Tải bản đầy đủ (.docx) (175 trang)

Thuật ngữ về thị trường chứng khoán trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.56 KB, 175 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CHU THỊ HOÀNG GIANG

THUẬT NGỮ VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CHU THỊ HOÀNG GIANG

THUẬT NGỮ VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TRONG TIẾNG VIỆT
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã ngành: 9220102

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn: PGS. TS HÀ QUANG NĂNG

THÁI NGUYÊN - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kì công trình nào khác. Nội dung luận án có tham khảo và sử dụng ngữ liệu được
trích dẫn từ các tác phẩm và nguồn tư liệu đăng tải trên các trang thông tin điện tử
theo danh mục tài liệu tham khảo của luận án.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2019
Tác giả luận án

Chu Thị Hoàng Giang


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS Hà Quang
Năng, người đã hướng dẫn viết luận án này.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô đã giảng dạy cho tác giả. Xin cảm ơn sự
giúp đỡ nhiệt tình và chu đáo của các cán bộ Khoa Ngữ văn và Phòng Đào tạo
Trường Đại học sư phạm - Đại học thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp tác giả trong
quá trình hoàn thành luận án.
Xin nhớ ơn gia đình và bạn bè đã động viên chia sẻ và tiếp thêm nghị lực
trong những lúc khó khăn nhất, giúp tác giả hoàn thành luận án.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2019
Tác giả luận án
Chu Thị Hoàng Giang


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................ii

MỤC LỤC................................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.......................................................................iv
DANH MỤC CÁC BẢNG........................................................................................v
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................2
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu......................................................................3
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án.................................................................4
6. Cấu trúc của luận án..............................................................................................4
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN.......................................................................................................................5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.........................................................................5
1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ.......................................................................5
1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ về thị trường chứng khoán..........................19
1.2. Cơ sở lí luận......................................................................................................20
1.2.1. Cơ sở lí luận về thuật ngữ..............................................................................20
1.2.2. Cơ sở lí luận về định danh.............................................................................30
1.2.3. Cơ sở lí luận về thị trường chứng khoán và thuật ngữ thị trường
chứng khoán............................................................................................................ 33
1.2.4. Cơ sở lí luận về “chuẩn hóa”.........................................................................34
1.3. Tiểu kết.............................................................................................................46
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THUẬT NGỮ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN TIẾNG VIỆT..........................................................................47
2.1. Đặc điểm từ loại và nguồn gốc của thuật ngữ thị trường chứng khoán
tiếng Việt.................................................................................................................47
2.1.1. Đặc điểm từ loại của thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt................47


2.1.2. Đặc điểm nguồn gốc thuật ngữ và yếu tố thuật ngữ thị trường chứng

khoán tiếng Việt.......................................................................................................48
2.2. Đặc điểm của thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt xét về số lượng
các thành tố và yếu tố cấu tạo..................................................................................51
2.2.1. Khái niệm “thành tố” và “yếu tố” của thuật ngữ thị trường chứng khoán
tiếng Việt.................................................................................................................51
2.2.2. Thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt xét về số lượng các yếu tố
................................................................................................................................. 56
2.3. Đặc điểm của thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt xét theo
phương thức cấu tạo................................................................................................60
2.3.1. Khái quát về tư liệu và hướng tìm hiểu về phương thức cấu tạo của thuật
ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt....................................................................60
2.3.2. Cấu tạo của thuật ngữ thị trường chứng khoán..............................................61
2.4. Tiểu kết.............................................................................................................73
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ CÁCH ĐỊNH DANH CỦA
THUẬT NGỮ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TIẾNG VIỆT.........75
3.1. Đặc điểm thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt xét về mặt ngữ nghĩa
................................................................................................................................. 75
3.1.1. Thuật ngữ chỉ cơ cấu, tổ chức trong thị trường chứng khoán.........................75
3.1.2. Thuật ngữ chỉ nguyên tắc hoạt động, quản lí, điều hành, giám sát trong
thị trường chứng khoán............................................................................................77
3.1.3. Thuật ngữ chỉ chủ thể tham gia trong thị trường chứng khoán......................79
3.1.4. Thuật ngữ chỉ các sản phẩm trong thị trường chứng khoán...........................80
3.1.5. Thuật ngữ chỉ đặc điểm hoạt động trong thị trường chứng khoán..................82
3.1.6. Thuật ngữ chỉ tính chất, trạng thái trong thị trường chứng khoán..................84
3.1.7. Thuật ngữ chỉ hoạt động phát hành trong thị trường chứng khoán................85
3.1.8. Thuật ngữ chỉ các yếu tố ảnh hưởng lưu hành trong thị trường chứng khoán
................................................................................................................................. 85
3.1.9. Thuật ngữ chỉ biểu đồ, đồ thị trong thị trường chứng khoán thế giới.................87
3.1.10. Thuật ngữ chỉ các tiêu chuẩn đánh giá trong thị trường chứng khoán................87



3.2. Đặc điểm thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt xét về mặt định danh.........88
3.2.1. Đặc điểm định danh của thuật ngữ thị trường chứng khoán Việt - đơn vị
định danh đơn giản..................................................................................................88
3.2.2. Đặc điểm định danh của thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt đơn vị định danh phức hợp......................................................................................89
3.3. Tiểu kết...........................................................................................................106
Chương 4: ĐỀ XUẤT ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
THUẬT NGỮ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TIẾNG VIỆT........108
4.1. Chuẩn hóa thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt.................................108
4.1.1. Chuẩn hóa thuật ngữ thị trường chứng khoán trong yêu cầu của thuật
ngữ tiếng Việt........................................................................................................108
4.1.2. Quá trình chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt.....................................................109
4.1.3. Những cách xử lí đã gặp trên con đường hình thành và phát triển thuật
ngữ nói chung và thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt.............................112
4.1.4. Định hướng chuẩn hóa thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt
............................................................................................................................... 121
4.2. Một số đề xuất trong việc chuẩn hóa thuật ngữ thị trường chứng khoán
tiếng Việt...............................................................................................................132
4.2.1. Thực trạng thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt.............................132
4.2.2. Những đề xuất cụ thể trong việc chuẩn hóa và xây dựng thuật ngữ thị
trường chứng khoán tiếng Việt..............................................................................136
4.3. Tiểu kết...........................................................................................................146
KẾT LUẬN..........................................................................................................148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.......................................................................................153
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................154


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


TTCK

Thị trường chứng khoán

TL

Tài liệu


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng hợp đặc điểm từ loại của thuật ngữ TTCK tiếng Việt.....................47
Bảng 2.2: Tổng hợp nguồn gốc thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt.........49
Bảng 2.3: Tổng hợp số lượng thuật ngữ TTCK theo yếu tố cấu tạo........................60
Bảng 2.4:Tổng hợp thuật ngữ TTCK tiếng Việt theo phương thức cấu tạo.............71
Bảng 3.1: Tổng hợp các mô hình định danh TNTTCK tiếng Việt.........................104
Bảng 4.1. Các tiêu chuẩn của thuật ngữ tiếng Việt................................................129


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Kể từ khi Việt Nam bắt đầu quá trình đổi mới (1986), và đặc biệt là từ
khi gia nhập các tổ chức quốc tế như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
Diễn đàn Kinh tế khu vực Châu Á Thái Bình Dương (APEC), hoặc mới đây nhất là
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã hội nhập vào thế giới sâu rộng
trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, v.v… Do sự phát triển của nền kinh
tế, nhu cầu về tích vốn và đầu tư vốn trong xã hội tăng lên và trở nên đa dạng,
phong phú. Từ đó xuất hiện và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) - một thị
trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán; có vai
trò điều tiết các lĩnh vực liên quan đến giao dịch tiền, nguồn vốn và các công cụ tài
chính tiền tệ, là định chế nhằm mục tiêu thực hiện các chính sách vĩ mô và vi mô

của Chính phủ. TTCK ngày càng có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt
Nam, nhận được sự chú ý của những nhà kinh tế học và các thành phần xã hội tham
gia vào thị trường này.
1.2. Hiện nay, những cơ hội phát triển cũng như thách thức của hoạt động
thuộc lĩnh vực TTCK trong xu thế hội nhập, trong cơ chế thị trường, đòi hỏi khoa
học về TTCK cũng phải phát triển và sớm theo kịp hoạt động thực tiễn của TTCK,
đáp ứng được sự phát triển mạnh mẽ của thực tiễn hoạt động thị trường tài chính
của nền kinh tế thị trường của nước ta, cũng như sự thay đổi mạnh mẽ của xã hội.
Giống như trong các ngành khoa học - kinh tế khác, ngôn ngữ trong giao dịch của
TTCK cũng có vẻ riêng biệt, mang tính chất của “thị trường” và “chứng khoán”.
Các thuật ngữ thuộc lĩnh vực TTCK được ra đời và phát triển nhanh chóng nhằm
đảm bảo giao dịch trong lĩnh vực này.
Trong những năm gần đây, việc đi vào tìm hiểu đặc điểm thuật ngữ của một
ngành khoa học cụ thể dựa trên những thành tựu lí luận chung về thuật ngữ đã rất
được quan tâm, vì thường mang tính ứng dụng thiết thực, đáp ứng được nhu cầu
thực tế của xã hội. Tuy vậy, nhìn về tình hình nghiên cứu từ trước đến nay, có thể
thấy cả về mặt lí luận và thực tiễn thuật ngữ TTCK ở Việt Nam chưa thực sự được
chú tâm nghiên cứu. Các công trình về thuật ngữ ở Việt Nam nhìn chung ít đề cập
đến lĩnh vực này, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên
sâu vào bản chất hệ thuật ngữ TTCK trên phương diện ngôn ngữ học.
1.3. Trong bối cảnh ngành TTCK nước ta còn rất non trẻ như hiện nay, có
một số thuật ngữ TTCK tiếng Việt chưa biểu đạt được chính xác khái niệm,


nhiều thuật ngữ đồng nghĩa cùng được sử dụng mà chưa được chuẩn hóa, thậm
chí có nhiều trường hợp các khái niệm được diễn đạt bằng những cụm từ còn
mang sắc thái miêu tả, chứ chưa có tính chất định danh như thuật ngữ. Có không
ít thuật ngữ TTCK có trong tiếng Anh đến nay chưa có dạng thức tương đương
trong tiếng Việt, rất cần vay mượn hoặc “đối dịch” để bổ sung cho vốn thuật ngữ
TTCK tiếng Việt.

Vì những lí do trên, đề tài "Thuật ngữ về thị trường chứng khoán trong
tiếng Việt" đã được chọn làm hướng nghiên cứu cho luận án này.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống thuật ngữ TTCK tiếng Việt,
tức là các thuật ngữ được sử dụng trong lĩnh vực TTCK chính thức. Những thuật
ngữ này đã được ghi nhận trong các công trình tra cứu được kể đến trong mục
Tư liệu nghiên cứu ở sau.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Các đặc điểm của hệ thuật ngữ TTCK tiếng Việt như phương thức cấu tạo,
cách thức định danh, đặc điểm ngữ nghĩa, vấn đề chuẩn hóa..., sẽ được chú ý khảo
sát nghiên cứu trong luận án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở chỉ ra những đặc điểm cơ bản và riêng biệt của hệ thuật ngữ TTCK
tiếng Việt về phương diện cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa và đặc điểm định danh, nhằm
đề xuất một số định hướng, cách thức xây dựng và phát triển thuật ngữ TTCK tiếng
Việt hiện nay, đề xuất hướng chuẩn hóa thuật ngữ TTCK tiếng Việt đã có.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
a. Hệ thống hóa những vấn đề đặt ra đối với thuật ngữ, từ đó xác lập cơ sở lí
luận cho nghiên cứu trong luận án;
b. Khảo sát, thống kê phân loại các thuật ngữ TTCK tiếng Việt; tìm hiểu đặc
điểm cấu tạo thuật ngữ TTCK tiếng Việt gồm: nhận diện thuật ngữ, tìm hiểu những
con đường tạo thuật ngữ và các kiểu cấu tạo, xác định các loại mô hình kết hợp các
thành tố để tạo thành thuật ngữ TTCK trong tiếng Việt;
c. Tìm hiểu đặc điểm các nhóm ngữ nghĩa và cách thức định danh của thuật
ngữ TTCK tiếng Việt;
d. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất phương hướng, biện pháp
cụ thể để xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ TTCK tiếng Việt.



4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Tư liệu nghiên cứu
Luận án tiến hành khảo sát các thuật ngữ đã được tập hợp trong:
- Từ điển thuật ngữ thị trường chứng khoán Anh -Anh - Việt (Lê Công
Thượng tổng hợp và biên dịch, Nxb. Trẻ, 2004).
- Thuật ngữ chứng khoán (Nguyễn Phi Long, Nxb. Đà Nẵng, 2007).
- Từ điển chứng khoán Anh - Việt (Nguyễn Trọng Đàn, Nxb. Thống kê, 2007).
- Từ điển thị trường chứng khoán Anh - Việt (Đặng Quang Gia, Nxb.
Thống kê, 2009).
-Từ điển thuật ngữ thị trường chứng khoán Anh - Việt (Nguyễn Văn Đáng
tổng hợp và biên dịch, Nxb.Thống kê, 2010).
-Từ điển thuật ngữ thị trường chứng khoán Anh -Anh - Việt (do tác giả
Null tổng hợp và biên dịch, Nxb.Trẻ, 2012).
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả dùng để chỉ ra (tả) các phương thức tạo thành thuật
ngữ, các kiểu cấu tạo thuật ngữ, các nhóm thuật ngữ xét về ngữ nghĩa, các mô hình
định danh được sử dụng trong lĩnh vực TTCK..., của hệ thuật ngữ TTCK tiếng Việt.
4.2.2. Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp
Phương pháp này được áp dụng để phân tích các mô hình cấu tạo thuật ngữ
theo thành tố trực tiếp trên cơ sở đã xác định rõ các yếu tố cấu tạo thuật ngữ. Từ đó,
tìm ra được các nguyên tắc tạo thành thuật ngữ TTCK tiếng Việt, các mô hình cấu
tạo của chúng và các quy tắc cụ thể tạo nên hệ thuật ngữ này.
4.2.3. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa
Phương pháp này được áp dụng để phân tích ngữ nghĩa của các thuật ngữ
TTCK tiếng Việt, từ đó xác lập các mô hình định danh thuật ngữ, các nét đặc trưng
làm cơ sở định danh của hệ thuật ngữ và các kiểu quan hệ ngữ nghĩa là cơ sở tạo
nên thuật ngữ TTCK tiếng Việt.
4.2.4. Thủ pháp thống kê phân loại

Thủ pháp này được sử dụng để thu thập thuật ngữ TTCK tiếng Việt từ các từ
điển, phân loại thuật ngữ theo đặc điểm cấu tạo, đặc điểm định danh, xác định số
lượng, tần số xuất hiện, tỉ lệ của các phương thức tạo thành thuật ngữ, các mô hình
định danh thuật ngữ. Các kết quả thống kê sẽ được tổng hợp lại dưới hình thức của
bảng biểu giúp hình dung rõ hơn các nét đặc trưng cơ bản về cấu tạo của thuật ngữ
TTCK trong tiếng Việt.


5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa lí luận
Luận án góp tư liệu và chứng tỏ khả năng phần áp dụng cơ sở lí luận về thuật
ngữ học và chuẩn hóa thuật ngữ, cũng như từ vựng ngữ nghĩa nói chung, vào cơ sở
nghiên cứu hệ thuật ngữ của một ngành và ngôn ngữ cụ thể: TTCK tiếng Việt. Từ
đó kết quả luận án có thể góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho việc xây
dựng hệ thống thuật ngữ ở Việt Nam trong thời kì hội nhập và toàn cầu hóa. Ngoài
ra, luận án còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu thuật ngữ học.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể:
- Giúp xác định được các biện pháp, phương hướng cấu tạo các thuật ngữ
TTCK tiếng Việt. Đóng góp thiết thực cho việc chỉnh lí hệ thống thuật ngữ TTCK
đã có trong tiếng Việt.
- Là cơ sở để biên soạn từ điển thuật ngữ TTCK tiếng Việt, phục vụ cho sự
phát triển thị trường tài chính của nền kinh tế thị trường của nước ta.
- Phục vụ thiết thực cho việc giảng dạy và biên soạn giáo trình ngành thị
trường chứng khoán.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương
được bố cục như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ thị trường chứng khoán tiếng Việt

Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa và cách định danh của thuật ngữ thị trường
chứng khoán tiếng Việt.
Chương 4: Một số đề xuất định hướng xây dựng và phát triển thuật ngữ thị
trường chứng khoán tiếng Việt.


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở nước ngoài
Trên thế giới, việc nghiên cứu thuật ngữ theo truyền thống chủ yếu được chú
ý theo các khía cạnh: cấu tạo thuật ngữ, chuẩn hóa thuật ngữ và có vài công trình lí
luận về thuật ngữ trong các ngành nhất định, về đặc điểm từ vựng và ngữ pháp của
thuật ngữ v.v..
Ở thế kỉ 18, các nghiên cứu về thuật ngữ bắt đầu manh nha với điểm chung
cùng có nội dung tạo lập, xây dựng và sơ khai xác định các nguyên tắc cho một số
hệ thuật ngữ đặc biệt. Một số tác giả gắn liền với những nghiên cứu được cho là
người tiên phong trong công tác nghiên cứu thuật ngữ như Carl von Linné (1736);
(Beckmann, 1780); A.L. Lavoisier, G.de Morveau, M.Berthellot và A.F.de Fourcoy
(1789) và William Wehwell (1840). Mặc dù vậy, ý tưởng về một khoa học thuật ngữ
phải đến đầu thế kỉ 20 mới hình thành. Ở thế kỉ này, việc nghiên cứu thuật ngữ mới
có được định hướng khoa học và được công nhận là một hoạt động quan trọng về
mặt xã hội. Từ những năm 1930, việc nghiên cứu thuật ngữ thực sự diễn ra một
cách đồng thời với những công trình nghiên cứu thuật ngữ của các học giả Liên Xô
cũ, Cộng hòa Séc và Áo.
Việc nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới đã sớm bắt đầu ngay từ thế kỉ 18.
Các nghiên cứu thời kì đầu này nhìn chung đều tập trung vào việc tạo lập, xây dựng
và bước đầu xác định các nguyên tắc cho một số hệ thuật ngữ cụ thể.
Tuy nhiên, ý tưởng về một khoa học thuật ngữ phải đến đầu thế kỷ 20 mới hình

thành. Chỉ đến thế kỉ 20, việc nghiên cứu thuật ngữ mới có được định hướng khoa học
và được công nhận là một hoạt động quan trọng về mặt xã hội. Việc nghiên cứu thuật
ngữ ở thế kỉ 20 thực sự diễn ra từ những năm 1930 một cách đồng thời nhưng độc lập
bởi các học giả người Áo, Liên Xô cũ và Cộng hòa Séc. Những nghiên cứu này được
coi là nền tảng cho sự khởi đầu của ngành khoa học thuật ngữ trên thế giới.
Nhìn chung quá trình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới theo ba xu hướng:
thuật ngữ và sự phù hợp với hệ thống ngôn ngữ, thuật ngữ trong dịch thuật và thuật
ngữ trong kế hoạch hóa ngôn ngữ. Dưới đây, xin tập trung tìm hiểu hướng nghiên
cứu thuật ngữ trong sự điều chỉnh phù hợp với hệ thống ngôn ngữ bởi vì điều đó
liên quan trực tiếp đến đề tài luận án.


Khi nói tới hướng nghiên cứu thuật ngữ theo sự điều chỉnh phù hợp với hệ
thống ngôn ngữ, không thế không nhắc tới ba trường phái và cũng là ba cái nôi
nghiên cứu thuật ngữ: Áo, Liên Xô và Cộng hòa Séc.
1/ Trường phái nghiên cứu thuật ngữ của Áo
Trường phái này gắn liền với tên tuổi của E.Wuster (1898-1977), người
không chỉ được coi là đã tạo nên diện mạo của công tác nghiên cứu và phát triển
thuật ngữ hiện đại ở thế kỉ 20, mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến việc nghiên cứu
thuật ngữ của nhiều học giả sau này. Trong tác phẩm Lí luận chung về thuật ngữ của
Wuster (1931), các phương pháp nghiên cứu thuật ngữ theo những nguyên tắc nhất
định đã được trình bày rất rõ ràng. Trong tác phẩm của mình (1931), ông đã đề cập
đến những khía cạnh ngôn ngữ học của công tác nghiên cứu thuật ngữ liên quan đến
hệ thống tên gọi của lĩnh vực kĩ thuật. Đáng chú ý là các tranh luận của ông về việc
hệ thống hóa các phương pháp nghiên cứu thuật ngữ, đưa ra một số nguyên tắc khi
sử dụng thuật ngữ và chỉ ra những điểm chính của phương pháp xử lí ngữ liệu thuật
ngữ. Công trình của ông đã được Leo Weisgeber (1975) đánh giá như là một cột
mốc của ngôn ngữ học ứng dụng.
Đặc điểm quan trọng nhất của trường phái nghiên cứu thuật ngữ Áo là tập
trung vào các khái niệm và hướng việc nghiên cứu thuật ngữ vào chuẩn hóa các

thuật ngữ và các khái niệm. Tầm quan trọng của trường phái này là đã phát triển
một kho tàng lí luận gồm các nguyên tắc và các phương pháp tạo nền tảng cơ bản
cho nghiên cứu lí luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu của trường phái này xuất phát
từ nhu cầu của các nhà kĩ thuật và các nhà khoa học là chuẩn hóa thuật ngữ trong
lĩnh vực của họ để đảm bảo sự giao tiếp hiệu quả và có thể truyền tải kiến thức
trong lĩnh vực chuyên môn. Những nguyên tắc về nghiên cứu thuật ngữ trong
trường phái nghiên cứu thuật ngữ Áo được phản ánh trong các tài liệu về chuẩn hóa
từ vựng của thuật ngữ. Đa số các nước vùng Trung Âu và Bắc Âu (Áo, Đức, Na Uy,
Thụy Sĩ, Đan Mạch) đều nghiên cứu thuật ngữ theo hướng này.
2/ Trường phái thuật ngữ học của Cộng hòa Séc
Đại diện tiêu biểu của trường phái này là L.Drodz - một trong những người
khởi xướng và phát triển từ cách tiếp cận ngôn ngữ về mặt chức năng của trường
phái ngôn ngữ học Praha.
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học trường phái này quan tâm đặc biệt đến
việc miêu tả cấu trúc và chức năng của các ngôn ngữ chuyên ngành, trong đó thuật
ngữ đóng vai trò quan trọng. Họ xem thuật ngữ như là những đơn vị tạo nên văn
phong nghề nghiệp mang tính chức năng. Nó ra đời do kết quả của bản chất đa ngôn


ngữ trong khu vực địa lí của nó. Có thể nói, mối quan tâm nhất của trường phái này
cũng là vấn đề chuẩn hóa các ngôn ngữ và chuẩn hóa thuật ngữ. Các ngôn ngữ
chuyên ngành theo trường phái này được coi là mang tính văn phong nghề nghiệp
tồn tại cùng những văn phong khác như văn học, báo chí và hội thoại.
3/ Trường phái nghiên cứu thuật ngữ của Nga Xô viết
Đây là trường phái được hình thành dựa trên các công trình nghiên cứu của
Lotte, Drezen, Caplygil và các cộng sự. Ngay từ thời kì đầu, trường phái này chịu ảnh
hưởng bởi công trình nghiên cứu về thuật ngữ của của Wuster. Vì vậy cũng như trường
phái nghiên cứu thuật ngữ của Áo, trường phái thuật ngữ xô viết chủ yếu nghiên cứu
về vấn đề chuẩn hóa các khái niệm và các thuật ngữ trên tinh thần của những vấn đề
liên quan đến chủ nghĩa đa ngôn ngữ của Liên bang xô viết. Ngay sau khi luận án của

Wuster được dịch sang tiếng Nga, đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu. Có thể nói, công tác nghiên cứu thuật ngữ ở Liên Xô từ những những năm 1930
trở đi phát triển rất mạnh mẽ và thu được những thành tựu rực rỡ:
“Về thuật ngữ học ở Nga, trong vòng một thế kỉ, đã xuất bản, công bố hàng
chục sách chuyên khảo, giáo trình, giáo khoa, hàng nghìn bài báo (gần 1600 bài
báo), hàng nghìn từ điển (từ 1950 đến 1979 đã xuất bản 1650 từ điển thuật ngữ).
Nhiều hội nghị, hội thảo về những vấn đề lí luận, phương pháp nghiên cứu và
những hoạt động thực tiễn trong khoa học về thuật ngữ được tổ chức; hàng năm có
nhiều luận án tiến sĩ, phó tiến sĩ được bảo vệ ở các cơ sở nghiên cứu, các trường
đại học trong cả nước. Nhiều công trình nghiên cứu về thuật ngữ học của các tác
giả người Nga được dịch và xuất bản ở nước ngoài” [67, 12].
Một đại diện tiêu biểu của trường phái nghiên cứu thuật ngữ Xô viết là Lotte
(1898-1950). Với công trình nghiên cứu Những vấn đề gây bức xúc trong trường
thuật ngữ khoa học và kĩ thuật, ông được coi là người đứng đầu trong công tác phát
triển hệ thuật ngữ hiện đại của Nga. Kulebakin (1993) đã nhận xét rằng mặc dù
Lotte không phải là người duy nhất nhưng lại là người để lại ảnh hưởng cho công
tác phát triển thuật ngữ về mặt lí thuyết. Lotte đã tạo ra nền móng về mặt lí thuyết
và phương pháp cho công tác thuật ngữ của Liên Xô. Theo Kulebakin, quan điểm
của Lotte có thể tóm tắt thành ý cơ bản sau đây: “Hệ thuật ngữ là toàn bộ các thuật
ngữ phù hợp với hệ thống khái niệm của một lĩnh vực khoa học hay kĩ thuật nào đó.
Hệ thống thuật ngữ thể hiện cái gọi là hệ thống khái niệm”. Một ý tưởng được coi
là trùng hợp hoàn toàn với quan điểm của Wuster [56, 8].
Một đặc điểm khá quan trọng của công tác phát triển thuật ngữ của Liên Xô
là thu hút các nhà ngôn ngữ học vào công tác nghiên cứu cơ bản về thuật ngữ từ rất


sớm. Trong đó có thể tìm thấy các công trình nghiên cứu của A.A.Reformatskij,
V.V.Vinogradov, G.O.Vinokur, T.L Kandelaki, V.M Leichich, A.X Gerd, X.V
Grinev, v.v.
Như vậy, cả ba trường phái nói trên đều có chung quan điểm là nghiên cứu

thuật ngữ dựa trên ngôn ngữ học, họ đều xem thuật ngữ như là một phương tiện để
diễn đạt và giao tiếp. Vì vậy cả ba trường phái đã hình thành cơ sở lí thuyết về thuật
ngữ và những nguyên lí mang tính phương pháp chi phối những ứng dụng của thuật
ngữ. Bên cạnh đó, những trường phái này là một trong những động lực chính cho
việc phát triển những hướng nghiên cứu thuật ngữ sau này -đó là thuật ngữ được
nghiên cứu theo hướng dịch thuật và kế hoạch hóa ngôn ngữ.
4/ Trường phái nghiên cứu thuật ngữ của Cộng hòa Liên bang Đức
Có thể nói, việc xây dựng hệ thuật ngữ ở Cộng hòa Liên bang Đức có những
bước tiến đáng kể. Công việc này ở Cộng hòa Liên bang Đức gồm hai loại:
- Những nghiên cứu mang tính hệ thống
- Những nghiên cứu mang tính nhất thời.
Theo các nhà thuật ngữ học ở Cộng hòa Liên bang Đức thì có những yếu tố
sau đây được coi là mang tính chất quyết định đối với công tác thuật ngữ trong thực
tiễn, chi phối rất mạnh kết quả của công tác này: 1. Mục đích của công việc; 2. Vốn
từ; 3. Mạng lưới các cộng tác viên; 4. Thời gian thực hiện; 5. Tài liệu; 6. Kĩ thuật xử
lí dữ liệu; 7. Yếu tố kinh tế; 8. Kế hoạch đào tạo các nhà thuật ngữ học. Trong thực
tiễn của công tác thuật ngữ, một loạt kinh nghiệm mang tính phương pháp đã được
các nhà thuật ngữ học áp dụng. Tuy nhiên, không phải tất cả những kinh nghiệm đó
có những đòi hỏi như nhau: 1. Những nghiên cứu mang tính ‘nhất thời”- công tác
dịch thuật không phải lúc nào người ta cũng có thể xử lí được toàn bộ các thuật ngữ
của cả một lĩnh vực chuyên ngành, dù là một lĩnh vực chuyên ngành nhỏ, và thể
hiện nó trong một tập từ vựng; 2. Sưu tập các từ chuyên ngành; 3. Soạn thảo các
trường khái niệm lớn hơn, được cấu trúc hóa đơn giản. Khi xác định một lĩnh vực
chuyên ngành cần xác định khái niệm, người ta sẽ chia nó thành các khu vực nhỏ
hơn để có thể bao quát được theo các khía cạnh chuyên môn hay theo sự phân chia
các sự vật, hiện tượng trong chuyên ngành; 4. Công tác xây dựng các hệ thuật ngữ
mang tính hệ thống. Muốn xây dựng một hệ thuật ngữ cho một lĩnh vực chuyên
ngành một cách hệ thống tới từng chi tiết thì việc đầu tiên người ta cũng phải tiến
hành phân chia sơ bộ nó: xác định ranh giới cho lĩnh vực chuyên ngành; chia lĩnh
vực chuyên ngành thành các đơn vị nhỏ hơn; tạo lập và phân tích tư liệu; thu thập

và sắp xếp bước đầu các tên gọi và các khái niệm cũng như mọi thông tin phục vụ


cho mục đích tìm được; xác định hệ thống khái niệm; xử lí tư liệu trong mối liên
quan với hệ thống; phân tích các thuật ngữ; trình bày các dữ liệu thuật ngữ cho
người sử dụng.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam
Từ 1986 trở về trước, việc nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam có một số điểm
đáng chú ý: Thứ nhất về mặt lí luận, các nghiên cứu chủ yếu tập trung, chú ý vào các
vấn đề lí luận thuật ngữ học như xác định khái niệm thuật ngữ, các tiêu chuẩn của thuật
ngữ, phương thức xây dựng thuật ngữ, vấn đề vay mượn thuật ngữ nước ngoài… Thứ
hai, song hành với việc nghiên cứu lí luận là việc ứng dụng vào việc thực tiễn xây dựng
các hệ thống thuật ngữ, cụ thể là biên soạn một số quyển từ điển thuật ngữ.
Công tác xây dựng thuật ngữ khoa học là một công tác hàng đầu trong công
cuộc phát triển khoa học và kĩ thuật của một nước, có tác động lớn đến sự phát triển
nền giáo dục của một quốc gia. Đó cũng là sự biểu lộ chủ quyền độc lập thực sự của
một dân tộc và có tác dụng lớn đối với việc phổ cập khoa học trong quần chúng
nhân dân, nâng cao lòng tin tưởng vào khả năng ngôn ngữ của nước nhà.
Thực tế xây dựng thuật ngữ khoa học ở Việt Nam trong những năm qua đã
chứng tỏ tiếng Việt có đủ khả năng đáp ứng mọi yêu câu của đời sống và khoa học
ngày càng phát triển. Hiện nay, hầu như mỗi ngành khoa học đều đã có thuật ngữ
dùng cho ngành mình. Nhiều cuốn từ điển thuật ngữ chuyên ngành dưới hình thức
giải thích và đối chiếu với một hoặc vài ngôn ngữ nước ngoài đã được xuất bản,
được sử dụng rộng rãi, trở thành công cụ đắc lực phục vụ công tác nghiên cứu khoa
học, giảng dạy và truyền bá khoa học đến đông đảo mọi tầng lớp nhân dân.
Thuật ngữ khoa học tiếng Việt xuất hiện chưa lâu, chỉ từ hơn nửa thế kỉ trở lại
đây. Mãi đến đầu thế kỉ 20, một số thuật ngữ tiếng Việt mới lẻ tẻ xuất hiện và cũng
chỉ hạn chế trong một vài lĩnh vực rất hẹp, cũng không được phổ biến rộng rãi. Đến
những thập niên 30 của thế kỉ 20 thuật ngữ khoa học mới đi vào tiếng Việt cùng với
phong trào cách mạng nêu cao chủ trương đúng đắn “tranh đấu vì tiếng nói, chữ

viết”. Những thuật ngữ này lúc đầu chủ yếu là về khoa học xã hội và nhân văn, nhất
là về chính trị và triết học, sau mới phát triển sang các ngành khoa học khác. Đóng
góp quan trọng cho sự hình thành hệ thống thuật ngữ tiếng Việt giai đoạn này, ngoài
một số báo, một số văn kiện tổ chức đảng tiền thân, một số văn bản ở giai đoạn 1900
- 1930, là các từ điển, trong đó Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh có vị trí quan
trọng. Những thuật ngữ Hán Việt là "nét mới đặc sắc của Từ điển Hán Việt”
Đào Duy Anh: “Lần đầu tiên có nhiều thuật ngữ thuộc nhiều môn khoa học
khác nhau như vậy được nhận diện, giới thiệu trong từ điển tiếng Việt. Lần đầu tiên


có một số lượng, một tỉ lệ không nhỏ thuật ngữ được định nghĩa, giải thích "…, một
số vần tỉ lệ lên đến 12,62% tổng mục từ điển. Chúng phân bố trên 33 phân ngành
khác nhau" [136, 186]. Khoa học tạp chí (1931 - 1933) cũng có những đóng góp
đáng kể về mặt thuật ngữ khoa học kĩ thuật. Lúc này, các thuật ngữ được tạo ra chủ
yếu dưới dạng phiên âm thuật ngữ từ tiếng Pháp. Việc đặt thuật ngữ khoa học tiếng
Việt đã được các nhà khoa học chú ý và phát triển trong báo Khoa học (1942 1943). Đáng chú ý nhất là quan điểm của Hoàng Xuân Hãn. Lần đầu tiên vấn đề xây
dựng thuật ngữ khoa học được xem xét một cách tương đối có hệ thống. Hoàng
Xuân Hãn, được đánh giá là người tiên phong xem xét vấn đề xây dựng thuật ngữ
một cách có hệ thống. Ông cũng là người đầu tiên tổng kết ba phương thức xây
dựng thuật ngữ dựa vào từ thông thường, mượn tiếng Hán và phiên âm từ các tiếng
Ấn - Âu và đề ra 8 yêu cầu đối với việc xây dựng thuật ngữ khoa học. Cũng bắt đầu
từ đây, Danh từ khoa học đã được hình thành, là cuốn từ điển đối chiếu Pháp - Việt
đầu tiên của nước ta về một số ngành khoa học tự nhiên. "Điều quan trọng trong
phần này là: ông đã phân tích mặt hay - dở, tiện dụng - không tiện dụng đối với
ngôn ngữ dân tộc khi dùng các phương cách này và đi đến kết luận có tính chất chỉ
dẫn rất phù hợp với lí luận và thực tế tiếng Việt" [28, 195]. Tiếp sau công trình của
Hoàng Xuân Hãn, một số nhà tri thức cũng đã bắt đầu biên soạn những tập thuật
ngữ đối chiếu khác. Tiếp theo đó, một số học giả khác cũng bắt đầu biên soạn
những tập thuật ngữ đối chiếu khác. Chẳng hạn như Nguyễn Hữu Quán và Lê Văn
Can với tác phẩm Danh từ thực vật (Tủ sách Nông học Việt Nam, Thuận Hóa

1945); Đào Văn Tiến với tác phẩm Danh từ vạn vật học (do tổng hội sinh viên cứu
quốc xuất bản sau Cách mạng Tháng 8, Hà Nội, 1945); hay các tác phẩm khác:
Danh từ y học của Lê Khắc Thiên và Phạm Khắc Quảng v.v.. Sau khi nước nhà
thống nhất, công tác xây dựng thuật ngữ tiếp tục được đẩy mạnh và phát triển trong
phạm vi cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công tác
nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ ở nước ta không khỏi còn có những điểm phải
hoàn thiện và thống nhất thêm.
Như vậy, giai đoạn 1930 - 1945, hệ thống thuật ngữ tiếng Việt đã hình thành.
Cách mạng tháng Tám đã trả lại cho tiếng Việt vị trí xứng đáng của nó. Từ chỗ là
ngôn ngữ của một dân tộc mất nước, tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ chính thức
của một nước độc lập, có chủ quyền. Tiếng Việt được sử dụng rộng rãi trong mọi
lĩnh vực đời sống xã hội, kinh tế, văn hoá, nghệ thuật, quân sự, ngoại giao. Đặc biệt,
tiếng Việt được dùng làm ngôn ngữ duy nhất ở tất cả các cấp học. Đây là chủ trương
có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Lao động


Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Chủ trương dùng tiếng Việt để giảng
dạy ở tất cả các trường, các cấp học đã thúc đẩy giới trí thức góp phần vào việc xây
dựng tiếng nói dân tộc nói chung, xây dựng hệ thống thuật ngữ tiếng Việt nói riêng.
Trong hoàn cảnh đó, thuật ngữ khoa học có điều kiện phát triển một cách mạnh mẽ.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, hoà bình được lập lại ở miền Bắc, thấy
rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng hệ thống thuật ngữ tiếng Việt, nhằm đẩy
mạnh công tác nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ khoa học, dần dần tiêu chuẩn hoá
và thống nhất thuật ngữ trong các ngành chuyên môn, cuối tháng 12 - 1964, Uỷ ban
Khoa học Nhà nước đã triệu tập Hội nghị bàn về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa
học đã làm việc trong hai ngày 28 và 29 - 12 - 1964 với sự tham gia của một trăm
cán bộ gồm các nhà nghiên cứu khoa học, các giáo sư, giảng viên các trường đại
học, các bác sĩ, kĩ sư và các nhà hoạt dộng văn hoá thuộc các ngành chuyên môn
khác nhau đã tới dự. Trong Hội nghị, Tổ thuật ngữ - từ điển khoa học thuộc Uỷ ban
Khoa học Nhà nước đã trình bày báo cáo Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học.

Bản báo cáo đã đề cập đến nguyên tắc xây dựng thuật ngữ khoa học, nêu ra những
tiêu chuẩn có quan hệ khăng khít chặt chẽ của thuật ngữ khoa học, trình bày cách
vận dụng biện chứng những tiêu chuẩn đó và đưa ra một đề án mới về Quy tắc
phiên âm thuật ngữ Ấn - Âu ra tiếng Việt. Đã có 21 bản tham luận của đại biểu các
tiểu ban thuật ngữ các ngành và những người làm công tác khoa học thuộc các
chuyên môn khác nhau trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội tham gia bàn
luận xoay xung quanh vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học từng ngành. Nói chung,
Hội nghị đã tán thành những luận điểm cơ bản và nguyên tắc chính nêu ra trong bản
báo cáo. Về một số vấn đề cụ thể trong quy tắc phiên âm thuật ngữ nước ngoài ra
tiếng Việt chưa được hoàn toàn nhất trí, Hội nghị đã cử ra một ban để tiếp tục
nghiên cứu. Ban này gồm các vị: Tạ Quang Bửu, Nguyễn Thạc Cát, Nguyễn Tài
Cẩn, Nguyễn Văn Chiển, Lê Khả Kế, Nguỵ Như Kontum (trưởng ban), Lưu Vân
Lăng, Trương Công Quyền [75].
Căn cứ vào đề án của ban báo cáo và những góp ý ở các tham luận, Ban này
đã làm việc, bàn bạc tập thể và hoàn thành dự thảo đề án về Quy tắc phiên thuật
ngữ khoa học nước ngoài (gốc Ấn - Âu) ra tiếng Việt. Đến tháng 5 - 1965 Uỷ ban
Khoa học Nhà nước lại triệu tập một Hội nghị gồm khoảng một trăm cán bộ khoa
học thuộc các ngành khoa học khác nhau để Ban nghiên cứu trình bày dự thảo đề
án và trưng cầu thêm ý kiến. Sau khi tham khảo ý kiến của các tham luận phát
biểu trong Hội nghị ngày 14 và 21 - 5 - 1965, Ban nghiên cứu tiếp tục làm việc.


Một bản đề án mới đã ra đời và được trình bày trước Hội đồng thuật ngữ - từ điển
khoa học, gồm nhiều nhà khoa học thuộc nhiều ngành khác nhau, để Hội đồng góp
ý kiến. Bản đề án này đã được Hội đồng thông qua trong phiên họp ngày 15 - 10 1965. Tháng 11- 1965 toàn Ban nghiên cứu đã nhất trí đề nghị lên Uỷ ban Khoa
học Nhà nước xét duyệt bản quy tắc mới. Căn cứ vào đó, tháng 6 - 1966 Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam đã ra công bố đề nghị tạm thời áp dụng bản Quy tắc đó
trong tất cả các ngành. Đây là tiền đồ tốt giúp cho công tác thuật ngữ ở nước ta có
những tiến bộ đáng kể. Được sự giúp đỡ của Uỷ ban Khoa học Nhà nước, của
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, các Viện nghiên cứu khoa học, các cán bộ làm

công tác khoa học và giảng dạy ở các trường đại học cùng với các bộ nghiên cứu
khoa học ở các cơ quan khác nhau, trong thời gian tương đối ngắn đã "soạn được
15 bộ thuật ngữ bao gồm 25 vạn từ, có đầy đủ các tiêu chuẩn: chính xác, gần với
ngôn ngữ nhân dân và thuận tiện cho việc trao đổi quốc tế" [75, 47]. Rõ ràng là
bản Quy tắc này đã góp phần đẩy công tác thuật ngữ lên một bước và một loạt gần
40 tập thuật ngữ đối chiếu đã ra đời.
Việc xây dựng thuật ngữ khoa học tiếng Việt ở miền Nam phải kể đến Lê
Văn Thới, "một nhà khoa học có nhiều nhiệt tình với công tác này". Lê Văn Thới đã
phát huy ảnh hưởng của mình trong Uỷ ban soạn thảo danh từ khoa học (thành lập
ngày 6-7-1960) cũng như trong Uỷ ban quốc gia soạn thảo danh từ chuyên môn
(thành lập ngày 18-5-1967) mà ông làm chủ tịch. Bản nguyên tắc do Lê Văn Thới
soạn thảo đã được Uỷ ban quốc gia soạn thảo danh từ chuyên môn công nhận làm
tài liệu hướng dẫn chính thức cho công việc xây dựng thuật ngữ khoa học ở miền
Nam. "Qua hơn mười năm áp dụng bản nguyên tắc đó, các nhà thuật ngữ học miền
Nam đã hoàn thành được một khối lượng công việc đáng kể. Hơn 50 cuốn thuật
ngữ đối chiếu đã được biên soạn. Trong hoàn cảnh chính trị lúc bấy giờ, rõ ràng là
phải nhiệt tình lắm mới có thể làm được những việc như thế" [101, 28]. Trong
những nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ ở miền Nam trước năm 1975, còn được
nhắc đến là các tác giả: Trần Thúc Linh và Vũ Văn Mẫu (Hiện nay, tác giả luận án
chưa có điều kiện tiếp cận được các công trình nghiên cứu của hai tác giả này). Sau
khi nước nhà thống nhất, công tác xây dựng thuật ngữ tiếp tục được đẩy mạnh và
phát triển trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt
được, công tác nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ ở nước ta không khỏi còn có
những điểm phải xem xét thêm và thống nhất.
Như vậy, công tác thuật ngữ ở nước ta đã trải qua một quá trình xây dựng
liên tục ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Cùng với sự phát triển của


đất nước, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, với sự nỗ lực của các nhà
khoa học, hơn 50 năm qua, hệ thống thuật ngữ khoa học tiếng Việt, cả khoa học tự

nhiên lẫn khoa học xã hội, đã phong phú thêm gấp bội. Theo thống kê chưa đầy đủ,
ở thời kì đầu sau Cách mạng tháng Tám, số lượng thuật ngữ khoa học, kĩ thuật có
vào khoảng 40.000 đơn vị. Thế mà sau 20 đến 25 năm đã lên tới 900.000 đơn vị. Từ
đó đến nay, đặc biệt giai đoạn từ 1986 đến nay, khi đất nước ta chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước hội nhập vào không gian
kinh tế của khu vực và quốc tế, cùng với sự phát triển vũ bão của khoa học kĩ thuật,
đặc biệt là ngành công nghệ thông tin, ngành tài chính, ngân hàng, ngành kinh tế…
số lượng thuật ngữ khoa học trong tiếng Việt tăng lên rất nhiều.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công tác nghiên cứu
và xây dựng thuật ngữ ở nước ta không khỏi còn có những điểm phải hoàn thiện và
thống nhất thêm. Rất nhiều ý kiến của các nhà khoa học về vấn đề này đã được phát
biểu và đăng tải trên tạp chí Ngôn ngữ. Các ý kiến đều tập trung vào những vấn đề
chủ yếu sau: những yêu cầu của thuật ngữ; phương thức đặt thuật ngữ; vấn đề vay
mượn thuật ngữ nước ngoài; có nên chấp nhận một số ít yếu tố mới hay không để cho
thuật ngữ phiên gần với diện mạo quốc tế mà không quá xa lạ với tiếng Việt.
Theo Hà Quang Năng, nói về lịch sử tiếng Việt hiện đại nước ta là nói đến bốn
dấu mốc lớn bao gồm: Sự xuất hiện của người Pháp và sự ra đời của chữ quốc ngữ;
Sau cách mạng tháng 8; Những năm 60 của thế kỉ 20 và sau năm 1985. Những cột
mốc này đã ghi nhật sự phát triển mạnh mẽ của tiếng Việt, đó cũng là những dấu mốc
quan trọng của lịch sử phát triển thuật ngữ tiếng Việt. “Trải qua hơn nửa thế kỉ, thuật
ngữ tiếng Việt đã có những bước phát triển nhanh chóng về số lượng. Đáng chú ý
hơn, bên cạnh mặt số lượng, thuật ngữ tiếng Việt đã thay đổi cả về chất” [71, 121].
Tuy vẫn còn những có những ý kiến khác nhau trong vấn đề bàn về các tiêu chuẩn
của thuật ngữ: khoa học, dân tộc, đại chúng nhưng về cơ bản, ý kiến của các nhà
nghiên cứu đều thống nhất với những nguyên tắc trong đề án Quy tắc phiên thuật
ngữ khoa học nước ngoài ra tiếng Việt do Ủy ban Khoa học xã hội công bố. Chính
điều này đã góp phần đẩy mạnh việc thống nhất và tiêu chuẩn hóa thuật ngữ. Vì vậy,
việc xây dựng các hệ thống thuật ngữ và biên soạn từ điển thuật ngữ giai đoạn này đã
phát triển mạnh mẽ. Vào năm 1978 và 1979 có tới 4 hội nghị khoa học về chuẩn mực
hóa chính tả và thuật ngữ đã được tổ chức với sự tham gia của rất nhiều nhà khoa

học, nhà chuyên môn ở hầu hết các chuyên ngành. Nội dung chủ yếu tập trung vào
các vấn đề như: xác định khái niệm thuật ngữ, tiêu chuẩn của thuật ngữ, phương thức
xây dựng thuật ngữ, vấn đề vay mượn thuật ngữ nước ngoài. Nhiều ý kiến đã được


đăng trên một số tạp chí, phổ biến nhất trên Ngôn ngữ (Lê Khả Kế, Lưu Vân Lăng,
Nguyễn Như Ý, Hoàng Văn Hành, Lê Văn Thới, Nguyễn Thạc Cát, Võ Xuân
Trang...). Đặc biệt, việc thành lập Hội đồng Chuẩn hóa Chính tả và Hội đồng chuẩn
hóa thuật ngữ (1984) đã giúp cho việc phiên chuyển thuật ngữ có đường hướng thống
nhất hơn, cụ thể là "chọn biện pháp phiên chuyển theo chữ là chính". Trong giai đoạn
này đã có sự xuất hiện mạnh mẽ của các thuật ngữ nước ngoài nên cách xử lí thuật
ngữ nước ngoài nói chung vẫn chưa được nhất quán.
Như vậy, có thể thấy rằng các vấn đề thuật ngữ học được nghiên cứu ở Việt
Nam chủ yếu là từ góc độ thực tiễn: xây dựng các thuật ngữ khoa học kĩ thuật. Kết
quả là nhiều cuốn từ điển thuật ngữ đối chiếu tiếng Việt với các ngôn ngữ nước
ngoài đã được xuất bản. Các công trình khảo cứu riêng về hệ thống thuật ngữ của
một chuyên ngành khoa học nhất định chưa nhiều. Luận án phó tiến sĩ của Lưu
Vân Lăng "Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học", bảo vệ năm 1987, là luận án
đầu tiên nghiên cứu về thuật ngữ khoa học tiếng Việt. Tiếp sau đó hàng loạt luận
án nghiên cứu hệ thống thuật ngữ các ngành khoa học, kĩ thuật khác nhau đã được
bảo vệ thành công: luận án phó tiến sĩ của Vũ Quang Hào "Hệ thuật ngữ quân sự
tiếng Việt - Đặc điểm và cấu tạo thuật ngữ" [32], bảo vệ năm 1991, luận án tiến sĩ
của Nguyễn Thị Bích Hà "So sánh cấu tạo thuật ngữ kinh tế thương mại trong
tiếng Nhật và tiếng Việt hiện đại" [25] bảo vệ năm 2000, luận án "Khảo sát hệ
thuật ngữ tin học viễn thông tiếng Việt" [87] của Nguyễn Thị Kim Thanh bảo vệ
năm 2005, luận án "Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa thuật ngữ sở hữu trí tuệ tiếng
Việt"[65] của Mai Thị Loan, bảo vệ năm 2012, luận án của Vũ Thị Thu Huyền "
Nghiên cứu thuật ngữ kĩ thuật xây dựng tiếng Việt" [39] bảo vệ năm 2013. Mới
đây đã có một số luận án tiến sĩ nghiên cứu thuật ngữ đã được bảo vệ thành công.
Đó là luận án của Ngô Phi Hùng "Nghiên cứu các phương thức cấu tạo hệ thống

thuật ngữ khoa học tự nhiên (trên tư liệu thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí) "
[37] bảo vệ2014; luận án của Nguyễn Bích Hường"Cách dịch thuật ngữ Anh - Việt
chuyên ngành cảnh sát" [40] bảo vệ năm 2014; luận án "Đối chiếu thuật ngữ du
lịch Anh - Việt" [23] của Lê Thị Thúy Hà bảo vệ năm 2014; luận án của Quách Thị
Gấm "Nghiên cứu thuật ngữ báo chí tiếng Việt" [18] bảo vệ năm 2015 tại Học viện
Khoa học xã hội, luận án của Nguyễn Quang Hùng "Nghiên cứu đặc điểm cấu tạo
và ngữ nghĩa của thuật ngữ khoa học hình sự tiếng Việt" [38] bảo vệ năm 2016;
luận án của Nguyễn Thanh Dung "Đối chiếu thuật ngữ âm nhạc Việt - Anh" [13],
luận án của Nguyễn Thị Việt Hà "Đối chiếu thuật ngữ phụ sản Anh - Việt" [27]
bảo vệ năm 2017 tại Học viện Khoa học Xã hội; luận án của Trần Quốc Việt


"Thuật ngữ kinh tế thương mại tiếng Anh và các biểu thức tương đương của chúng
trong tiếng Việt" [127], luận án "Thuật ngữ khoa học hình sự tiếng Việt và tương
đương dịch thuật của chúng trong tiếng Anh" [126] của Khổng Minh Hoàng Việt
bảo vệ năm 2017 tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội, luận án "Nghiên cứu thuật ngữ chỉ bệnh trong tiếng Anh và cách
chuyển dịch sang tiếng Việt"của Nguyễn Thị Hoài bảo vệ năm 2018tại Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, luận án "Khảo sát
đối chiếu chuyển dịch thuật ngữ tài chính Anh - Việt" của Đỗ Thị Thu Nga bảo vệ
năm 2018 tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, luận án "Đối chiếu thuật ngữ trong tiếng Anh - tiếng Việt chuyên ngành kĩ
thuật điện" của Dương Thị Thùy Mai bảo vệ năm 2018 tại Học viện Khoa học xã
hội. Các luận án tập trung nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau đây:
- Thu thập, thống kê thuật ngữ của các ngành khoa học, kĩ thuật khác nhau,
xác định yếu tố cấu tạo thuật ngữ rồi tiến hành phân loại thuật ngữ theo đặc điểm
cấu tạo, đặc điểm từ loại và nguồn gốc của thuật ngữ;
- Miêu tả đặc điểm cấu tạo thuật ngữ theo số lượng các yếu tố cấu tạo thuật ngữ.
- Xác định các mô hình cấu tạo thuật ngữ và biểu diễn các mối quan hệ ngữ
pháp giữa các yếu tố cấu tạo thuật ngữ theo sơ đồ trúc đài;

- Tìm hiểu những phương thức định dang thuật ngữ, xác định các dấu hiệu
được sử dụng để định danh thuật ngữ và miêu tả đặc điểm định danh thuật ngữ bằng
các mô hình định danh;
- Khảo sát một số thuật ngữ không chuẩn căn cứ vào các tiêu chuẩn thuật
ngữ, từ đó đề xuất phương hướng chuẩn hóa thuật ngữ và cách xử lí các thuật ngữ
không chuẩn;
- Đối chiếu chiếu thuật ngữ tiếng Anh với thuật ngữ tiếng Việt về phương
diện cấu tạo, định danh để tìm hiểu những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai hệ
thuật ngữ của hai ngôn ngữ.
- Tiến hành khảo sát vấn đề dịch thuật ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt để
xác định các kiểu tương đương trong cách dịch thuật ngữ.
Ngoài hàng loạt các luận văn, luận án tiến sĩ đã được bảo vệ thành công,
công tác nghiên cứu thuật ngữ về phương diện lí thuyết cũng được quan tâm.
Tháng 11 năm 2008, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam đã tổ chức một hội thảo
“Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới và hộp nhập”. Đã có 10 báo cáo khoa học, tham
luận được trình bày trong hội thảo.


Công trình “Sự phát triển của từ vựng nửa sau thế kỉ XX” [71] đã dành một
chương nghiên cứu về thuật ngữ tiếng Việt, chỉ rõ những chặng đường phát triển
của tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt, nêu rõ những con đường hình thành thuật ngữ
tiếng Việt cũng như những giải pháp cụ thể trong việc tiếp nhận thuật ngữ nước
ngoài vào tiếng Việt.
Có một thực tế hiển nhiên là ngày càng có nhiều thuật ngữ nước ngoài được các
ngành khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau vay mượn vào trong tiếng Việt. Mặc
dù các ngành khoa học khác nhau có cách lựa chọn và cách xử lí các thuật ngữ ngoại
nhập theo cách khác nhau, nhưng nhìn chung thuật ngữ hóa từ thông thường và dịch
nghĩa các thuật ngữ nước ngoài ra tiếng Việt vẫn là hai hướng chủ đạo trong quá trình
xây dựng thuật ngữ tiếng Việt. Thuật ngữ TTCK là một điển hình theo hướng đó.
Vào những thập niên cuối thế kỉ XX cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế,

từ quản lí theo cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường là sự tăng vọt số
lượng các thuật ngữ thuộc lĩnh vực kinh tế, thương mại, ngân hàng. Tiếp đó là sự
nhập ngoại ồ ạt vào nước ta các thuật ngữ thuộc lĩnh vực điện tử tin học, viễn thông,
đặc biệt là công nghệ thông tin. Sang thế kỉ XXI, nền kinh tế hội nhập phát triển sâu
rộng, có sự xuất hiện thuật ngữ thuộc lĩnh vực thị trường chứng khoán. Trong bối
cảnh đó, “những tưởng số thuật ngữ dùng nguyên dạng sẽ áp đảo, nhưng sự thực thì
ngược lại, tỉ lệ áp đảo lại là các thuật ngữ dịch ra tiếng Việt” [50, 51]. Theo khảo sát
của Phạm Thị Thu hiền, thống kê có 620 thuật ngữ kinh tế xuất hiện trên Thời báo
kinh tế Việt Nam, Nghiên cứu kinh tế, tạp chí Thương mại, tạp chí Ngoại thương…
cho thấy: 1. Dịch nghĩa: 404 (chiếm 64%); 2. Dịch nghĩa kèm theo nguyên dạng
trong ngoặc:124 (chiếm 20%); 3. Dịch nghĩa có kèm viết tắt trong ngoặc: 26 (chiếm
4%); 4. Phiên âm: 6 (chiếm 0,8%); 5. Nguyên dạng: 28 (chiếm 5%); 6. Nguyên
dạng có kèm dịch nghĩa trong ngoặc: 8 (chiếm 1,2%); 7. viết tắt có kèm nguyên
dạng và dịch nghĩa trong ngoặc: 5 (chiếm 0,7%); 8. Hình thức hỗn hợp vừa Ấn - Âu
vừa Việt : 25% (chiếm 4%) [50, 51].
Những con số nêu trên đã cho thấy xu hướng Việt hóa thuật ngữ ngoại nhập
vẫn là xu hướng chủ đạo. Điều này có thể khẳng định tính chính xác của các thuật
ngữ dịch, đồng thời cũng chứng tỏ khả năng đáp ứng tốt của tiếng Việt trong quá
trình xây dựng thuật ngữ và kế hoạch hóa ngôn ngữ.
Tháng 3 năm 2011 Viện Ngôn ngữ học đã nghiệm thu đề tài cấp Bộ “Những
vấn đề thời sự của chuẩn hóa tiếng Việt” (do PGS.TS. Vũ Kim Bảng và GS.TS
Nguyễn Đức Tồn làm chủ nhiệm đề tài). Chương 4 của đề tài này đã dành riêng cho
việc nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt trong thời kì hội nhập


×