Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số dung môi hữu cơ đến sức nghe công nhân sản xuất sơn và giầy (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.18 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

VIỆN SỨC KHỎE NGHỀ NGHIỆP
VÀ MÔI TRƯỜNG

HÀ LAN PHƯƠNG

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ
DUNG MÔI HỮU CƠ ĐẾN SỨC NGHE CÔNG
NHÂN SẢN XUẤT SƠN VÀ GIẦY

Chuyên ngành: Sức khỏe nghề nghiệp
Mã số: 62.72.01.59

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC

HÀ NỘI - 2019


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
VIỆN SỨC KHỎE NGHỀ NGHIỆP VÀ MÔI TRƯỜNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Duy Bảo
2. PGS. TS. Lương Hồng Châu

Phản biện 1: PGS.TS. Phạm Trần Anh
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu
Phản biện 3: TS. Hoàng Anh Tuấn



Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp
Viện tại Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường
Vào hồi ….. giờ, ngày .. tháng …. năm 2019…

Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Quốc gia
2. Thư viện Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiếng ồn vẫn được coi là yếu tố nguy cơ chính gây giảm sức nghe
của công nhân tiếp xúc và bệnh điếc nghề nghiệp do tiếng ồn cũng luôn
là một trong những bệnh đứng hàng đầu trong các bệnh nghề nghiệp ở
Việt Nam cũng như trên thế giới. Tuy nhiên, trong những năm gần đây
đã có những nghiên cứu chỉ ra rằng hóa chất cũng gây độc lên tai của
công nhân tiếp xúc. Hóa chất ảnh hưởng đến sức nghe bao gồm dung
môi hữu cơ, hơi kim loại, khí gây ngạt, hóa chất trừ sâu. Nhiều nghiên
cứu cho thấy rằng tiếp xúc nghề nghiệp với hóa chất, riêng lẻ hay phối
hợp, cũng là yếu tố nguy cơ gây giảm nghe [69, 96].
Dung môi hữu cơ được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành nghề,
nhiều quy trình sản xuất: sản xuất sơn, giầy, đồ gỗ, thuốc nhuộm, vật liệu
kết dính, nhựa, cao su, điện tử, in,… trong đó công nghiệp sản xuất sơn
và giầy là một trong những ngành sử dụng nhiều dung môi hữu cơ cả về
số lượng, chủng loại cũng như số lượng công nhân tiếp xúc.
Qua nghiên cứu bước đầu của H.T.M.Hiền, 2002 trên 300 công
nhân sản xuất sơn, giầy và nhựa tiếp xúc với dung môi hữu cơ cho thấy
tỷ lệ giảm sức nghe là 12,9 – 21,9% [14]. Tuy nhiên, để đánh giá cụ thể

hơn thực trạng tiếp xúc và giảm sức nghe ở công nhân tiếp xúc với dung
môi hữu cơ cũng như đặc điểm cụ thể như thế nào, trên cơ sở đó đề xuất
các biện pháp dự phòng giảm sức nghe vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu ”Nghiên cứu ảnh hưởng của một số dung môi hữu cơ đến
sức nghe công nhân sản xuất sơn và giầy”.
Mục tiêu đề tài:
1. Mô tả tình trạng tiếp xúc dung môi hữu cơ của công nhân tại
một số cơ sở sản xuất sơn và giầy.
2. Đánh giá thực trạng và đặc điểm giảm sức ngh e ở công nhân
tiếp xúc dung môi hữu cơ.


2

Những điểm mới/đóng góp của luận án
- Luận án đã đánh giá thực trạng môi trường lao động cơ sở sản
xuất sơn, giầy qua đó cho thấy người lao động 2 ngành này thường
phải tiếp xúc với hỗn hợp dung môi hữu cơ (toluen, xylen, ethyl
acetat, butyl acetat,…) – hợp chất được chứng minh có khả năng gây
ảnh hưởng sức nghe.
- Luận án đã sử dụng các phương pháp phân tích định tính cũng như
định lượng để đánh giá tình hình, đặc điểm giảm sức nghe của công nhân
tiếp xúc. Công nhân tiếp xúc với hỗn hợp dung môi hữu cơ có tỷ lệ giảm
nghe khá cao 29,5%; giảm nghe tiếp nhận đối xứng 2 tai với xu hướng
giảm nghe nhiều ở tần số cao (4000, 8000 Hz) và tần số 500 Hz giảm
nghe nhiều hơn tần số 1000, 2000 Hz. Kết quả về ghi đáp ứng thính giác
thân não cho thấy kéo dài thời gian tiềm tàng xuất hiện các sóng và thời
gian tiềm tàng liên sóng. Luận án rút ra một số yếu tố nguy cơ liên quan
đến giảm nghe của công nhân tiếp xúc như kiến thức và thực hành an
toàn vệ sinh lao động; sử dụng bảo hộ lao động; mức tiếp xúc với hỗn

hợp dung môi hữu cơ, cường độ tiếng ồn; tuổi đời, tuổi nghề.
- Luận án đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm giảm thiểu
và dự phòng ảnh hưởng của dung môi hữu cơ trong môi trường lao động
đến sức nghe công nhân.
* Bố cục của luận án
Luận án bao gồm 134 trang với các phần và 4 chương
- Đặt vấn đề: 02 trang
- Chương 1 - Tổng quan: 39 trang
- Chương 2 - Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 20 trang
- Chương 3 - Kết quả nghiên cứu: 39 trang
- Chương 4 - Bàn luận: 29 trang
- Kết luận: 02 trang
- Kiến nghị: 03 trang


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Ảnh hưởng đến hệ thống thính giác của dung môi hữu cơ
Tổn thương thính giác do dung môi hữu cơ là khác với tiếng ồn.
Trong khi tiếng ồn chỉ gây tổn thương tại ốc tai thuộc phần ngoại vi của
hệ thống thính giác thì dung môi hữu cơ có xu hướng ảnh hưởng cả ốc
tai và hệ thống thính giác trung ương do độc tính của nó tác động lên
tai và thần kinh [120, 134].
Các chất gây độc tai rất đa dạng về cấu trúc, có thể gây tổn thương
một số bộ phận trong hệ thống thính giác chứ không chỉ giới hạn tổn
thương tại ốc tai. Có những hợp chất gây ảnh hưởng toàn bộ cơ quan,
ảnh hưởng những tế bào cụ thể hoặc gây ảnh hưởng những thành phần
cụ thể của tế bào hoặc ảnh hưởng đến con đường chuyển hóa.

Những hợp chất tác động ở thân não hoặc đường dẫn truyền thần
kinh thính giác trung ương thường được coi là nhiễm độc thần kinh,
không chính xác gây độc cho tai trong nhưng gây ảnh hưởng sức nghe.
Các nghiên cứu cũng chỉ ra có tác động hiệp đồng tiềm tàng của
tiếp xúc phối hợp giữa dung môi hữu cơ với các yếu tố nguy cơ giảm
nghe khác tiếng ồn, kim loại,…. Hậu quả này cho thấy tiếp xúc phối
hợp có nguy cơ giảm nghe cao hơn tiếp xúc riêng lẻ từng yếu tố (dung
môi hữu cơ hoặc tiếng ồn) [50, 56, 90, 95, 101, 104, 107, 108, 118].
1.2. Đặc điểm giảm nghe do dung môi hữu cơ
Khoảng dải tần số bị ảnh hưởng dường như là khác nhau do ảnh
hưởng của dung môi và tiếng ồn. Trong giảm nghe do tiếp xúc với dung
môi hữu cơ, khoảng dải tần số bị ảnh hưởng rộng bao gồm dải tần trung
bình; một vài dung môi hữu cơ gây giảm nghe ở tần số thấp hơn (500,
1000, 2000Hz) như toluen, carbon disulphide; ảnh hưởng ở tần số cao
(6000, 8000Hz ) như styren - điều này thường không gặp trong ảnh
hưởng do tiếng ồn chủ yếu là tần số cao với khuyết sức nghe ở tần số
4000Hz [41, 52].


4

Muijser và cs (1988) gợi ý rằng tiếp xúc styren gây giảm nghe ở
tần số 8000Hz [119]. Theo Morata và cs (2002): cho thấy tiếp xúc với
styren có hoặc không có tiếng ồn giảm nghe có ý nghĩa thống kê ở các
dải tần 2000, 3000, 4000, 6000 và 8000Hz so với nhóm tiếp xúc với
tiếng ồn hoặc không tiếp xúc với tiếng ồn [110].
Sliwinska Kowalska và cs (2003) cũng thấy tiếp xúc với dung môi
hữu cơ gây giảm nghe ở các dải tần số rộng từ 1000 đến 8000Hz đặc
biệt ảnh hưởng là dải tần 8000Hz [153].
Theo Chang và cs, 2006 nghiên cứu cho thấy toluen gây giảm

nghe ở tất cả các dải tần số thấp và cao (từ 500 đến 6000Hz), giảm
nhiều ở tần số 500, 1000Hz [52].
Như vậy, biểu đồ sức nghe do ảnh hưởng của dung môi là giảm
nghe dạng tiếp nhận đơn thuần và giảm nhiều ở tần số thấp hay cao tùy
thuộc vào loại dung môi tiếp xúc.
1.3. Nghiên cứu trong và ngoài nước về thực trạng môi trường và
tình hình giảm nghe của công nhân tiếp xúc với dung môi hữu cơ
1.3.1. Ngoài nước
Morata và cs, 1993 nghiên cứu ảnh hưởng của tiếp xúc nghề nghiệp
với dung môi và tiếng ồn của công nhân sản xuất sơn, nhà máy in cho
thấy tỷ lệ giảm nghe cao nhất ở nhóm tiếp xúc với toluen (75 – 600
ppm) và tiếng ồn (88 - 98 dBA) chiếm tỷ lệ 53%. Phân tích hồi quy đa
tuyến tính cho thấy nhóm tiếp xúc ồn và dung môi có nguy cơ giảm nghe
cao hơn 10,9 lần (95% CI 4,1 – 28,9); nhóm tiếp xúc hỗn hợp dung môi
là 5 lần (CI 95% CI 1,5 – 17,5) và nhóm ồn đơn thuần là 4,1 lần (95%
CI 1,4 – 12,2) [106].
Nghiên cứu tại Ba Lan trên 517 công nhân sản xuất sơn và dầu
bóng, tiếp xúc với dung môi hữu cơ dưới ngưỡng cho phép (SliwinskaKowalska và cs, 2001). Các dung môi chủ yếu bao gồm: toluen,


5

ethylbenzen, xylen, ethyl acetat, xăng trắng, butyl acetat. Kết quả cho
thấy: tỷ lệ giảm nghe của nhóm tiếp xúc với dung môi và tiếng ồn, nhóm
tiếp xúc với dung môi cao hơn nhóm chứng với tỷ lệ tương ứng là 61,5%
- 57,5% - 36% [152].
Chang và cs, 2006, nghiên cứu nguy cơ giảm nghe của công nhân
tiếp xúc với toluen và tiếng ồn. Kết quả cho thấy: nhóm tiếp xúc với
toluen và tiếng ồn tỷ lệ giảm nghe là 86,2% cao hơn có ý nghĩa thống
kê so với nhóm tiếp xúc tiếng ồn đơn thuần 44,8% và nhóm chứng

(5,0%) với p < 0,001 [52].
Mohammadi và cs, 2010, nghiên cứu ảnh hưởng của dung môi hữu
cơ và tiếng ồn lên sức nghe công nhân sản xuất ô tô Iran. Dung môi hữu
cơ chủ yếu gồm benzen, toluen, xylen, aceton và tetrachloroethylen; tỷ
lệ giảm nghe tần số thấp cao nhất phân xưởng sơn cũ (4,26%) tuy nhiên
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ giảm nghe tần số cao
cũng gặp cao nhất ở phân xưởng sơn cũ (69,9%) cao hơn phân xưởng
sơn mới (45,19%) và phân xưởng lắp ráp (34,68%) có ý nghĩa thống kê
với p < 0,05 [105].
1.3.2. Trong nước
H.T.M.Hiền, 2002 trên 300 công nhân tiếp xúc với dung môi hữu
cơ tại công ty da giầy Phúc Yên, công ty da giầy Yên Viên, công ty sơn
tổng hợp Hà Nội và công ty nhựa Hưng Yên cho thấy: tại 2 công ty giầy
da toluen là chất gây ô nhiễm chính; tại công ty sơn xylen là chất gây ô
nhiễm chính; ngoài ra còn có một số dung môi khác trong môi trường
lao động như axeton, xăng, butyl axetat, metyl etyl keton (MEK).
Về tình trạng sức nghe của công nhân: tỷ lệ giảm nghe của công
nhân sản xuất sơn là cao hơn công nhân công ty giầy với tỷ lệ lần lượt
là 21,9% và 14,4% và tỷ lệ này cao hơn nhóm không tiếp xúc là 4,17
lần và 2,74 lần [14].


6

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
* Môi trường lao động: là môi trường lao động của các cơ sở nghiên
cứu (nồng độ dung môi hữu cơ trong không khí, vi khí hậu, cường độ

tiếng ồn).
* Công nhân: là công nhân tiếp xúc với dung môi hữu cơ trong môi
trường lao động có tuổi nghề từ 1 năm trở lên.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu: tại 02 công ty sản xuất sơn (Công ty
Cổ phần sơn tổng hợp Hà Nội, Công ty Cổ phần sơn Hải Phòng) và 01
công ty sản xuất giầy (Công ty TNHH giầy Thượng Đình).
2.1.3. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 01/2014 đến tháng 10/2018.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu: được tính theo công thức “Ước lượng
tỷ lệ trong quần thể với độ chính xác tuyệt đối” như sau [15]:

trong đó: p = 50% ; d = 5%; chọn mức  = 0,05 thì Z (1-/2) = 1,96
Áp dụng công thức trên ta tính được cỡ mẫu n ≈ 385, đề tài đã tiến
hành nghiên cứu trên 400 công nhân.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Mô tả thực trạng tiếp xúc với dung môi hữu cơ của công
nhân tại một số cơ sở sản xuất sơn và giầy.
- Khảo sát cơ sở sản xuất: đánh giá điều kiện lao động, sơ đồ dây
chuyền sản xuất để đánh giá nguy cơ tiếp xúc với dung môi hữu cơ
trong quá trình lao động. Quan trắc môi trường lao động: đo nồng độ


7

dung môi hữu cơ trong không khí vùng làm việc; cường độ tiếng ồn; đo
đạc các yếu tố vi khí hậu.
- Phỏng vấn cá nhân về tiếp xúc nghề, mô tả công việc; phỏng vấn về
an toàn vệ sinh lao động và sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân.
- Xét nghiệm a xít hyppuric niệu để đánh giá tình trạng thấm nhiễm

sinh học với dung môi hữu cơ (toluen).
Các khảo sát, đo theo Thường quy kỹ thuật Y học lao động – Vệ
sinh môi trường – Sức khỏe trường học, 2002; Đánh giá các chỉ tiêu vi
khí hậu, cường độ tiếng ồn theo quyết định 3733/2002/QĐ - BYT và
AFS:2011:18 (Thụy Điển); nồng độ DMHC theo quyết định
3733/2002/QĐ –BYT và ACGIH, 1994 (Mỹ); nồng độ hippuric niệu
theo ACGIH, 2009.
2.3.2. Đánh giá thực trạng và đặc điểm giảm sức nghe ở công
nhân tiếp xúc với dung môi hữu cơ.
- Phỏng vấn cá nhân, khám tai mũi họng, đo nhĩ lượng để đánh giá
tình trạng của tai ngoài, tai giữa để loại trừ đối tượng không đủ tiêu
chuẩn.
- Đo sức nghe đơn âm: để xác định tỷ lệ, dạng và mức độ giảm sức
nghe; đặc điểm biểu đồ giảm sức nghe của đối tượng nghiên cứu.
- Ghi điện thế thính giác thân não: đánh giá đường dẫn truyền cảm
giác âm thanh từ tai qua thân não về vỏ não.
- Đánh giá một số yếu tố liên quan đến giảm sức nghe: yếu tố
tiếp xúc nghề nghiệp (nồng độ DMHC, nồng độ hippuric niệu,
cường độ tiếng ồn), yếu tố tuổi đời, tuổi nghề; thực hiện an toàn vệ
sinh lao động, sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân.
Các kỹ thuật khảo sát, đo, khám theo Thường quy kỹ thuật Y học
lao động – Vệ sinh môi trường – Sức khỏe trường học, 2002. Đánh giá
giảm sức nghe theo bảng tính sẵn Fowler – Sabin và Felmann –
Lessing; đánh giá và so sánh kết quả điện thính giác thân não với kết
quả nghiên cứu của H.L.Phương, 2000.


8

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tình trạng tiếp xúc với dung môi hữu cơ của công nhân tại
một số cơ sở sản xuất sơn, giầy
3.1.1. Kết quả khảo sát điều kiện lao động, công tác an toàn vệ sinh
lao động của cơ sở sản xuất
 Cơ sở sản xuất sơn
- Quy trình sản suất sơn gồm 08 công đoạn: trộn nguyên liệu, khuấy
sơn, ủ/muối, nghiền cán, lọc, khuấy mịn, ra sơn và đóng hộp thành phẩm.
- Đa số các công đoạn sản xuất trên dây chuyền khép kín, có 03 công
đoạn sản xuất hở gồm công đoạn chuẩn bị (cân, đong nguyên liệu) đổ
nguyên liệu vào các thùng chứa; khuấy trộn nguyên liệu ban đầu; công
đoạn pha màu; công đoạn ra sản phẩm (cân, đóng nắp thùng sản phẩm).
Cơ sở sản xuất giầy
- Quy trình sản suất giầy cơ bản gồm 08 công đoạn: nguyên liệu, cắt
theo chi tiết, may hoàn thiện chi tiết, gò mũi, ghép đế, kiểm tra chất
lượng, đóng gói và thành phẩm. Ngoài ra còn thêm bộ phận bồi vải, sản
xuất đế (cán luyện cao su, đổ đế).
- Các công đoạn mà người lao động có tiếp xúc với DMHC chủ yếu
gồm: công đoạn hoàn thiện chi tiết mũ giày; gò mũi, gò đế giày và giáp
đế; công đoạn bồi vải.
- Tất cả các loại keo, nước tẩy rửa đều được đựng trong các bát để hở.
- Công nhân để keo, nước tẩy rửa dây bắn ra xung quanh, lên quần
áo và trực tiếp lên da tay.
 Kết quả khảo sát về công tác an toàn vệ sinh lao động
- Công nhân có kiến thức về an toàn vệ sinh lao động khi làm việc với
hóa chất: có 89,3% được học tập về an toàn sử dụng hóa chất hàng năm;
93,0% được biết về hóa chất mình sử dụng trong quá trình làm việc tuy
nhiên chỉ có 79,0% biết được rằng những hóa chất đó có khả năng gây
bệnh nghề nghiệp.



9

- Việc thực hiện vệ sinh lao động cá nhân thì chưa được tốt: có 48,2%
công nhân hút thuốc trong khi làm việc; 42,5% công nhân không rửa tay
trước khi ăn và 49,5% không thay quần áo làm việc trước khi về nhà.
- Sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân cũng chưa tốt: tỷ lệ mặc quần áo
bảo hộ lao động chiếm 68,8%; đeo khẩu trang khi làm việc chiếm
61,5%; sử dụng giày, găng tay chống hóa chất chiếm tỷ lệ lần lượt là
58,0% và 44,3%; thấp nhất là tỷ lệ đeo nút tai chống ồn 25,0%.
3.1.2. Kết quả quan trắc môi trường lao động
- Trong môi trường lao động của Công ty sơn tổng hợp Hà Nội có một
số loại dung môi hữu cơ: toluen, benzen, xylen, metyl isobutyl keton
(MIBK), butyl acetat, ethyl benzen. Nồng độ của các dung môi này tại
các vị trí đo hầu hết nằm trong giới hạn cho phép. Có 3/9 vị trí (vị trí
đóng hộp của phân xưởng sơn 1, vị trí máy khuấy phân xưởng sơn 2
và vị trí đóng sơn Alkyd phân xưởng sơn xe máy) có tổng mức tiếp xúc
với dung môi hữu cơ cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,36 – 2,11 lần;
3/9 vị trí có tổng mức tiếp xúc với dung môi hữu cơ khá cao đó là vị trí
máy khuấy pha màu (PX sơn 1), máy nghiền sơn (PX sơn xe máy) và
vị trí phân xưởng sơn bột với mức tiếp xúc tương ứng là 0,87 – 0,82 và
0,59.
- Môi trường lao động của công ty sơn Hải Phòng có các loại dung môi
hữu cơ: benzen, toluen, xylen, ethyl acetat, butyl acetat. Nồng độ của
các dung môi này tại các vị trí đo của phân xưởng sản xuất đều nằm
trong giới hạn cho phép. Các vị trí đo tại phân xưởng sản xuất sơn có
chỉ số nguy cơ phơi nhiễm với hỗn hợp dung môi hữu cơ cao nhất từ
0,32 – 0,77.
- Trong môi trường lao động của công ty giầy Thượng Đình có các loại
dung môi hữu cơ: benzen, toluen, xylen, ethyl acetat. Nồng độ của các

dung môi này tại các vị trí đo hầu hết nằm trong giới hạn cho phép; chỉ
có 2 vị trí pha keo (phân xưởng bồi vải) và vị trí nồi hấp Chỉ số nguy
cơ phơi nhiễm với hỗn hợp DMHC tại 2 vị trí này cũng cao hơn mức
cho phép 1,65 - 2 lần.


10

Bảng 3.10: Phân bố tổng mức tiếp xúc dung môi hữu cơ
theo cơ sở sản xuất
Chỉ số phơi
nhiễm (EI)

Sơn Hà
Nội

Sơn Hải
Phòng

>1

3

0,5 - 1

Tổng

Giày
Thượng
Đình


SL

%

0

2

5

17,9

3

1

1

5

17,9

< 0,5

3

8

7


18

64,2

Tổng (n)

9

9

10

28

100

- Đa số các vị trí quan trắc môi trường lao động có chỉ số phơi
nhiễm với dung môi hữu cơ dưới 0,5 chiếm tỷ lệ 64,2%.
- Các vị trí có chỉ số phơi nhiễm với DMHC từ 0,5 – 1 và lớn hơn
1 (tiếp xúc vượt ngưỡng) là bằng nhau chiếm tỷ lệ 17,9%.
3.1.3. Giám sát sinh học tiếp xúc với dung môi hữu cơ (Biological
exposure monitoring)

Biểu đồ 3.1: Phân bố chỉ số tiếp xúc sinh học với toluen


11

- Đa số đối tượng có nồng độ a xít hippuric niệu dưới 0,8g/g

creatinine chiếm tỷ lệ 68,5%.
- Nhóm đối tượng có nồng độ a xít hippuric niệu cao hơn giới hạn
tham chiếu là 23 trường hợp chiếm tỷ lệ 5,8%.
3.2. Thực trạng và đặc điểm giảm nghe ở công nhân tiếp xúc dung
môi hữu cơ
3.2.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
- Nam giới chiếm đa số với tỷ lệ 60,7%, nữ giới chiếm tỷ lệ ít hơn
39,3%. Tuổi đời trung bình là 41,19 tuổi; trẻ nhất là 20 tuổi và cao tuổi
nhất là 60; nhóm tuổi từ 31 - 40 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 36,5%. Tuổi
nghề trung bình là 17,97 ± 10,16 năm; thâm niên cao nhất là 40 năm;
nhóm tuổi nghề trên 20 năm chiếm tỷ lệ cao nhất 40,75%;
3.2.2. Kết quả đo sức nghe
 Tình hình và đặc điểm giảm nghe
- Trong tổng số 400 đối tượng nghiên cứu có 240 người có sức
nghe bình thường và 160 đối tượng giảm nghe chiếm tỷ lệ 40%.
- Tỷ lệ giảm nghe chung là 40% trong đó giảm nghe tiếp nhận tần
số cao 2 tai là 29,5% và giảm nghe tiếp nhận khác là 10,5%.
Bảng 3.15: Trung bình ngưỡng nghe của nhóm nghiên cứu

Thông số

n

Trung bình ngưỡng nghe – PTA5
(dB)
Trung
bình

SD


Tối
thiểu

Tối đa

Chung

236

37,10

9,45

21

90

Tai phải

118

37,11

10,19

18

86

Tai trái


118

37,09

9,64

24

89

p

>0,05

- Trung bình ngưỡng nghe tai phải là 37,11 dB, tai trái là 37,09 dB
và tính chung 2 tai là 37,10 dB


12

- Trung bình ngưỡng nghe 2 tai khác biệt không có ý nghĩa thống kê
với p > 0,05 nói cách khác trung bình ngưỡng nghe 2 tai là như nhau –
giảm nghe đối xứng 2 tai.
Bảng 3.17: Ngưỡng nghe theo từng tần số của hai tai (n= 118 tai)
Tần
số
(Hz)

Ngưỡng nghe tai phải

(dB)
Trung
bình

SD

Ngưỡng nghe tai trái
(dB)

Tối
thiểu –
tối đa

Trung
bình

p

SD

Tối
thiểu –
tối đa

500

32,25

10,73 15 - 85


32,12

10,41

20 - 85

>0,05

1000

27,08

10,26 15 - 85

26,40

9,54

15 - 80

>0,05

2000

27,33

11,98 10 - 90

27,80


12,05

10 - 90

>0,05

4000

50,17

12,57 35 - 95

50,64

12,72 35 - 100

>0,05

8000

48,73

18,07

48,52

16,89

>0,05


5 - 95

10 - 95

- Tần số 4000 Hz, 8000 Hz giảm nghe nhiều nhất, giảm ít hơn là
ngưỡng nghe tại 2 tần số 1000 Hz và 2000 Hz.
- Ngưỡng nghe tại từng tần số từ 500 đến 8000 Hz giữa 2 tai là
tương tự nhau; sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Biểu đồ sức nghe được thể hiện theo biểu đồ sau:

Biểu đồ 3.5: Biểu đồ sức nghe của đối tượng nghiên cứu


13

Dạng biểu đồ sức nghe điển hình của đối tượng nghiên cứu là: giảm
nghe đối xứng 2 tai với xu hướng giảm nghe nhiều ở tần số cao (4000,
8000 Hz) và tần số 500 Hz giảm nghe nhiều hơn tần số 1000, 2000 Hz.
Biểu đồ sức nghe dạng hình chữ J với điểm xuống đầu chữ J tại tần số
500 Hz, thân chữ J đi ngang tại tần số 1000, 2000 Hz và phần thân đi
xuống là tần số 4000, 8000 Hz.
 Phân loại mức độ giảm nghe

Biểu đồ 3.6: Phân loại mức độ giảm nghe
Phân loại mức độ giảm nghe theo phân loại của Tổ chức Y tế thế
giới và theo bảng tính sẵn Felmann – Lessing cho thấy: mức độ giảm
nghe nhẹ là chủ yếu chiếm tỷ lệ lần lượt là 65,7% và 76,3%.
3.2.3. Kết quả ghi đáp ứng thính giác thân não (ABR)
 Thời gian tiềm tàng của các sóng
- Thời gian tiềm tàng các sóng I, III, V của cả nam và nữ đều lớn

hơn giá trị tham chiếu của người bình thường, sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với p < 0,05 (với L3 ở nữ) và rất có ý nghĩa thống kê với
p < 0,001 (các sóng còn lại).


14

 Thời gian tiềm tàng giữa các sóng
- Thời gian tiềm tàng giữa sóng IL13 nhỏ hơn giá trị tham chiếu của
người bình thường, sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
- Thời gian tiềm tàng giữa sóng IL35, IL15 lớn hơn giá trị tham chiếu
của người bình thường, sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê với
p<0,001.
3.2.4. Mối liên quan của một số yếu tố nguy cơ và giảm nghe
Mối liên quan giữa mức độ tiếp xúc nghề nghiệp và giảm sức
nghe
- Tiếp xúc với hỗn hợp dung môi hữu cơ vượt tiêu chuẩn cho phép
có khả năng tăng nguy cơ giảm nghe 1,41 lần (95% CI dao động từ 0,67
– 2,96).
- Nhóm công nhân có nồng độ a xít hippuric niệu cao hơn giới hạn
tham chiếu có khả năng giảm nghe cao hơn 1,93 lần (95% CI dao động
từ 0,82 – 4,54).
- Tiếp xúc với tiếng ồn trên 80dB có khả năng tăng nguy cơ giảm
nghe 1,23 lần so với nhóm cường độ tiếng ồn dưới 80dBA.
Tuy nhiên, tất cả sự tăng này đều chưa có ý nghĩa thống kê với
p>0,05.
 Mối liên quan giữa tuổi đời, tuổi nghề và giảm sức nghe
- Nguy cơ giảm sức nghe tăng dần theo tuổi đời từ 2,31 đến 38,6
lần, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 và rất có ý nghĩa thống kê với p <
0,001.

- Nguy cơ giảm nghe tăng dần theo nhóm tuổi nghề từ 1,49 – 6,06
lần, tuy nhiên sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa
các nhóm 1 với 2,3 và 4; giữa nhóm 2 và 4 với p < 0,01. Khi so sánh
giữa nhóm 2 và 3; nhóm 3 và 4 chưa thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p > 0,05.


15

 Mối liên quan giữa kiến thức, thực hiện an toàn vệ sinh lao
động với giảm sức nghe
- Nhóm công nhân không được học về an toàn sử dụng hóa chất,
không biết hóa chất mình sử dụng trong làm việc, không biết khả năng
gây bệnh nghề nghiệp của hóa chất mình sử dụng trong khi làm việc có
tăng khả năng giảm sức nghe lần lượt là 1,85; 1,88 và 2,14 lần, tuy nhiên
chỉ có yếu tố biết khả năng gây bệnh nghề nghiệp của DMHC là có ý
nghĩa thống kê với p< 0,05.
- Việc hút thuốc khi làm việc, ăn uống tại nơi làm việc và không
rửa tay chân trước khi ăn làm tăng khả năng giảm sức nghe lần lượt là
1,48; 1,08 và 1,21 lần, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê.
 Mối liên quan của sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân và giảm
nghe
- Việc không sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân như quần áo bảo
hộ, khẩu trang, găng tay cao su, ủng cao su đều có khả năng tăng giảm
sức nghe với OR lần lượt là 1,48; 1,14; 1,01 và 1,07 tuy nhiên tất cả đều
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Chương 4: BÀN LUẬN
4.1. Tình trạng tiếp xúc với dung môi hữu cơ của công nhân tại
một số cơ sở sản xuất sơn, giầy

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không khí nơi làm việc
tại các cơ sở sản xuất bị ô nhiễm bởi nhiều loại dung môi như benzen,
toluen, xylen, ethyl benzen, ethyl acetat, metyl isobutyl keton (MIBK),
butyl acetat với các nồng độ khác nhau tùy theo đặc thù của từng cơ sở
trong đó có những chất (benzen, toluen, xylen) nằm trong danh mục các
chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh lao động theo quy định
tại thông tư 05/1999/TT-BYT của Bộ Y tế.
Nhìn chung, nồng độ dung môi hữu cơ trong không khí cho thấy hầu
hết các mẫu đo nằm trong giới hạn TCCP theo quyết định


16

3733/2002/QĐ-BYT của Bộ Y tế và tham khảo tiêu chuẩn của Hội nghị
các nhà vệ sinh công nghiệp quốc gia Mỹ [34,35]. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi cũng tương tự nghiên cứu của một số tác giả trong, ngoài
nước tại các cơ sở sản xuất sơn, giầy cho thấy công nhân cũng phải tiếp
xúc với hỗn hợp nhiều loại DMHC tuy nhiên về thành phần và nồng độ
có khác nhau.
Kết quả khảo sát cơ sở sản xuất chúng tôi nhận thấy: các công đoạn
đổ, trộn nguyên liệu vào các thùng chứa, công đoạn pha màu; công đoạn
ra sơn, đóng nắp thùng sản phẩm là công nhân vẫn phải tiếp xúc trực
tiếp với dung môi hữu cơ. Đặc biệt là khâu vệ sinh các thùng chứa, trục
khuấy sau mỗi mẻ sơn, công nhân vệ sinh thủ công, đôi khi không mang
găng tay. Việc vệ sinh cho sạch các dụng cụ sau mỗi mẻ sơn sử dụng
lượng dung môi khá lớn để vệ sinh (chủ yếu là dùng xylen). Đối với
quy trình sản xuất giầy công nhân các vị trí quét keo, tẩy giầy (vệ sinh
giầy), sửa giầy vẫn làm thủ công nên tiếp xúc trực tiếp với dung môi.
Các bát keo, nước xử lý thường để hở, không có hệ thống quạt hút tại
chỗ và cũng thường xuyên bị dây dính lên da.

Dung môi hữu cơ hấp thu vào cơ thể không chỉ qua con đường
chính là đường hô hấp và còn có thể qua đường da [90]. Khả năng hấp
thu qua da phụ thuộc vào tính chất của DMHC, thời gian tiếp xúc; độ
dày, độ tưới máu và khả năng giữ nước của da và các tổn thương da (vết
cắt, trầy xước) hoặc bệnh ngoài da [43]. Xylen có khả năng hấp thu qua
da khá mạnh, có thể chiếm tới 50% tổng lượng dung môi này hấp thu
vào cơ thể. Khi ngâm hai tay trong dung dịch xylen 15 phút thì nồng
độ xylen máu xấp xỉ bằng với khi hít hơi xylen nồng độ 100 ppm trong
khoảng thời gian bằng nhau [66].
Mặc dù nồng độ dung môi tại hầu hết các vị trí đều thấp hơn TCCP
nhưng người lao động phải tiếp xúc đồng thời với nhiều loại DMHC
khác nhau, tiếp xúc trong thời gian kéo dài và trong điều kiện lao động
thể lực nên vẫn có thể gây ra ảnh hưởng mạn tính đối với sức khỏe [36].
Hơn nữa, các DMHC có thể tác động phối hợp hay cộng hưởng với


17

nhau và với các yếu tố khác (như tiếng ồn,...) làm gia tăng các tác hại
đối với sức khỏe người lao động.
 Kết quả thực hiện an toàn vệ sinh lao động, bảo hộ lao động
Biết được hóa chất mình sử dụng và thực hành tốt các biện pháp vệ
sinh lao động, sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân là những điểm quan
trọng trong việc chủ động hạn chế hóa chất thâm nhập vào cơ thể. Đó
cũng chính là những mấu chốt trong chuỗi các biện pháp dự phòng,
giảm thiểu tác hại của các yếu tố nguy cơ đến sức khỏe.
Điều này cho thấy việc thực hiện tốt các quy định về an toàn sử
dụng hóa chất, các biện pháp vệ sinh lao động và sử dụng phương tiện
bảo vệ cá nhân không chỉ phụ thuộc vào việc tập huấn, tuyên truyền
trang bị kiến thức, nâng cao nhận thức cho công nhân mà còn phụ thuộc

vào một số yếu tố khác như: việc cung cấp phương tiện bảo vệ cá nhân
đúng chủng loại đảm bảo chất lượng; việc xây dựng các công trình phúc
lợi đầy đủ (nhà tắm, nhà vệ sinh, nơi nghỉ ngơi, ăn uống,...) và ý thức
của người lao động trong việc tuân thủ các quy định đó thì mới có thể
đạt được hiệu quả dự phòng tác hại của hóa chất dung môi đến sức khỏe.
 Giám sát sinh học tiếp xúc với dung môi hữu cơ
A xít hippuric là một dấu ấn sinh học truyền thống được sử dụng
trong việc theo dõi sinh học ở những người tiếp xúc với toluen vì nó
cho thấy mối tương quan tốt với mức độ phơi nhiễm. Tuy vậy, a xít
hippuric không chỉ được chuyển hóa bởi toluen phơi nhiễm trong môi
trường lao động và nó còn có thể chuyển hóa từ các nguồn khác. Hiện
nay nhiều nước trên thế giới cũng như Hội nghị các nhà vệ sinh công
nghiệp quốc gia Mỹ (ACGIH) khuyến cáo sử dụng một số chỉ điểm sinh
học khác tốt hơn để theo dõi phơi nhiễm với toluen trong môi trường
lao động như toluen máu, toluen niệu hay o – cresol niệu. Trong khuôn
khổ kinh phí, điều kiện phòng thí nghiệm tại thời điểm tiến hành nghiên
cứu, đề tài không thể xét nghiệm được các các chỉ điểm sinh học trên,
do vậy chúng tôi vẫn sử dụng a xít hippuric niệu để làm chỉ điểm sinh
học đánh giá phơi nhiễm với toluen.


18

Kết quả của chúng tôi cho thấy nồng độ a xít hippuric niệu dao
động từ 0,12 – 5,68g/g creatinin, có 5,8% mẫu vượt giá trị tham khảo
(> 1,6 g/gcreatinin); nhóm từ 0,8 - 1,6 g/g creatinin chiếm 25,7%. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự một số nghiên cứu trong và ngoài
nước: Schaper M (2003), Chompituk Y., (2008), Somsiri Decharat,
(2014) [57, 145, 159].
4.2. Thực trạng và đặc điểm giảm sức nghe ở công nhân tiếp xúc

với dung môi hữu cơ
Tình hình và đặc điểm giảm nghe
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ giảm nghe dạng tiếp nhận, giảm
sâu hơn ở các dải tần số cao, đối xứng 2 tai là 29,5%. Tỷ lệ giảm nghe
trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của một
số tác giả: Morata và cs, 1993; Sliwinska-Kowalska và cs, 2000;
Juárez-Pérez và cs. 2014 [92, 112, 151].
Trung bình ngưỡng nghe của 5 dải tần số từ 500 Hz đến 8000Hz
kết quả cho thấy ngưỡng nghe trung bình tai phải là 37,11 dB, tai trái là
37,09 dB và tính chung 2 tai là 37,10 dB (bảng 3.15). Khi phân tích
ngưỡng nghe theo từng dải tần từ 500 Hz đến 8000Hz thì được kết quả
giảm nghe có xu hướng giảm nhiều nhất tại 2 dải tần số cao 4000 Hz và
8000 Hz; rồi đến tần số 500 Hz và giảm ít hơn cả là tại 2 dải tần 1000
Hz và 2000 Hz. Phân tích ngưỡng nghe theo từng dải tần cho 2 tai riêng
biệt cũng cho kết quả tương tự như vậy và không tìm thấy sự khác biệt
giữa 2 tai (bảng 3.17). Biểu đồ thính lực của nhóm nghiên cứu có đặc
điểm như sau: giảm nghe tiếp nhận, đối xứng 2 bên; giảm nghe nhiều ở
các dải tần số cao (4000, 8000 Hz) và xu hướng tần số 8000 Hz giảm
nhiều hơn tần số 4000 Hz; tần số thấp (500Hz) giảm nhiều hơn các tần
số 1000, 2000 Hz. Biểu đồ giảm nghe có dạng hình chữ J với điểm
xuống thấp của đầu chữ J là tại tần số 500 Hz và thân chữ J với đường
đi ngang từ tần số 1000 Hz đến 2000 Hz và đường đi xuống dần từ tần
số 2000, 4000 Hz đến 8000 Hz (biểu đồ 3.5).


19

Trong giảm nghe do tiếp xúc với dung môi hữu cơ, khoảng dải tần
số bị ảnh hưởng rộng bao gồm dải tần trung bình; một vài dung môi hữu
cơ gây giảm nghe ở tần số thấp hơn (500, 1000, 2000Hz) như toluen,

carbon disulphide; ảnh hưởng ở tần số cao (6000, 8000Hz) như styren
- điều này thường không gặp trong ảnh hưởng do tiếng ồn chủ yếu là
tần số cao với khuyết sức nghe ở tần số 4000Hz [41]. Sliwinska
Kowalska và cs (2003) cũng thấy tiếp xúc với dung môi hữu cơ gây
giảm nghe ở các dải tần số rộng từ 1000 đến 8000Hz đặc biệt ảnh hưởng
là dải tần 8000Hz [153]. Chang và cs, 2006, biểu đồ sức nghe có hình
chữ J với điểm lên cao ở tần số 2000Hz, giảm nghe nhiều hơn cả ở tần
số cao 4000Hz và 6000Hz [52]. Ziba Loukzadeh và cs, 2014 ngưỡng
nghe tần số cao (3000, 4000 và 6000 Hz) giảm nhiều hơn [178]. Như
vậy, tiếp xúc với dung môi hữu cơ gây giảm nghe dải rộng các tần số
hơn là tiếng ồn, xu hướng giảm nghe tần số cao và giảm nhiều ở tần số
thấp hay cao tùy thuộc vào loại dung môi hữu cơ mà công nhân tiếp xúc
trong môi trường lao động.
Tính toán mức độ giảm nghe
Để đánh giá mức độ giảm nghe, các nhà thính học đã đưa ra nhiều
cách tính toán khác nhau. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đánh giá mức
độ giảm nghe sử dụng ngưỡng nghe tại 4 dải tần số cơ bản 500 Hz, 1000
Hz, 2000 Hz và 4000 Hz và phân mức độ giảm nghe theo 5 mức dựa
vào trung bình ngưỡng nghe của 4 dải tần số trên (tính cho tai nghe tốt)
tương ứng với từng mức đó là những biểu hiện nghe cơ bản trong giao
tiếp. Việt Nam hiện đang sử dụng bảng tính Fowler – Sabin (Phụ lục 43.1) để tính phần trăm thiếu hụt sức nghe và bảng Fellmann – Lessing
(Phụ lục 4-3.2) để phân mức độ giảm nghe và tính phần trăm tổn thương
cơ thể.
Theo cả 2 cách phân loại mức độ giảm nghe, nhóm có mức độ giảm
nghe nhẹ trở xuống là chủ yếu chiếm tỷ lệ lần lượt là 65,7% và 76,3%;
(biểu đồ 3.6).


20


Cách tính của Việt Nam cũng có phần tương đồng với một số nước
(Hàn Quốc, Ấn Độ, Mỹ) về các dải tần sử dụng [88, 94, 142, 162].
 Kết quả ghi đáp ứng thính giác thân não
Ghi đáp ứng thính giác thân não là ghi lại đáp ứng điện của dây thần
kinh thính giác và thân não khi tai tiếp nhận kích thích âm thanh. Đây là
nghiệm pháp được sử dụng nhiều trong lâm sàng để chẩn đoán các tổn
thương sau ốc tai (tổn thương dây thần kinh VIII, thân não, ...).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: thời gian tiềm tàng giữa
các sóng I-V và sóng III-V đều lớn hơn giá trị tham chiếu có ý nghĩa
thống kê với p<0,05. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng
với kết quả của một số nghiên cứu ngoài nước: Abbate và cs, 1993,
[32]; Vrca và cs, 1997 [170]; Prasher và cs, 2005 [136]; Juárez-Pérez
và cs 2014 [92].
 Mối liên quan của một số yếu tố nguy cơ và giảm nghe
Nguy cơ giảm sức nghe liên quan trực tiếp đến mức độ tiếp xúc với
các yếu tố tác hại nghề nghiệp tăng nguy cơ giảm sức nghe từ 1,23 1,93 lần. Nguy cơ giảm sức nghe tăng theo tuổi đời từ 2,31 đến 38,6
lần; theo tuổi nghề nguy cơ giảm sức nghe tăng từ 1,49 – 6,06 lần và sự
tăng này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Nguy cơ giảm nghe của công nhân liên quan đến kiến thức về an
toàn sử dụng hóa chất và thực hiện an toàn vệ sinh lao động cá nhân.
việc không có kiến thức hiểu biết về hóa chất mình tiếp xúc trong môi
trường lao động có nguy cơ giảm nghe tăng lên 1,85 - 2,14 lần, tuy
nhiên chỉ có việc biết khả năng gây bệnh nghề nghiệp của DMHC là có
ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì kiến thức
rất quan trọng đó là nền tảng cho việc thực hiện các biện pháp dự phòng
bệnh nghề nghiệp. Nguy cơ giảm sức nghe có thể tăng cao khi việc thực
hiện các biện pháp an toàn vệ sinh lao động cá nhân, sử dụng phương
tiện bảo vệ cá nhân không tốt (từ 1,04- 1,48 lần). Thực hiện vệ sinh
không tốt làm tăng nguy cơ thấm nhiễm DMHC bằng các con đường



21

khác (đường da) ngoài đường chính là hô hấp. Sử dụng phương tiện bảo
vệ cá nhân là biện pháp dự phòng khá hiệu quả làm giảm nguy cơ tiếp
xúc với hóa chất độc hại mặc dù nó được xếp là nhóm giải pháp cuối
cùng trong một chuỗi tổng thể các nhóm giải pháp dự phòng.
Nghiên cứu của chúng tôi tìm thấy mối liên quan của một số yếu tố
nguy cơ với giảm sức nghe gồm: (1) mức độ tiếp xúc với hỗn hợp dung
môi hữu cơ, chỉ số tiếp xúc sinh học, cường độ tiếng ồn; (2) tuổi đời,
tuổi nghề; (3) kiến thức và thực hành an toàn vệ sinh lao động cá nhân;
(4) sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân với khả năng tăng nguy cơ giảm
nghe ở các mức độ khác nhau. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng
tìm thấy sự tương đồng với các nghiên cứu trong và ngoài nước ở một
số điểm.
4.3. Hạn chế của đề tài
- Nhóm nghiên cứu đã không thiết kế nghiên cứu trên nhóm chứng do
vậy việc đánh giá ảnh hưởng của dung môi hữu cơ đến sức nghe công
nhân sản xuất sơn và giầy trở nên khó khăn hơn.
- Đề tài không có điều kiện về thời gian, để lấy mẫu nhiều thời điểm
khác nhau tương ứng với những thời gian sản xuất các lô hàng khác
nhau để đánh giá được tổng thể hơn mức tiếp xúc với các loại DMHC
của người lao động.
- Đề tài áp dụng hướng dẫn trước đây là xét nghiệm a xít hyppuric niệu
để giám sát sinh học tiếp xúc nghề nghiệp với dung môi hữu cơ (toluen).
Hiện nay nhiều nước trên thế giới cũng như Hội nghị các nhà vệ sinh
công nghiệp quốc gia Mỹ (ACGIH) khuyến cáo sử dụng một số chỉ
điểm sinh học khác tốt hơn để theo dõi phơi nhiễm với toluen trong môi
trường lao động như toluen máu, toluen niệu hay o – cresol niệu. Các
chỉ số này sau này cũng được quy định tại thông tư số 28/2016/TT-BYT

ngày 30/6/2016 của Bộ Y tế về hướng dẫn quản lý bệnh nghề nghiệp.


22

KẾT LUẬN
Nghiên cứu ảnh hưởng của một số dung môi hữu cơ đến sức nghe
công nhân sản xuất sơn và giầy đã cho phép rút ra những kết luận sau:
1. Đã mô tả được tình trạng tiếp xúc dung môi hữu cơ của công
nhân tại một số cơ sở sản xuất sơn và giầy cụ thể như sau:
1.1. Đã phát hiện được nhiều loại dung môi hữu cơ có độc tính đến sức
nghe tại môi trường lao động của công nhân sơn và giầy gồm: toluen,
xylen, ethyl benzen, ethyl acetat, butyl acetat.
1.2. Nồng độ dung môi hữu cơ trên trong không khí môi trường lao
động hầu hết nằm trong giới hạn cho phép. Có 5/28 mẫu (17,9%) vị trí
nồng độ benzen vượt TCCP từ 1,16-2,7 lần.
1.3. Chỉ số phơi nhiễm (EI) với hỗn hợp dung môi hữu cơ dưới 0,5
chiếm đa số 18/28 mẫu (64,2%); chỉ số phơi nhiễm lớn hơn 1 - mức tiếp
xúc cao có 5/28 mẫu chiếm 17,9% trong đó có 3 mẫu tại Công ty sơn
Hà Nội, 2 mẫu tại công ty giày Thượng Đình.
1.4. Chỉ số giám sát sinh học với dung môi hữu cơ (toluen): nồng độ a
xít hippuric niệu trung bình 0,76 g/g creatinine (0,12 đến 5,68 g/g
creatinine); đa số nồng độ a xít hippric niệu dưới 0,8g/g creatinine
chiếm tỷ lệ 68,4%; nồng độ a xít hippuric niệu cao hơn giới hạn tham
chiếu 1,6 g/g creatinine là 23 trường hợp chiếm tỷ lệ 5,75%.
2. Đã đánh giá được thực trạng, đặc điểm giảm sức nghe ở công nhân
tiếp xúc dung môi hữu cơ:
2.1. Đã xác định được tỷ lệ giảm sức nghe dạng tiếp nhận tần số cao 2
tai ở công nhân tiếp xúc dung môi hữu cơ là 29,5%.
2.2. Trung bình ngưỡng nghe tai phải là 37,11 dB, tai trái là 37,09 dB

và tính chung 2 tai là 37,10 dB.
2.3. Trung bình ngưỡng nghe theo dải tần số 500, 1000, 2000, 4000 và
8000 Hz lần lượt là: 32,18; 26,74; 27,56; 50,40 và 48,62 dB.
2.4. Đã xác định được đặc điểm giảm nghe tiếp nhận đối xứng 2 tai với
xu hướng giảm nghe nhiều ở tần số cao (4000, 8000 Hz) và tần số 500
Hz giảm nghe nhiều hơn tần số 1000, 2000 Hz. Biểu đồ sức nghe dạng


23

tiếp nhận đơn thuần hình chữ J với điểm xuống đầu chữ J tại tần số 500
Hz, thân chữ J đi ngang là tại tần số 1000, 2000 Hz và phần thân đi
xuống là tần số 4000, 8000 Hz.
2.5. Mức độ giảm nghe nhẹ là chủ yếu chiếm tỷ lệ 65,7%; giảm nghe
mức độ vừa chiếm 4,7%; giảm nghe mức độ nặng 1,3 % và điếc chiếm
tỷ lệ 2,1% (tính theo Fowler – Sabin và Fellmann – Lessing).
2.6. Kết quả ghi điện thính giác thân não (ABR): thời gian tiềm tàng
của các sóng I, III, V và thời gian tiềm tàng giữa các sóng I-III; III-V
và I-V kéo dài hơn giá trị tham chiếu có ý nghĩa thống kê p < 0,05.
2.7. Có mối liên quan giữa giảm nghe với một số yếu tố nguy cơ: mức
tiếp xúc với hỗn hợp dung môi hữu cơ, cường độ tiếng ồn; tuổi đời, tuổi
nghề; kiến thức và thực hành an toàn vệ sinh lao động; sử dụng phương
tiện bảo vệ cá nhân. Tuy nhiên chỉ tìm thấy có ý nghĩa thống kê với yếu
tố kiến thức an toàn vệ sinh lao động (biết khả năng gây bệnh nghề
nghiệp của DMHC) và yếu tố tuổi đời, tuổi nghề.


×