này được tiến hành tập trung vào những
ngày kỷ niệm của phía Nhật Bản như ngày 8 tháng 12 (Ngày bắt đầu Chiến
tranh Thái Bình Dương), ngày 15 tháng 2 (Ngày quân đội Nhật Bản chiếm
Singapore), ngày 10 tháng 3 (Ngày kỷ niệm Lục quân), ngày 27 tháng 5 (Ngày
kỷ niệm Hải quân)... Trong ba ngày từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 12 năm 1942
và trong 2 ngày từ 27 đến ngày 28 tháng 12 cùng năm, Công ty Cung cấp
phim ảnh đã tiến hành kỷ niệm 1 năm ngày bùng nổ Chiến tranh Thái Bình
Dương, tổ chức chiếu phim tại rạp Eden và nhà hát thành phố ở Sài Gòn,
nhà hát Trung Hoa ở Chợ Lớn, mời binh sĩ Nhật Bản, quan lại người Pháp và
Hoa kiều tới dự. Các bộ phim được công chiếu là những bộ phim thể hiện sức
mạnh quân sự của Nhật như “Chiến ký Mã Lai”, “Ghi chép về chiến thắng của
hải quân đế quốc”, “Thần binh trên trời”, “Tin tức Nhật Bản”... Những bộ phim
có phụ đề tiếng Pháp như “Tướng quân, tham mưu và binh lính”, “Hải chiến
vịnh Hawaii và vịnh Malay” cũng được trình chiếu. Ngoài ra, còn có những bộ
phim văn hóa ca ngợi sức mạnh công nghiệp Nhật Bản trong loạt phim “Nhật
Bản quốc gia công nghiệp” như “Công nghiệp nặng”, “Luyện thép”, “Chính
sách lao động”, “Hải quân Nhật Bản”... Tuy nhiên, những phim tuyên truyền
như “Hải chiến vịnh Hawaii và vịnh Malay” là bộ phim tái hiện cuộc tấn công
Trân Châu Cảng được dân Nhật yêu thích ở Nhật Bản lại không thu hút được
sự chú ý. Kết quả là chi nhánh Sài Gòn của Công ty Cung cấp phim ảnh đã
quyết định chuyển sang chiếu các bộ phim truyện như “Tôn Ngộ Không”,
“Bắc cực quang”, “Tuyết mới”... tại các rạp chiếu phim nhỏ.

Để thực thi tích cực hơn nữa công tác điện ảnh, chi nhánh Đông Dương
của Công ty Cung cấp phim ảnh đã quyết định tiến hành tích cực việc tuyên
truyền các bộ phim. Trước khi trình chiếu, công ty tiến hành các hoạt động
tuyên truyền như làm các poster, tờ rơi, đèn lồng tuyên truyền, chiếu phim
mời nhằm gia tăng khán giả. Ví dụ, trong trường hợp bộ phim “Hải chiến vịnh
Hawaii và vịnh Malay” được công chiếu ngày 25 tháng 5 năm 1943, bộ phim
này được chiếu trong Tuần lễ kỷ niệm hải quân tại rạp Eden ở Sài Gòn, nhà
hát Trung Hoa ở Chợ Lớn, và trước khi công chiếu, hoạt động tuyên truyền đã
được tổ chức trong 18 ngày.
176


Sang năm 1944, những lý do như sự kiểm soát của chính quyền Thực dân
Pháp, tình trạng thiếu điện, khí hậu, tình hình chiến sự xấu đi... đã có nhiều
ảnh hưởng đến công tác điện ảnh của Nhật Bản tại Đông Dương. Việc chiếu
phim Nhật Bản cũng rơi vào tình hình khó khăn và tình trạng này kéo dài cho
tới khi kết thúc chiến tranh.
Như vậy, trong phần này, tác giả đã khảo sát về công tác điện ảnh của Nhật
Bản ở Đông Dương. Trong thời kỳ Chiến tranh Châu Á - Thái Bình Dương,
với tư cách là người lãnh đạo Khu vực Thịnh vượng chung Đại Đông Á, để chỉ
đạo người châu Á, Nhật Bản đã cho chiếu tại Đông Dương những bộ phim thể
hiện sức mạnh quốc gia của Nhật Bản và những bộ phim thể hiện tinh thần
Nhật Bản. Tuy nhiên, do tồn tại khoảng cách giữa phía Nhật Bản muốn chiếu
phim tuyên truyền và phía cư dân Đông Dương muốn xem phim truyện, nên
chúng ta có lẽ khó có thể nói rằng công tác điện ảnh của Nhật ở Đông Dương
đã thành công.
Kết luận
Trên đây, tác giả đã trình bày về công tác văn hóa của Nhật Bản ở Đông
Dương thời kỳ Chiến tranh Châu Á - Thái Bình Dương thông qua phân tích
việc phổ cập tiếng Nhật, giới thiệu văn hóa Nhật Bản, tình hình và nội dung

công tác điện ảnh.
Rõ ràng là công tác văn hóa của Nhật ở Đông Dương có sự khác biệt về
tính chất với công tác văn hóa của Nhật tại những vùng mà Nhật Bản thành
lập chính quyền quân sự và trên thực tế, đây là một ngoại lệ trong quá trình
xây dựng văn hóa Đại Đông Á. Sau khi tiến quân vào Đông Dương, dưới chế
độ đồng trị Nhật - Pháp, Nhật Bản đã thử tiếp xúc, tiếp cận với cư dân bản địa
ở cấp độ cuộc sống thường nhật bằng nhiều phương pháp khác nhau như phổ
cập tiếng Nhật, giới thiệu văn hóa Nhật Bản, trao đổi giáo sư, lưu học sinh,
triển lãm tranh, chiếu phim Nhật Bản... Nhật Bản đã cố gắng thu hút sự đồng
cảm và ủng hộ của cư dân bản địa đối với Nhật Bản bằng cách nhấn mạnh
sự tương đồng và khác biệt giữa văn hóa phương Đông, bao gồm cả văn hóa
Đông Dương, với văn hóa Nhật Bản và thực thi công tác tuyên truyền biểu thị
sức mạnh của Nhật Bản.
Tuy nhiên, do việc duy trì chủ quyền của Pháp tại Đông Dương, hay
nói cách khác là sự tồn tại không thể không lưu tâm tới của đương cục Pháp,
công tác văn hóa của Nhật Bản đã không thể thực hiện được một cách tự do.
177


Dưới chế độ đồng trị Nhật - Pháp, công tác văn hóa của Nhật Bản đã được
tiến hành dưới hình thức chủ yếu là trao đổi văn hóa, như trao đổi giáo sư, tổ
chức triển lãm tranh, trao đổi sinh viên..., hay nói ngắn gọn lại là hình thức
“hợp tác”. Có điều, sự trao đổi văn hóa này chỉ diễn ra với người Pháp giống
như trong quá khứ nên chúng ta khó có thể nói rằng văn hóa Nhật Bản, tư
tưởng và chính sách quốc gia của Nhật Bản đã thẩm thấu sâu rộng đến cư
dân Đông Dương.
Thông qua những khảo sát trên, có lẽ hình ảnh tổng thể về công tác văn
hóa của Nhật Bản ở Đông Dương trong thời kỳ Chiến tranh Châu Á - Thái
Bình Dương đã được làm sáng tỏ phần nào. Song, do hạn chế về tư liệu, chúng
ta vẫn chưa thể nắm bắt được tổng thể thực trạng của công tác này. Từ tháng

10 năm 1942, Nhật Bản đã xuất bản tờ tạp chí tuyên truyền thân Nhật là Tân
Á và tạp chí này được xuất bản cho tới khi Nhật Bản thua trận. Tạp chí Tân Á
đã cho đăng tải nhiều tin bài dạy tiếng Nhật, giới thiệu văn hóa Nhật Bản, giới
thiệu phim ảnh, tin tức biểu thị sức mạnh quân sự của Nhật Bản, tinh thần và
quá trình xây dựng Khu vực Thịnh vượng chung Đại Đông Á, bình luận chỉ trích
Anh - Mỹ... Từ những nội dung này, có thể nói tạp chí Tân Á là một tư liệu hết
sức quan trọng khi khảo sát về công tác văn hóa của Nhật Bản. Mặc dù vậy,
trong những nghiên cứu trước đây, tạp chí Tân Á vẫn chưa được phân tích,
đánh giá nhiều. Từ hiện trạng này, chúng ta có thể hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn
nữa thực trạng các hoạt động văn hóa của Nhật Bản tại Đông Dương thông
qua việc phân tích tạp chí này. Đây chính là vấn đề mà tác giả bài viết dự định
sẽ trình bày trong một bài viết khác.

Tài liệu tham khảo chÍNH
1. Ban Biên tập bộ sử liệu 100 năm, Lịch sử 100 năm Đại học Takushoku Phần tư liệu quyển 4, 2004.
2. Đặng Văn Ngữ, Trở về với quê hương kháng chiến, Tạp chí Sông Hương,
số 33, 1988.
3. Furuta Motoo - Shiraishi Masaya, Chính sách của Nhật đối với Đông
Dương thời kỳ Chiến tranh Thái Bình Dương – Xung quanh 2 tính chất khác
thường, Tạp chí Nghiên cứu Châu Á, số 23-3, 1976.
178


4. Ichikawa Aya, Sáng tạo và xây dựng điện ảnh châu Á, NXB Yumani, 1941
(bản in năm 2003).
5. Ikeda Hiroshi (chủ biên), Xây dựng văn hóa trong Khu vực Thịnh vượng
chung Đại Đông Á, NXB Jimbunshoin, 2007.
6. Iwamoto Kenji (chủ biên), Điện ảnh và Khu vực Thịnh vượng chung Đại
Đông Á, NXB Rinwasha, 2004.
7. Komatsu Kiyoshi, Đường tới Đông Dương, NXB Rokko Shokai

Shuppanbu, 1942.
8. Kuwahara Noriko, Công tác văn hóa thời kỳ chiến tranh nhìn từ "Triển
lãm tranh Nhật Bản cận đại lưu động ở Đông Dương" do Hội chấn hưng văn hóa
quốc tế tổ chức – Fujita Yuji sứ tiết mỹ thuật, Tạp chí Viện Nghiên cứu Ngôn ngữ
Văn hóa Đại học Shotoku, số 15, 2007.
9. Namba Chizuru, Tiếp cận mang tính lịch sử xã hội đối với Đông Dương
thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ II, Tạp chí Mita gakkai zasshi, số 3 quyển 99,
2006.
10. Namba Chizuru, Tuyên truyền của Pháp ở Đông Dương thời kỳ Chiến
tranh Thế giới II – Xem xét trong mối quan hệ với chính sách tuyên truyền của
Nhật Bản, Tạp chí Sử học (Nhật Bản), số 11, 2009.
11. Shibazaki Atsushi, Nhật Bản cận đại và giao lưu văn hóa quốc tế - Sự
thành lập và hoạt động của Hội chấn hưng văn hóa quốc tế, NXB Yushinsha,
1999.
12. Ushiroshoji Masahiro, Chuyến thăm Nhật Bản năm Showa 18 – Từ
nhật ký của họa sĩ Việt Nam Lương Xuân Nhị, Niên báo triết học, số 99, Viện
Nghiên cứu Khoa học Xã hội ĐH Kyushu, 2010.
13. Yonegawa Keizo, Chiến tranh tư tưởng và Tuyên truyền, NXB Meguro
Shoten, 1943.

179


180



×