Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

thưc trang và các giai phap nang cao nang luc TCCSD va DV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.59 KB, 64 trang )

Đề tài: THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TCCSĐ VÀ ĐẢNG VIÊN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động, lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành
động, được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, lấy dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản. Hệ thống tổ chức của Đảng gồm bốn cấp cơ bản, bao gồm: cấp Trung ương, cấp
tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, cấp quận huyện, thị xã và thành phố thuộc
tỉnh và cấp cơ sở. Trong đó TCCSĐ có vị trí vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức
và thực hiện sự lãnh đạo của Đảng. TCCSĐ chính là nền tảng của Đảng, là hạt nhân
chính trị ở cơ sở. Chất lượng của TCCSĐ là yếu tố tạo nên thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo
đang đặt ra nhiều yêu cầu và ngày càng cao đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các TCCSĐ. Các TCCSĐ phải thật sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị trong
các tập thể lao động, cần phải đặc biệt coi trọng củng cố các TCCSĐ ở những địa
bàn và lĩnh vực trọng yếu về kinh tế và chính trị.
Đại hội X của Đảng đã tổng kết: "không ít tổ chức đảng yếu kém, không làm
tròn vai trò hạt nhân chính trị và nền tảng của Đảng, không đủ sức giải quyết các vấn
đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức cơ sở đảng tê liệt, mất sức
chiến đấu…".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đánh giá: Thời gian qua,
trong quá trình lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã kiên trì và nghiêm
túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, chú trọng cơ sở và địa bàn trọng yếu, nhờ đó đã đạt được một số kết quả tích
cực. Tuy vậy, nhìn chung, cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và
phê bình trong các cơ quan, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo




thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ công chức còn diễn ra nghiêm trọng nhưng chưa được ngăn chặn
và xử lý kịp thời. Nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức chiến đấu, không đủ
năng lực lãnh đạo và chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác
tư tưởng còn nhiều bất cập và thiếu tính thuyết phục, tính chiến đấu. Công tác lý
luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới.
Công tác tổ chức và cán bộ còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả
kiểm tra, giám sát chưa cao.
Đánh giá trên đây của Đảng ta chứng tỏ rằng, công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng thời gian qua chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới; đòi hỏi
Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của mình, phải coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng
và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI):
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, xác định mục tiêu “Phải tạo
được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác
xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày
càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng”.
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Mục đích:
- Đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ và đội
ngũ đảng viên trong những năm gần đây.
- Đề xuất các nhóm giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của TCCSĐ và đội ngũ đảng viên trong thời gian tới.
2.2 Nhiệm vụ

Một là, làm rõ tính tất yếu khách quan cần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của TCCSĐ

2


Hai là, đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ
và đội ngũ đảng viên trong toàn đảng bộ Tỉnh Hà Giang, xác định nguyên nhân và
rút ra bài học kinh nghiệm.
Ba là, đề xuất các nhóm giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của TCCSĐ và đội ngũ đảng viên trong thời gian tới.
III . PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, lý luận kết hợp với thực tiễn,
điều tra, thống kê…
IV. NỘI DUNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
- Nội dung: Đề cập đến các TCCSĐ và đội ngũ đảng viên trong toàn đảng bộ
tỉnh Hà Giang
- Phạm vi: Thời gian nghiên cứu từ năm 2011 đến 2014, đưa những giải
pháp đưa ra có tính lâu dài, nhưng trước mắt hướng vào việc thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVI, nhiệm kỳ (2015-2020).
V. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài khái quát hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức cơ sở
đảng và đảng viên để thấy rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
và đảng viên; thực trạng, nguyên nhân và bước đầu đưa ra những giải pháp nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ và đội ngũ đảng viên
thuộc Đảng bộ tỉnh Hà Giang trong sạch, vững mạnh.
NỘI DUNG
I. TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
1. Một số khái niệm cơ bản.

1.1. Khái niệm tổ chức cơ sở đảng
Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
thông qua ngày 19/01/2011 đã xác định:
Điều 10: “Tổ chức cơ sở đảng được lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự
nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy quận, huyện, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh”

3


Điều 21: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ
sở đảng ( trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính
thức trở lên, lập tổ chức đảng ( tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ
sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc
cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp. Nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy
cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp”
- Tổ chức cơ sở đảng dưới 30 đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng
trực thuộc.
- Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có
các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
- Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp ủy
cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
Lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở.
1.2 . Đảng viên:
1.2.1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội

tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời
phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà
nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành
mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn
đoàn kết thống nhất trong Đảng.
1.2.2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện
thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên,
hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được
nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
1.3 Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng:
4


1.3.1 Chức năng của tổ chức cơ sở đảng:
TCCSĐ có hai chức năng: chức năng hạt nhân chính trị ở cơ sở và chức
năng xây dựng nội bộ Đảng.
a. Chức năng hạt nhân chính trị ở cơ sở
Với Chức năng hạt nhân chính trị ở cơ sở, TCCSĐ là nơi bảo đảm tính chất
lãnh đạo chính trị của Đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đơn vị cơ sở. Tính
chất lãnh đạo chính trị được biểu hiện ở các mặt sau:
- Trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị và nắm vững đặc điểm của địa phương,
đơn vị, tổ chức cơ sở đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ công tác, biện pháp
thực hiện tại cơ sở; đồng thời, nắm vững tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân
dân phản ánh cho Đảng và Nhà nước để định ra đường lối, chính sách đúng đắn.
- Định hướng xây dựng tổ chức và hoạt động của chính quyền, các đoàn thể,
các tổ chức kinh tế, xã hội theo đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả.

- Định hướng tư tưởng, chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; uốn nắn những lệch lạc, ngăn chặn
những tiêu cực, khẳng định và ủng hộ nhân tố mới trong hoạt động của các tổ chức
trong hệ thống chính trị và các tổ chức quần chúng tại cơ sở; phát động và lãnh đạo
các phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa của quần chúng ở cơ sở.
b. Chức năng xây dựng nội bộ đảng
- Củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên, kết nạp đảng viên mới.
- Thực hiện tốt chế độ sinh hoạt Đảng, tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ
luật và sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng.
- Kiểm tra đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, đường lối, Điều lệ
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp trên và cấp mình.
- Trực tiếp hoặc gián tiếp bầu các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng; tham
gia xây dựng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết
của cấp trên, nghị quyết cấp mình và công tác cán bộ.
-Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt nội bộ.
5


1.3.2 Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Nhiệm vụ của tất cả các tổ chức cơ sở đảng đã được ghi trong điều 23 của
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng thông qua ngày 19/1/2011 như sau:
Một là, Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có
hiệu quả.
Hai là, Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng
sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường

đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán
bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến
thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
Ba là, Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám
sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Như vậy, nhiệm vụ của các tổ chức cơ sở đảng đã được Đảng ta quan tâm và
làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề là ở chỗ
các cấp uỷ đảng cơ sở, từng cán bộ, đảng viên phải nhận thức được những nhiệm vụ
đó cho thật đầy đủ, trên cơ sở nhận thức đó có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác
của mình.
1.3. Nhiệm vụ của đảng viên:
1.3.1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng,
chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt
đối sự phân công và điều động của Đảng.
6


1.3.2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực
công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu
hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những
điều đảng viên không được làm.

1.3.3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng
của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc
và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
1.3.4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của
Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự
phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh
hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
1.4. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
1.4.1 Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng là khả năng đề ra chủ trương
đường lối và nhiệm vụ chính trị sát với thực tiễn địa phương, ở cơ sở; là khả năng tổ
chức thực hiện chủ trương đó và khả năng thực hiện công tác kiểm tra. Để có khả
năng đó người lãnh đạo phải có năng lực hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện.
Năng lực hiểu biết là khả năng trí tuệ và trí thức cần có của mọi người, lao
động của người cán bộ là lao động trí óc, có tính sáng tạo rất đa dạng. Hoạt động của
người cán bộ chủ yếu là hoạt động trí tuệ, khi ra một quyết định quản lý, người lãnh
đạo phải trải qua quá trình suy nghĩ nhất định, quyết định đó đúng hay sai, hiệu quả
cao hay thấp đều phụ thuộc vào chất lượng của quá trình tư duy của người lãnh đạo.
Khi tổ chức thực hiện, từ việc lựa chọn người thực hiện, đến việc phân đánh giá quá
trình thực hiện, đòi hỏi người lãnh đạo phải có một quá trình suy nghĩ nghiêm túc và
do đặc điểm của hoạt động quản lý, tạo ra người lãnh đạo phải xử lý giải quyết nhiều
công việc trong một thời gian, trong khi đó lại không đủ thời gian thu thập những
thông tin cần thiết, không thể tập trung suy nghĩ về một vấn đề, các quyết định của
người lãnh đạo thường tác động đến nhiều người, nhiều lĩnh vực phải chịu trách
nhiệm cá nhân trước lĩnh vực của mình. Do vậy đòi hỏi người lãnh đạo phải có trí
7



tuệ, nếu không có trí tuệ thì chắc chắn chất lượng hiệu quả của quá trình tư duy suy
nghĩ sẽ không cao, từ đó dẫn đến hiệu quả công việc thấp.
Năng lực trí tuệ là điều kiện, là tiền đề định hướng cho hoạt động thực tiễn.
Vì vậy, người lãnh đạo phải luôn làm giàu trí tuệ của mình bằng việc thường xuyên
học hỏi để bổ sung những kiến thức và những kinh nghiệm mới trong lĩnh vực kinh
tế-chính trị-xã hội như Lênin đã dạy "Học, học nữa, học mãi" học ở trường, học qua
sách báo, học trong thực tiễn công tác là con đường cơ bản để người lãnh đạo nâng
cao và hoàn thiện trí tuệ của mình.
Thực tiễn cho thấy để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo công cuộc đổi mới đi
lên thắng lợi, đòi hỏi Đảng ta không chỉ có năng lực trí tuệ mà còn phải có năng lực
thực tiễn.
Năng lực tổ chức thực tiễn có vai trò rất quan trọng: Nó quyết định thành bại
của hành động, biến kiến thức thành hiện thực sinh động. Năng lực tổ chức thực tiễn
bao gồm:
- Năng lực vận dụng nghị quyết, quyết định.
- Năng lực phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh,
hoàn thiện các quyết định.
- Năng lực tổ chức vận động quần chúng.
Quá trình hoạt động, việc đưa ra những quyết định là hết sức quan trọng, nếu
như chủ trương đúng, quyết định đúng sẽ đem lại hiệu quả cao. Nếu một chủ trương
sai, quyết định sai sẽ gây những hậu quả tai hại. Vì vậy đưa một chủ trương, một
quyết định đòi hỏi tập thể lãnh đạo phải tập trung trí tuệ, phát huy quyền dân chủ
thảo luận thống nhất.
Như vậy, năng lực của tổ chức cơ sở đảng là: Khả năng quán triệt, nắm
vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để xác định mục tiêu,
nhiệm vụ chính trị đúng đắn; Là khả năng cụ thể hoá chính xác nhiệm vụ chính trị và
tổ chức thực hiện thắng lợi trên địa bàn quận. Đồng thời xây dựng và thực hiện có
hiệu quả các chương trình, kế hoạch công tác phục vụ trực tiếp cho việc lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở và các chỉ thị của cấp trên. Thực hiện

nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; phân công, bố trí
cấp uỷ viên và cán bộ phụ trách đảm bảo đúng người, đúng việc nhằm phát huy điểm
8


mạnh, sở trường của từng cấp ủy viên và từng cán bộ. Tập trung xây dựng, củng cố
và phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị của cơ sở. Ngoài ra, năng lực của tổ chức cơ sở đảng thể hiện ở phẩm chất chính
trị, uy tín của mỗi cán bộ đảng viên và tập thể lãnh đạo, ở lập trường quan điểm
vững vàng, ở tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, biết sử dụng cán
bộ, chuyên gia giỏi phù hợp với từng loại công việc. Biết khai thác sức mạnh tổng
hợp của địa phương cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ chính trị.
Năng lực của tổ chức cơ sở đảng còn thể hiện ở chất lượng của công tác
kiểm tra; giám sat, nhất là trong điều kiện hiện nay công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng đặc biệt quan trọng, giúp cho cán bộ lãnh đạo phát hiện ra nhân tố mới, kịp
thời loại bỏ những sai lầm hạn chế để lãnh đạo của Đảng ngang tầm với nhiệm vụ
chính trị.
1.4.2. Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thể hiện sự thống nhất ý chí và hành
động trong Đảng, thể hiện ở chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên, thể hiện sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng bộ.
Đó chính là sức mạnh to lớn để Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, trở lực đưa
sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi.
Việc nâng cao năng lực lãnh đạo luôn luôn gắn liền với việc nâng cao sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị, đó là yêu cầu
cấp thiết, cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Sự sụp đổ của Liên xô và các nước XHCN ở Đông Âu là một thực tế chứng
minh mọi thành công hay thất bại của cách mạng là tuỳ thuộc vào năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Khi Đảng đã giảm sút sức chiến đấu, thì sẽ
đưa sự nghiệp cách mạng đến những sai lầm và tổn thất nghiêm trọng.

Đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguồn gốc của mọi thắng lợi của Đảng,
của cách mạng.
Theo quan điểm đó, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thể hiện ở nhiều
mặt: Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, ở ý thức giác ngộ, trình độ trí tuệ,
chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, tính tiêng phong gương mẫu và bản lĩnh
chính trị vững vàng trước những hành động phức tạp của tình hình chính trị - xã hội;
Sự kiên định chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc
9


lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Khả năng khắc phục hạn chế, những biểu hiện tiêu
cực trong bộ máy đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân; Tinh thần đấu tranh, ủng
hộ các mới, tiến bộ, phê phán loại bỏ cái cũ, lạc hậu; Sự nhạy bén của tổ chức cơ sở
đảng trong nắm bắt tình hình, tính kịp thời trong phát hiện và kiên quyết đấu tranh
đập tan mọi âm mưu sai trái từ bên ngoài để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng được thể hiện ở việc thực hiện tốt các
nguyên tắc tổ chức sinh hoạt và kỷ luật Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ,
tự phê bình và phê bình, xây dựng sự điều khiển thống nhất trong nội bộ tổ chức
đảng, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, những hành vi sai trái, tư tưởng,
quan điểm phản động, những phần tử cơ hội. Chủ động đấu tranh ngăn chặn và đẩy
lùi các biểu hiện giảm sút lý tưởng và ý chí phấn đấu, chống tư tưởng thực dụng,
quan liêu, tham nhũng và thoái hoá về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên trong tổ chức đảng...
Tóm lại, một tổ chức cơ sở đảng có sức chiến đấu cao tức là tổ chức cơ sở
đảng ấy phải có: đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng tốt, nghĩa là có đủ số lượng
cần thiết, cơ cấu đội ngũ đảng viên hợp lý, mỗi cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống trong sạch, lành mạnh,
tiên phong gương mẫu...; Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật Đảng,
nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, toàn đảng bộ (chi bộ)

là một khối thống nhất về ý chí và hành động; Đồng thời phải có phương tiện làm
việc tốt, đó là cơ sở vật chất, các trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho hoạt động
của đảng bộ (chi bộ).
1.5. Tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng có những biểu
hiện khác nhau ở mỗi thời kỳ cách mạng. Do đó, trong những giai đoạn cách mạng
cụ thể cũng có những tiêu chí đánh giá khác nhau. Từ những qui định về chức năng,
nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ; căn cứ vào Hướng dẫn 27- HD/BTC ngày 25/9/2014
của Ban Tổ chức Trung ương về kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, xếp loại tổ
chức cơ sở đảng, đảng viên hàng năm; nhận thức về năng lực lãnh đạo và sức chiến

10


đấu của TCCSĐ như đã trình bày, có thể xem xét, đánh giá năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của TCCSĐ trong giai đoạn hiện nay trên những tiêu chí cơ bản sau đây:
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh:
- Kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn của đảng
bộ, chi bộ và nhiệm vụ cấp ủy cấp trên giao;
- Việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân; công tác đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác;
- Lãnh đạo công tác quốc phòng toàn dân và thực hiện chính sách hậu
phương quân đội; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội ở địa phương,
đơn vị.
Lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng:
- Việc phổ biến, quán triệt và lãnh đạo đảng viên, quần chúng thực hiện
đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
- Công tác phát hiện, ngăn ngừa, đấu tranh với những biểu hiện về tư tưởng

và hành vi (nói, viết, làm…) trái với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước;
- Việc nắm tình hình tư tưởng và diễn biến tư tưởng của đảng viên, quần
chúng để có biện pháp lãnh đạo hoặc báo cáo lên cấp trên giải quyết.
Lãnh đạo xây dựng chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội vững mạnh:
- Công tác xây dựng và phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền
cơ sở; công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của chính quyền; việc xem xét,
giải quyết những vấn đề xảy ra ở cơ sở và những đề xuất, kiến nghị chính đáng của
nhân dân thuộc trách nhiệm của chính quyền cơ sở;
- Lãnh đạo xây dựng mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vững
mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi tổ
chức; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng đảng bộ, chi bộ:
- Công tác xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh gắn với xây
dựng chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội vững mạnh và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên;
11


- Việc xây dựng và thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy, đảng bộ, chi bộ;
thực hiện tự phê bình, phê bình và nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của Đảng;
- Thực hiện chế độ sinh hoạt đảng định kỳ và đổi mới nội dung, nâng cao
chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ; xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng;
- Công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên trong việc
chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên và các nhiệm vụ
được giao; việc phát hiện, xử lý đảng viên sai phạm; công tác bảo vệ chính trị nội
bộ; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác;
- Công tác giáo dục, bồi dưỡng, quản lý và phân công công tác cho đảng

viên; thực hiện việc giới thiệu đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ với đảng ủy,
chi ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú;
- Công tác bồi dưỡng, tạo nguồn và kết nạp đảng viên, nhất là ở những địa
bàn trọng yếu, những nơi có ít hoặc chưa có đảng viên.
Lãnh đạo thực hiện việc học tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh:
- Tổ chức cho đảng viên nghiên cứu, học tập, quán triệt Chỉ thị của Bộ
Chính trị, các văn bản của Trung ương về học tập tư tưởng và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh;
- Xây dựng tiêu chí về chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên ở địa
phương, cơ quan, đơn vị theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để thực
hiện;
- Định kỳ kiểm điểm, đánh giá kết quả việc học tập tư tưởng và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh của đảng bộ, chi bộ và đảng viên, quần chúng trong
sinh hoạt đảng (hàng tháng, sơ kết 6 tháng và tổng kết năm); chỉ rõ những việc làm
được, chưa làm được để có biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm;
biểu dương những cán bộ, đảng viên có những việc làm cụ thể, thiết thực về học tập
tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
2. Tính tất yếu khách quan cần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên:

12


Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên là một tất yếu khách quan.
- Những năm qua, kết quả của Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự
phê bình và phê bình trong các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên tuy có những thành
tựu nhất định nhưng chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được sự chuyển biến căn bản,
chưa ngăn chặn được tình trạng suy thoái, tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu

trong một bộ phận cán bộ, đảng viên…Việc xử lý kỷ luật các tổ chức đảng và đảng
viên vi phạm chưa kịp thời, thiếu kiên quyết.
- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn yếu
kém, có nơi tê liệt, mất sức chiến đấu, không đủ khả năng giải quyết những vấn đề
nảy sinh ở cơ sở. Công tác quản lý đảng viên còn lỏng lẻo. Nội dung, hình thức sinh
hoạt đảng còn nghèo nàn, thiếu tính thuyết phục, tự phê bình và phê bình yếu, chưa
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt. Một bộ phận đảng viên
không thể hiện rõ vai trò tiên phong gương mẫu, thiếu tinh thần trách nhiệm. Việc
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhiều nơi chưa nghiêm túc, chư phát huy đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân.
- Công tác đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên vẫn
còn hình thức, kết quả đánh giá, phân loại chưa phản ánh đúng thực chất.
- Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt
các cấp thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức và năng lực công tác,
chạy theo chủ nghĩa thực dụng, không hoàn thành nhiệm vụ nhưng chưa được xử lý
kiên quyết, kịp thời.
- Nhiều vấn đề mới về xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng chưa được
Trung ương và cấp trên nghiên cứu, hướng dẫn kịp thời; cấp ủy cơ sở thiếu chủ
động, sáng tạo để giải quyết. Không ít cấp ủy cơ sở chưa thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội XI của Đảng, cùng với
đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương đổi mới và chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng
viên; xây dựng, củng cố và bảo vệ Đảng, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh,
đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới.

13


Xuất phát từ vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng nên từ khi thành lập đến

nay, Đảng ta luôn quan tâm đến việc xây dựng các cơ sở đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, coi đây là nhiệm vụ quan trọng và
thường xuyên. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác
định: Phải dồn sức xây dựng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch, vững mạnh; làm tốt công
tác tổ chức, giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, giám sát đảng viên về năng lực
hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức, lối sống, đấu tranh chống những biểu
hiện tiêu cực trong Đảng.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG VÀ ĐỘI NGŨ
ĐẢNG VIÊN.
Trong những năm qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang đã quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quán triệt chủ trương và thực hiện các chỉ
thị, như Nghị quyết số 22 – NQ/TW ngày 02/2/2008 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng (Hội nghị lần thứ 6 – Khóa X) về “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” , Chỉ thị số 10
của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ", công
tác xây dựng Ðảng ở cơ sở đã có một số chuyển biến tiến bộ, góp phần đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới của các Đảng bộ nói riêng, của Tỉnh Hà Giang nói chung. Nhiều tổ
chức cơ sở đảng đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở;
lãnh đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên; thực hiện có
kết quả nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai và bước đầu
đem lại kết quả tích cực, dân chủ trong Ðảng và trong xã hội được mở rộng hơn.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ cơ sở được chăm lo. Ðội ngũ
cán bộ, đảng viên ở cơ sở được tăng thêm về số lượng và chất lượng; trình độ, kiến
thức các mặt được nâng lên.
Nhiều cấp ủy viên và cán bộ, đảng viên đã được rèn luyện, thử thách, trưởng
thành qua thực tiễn công tác; kiên định lập trường giai cấp công nhân, trung thành

với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Ðảng;
14


gương mẫu thực hiện quan điểm, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, hoàn thành nhiệm vụ được giao; trong đó, nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ
bản, có phẩm chất, năng lực tốt, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Công tác kết nạp
đảng viên được cấp ủy các cấp quan tâm chỉ đạo và đạt được một số kết quả tích
cực, đảm bảo chất lượng không chạy theo số lượng, cấp ủy các cấp đã đánh giá,
phân tích chất lượng quần chúng nhằm xây dựng kế hoạch tạo nguồn kết nạp đảng
viên; bên cạnh đó tích cực tổ chức tuyên truyền, giáo dục, chỉ đạo các tổ chức quần
chúng nhất là Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và trách nhiệm từng cá nhân
đảng viên giáo dục, lựa chọn đoàn viên, hội viên ưu tú giới thiệu với chi bộ. Chi bộ
xét, nếu quần chúng có đủ điều kiện, tiêu chuẩn thì ra Nghị quyết công nhận quần
chúng đó là cảm tình Đảng, đồng thời chi bộ ra Nghị quyết phân công đảng viên
chính thức giúp đỡ cảm tình Đảng phấn đấu vào Đảng.
Có được những chuyển biến tiến bộ trên là do Ban chấp hành, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy đã có những nghị quyết, chỉ thị, quy định và giải pháp lớn về xây dựng tổ
chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy cấp đã
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững
mạnh, củng cố cơ sở yếu kém; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, cụ thể là đã ban
hành đề cương kèm theo quyết định số 256-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy " về
nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ,
đảng viên giai đoạn 2010-2015"; Chỉ thị 09- CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về
đổi mới phong cách lề lối làm việc của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị -xã
hội, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thị hành công vụ trên địa bàn
tỉnh; đề án 01-ĐA/TU về đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với hoạt động
của hệ thống chính trị tỉnh Hà giang, đề án 06-ĐA/TU về đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, công

chức, viên chức và nhân dân tỉnh Hà Giang trong tình hình mới. Đề án 02-ĐA/TU
về Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp giai đoạn 2011 – 2015. Công tác kiểm điểm, đánh giá,
phân loại chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên gắn với việc
sửa chữa khuyết điểm yếu kém theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 4 ( Khóa XI ), việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và
15


đảng viên đảm bảo đúng quy trình, nguyên tắc và yêu cầu của cấp
trên sát với tình hình thực tiễn của từng tổ chức cơ sở Đảng trong
toàn Đảng bộ Tỉnh. Sau khi kết thúc việc đánh giá chất lượng tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm, các Đảng bộ trực thuộc
Tỉnh uỷ đã kịp thời đề nghị cấp trên khen thưởng đối với các tổ
chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu, đảng viên đủ
tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ theo quy định của Đảng.
Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã chỉ ra được những khuyết điểm, hạn
chế và đề ra được phương hướng, nhiệm vụ và biện pháp để khắc
phục khuyết điểm, xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và nâng
cao chất lượng lượng đảng viên đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Cụ thể là kết quả đánh giá tổ chức đảng và đảng viên hàng năm được đánh giá
như sau:
* Năm 2011:
1. Đánh giá tổ chức đảng.
a/ Đối với tổ chức cơ sở đảng:
+ Tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh có 780/910
bằng 85,71%;
Trong 780 TCCSĐ đạt trong sạch vững mạnh có 210 TCCSĐ

đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu được khen thưởng, chiếm
23,08% so với TCCSĐ được đánh giá xếp loại.
+ Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ có 105 TCCSĐ
bằng 11,54% .
+ Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ có 24 TCCSĐ,
bằng 2,64% .
+ Tổ chức cơ sở đảng yếu kém 01, bằng 0,11%
b/ Đối với chi bộ trực thuộc Đảng bộ cơ sở
- Tổng số có 3.429 chi bộ:
Số chi bộ được đánh giá là 3.423 bằng 99,83%; Trong đó;
16


* Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 2.489 chi bộ bằng 72,71 %
so với tổng số chi bộ được đánh giá chất lượng.
Trong 2.489 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh có 291 chi bộ
đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu được đề nghị khen thưởng,
bằng 8,50% so với tổng số chi bộ được đánh giá.
* Chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ 731 chi bộ, bằng 21,36% so
với số chi bộ được đánh giá.
* Chi bộ hoàn thành nhiệm vụ 200 chi bộ, bằng 5,84% so với
số chi bộ được đánh giá.
* Chi bộ yếu kém 03 chi bộ, chiếm 0,09% so với tổng số chi bộ
được đánh giá.
2. Đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên:
Tổng số đảng viên của đảng bộ tỉnh đến thời điểm đánh giá
xếp loại có 51.858đ/c; Trong đó: Số đảng viên được đánh giá chất
lượng là 49.063 đ/c, đạt 94,61% so với tổng số đảng viên; số đảng
viên chưa được đánh giá do mới kết nạp 942đ/c bằng 1,82%; số
đảng viên được miễn đánh giá là 1.853đ/c, bằng 3,57%.

Trong số 49.063 đảng viên được đánh giá chất lượng, cụ thể:
* Đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ:
6.799đ/c, bằng 15,92% so với tổng số đảng viên đủ tư cách hoàn
thành tốt nhiệm; bằng 13,86% so với tổng số đảng viên được đánh
giá;
* Số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ:
35.931đ/c bằng 73,23% tổng số đảng viên được đánh giá;
* Số đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ: 6.029đ/c,
bằng 12,29%; Trong đó: Đảng viên đủ cách hoàn thành nhiệm vụ
nhưng còn hạn chế từng mặt 1.277đ/c, chiếm 2,60%; Trong đó:
Chưa tận tuỵ với công việc chiếm 2,26%; còn khuyết điểm trong
công tác sinh hoạt chiếm 0,31%; là Bí thư cấp uỷ chưa hoàn thành
nhiệm vụ chiếm 0,02%; là người đứng đầu cơ quan đơn vị chưa
hoàn thành nhiệm vụ chiếm 0,01%.
17


* Số đảng viên vi phạm tư cách: 304đ/c bằng 0,62% so với
tổng số đảng viên được đánh giá chất lượng, Trong đó: Bị thi hành
kỷ luật của đảng, chính quyền, đoàn thể trong năm 219 trường
hợp, bằng 0,45%; Cơ quan quản lý, chi bộ đánh giá không hoàn
thành nhiệm vụ 76 trường hợp, bằng 0,15%; Không chấp hành sự
phân công, gây mất đoàn kết nội bộ 09 trường hợp, bằng 0,02%.
* Năm 2012.
1. Đánh giá xếp loại tổ chức đảng:
a. Đối với tổ chức cơ sở đảng
- Tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh có 787/922
tổ chức cơ sở đảng, bằng 85,36% .
Trong 787 tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh, có
204 tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu, chiếm

22,13% so với tổng số tổ chức cơ sở đảng được đánh giá xếp loại.
- Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ có 113 tổ chức
cơ sở đảng, bằng 12,26% tổng số tổ chức cơ sở được đánh giá.
- Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ có 21 tổ chức cơ
sở đảng, bằng 2,28% tổng số tổ chức cơ sở đảng được đánh giá
- Tổ chức cơ sở đảng yếu kém 01, bằng 0,11%:
b. Đối với chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở có
Số chi bộ được đánh giá là 3.638/3.650, bằng 99,67%, Trong
đó:
- Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 2.590 chi bộ, bằng 71,19
%
Trong 2.590 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh có 339 chi bộ
đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu, bằng 9,32%
- Chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ 805 chi bộ bằng 22,13%
- Chi bộ hoàn thành nhiệm vụ 240 chi bộ, bằng 6,60%
- Chi bộ yếu kém 03 chi bộ, chiếm 0,08%
2. Đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên
Tổng số đảng viên của đảng bộ tỉnh đến thời điểm đánh giá
xếp loại có 54.464 đồng chí, Trong đó: Số đảng viên được đánh giá
18


chất lượng là 51.594 đồng chí, đạt 94,73% so với tổng số đảng
viên; số đảng viên chưa được đánh giá là đảng viên dự bị 985 đồng
chí, bằng 1,81%; số đảng viên được miễn đánh giá là 1.885 đồng
chí, bằng 3,46%.
Trong số 51.594 đảng viên được đánh giá chất lượng, cụ thể:
- Đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: 7.538
đồng chí, bằng 17,08% so với tổng số đảng viên đủ tư cách hoàn
thành tốt nhiệm vụ bằng 14,61% so với tổng số đảng viên được

đánh giá;
- Số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ: 36.580
đồng chí, bằng 70,90%
- Số đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ 7.169 đồng
chí, bằng 13,90%. Trong đó: Đảng viên đủ cách hoàn thành nhiệm
vụ nhưng còn hạn chế từng mặt 1.695 đồng chí, chiếm 3,29%; lý
do: Chưa tận tuỵ với công việc chiếm 2,74%; còn khuyết điểm
trong công tác sinh hoạt chiếm 0,49%; là người đứng đầu cơ quan
đơn vị, là bí thư cấp ủy chưa hoàn thành nhiệm vụ chiếm 0,05%.
- Số đảng viên vi phạm tư cách: 307 đồng chí, bằng 0,60%.
Trong đó, bị thi hành kỷ luật của đảng, chính quyền, đoàn thể trong
năm là 205 trường hợp, bằng 0,40%; qua kiểm điểm phát hiện vi
phạm tư cách đảng viên 16 trường hợp bằng 0,03%; cơ quan quản
lý, chi bộ đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ 82 trường hợp,
bằng 0,16%; không chấp hành sự phân công, gây mất đoàn kết nội
bộ 04 trường hợp, bằng 0,01%.
* Năm 2013
1. Đánh giá xếp loại tổ chức cơ sở Đảng
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2013, toàn Đảng bộ tỉnh có
931 tổ chức cơ sở đảng; trong đó: Số tổ chức cơ sở đảng đã được
đánh giá chất lượng là 929 đạt 99,79%;
a. Đối với tổ chức cơ sở đảng
- Tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh có 779 tổ
chức cơ sở đảng, bằng 83,85; trong đó có 256 tổ chức cơ sở đảng
19


đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu, chiếm 27,56% so với tổng số
tổ chức cơ sở đảng được đánh giá xếp loại;
- Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ có 131 tổ chức

cơ sở đảng, bằng 14,10% so với tổng số tổ chức cơ sở được đánh
giá
- Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ có 18 tổ chức cơ
sở đảng, bằng 1,94% so với tổng số tổ chức cơ sở đảng được đánh
giá.
- Tổ chức cơ sở đảng yếu kém 01, bằng 0,11%
b. Đối với chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2013 là 3.722 chi bộ; trong
đó, số chi bộ đã được đánh giá chất lượng là 3.719 chi bộ; cụ thể:
- Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 2.610 chi bộ, bằng 70,18
%
Trong 2.610 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh có 235 chi bộ
đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu, bằng 6,32%
- Chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ 934 chi bộ bằng 25,11%
- Chi bộ hoàn thành nhiệm vụ 174 chi bộ, bằng 4,68%
- Chi bộ yếu kém 01 chi bộ, chiếm 0,03%
2. Về đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên.
Tổng số đảng viên đến thời điểm đánh giá xếp loại có 57.226
đồng chí; Trong đó: Số đảng viên được đánh giá chất lượng là
54.171 đồng chí, đạt 94,66% so với tổng số đảng viên; số đảng
viên chưa được đánh giá do mới kết nạp 1.103 đồng chí, bằng
1,93%; số đảng viên được miễn đánh giá là 1.952 đồng chí, bằng
3,41%.
Trong số 54.171 đảng viên được đánh giá chất lượng, cụ thể:
- Đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ:
8.051đồng chí, bằng 17,27% so với tổng số đảng viên đủ tư cách
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ: 38.570
đồng chí, bằng 71,20%
20



- Số đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ 7.220 đồng
chí, bằng 13,33%; trong đó, đảng viên đủ cách hoàn thành nhiệm
vụ nhưng còn hạn chế từng mặt 2.074 đồng chí, chiếm 3,83%;
- Số đảng viên vi phạm tư cách: 330 đồng chí, bằng 0,61%;
trong đó, bị thi hành kỷ luật Đảng, chính quyền, đoàn thể trong
năm là 229 trường hợp, bằng 0,42%; qua kiểm điểm phát hiện vi
phạm tư cách đảng viên 06 trường hợp, bằng 0,01%; cơ quan quản
lý, chi bộ đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ 90 trường hợp,
bằng 0,17%; không chấp hành sự phân công, gây mất đoàn kết nội
bộ 05 trường hợp, bằng 0,01%.
* Năm 2014
1. Đánh giá xếp loại tổ chức cơ sở Đảng
Đến 31/12/2014, toàn Đảng bộ tỉnh có 919 tổ chức cơ sở
đảng; trong đó: Số tổ chức cơ sở đảng đã được đánh giá chất lượng
là 916 đạt 99,67%;
a. Đối với tổ chức cơ sở đảng
- Tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh có 703 tổ
chức cơ sở đảng, bằng 76,74%;
- Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ có 183 tổ chức
cơ sở đảng, bằng 19,97% so với tổng số tổ chức cơ sở được đánh
giá
- Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ có 28 tổ chức cơ
sở đảng, bằng 3,05% so với tổng số tổ chức cơ sở đảng được đánh
giá.
- Tổ chức cơ sở đảng yếu kém 02, bằng 0,21%
b. Đối với chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2014 là 3.761 chi bộ; trong
đó, số chi bộ đã được đánh giá chất lượng là 3.750 chi bộ; cụ thể:

- Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 2.397 chi bộ, bằng 63,92
%

21


Trong 2.397 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh có 377 chi bộ
đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu, bằng 10,05% so với tổng số
chi bộ được đánh giá.
- Chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ 1.135 chi bộ bằng 30,27%
- Chi bộ hoàn thành nhiệm vụ 214 chi bộ, bằng 5,71%
- Chi bộ yếu kém 04 chi bộ, chiếm 0,11%
2. Về đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên.
Tổng số đảng viên đến thời điểm đánh giá xếp loại có 59.866
đồng chí; Trong đó: Số đảng viên được đánh giá chất lượng là
55.552 đồng chí, đạt 92,79% so với tổng số đảng viên; số đảng
viên chưa được đánh giá do mới kết nạp và đảng viên được miễn
đánh giá.
Trong số 55.552 đảng viên được đánh giá chất lượng, cụ thể:
- Đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: 8.363
đồng chí, bằng 21,25% so với tổng số đảng viên đủ tư cách hoàn
thành tốt nhiệm vụ.
- Số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ: 39.359
đồng chí, bằng 70,85%
- Số đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ 7.611 đồng
chí, bằng 13,7%; trong đó, đảng viên đủ cách hoàn thành nhiệm vụ
nhưng còn hạn chế từng mặt 1.150 đồng chí, chiếm 2,07%;
- Số đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ: 219 đồng chí,
bằng 0,39%; trong đó, bị thi hành kỷ luật Đảng, chính quyền, đoàn
thể trong năm là 144 trường hợp,; qua kiểm điểm phát hiện vi

phạm tư cách đảng viên 08 trường hợp; cơ quan quản lý, chi bộ
đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ 65 trường hợp; không chấp
hành sự phân công, gây mất đoàn kết nội bộ 02 trường hợp.
Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên còn một số khuyết điểm, yếu kém :
Nhiều cấp ủy chưa thực sự coi trọng vị trí then chốt của công tác xây dựng
Ðảng; chưa dành thời gian, công sức để tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức
cơ sở đảng. Không ít tổ chức cơ sở đảng chưa nhận thức và thực hiện đúng chức
22


năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở chưa
đúng mức, tính định hướng, tính chiến đấu và tính giáo dục, thuyết phục chưa cao.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, khả năng nhận thức, vận dụng, cụ thể hóa và tổ
chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và của cấp ủy cấp trên của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn yếu, chưa đủ sức phát
hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở; có tổ chức cơ sở đảng bị mất
sức chiến đấu.
Nhiều cấp ủy, đảng bộ, chi bộ chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Ðảng; chưa thực hiện có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng, nội dung sinh
hoạt chi bộ chậm đổi mới; chưa coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo và phong
cách, lề lối làm việc; bệnh thành tích còn nặng và khá phổ biến. Một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, vi phạm nguyên
tắc Ðảng, tự phê bình và phê bình yếu. Tình thương yêu đồng chí bị giảm sút. Tình
trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên rất đáng lo ngại; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn xảy ra ở
nhiều nơi nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả.
Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng
viên còn bị buông lỏng. Cấp ủy và chi bộ chưa nắm chắc tình hình tư tưởng và phẩm

chất của cán bộ, đảng viên; chưa chủ động dự báo và chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên trước những diễn biến phức tạp và những vấn đề mới; chưa có biện pháp
hữu hiệu ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm.
Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm còn hình thức,
kết quả chưa phản ánh đúng thực chất. Công tác kết nạp đảng viên còn chú ý nhiều
đến số lượng, chưa chú trọng đúng mức đến chất lượng. Số đảng viên kết nạp ở địa
bàn dân cư, là công nhân trong các thành phần kinh tế còn ít.
Những khuyết điểm, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan, song chủ yếu là do
một số nguyên nhân chủ quan sau :
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập kinh tế quốc tế, do chưa lường hết tác động bởi mặt trái của cơ chế thị
trường nên công tác xây dựng Ðảng nói chung, xây dựng Ðảng ở cơ sở nói riêng tuy
23


đã được đổi mới nhưng chưa theo kịp sự biến đổi của tình hình; chưa quan tâm đúng
mức đến công tác nghiên cứu lý luận, thiếu dự báo về công tác xây dựng Ðảng trong
tình hình mới để đề ra nội dung, biện pháp thiết thực.
Chưa nhận thức đúng, đầy đủ nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng
Ðảng; chưa quán triệt sâu sắc vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của chi bộ, của
tổ chức cơ sở đảng. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối
với cơ sở chưa thường xuyên; việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm chưa kịp thời,
thiếu kiên quyết.
Việc ban hành các quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác xây dựng
Ðảng còn chậm, thiếu đồng bộ, một số quy định, hướng dẫn chưa sát thực tế. Chế
độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở còn bất cập; đội ngũ cấp ủy viên ít được bồi
dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ công tác xây dựng Ðảng và cập nhật những kiến thức
mới, nhất là về kinh tế, xã hội và pháp luật.
III- QUAN ÐIỂM, MỤC TIÊU
1- Quan điểm

- Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Ðảng, là cầu nối giữa Ðảng với dân, có
vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Ðảng. Toàn Ðảng phải tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng;
bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội
ở cơ sở, nhất là ở những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Lấy hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở làm thước đo kết quả tổng hợp của
công tác xây dựng Ðảng.
- Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Ðảng với nhân dân, dựa vào dân để
xây dựng Ðảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc
tham gia xây dựng Ðảng. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tổ
chức đảng, cán bộ, đảng viên phải chịu sự giám sát của nhân dân.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải kết hợp chặt chẽ với
thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",
với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở vững mạnh, với

24


nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư đảng bộ, chi bộ,
người đứng đầu và các cấp ủy viên.
2- Mục tiêu
Trong thời gian tới, cần phấn đấu đạt được các mục tiêu sau :
- Tập trung sức để xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo được sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động
của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức đảng ở cơ sở vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là cầu nối giữa Ðảng với nhân dân, lãnh đạo
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và kịp thời giải quyết những vấn đề xảy ra ở cơ sở.
- Kiện toàn, sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất, bảo
đảm sự lãnh đạo của Ðảng ở cơ sở. Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức đảng và kết

nạp đảng viên ở các tổ chức đảng trong toàn đảng bộ tỉnh, đặc biệt là ở những nơi có
tổ chức đảng có ít đảng viên. Bảo đảm các loại hình tổ chức cơ sở đảng đều có quy
định về chức năng, nhiệm vụ và quy chế làm việc phù hợp.
- Chăm lo xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, trước hết là bí thư cấp ủy và cán bộ,
đảng viên thật sự tiền phong gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý
thức tổ chức kỷ luật, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Kiên quyết thay thế những
cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời đưa
ra khỏi Ðảng những người không đủ tư cách đảng viên.
IV. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC
CHIẾN ĐẤU CỦA TCCSĐ VÀ ĐẢNG VIÊN TRONG TOÀN ĐẢNG BỘ
TỈNH.
Đại hội XV của Đảng bộ tỉnh với chủ đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, đoàn kết, đổi mới; phấn đấu thoát khỏi tỉnh
đặc biệt khó khăn, kém phát triển”.
Do vậy, trong thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng bộ tỉnh Hà Giang như sau:
1. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; rèn luyện phẩm chất,
đạo đức cách mạng.
a/ Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng:
25


×