Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

LỜI CHÀO hỏi của NGƯỜI VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.14 KB, 10 trang )

LỜI CHÀO HỎI CỦA NGƯỜI VIỆT
1. Đặt vấn đề
Ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp ưu việt và quan trọng nhất của loài người. Nhờ
ngôn ngữ mỗi cá nhân có thể trao đổi thông tin, thiết lập quan hệ, thực hiện hành
động… đối với mọi người xung quanh. Song trước khi giao tiesp thực sự, bằng cách
nào đó chúng ta phải nhập than vào cuộc giao tiếp, phải thu hút sự chú ý của người đối
thoại, phải xung hô với người đó… Nghi thức lời nói bao gồm chào hỏi, làm quen, chia
tay, chúc mừng, cám ơn, xin lỗi, an ủi, yêu cầu, mòi mọc… có chức năng “thiết lập quan
hệ tiếp xúc” giữa những người tham gia giao tiếp. Chúc năng này được thể hiện rõ rệt
nhất trong nghi thức chào.
Có thể khẳng định rằng lời chào là một nghi thức xã giao đầu tiên, là phép lịch sự tối
thiểu của mỗi cá nhân khi bắt đầu một cuộc giao tiesp. Ở Việt Nam, nét đẹp văn hóa
của lời chào được ông cha ta đúc kết thành những bài học quý báu trong kho tang tục
ngữ, ca dao: “Lời chào cao hơn mâm cổ”, “Dao năng liếc năng sắc, người năng chào,
năng quen”, “Gặp nhau che nón không chào. Cứ lặng thinh như rứa biết ngày nào quen
nhau”… Rõ rang với người Việt, lời chào không chỉ là nghi thưc gia tiếp đơn thuần mà
còn là thước đo trình độ ứng xử của mỗi cá nhân. Chào hỏi – một nét đẹp của lối sống
thiên về cộng đồn đã trở thành một nét đặc trưng trong văn hóa Việt.
2. Các kiểu chào của người Việt
Hiểu một cách đơn giản: “Chào có nghĩa là nói ra hoặc ra hiệu bằng các cử chỉ, tỏ long
kính trọng, thái độ than thiết”.
Austin – người sáng lập ra lý thuyết hành vi ngôn ngữ (Speech act) đã xếp lời chào
thuộc lớp ứng xử (behavitive): đó là hành vi tại lời gồm những “ứng xử xã hội” nh ư cám
ơn, xin lỗi, chúc mừng, ca ngợi, chê trách, nguyền rủa… Đây là “những hành vi phản
ứng lại những cách xử sự của người khác, những hành vi đáp ứng những sự kiện hữu
quan có liên quan tới than phân và thái độ của người khác”.


Có nhiều cách thực hiện lời chào và đồng thời với nó là nhiều dấu hiệu (IFIDs:
illocutionary force indicating devices) để nhận diện hành động chào. Các động từ ngữ vi
(performative verbs) được coi là một IFID tiêu biểu. Đó là “những động từ mà khi phát


âm chúng ra là người nói thực hiện luôn cái hành vi ở lời do chúng biểu thị”.
Dựa vào sự có mặt hay không có mặt động từ ngữ vi trong hành vi ngôn ngữ, lời chào
thường được chia thành hai loại: lời chào tường minh còn gọi là lời chào trực tiếp và lời
chào hàm ẩn hoặc lời chào gián tiếp.
2.1 Lời chào trực tiếp
Lời chào tường minh là lời chào có chứa động từ ngữ vi “chào”, “kính chào”, “chào
mừng”... Trong biểu thức chào. Hiệu lực tại lời ở đây do động từ “chào” biểu thị. TS.
Phạm Thị Thành xếp đay là các lời chào mang tính nghi thức “có tính khuôn mẫu, dung
để mở đầu hay kết thúc cuộc gập gỡ... Nhằm thể hiện thái độ lịch sự, khiêm tốn, nhã
nhặn của các vai giao tiếp”.
Có thể kể ra đây các công thức chào trực tiếp như sau:
- Chào đối thể giao tiếp (ĐTGT, ví dụ “Bác”)
- Chào ĐTGT ạ.
- Chủ thể giao tiếp (CTGT, ví dụ “Cháu”) chào ĐTGT
- CTGT chào ĐTGT ạ
- Xin chào ĐTGT

Thông thường lời chào trực tiếp có chứa các động từ ngữ vi tường minh “chào”, “kính
chào”… Khi chúng ta nói các động từ này đồng thời chúng ta đã thực hiện luôn hành
động chào. Lời chào tường minh thường do CTGT chủ động thực hiện ngay tại thời
điểm chào. Về cấu tạo, ngoài động từ ngữ vi, cụm động từ ngữ vi… lời chào tường
minh thường có các bổ ngữ trực tiếp chỉ đối tượng đi kèm. Các bổ ngữ trực tiếp này


thường do đại từ nhân xưng đảm nhận. Theo quan sát của chúng tôi, tùy thuộc vào mối
quan hệ liên hệ cá nhân (quan hệ thana – sơ, hay quan hệ vị thế) giữa những người
tham gia giao tiếp mà các đại từ nhân xưng có sự phân ngôi rất rõ rang. Ví dụ: Cháu
chào Bà ạ! Em chào Thầy!
Lời chào ở dạng đầy đủ như trên thường thấy ở người có vị thế giao tiếp thấp hơn đối
với người có vị thế giao tiếp co hơn. Trong khi đó kiểu chào khuyết chủ thể hoặc khuyết

tình thái từ như “chào bác, chào cậu, chào chú” lại thường dành cho người có vị thế
giao tiếp cao hơn chủ động chào ĐTGT có vị thế giao tiếp thấp hơn howajc giữa họ có
vai giao tiếp ngang nhau. Chính đặc điểm này đã làm nên nét cụ thể trong lời chào của
người Việt: đối tượng cụ thể và hoàn cảnh cụ thể. So sánh: Chào Bác! Chào Cô! >< Tôi
chào cậu! Hoặc Cháu chào bác!
Biểu thức chào khuyết đối tượng (Chào! Xin chào! Chào nhé!) thường dành cho những
người có vai giao tiesp ngang nhau và có mối quan hệ thân thiết. Kiểu chào đơn giản,
ngắn gọn có vẻ như tiện lợi này có lẽ bị ảnh hưởng của lời chào phương Tây như
Hello! Bonjour! Bonne nuit! Good morning! Good afternoon!... Theo quan sát thực tế
của chúng tôi, cùng với kiểu chào ngắn gọn này lời chào bằng ngoại ngữ (Hello! Hi!...)
được nhiều người sử dụng nhất là giới trẻ. Ngược lại những kiểu chào củ như CTGT
lạy DTGT ạ! Bẩm DTGT… cùng với thái độ khúm núm của người chào đang có xu
hướng vắng bóng dần trong xã hội hiện nay kể cả đối với những người trọng lễ nghĩa
nhất.
Một nét độc đáo trong lời chào của người Việt là CTGT có thể bộc lộ thái độ, tình cảm
của một đối với người được chào. Thêm tình thái từ “ạ” vào biểu thức “chào” bạn có thể
thể hện sự kính trọng của mình đối với người có vị thế giao tiếp cao hơn. Cùng với
những từ xưng hô thân tộc, các tình thái từ trong lời chào góp phần làm nên nét văn
hóa của người Việt: “trọng tình, trọng nghĩa, các thành viên coi nhau như người một
nhà”. Nó khác xa với lối chào chung, chào khuyết vai và trung hòa về sắc thái trong
ngôn ngữ Ấn – Âu. Biểu thức “xin kính chào”, “kính chào”, “chào mừng”, “nhiệt liệt chào
mừng”, “xin gởi lời chào”… thường dung trong những cuộc giao tiếp mang mang tính
nghi thức như hội nghị, hội họp… hoặc qua các phương tiện truyền thông.


2.2 Lời chào gián tiếp
Đây là những lời chào mà người phát ngôn sử dụng những hành vi ngôn ngữ khác
nhau như: hỏi, khen, đề nghị, nhận xét, chúc, thông báo… nhưng tất cả đều hướng tới
một hiệu lực ở lời chung là chào. Nghiên cứu hành vi ngôn ngữ gián tiếp nói chung và
lời chào gian tiếp nói riêng là một vấn đề phức tập bởi “môi trường sống” của nó chính

là đời sống giao tiếp thường nhật – nơi mà “chúng ta truyền bá thông tin nhiều hơn lời
mình nói ra”. Muốn giải mã được những hành vi hàm ẩn, muốn lĩnh hội hết lượng thông
tin hàm ẩn chúng ta phải dựa vào nhiều yếu tố đặc biệt là phải đặt nó trong một môi
trường văn hóa riêng của từng cộng đồng dân tộc. Chẳng hạn người Việt Nam thường
có thói quen chào bằng cách hỏi – hỏi chính công việc mà đối tượng đang làm tại thời
điểm đó:
- Cụ đang làm gì đấy ạ?
- Bác đi đâu đấy?
- Bác đi làm à?
- Bác đi chợ sớm thế?
- Bác ăn cơm chưa?

Ở đây người hỏi mà không cần nghe câu trả lời của người được hỏi. Họ không hề
muốn biest người được hỏi “đang làm gi”, “đi đâu”, hay “ăn cơm chưa”, “có phải đi làm
hay không”… như đặc trưng của câu nghi vấn. Theo Saville – Troike đây chỉ là một “thủ
tục chào hỏi mà về bản chất không có ý nghĩa gì ngoài chức năng đánh tiếng trong giao
tiếp”. Bởi thế để đáp lại cho câu chào này có thể là một cử chỉ (gật đầu, mĩm c ười…),
một lời đáp bang quơ hoặc đôi khi là một lời hỏi lại:
- Bác đi đâu mà sớm thế?
- Ừ, thế cháu đi làm à?


Ẩn sau lời chào “vòng vo” ấy chính là một lối sống mang tính cộng đồng của ng ười Việt
– nơi mà mọi thành viên thường hỏi han để bộc lộ sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau.
Nhưng cũng hành vi ngôn ngữ ấy ta đặt trong môi trường văn hóa khác thì kết quả lại
khác. Xin trích dẫn lại một câu chuyện để nhìn rõ hơn điểm khác biệt này. “Có một nhà
khoa học người Hà Lan đến sống ở làng quê Việt Nam nhiều tháng để nghiên cứu về
nông thôn. Bà con nông dân ở đây gặp Bác đã chào:
- Bác John đi đâu đấy?
Và Bác John đã trả lời là “Đi thẳng” để đáp lại câu chào của người Việt.

Xét rộng hơn, ta đặt những phát ngôn đó trong nền văn hóa phương Tây – một nền văn
hóa thiên về “lịch sự âm tính” thì đó không phải là những lời chào để gắn kết mối quan
hệ nữa mà lại trở thành hành vi xâm phạm tự do cá nhân. “Sự quan tâm” (concern) là
một giá trị tích cực trong văn hóa Việt thể hiện qua lời chào – hỏi không được giải mã
trong nền văn hóa mà “tính riêng tư” (privacy) được đề cao. Chào nhau người phương
Tây thường sử dụng câu hỏi rất chung chung mang tính chất xã giao: Good morning!
How are you? Where are you going?...
Nếu như lời chào trực tiếp của người Việt chỉ tập trung ở một số biểu thức trên và
thường được dung theo nghi thức, có tính chất xã giao thì lời chào gián tiếp của người
Việt biểu hiện phong phú hơn, đa dạng hơn, tần số sử dụng nhiều hơn và thể hiện rõ
nét hơn đặc trưng văn hóa dân tộc.
2.2.1 Chào bằng hỏi
Với người Việt khi than quen rồi thì hỏi mới là cách biểu thị sự quan tâm, làm tang thêm
mối quan hệ than tình, gần gũi. Phạm vi hỏi rất cụ thể, tỉ mỉ và chi tiết: từ tình hình gia
đình, công việc đến sức khỏe… tùy theo mức độ than tình giữa các cá nhân với nhau.
Hỏi thăm sức khỏe:
- Thế nào? Khỏe chứ?
- Khỏe không?


- Dạo này Bác vẫ khỏe chứ ạ?
Hỏi thăm gia đình:
- Mọi người vẫn ổn cả chứ?
Hỏi thăm công việc:
- Dạo này công việc thế nào?
- Thế nào, công việc vẫn tốt chứ?
- Tình hình công việc có gì mới không?
Hỏi thăm về quê quán (trong những cuộc giao tiếp lần đầu gặp mặt)
- Quê bạn ở đâu?
- Có phải bạn ở Nam Định không?


Hỏi về hoạt động đang diễn ra của người cùng giao tiếp:
- Bác đi chợ à?
- Chị đi làm à?
- Đưa con đi học à?
-…
2.2.2 Chào bằng lời hô gọi
- Ôi, Chị!
- Kìa, Anh Minh!
- A, Mẹ!


- A, Mẹ đã về! Mẹ đã về!
- Trời ơi, Anh!
Các lời chào này thường thể hiện thái độ vui mừng, sung sướng hay ngạc nhiên tức
thời của người phát ngôn khi người cùng giao tiếp bất ngờ xuất hiện. Bên cạnh hành vi
ngôn ngữ reo gọi, CTGT thường kèm them các cử chỉ, điệu bộ như ánh mắt, vẫy tay, vỗ
tay… nhằm làm tang them hiệu quả giao tiếp. Về cấu tạo: biểu thức này th ường chứa
đối tượng gọi kèm với các tình thái từ để bộc lộ cảm xúc như: Kìa! Trời! Này! Trời ơ! A!
Ôi!... Ngữ điệu – một phương tiện quan trọng có chức năng biểu thị thái độ, tình cảm
của người nói được coi là mmojt đặc trưng cơ bản của kiểu phát ngôn này.
2.2.3 Chào bằng lời chúc
- Chúc mừng Ông!
- Chúc mừng nhé!
- Xin chúc mừng Chị!
Để dung được kiểu chào gián tiếp bằng cách chúc mừng này thì giữa hai bên giao tiếp
phải có chung tiền giả định: CTGT biết một sự kiện gì đó mà đã thành công của ĐTGT
để khi CTGT nói “chúc mừng” thì ĐTGT sẽ biết là SP1 nhắc tới sự kiện nào. Đây là kiểu
chào của những người than quen, thường xuyên có mối liên hệ với nhau hoặc chí ít
cũng quan tâm đến tình hình của nhau một cách gián tiếp. Nếu ít quan tâm đến nhau

hoặc lâu lâu không nghe thông tin gì về nhau thì không thể chào theo kiểu này.
Kiểu chào – chúc cũng rất phổ biến trong một số ngôn ngữ khác như tiếng Anh, tiếng
Pháp… Có điều lời chào chúc của người Anh hay người Pháp thường phân biệt theo
thời gian: sáng, trưa, tối, đêm… kèm theo tình từ “good”, “bon”, “bone” để chúc sự tốt
lành. Ví dụ Bonjour!, Bonsoir!, Good morning!, Good afternoon!...
2.2.4 Chào bằng lời
- Mời bác vào xơi cơm ạ!


- Mời bác vào chơi!

Các phát ngôn trên chứa động từ ngữ vi “mời” hoặc là hành vi ngôn ngữ có nội dung
mời. Với người Việt, đây là lời mời xã giao thay cho lời chào. Thường thì người Việt
thường mời “xơi nước” khi khách đến chơi. Và nếu vô tình gặp bữa thì chủ nhà mừi xơi
cơm. Việc lý giải vì sao người Việt thường chào khách bằng cách mời cùng xơi cơm là
một công việc khá thú vị, đòi hỏi một phương pháp tiếp cận liên ngành.. Trong phạm vi
nghiên cứu này chúng ta hiểu rằng đây là một hành vi đẹp nhằm bày tỏ long hiếu
khách, bày tỏ một thái độ chân tình, cởi mở. Chính vi thế chủ thể và đối tượng không có
ý định thực hiện hành động theo lời mời. Đáp lại lời chào mời của chủ nhà là lời từ chối
kèm lời cám ơn: Vâng, cám ơn bác; Vâng, mọi người cứ tự nhiên! Vâng, cám ơn Bác,
tôi ăn rồi!...
2.2.5 Chào bằng lời khen, lời nhận xét
- Ai mà diện thế nhỉ?
- Đẹp đôi ghê!
- Xe mới à? Sành điệu thế?

Thông thường khen là một hành vi ngôn ngữ quen thuộc tồn tại trong mọi cộng đồng
dân tộc, mọi nền văn hóa khác nhau. Theo TS. Nguyễn Quang, hành vi mang tính tích
cực này được “sử dụng với nhiều mục đích như bắt đầu một câu chuyện, tranh thủ tình
cảm, biểu thị sự quan tâm, tỏ lòng ngưỡng mộ…”. Với người Việt, hành vi khen thưởng

dung để khen nhưng cũng có thể dung để chào. Điểm tương đồng của hai hành vi này
đều nhằm thể hiện sự quan tâm đối với đối tượng giao tiếp. Trong trường hợp trên, ta
có thể thấy người Việt khen hay tiếp nhận lời khen thay như một câu chào. Vì thế khi
đáp lại “lời khen” ấy ta ít bắt gặp những câu trả lời mang tính khách sáo nh ư: Cám ơn
Anh (Chị) đã có lời khen! Có thật đẹp không? Cũng bình thường thôi! Khen tớ có mà
khen cả ngày!... Hay Làm sao sành điệu bằng được xe của cậu!... Mà thường là câu


hỏi với mục đích chào đáp lại như: Đi đâu? Đi làm à?... Hoặc là các cử chỉ ngôn ngữ.
Chào bằng lời khen thường tạo cho người giao tiếp cảm giác hài long, có tác dụng tích
cực trong việc duy trì mối quan hệ tình cảm.
2.3 Vài nhận xét về lời chào của người Việt hiện nay
Theo quan sát của chúng tôi, về cơ bản người Việt sử dụng mọi kiểu chào trên đây để
bày tỏ thiện chí, bày tỏ sự tôn trọng, lịch sự đối với người quen mà mình gặp gỡ...
Chào hỏi có nghĩa là khẳng định và củng cố them mối quan hệ vốn có của con người
đồng thời có thể thiết lập các mối quan hệ mới. Như trên đã trình bày, để chào một ai
đó người Việt có thể chào, có thể hỏi, có thể chúc, có thể khen… nhưng trên thực tế thì
lời chào được biểu hiện rất đa dạng, rất linh hoạt và rất… Việt Nam. Người Việt vẫn
chào bằng cách hỏi nhưng các câu chào hỏi kiểu: Bác ăn cơm chưa? Chị làm gì đấy?
Bà đi chợ à?... hiện nay có xu hướng ít sử dụng hơn hoặc nếu có thì ta thường tháy ở
nông thôn đặc biệt là ở những cụ già. Thay vào đó chúng ta nhất là những người làm
việc công sở có xu hướng hỏi về sức khỏe, hỏi về tình hình công việc… Kiểu chào này
kết hợp với hành động bắt tay, vỗ vai thường được nam giới sử dụng nhiều hơn. Ví dụ:
Chào Ông! Ông khỏe chứ!, Xin chào! Thế tình hình có gì mới không?, Chào em! Mọi
việc (mọi việc) vẫn ổn cả chứ?... Với nữ giới, lời chào có chút khác biệt: sau lời chào là
hỏi hoặc chào bằng hành vi hỏi nhưng phạm vi hỏi của họ rộng hơn. Ngoài sức khỏe,
tình hình công việc… thì gia đình, con cái, về quần áo, đầu tóc… là đối t ượng quan tâm
của họ. Tùy theo mối quan hệ than sơ và tùy theo mối quan hệ vị thế củ từng người mà
lời chào hỏi của họ là chung chung, là xã giao hay cụ thể, chi tiết.
Đối với những người già, mối quan tâm hang đầu là sức khỏe, thứ đến là gia đình nên

ngoài những câu chào trực tiếp nếu hỏi, họ ít hỏi: Tình hình thế nào?, Có gì mới không?
như lúc còn đang đi làm. Các câu chào – hỏi của họ thường là Bác vẫn khỏe chứ? Sức
khỏe của Bác vẫn ổn chứ?... Ngược lại giới trẻ ít chào bằng hỏi, bằng chúc, bằng mời...
đối với mọi đối tượng. Với người có vị thế giao tiếp cao hơn, các em thường dung biểu
thức chào trực tiếp kèm từ “ạ” để tỏ thái độ kính trọng. Đối với bạn bè, các em có kiểu
chào riêng. Đây là mối quan hệ bình đẳng, không nằm trong vòng cương tỏa của tôn ti,
vị thế nên các em thường dung các kiểu chào thoải mái, ít tuân theo nghi thức như


bằng các cử chỉ phi ngôn gnuwx: giơ tay, vẫy tay, nháy mắt… hoặc dung các biểu thức
chào khuyết thiếu, hoặc chào bằng các câu chào của người nước ngoài



×