Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN tư PHÁP HÌNH sự SO SÁNH đề số 2 - 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.18 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN MÔN TƯ PHÁP HÌNH SỰ SO SÁNH
Đề số 2: Quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ và những kinh
nghiệm cho Việt Nam.
A.

MỞ ĐẦU

Những vấn đề xoay quanh Quyền im lặng trước giờ không phải mới, bởi
Quyền im lặng đã được quy định trong pháp luật Hoa Kỳ từ lâu và được sử
dụng rộng rãi tới bây giờ. Tuy nhiên, những năm gần đây, cải cách tư pháp
trong phần lớn hệ thống pháp luật Việt Nam, HIến pháp năm 2013 chú trọng
hơn đề cao quyền con người, quyền công dân và nhất là việc gián tiếp thừa
nhận quyền này trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 kết hợp thực tế giải
quyết các vụ án hình sự ở nước ta đã làm nổi cộm lên những lý giải, quan
điểm của nhiều nhà khoa học, nghiên cứu pháp luật. Nhiều người tò mò về cái
được gọi là Quyền im lặng là như thế nào? Việc hoa hậu Phương Nga áp dụng
cái gọi là Quyền im lặng trong vụ án chục tỷ Nga – Mỹ mà báo chí, phương
tiện thông tin đại chúng đưa ra là sao? Cùng với việc học tập trên lớp, tất cả
những lí do đó đã thôi thúc mong muốn tìm hiểu và thực hiện đề số 2: “Quyền
im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ và những kinh nghiệm cho Việt Nam” làm
tiểu luận của mình. Tiểu luận của em giải quyết 2 nội dung lớn như đề đặt ra:
1. Làm rõ quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ; 2. Những kinh nghiệm cho
Việt Nam.
B.

NỘI DUNG

I.

Quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ


1.

Khái quát về mô hình tố tụng của Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là một trong những quốc gia theo mô hình tố tụng tranh tụng,
đặc điểm của mô hình đó là ưu tiên cho việc kiểm soát tội phạm và đảm bảo
quá trình tố tụng được thực hiện công bằng, quốc gia này có hệ thống pháp
luật lấy truyền thống án lệ làm chủ đạo. Phương pháp tố tụng được sử dụng
trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự là phương pháp đối tụng.
1


Luật sư và Công tố viên có quyền bình đẳng trong việc thu thập và đưa ra
chứng cứ. Pháp luật quy định nguyên tắc loại trừ chứng cứ đối với những
chứng cứ được thu thập bất hợp pháp, theo đó, khi một thẩm phán cho rằng
chứng cứ thu thập được vi phạm các quyền hiến định của bị cáo thì không thể
sử dụng chứng cứ đó trong quá trình xét xử.
2.

Nguồn gốc của Quyền im lặng

Sự vận hành của luật pháp tạo cho đất nước này những thành quả của
văn minh rất được nhiều quốc gia noi theo và học tập. Trong tố tụng hình sự
Hoa Kỳ, nguyên tắc bảo vệ quyền được im lặng đã trở thành một điểm đặc
trưng trong “văn hóa pháp lý” của người Mỹ.
Từ trước khi nguyên tắc nổi tiếng này ra đời, quyền được im lặng đã tồn
tại trong luật pháp của Mỹ. Là một phần của Bản tuyên ngôn nhân quyền của
Mỹ, được Quốc hội Mỹ đưa ra vào năm 1789, Tu chính án thứ năm của nước
này nêu rõ công dân có quyền không tự thú hay đưa ra lời khai khi bị bắt giữ.
Tuy nhiên, phải đến khi khái niệm về nguyên tắc Miranda xuất hiện thì quyền

này mới được thực hiện một cách phổ quát và triệt để tại nước Mỹ.
Nguyên tắc Miranda xuất phát từ vụ án Miranda kiện chính quyền bang
Arizona đã bắt giữ và lấy lời khai của ông nhưng lại không thông báo cho
Miranda biết về quyền được im lặng của mình. Vụ bắt giữ và xét xử ông
Miranda diễn ra vào tháng 3-1963, khi ông bị cáo buộc đã tấn công và hiếp
dâm một phụ nữ tại TP Phoenix. 10 ngày sau khi vụ tấn công diễn ra, cảnh sát
đã bắt giữ Miranda dựa trên xác nhận của nạn nhân.
Tại phiên tòa, cảnh sát địa phương đã cung cấp một bản tự thú về hành vi
phạm tội của Miranda. Đoạn cuối của tờ khai ghi rằng: Lời tự thú của nghi
can được đưa ra là hoàn toàn tự nguyện, không bị đặt dưới bất kỳ mối đe dọa
nào và Miranda đã biết về các quyền mà mình được hưởng, cũng như ý thức
được rằng lời khai của mình sẽ là bằng chứng trước tòa. Thế nhưng phần nội
dung này của tờ khai lại được đánh máy sẵn, trong khi lời khai của thủ phạm
lại được viết tay. Năm 1966, luật sư đại diện cho Miranda đã kiện lên Tòa án
2


Tối cao của bang Arizona, cáo buộc lời khai của Miranda đã không được đưa
ra trên cơ sở tự nguyện. Ông cho rằng tờ khai của cảnh sát không đủ cơ sở để
kết tội Miranda và yêu cầu hủy bỏ bản án 30 năm tù giam của đối tượng.
Với kết quả bỏ phiếu năm thuận và bốn chống, Tòa án Tối cao bang
Arizona quyết định bãi bỏ bản án của Miranda. Phán quyết của tòa án tối cao
cũng đồng thời bổ sung vào luật pháp Mỹ khái niệm nguyên tắc Miranda.
Theo nguyên tắc này, để tránh tình trạng bị ép cung, mọi đối tượng bị bắt giữ
buộc lực lượng chức năng phải thông báo cho người bị bắt giữ về quyền được
giữ im lặng của mình trước khi tiến hành lấy cung. Nếu như nguyên tắc này
không được thực hiện, lời khai của nghi can sẽ không được sử dụng như một
bằng chứng trước tòa mà chỉ hỗ trợ cho quá trình điều tra. Công lý dĩ nhiên
vẫn được thực thi, giới chức trách bang Arizona sau đó cũng đã đưa ra được
những chứng cứ và nhân chứng khác để khép tội kẻ thủ ác. Lần này Miranda

đã không trốn khỏi “lưới trời” và bị kết án 11 năm tù giam.
3.

Nội dung của quyền im lặng

Theo luật Hoa Kỳ, người bị bắt giữ, trước khi thẩm vấn, phải được cho
biết rõ ràng rằng người ấy có quyền giữ im lặng, và bất cứ điều gì người ấy
nói sẽ được dùng để chống lại người ấy ở tòa án.
Ở Hoa Kỳ, lời cảnh báo Miranda (tiếng Anh: Miranda warning) là một
lời cảnh báo được cảnh sát thông báo cho nghi phạm hình sự ngay lúc bị bắt
giữ, hay khi đang ở tình trạng giam giữ, trước khi nghi phạm hình sự bị thẩm
vấn hoặc lấy cung liên quan đến sự phạm tội, hay trong một tình trạng quyền
tự do đi lại của nghi phạm bị cản trở dù người đó không bi bắt giữ. Một bản
buộc tội bởi một nghi phạm sẽ không tạo thành một chứng cứ có thể thừa
nhận trừ phi nghi phạm đó đã được thông báo cho biết "các quyền Miranda"
của mình và đã được người ta làm cho hiểu, nắm rõ và tự nguyện từ bỏ các
quyền này. Tuy nhiên, cảnh sát có thể yêu cầu cung cấp các thông tin về thân
thế như: tên gọi, ngày sinh và địa chỉ và không cần đọc các cảnh báo Miranda
này cho nghi phạm.
3


Các cảnh báo Miranda đã được Tối cao pháp viện Hoa Kỳ năm 1966 ra
chỉ thị bằng một quyết định trong vụ Miranda kiện Arizona như một phương
tiện để bảo vệ các quyền của nghi phạm hình sự theo Tu chính án thứ 5 để
tránh việc tự buộc tội cho mình do cưỡng bức.
Theo Tòa án tối cao Hoa Kỳ, trước khi thẩm vấn, cảnh sát phải thông
báo cho nghi phạm hình sự như sau: “Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả
lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước
tòa. Anh có quyền có luật sư trước khi khai báo với cảnh sát và luật sư sẽ

hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn anh. Nếu anh không thể tìm được luật sư,
anh sẽ được cung cấp một luật sư trước khi trả lời các câu hỏi. Anh có thể trả
lời câu hỏi khi không có luật sư, nhưng anh vẫn có quyền ngưng trả lời bất
cứ lúc nào để chờ sự có mặt của luật sư”.
Như vậy, trong pháp luật Hoa Kỳ, người bị bắt phải được thông báo về
việc có quyền im lặng. Nếu quên hay vì một lý do nào đó cảnh sát không
thông báo thì cơ quan điều tra không được sử dụng thông tin và lời khai của
nghi phạm sau đó. Ngoài ra, cơ quan điều tra cũng ghi âm, ghi hình tất cả quá
trình lấy lời khai để sau này họ có thêm cơ sở, bằng chứng chắc chắn cho việc
buộc tội. Nếu như quyền im lặng không được thông báo, những lời khai sau
này coi như không có giá trị sử dụng.
4.

Những ảnh hưởng của Quyền im lặng trong quá trình xét xử

vụ án hình sự
Quyền được giữ im lặng là quyền rất cơ bản của công dân Mỹ. Quy định
"Quyền được im lặng" để bảo vệ công dân, quyền lợi của người yếu thế trong
xã hội. Những nhà làm luật Mỹ không nhìn quyền im lặng dưới góc độ lợi ích
của cơ quan tố tụng. Trên thực tế, có những vụ án mà nghi phạm im lặng,
trong khi cơ quan điều tra không thể chứng minh họ có tội đã phải tuyên vô
tội. Quyền này có thể gây ra những cản trở nhất định cho cơ quan tố tụng
nhưng đó không phải là lý do để đánh giá lại việc áp dụng. Họ phải được giữ
im lặng bởi không thể chống lại chính bản thân mình.
4


Với vụ án có nhiều đồng phạm, việc im lặng của nghi phạm có thể sẽ cản
trở quá trình điều tra của cơ quan tố tụng. Nhưng cơ quan điều tra không nhất
thiết phải dựa vào lời khai của người bị bắt. Họ có thể giám sát những đồng

phạm đó hoặc điều tra lấy thông tin, làm thế nào đó để nghi phạm khai ra. Đó
là nghĩa vụ của cơ quan tố tụng và họ có nhiều công cụ để đảm bảo điều đó.
Ở một góc độ nào đó, quyền im lặng cũng có lợi cho cơ quan điều tra
trong suốt quá trình tố tụng sau này. Khi áp dụng quyền im lặng, cơ quan điều
tra sẽ phải nâng cao nghiệp vụ của mình bằng cách tăng cường kỹ thuật khám
nghiệm hiện trường, lấy lời khai từ nhân chứng, tìm kiếm các thông tin khác
về nghi phạm để làm sao cáo buộc của cơ quan tố tụng chắc chắn hơn. Đây là
điều sẽ làm cho hoạt động của cơ quan tố tụng tích cực hơn.
II.

Những kinh nghiệm cho Việt Nam

Khái quát về mô hình tố tụng Viêt Nam
Trong giai đoạn hiện nay, các mô hình tố tụng tranh tụng và thẩm vấn có
xu hướng xích lại gần nhau, kế thừa và tiếp nhận những ưu việt của nhau hình
thành nên những mô hình tố tụng đan xen, pha trộn. Pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó, về căn bản mô hình tố tụng
của chúng ta là tố tụng xét hỏi, nhưng trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang
từng bước đề cao tố tụng tranh tụng, coi kết quả tranh tụng tại phiên toà là căn
cứ để toà án ra quyết định, bản án.
Kinh nghiệm cho Việt Nam về Quyền im lặng
Quyền con người và bảo đảm quyền con người luôn là vấn đề quan tâm
hàng đầu của mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực pháp luật, vấn đề quyền con
người lại là nền tảng trong việc nghiên cứu và ban hành các quy phạm. Và
trong tố tụng hình sự (TTHS) cũng vậy, việc giải quyết vụ án hình sự không
thể tách rời vấn đề bảo đảm quyền con người. Bởi lẽ để buộc tội và truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với một người phải dựa trên những căn cứ luật định
và phải do những người, những cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo trình
5



tự, thủ tục mà pháp luật quy định nhằm mục đích không để lọt tội phạm song
cũng không làm oan người vô tội. Ở Việt Nam, yêu cầu cải cách tư pháp đang
được đặt ra cấp thiết. Hai văn bản của Bộ chính trị (Nghị quyết 08 ngày
2/1/2002 và Nghị quyết 49/2005) đã định ra mục tiêu cơ bản của cải cách tư
pháp là đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, tránh oan sai người vô tội. Điều
này chứng tỏ Nhà nước Việt Nam luôn chủ trương bảo vệ những người dân vô
tội, kể cả những người chưa có quyết định của cơ quan tư pháp nhưng đang bị
rơi vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn khi ở trong tình trạng bị cáo buộc là phạm
tội. Tuy nhiên, thực tế giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam cho thấy vẫn còn
tồn tại tình trạng oan sai, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, cụ thể là quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự.
Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ
chính những quy định của pháp luật TTHS chưa thực sự thống nhất, chưa
thực sự phù hợp với thực tiễn xã hội. Mặc dù Bộ luật TTHS Việt Nam đã trải
qua 5 lần sửa đổi, bổ sung tuy nhiên cũng chỉ mới khắc phục được phần nào
những bất cập đó chứ chưa thực sự đáp ứng được cho công tác áp dụng có
hiệu quả. Như vậy, qua so sánh, tìm hiểu, em đã rút ra các kinh nghiệm sau
cho Việt Nam:
1.

Tại sao cần quy định về Quyền im lặng

Thứ nhất, nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu khẳng định ý nghĩa của
qui định này trước hết là để hạn chế việc bức cung, mớm cung và nhục hình.
Thật vậy, người bị bắt, tạm giam, bị can, bị cáo thường ở vào vị trí yếu thế so
với các nhà điều tra dạn dày kinh nghiệm. Trong quá trình điều tra có sự
không tương xứng giữa cơ quan điều tra, điều tra viên và người bị điều tra. Sự
bất tương xứng này thể hiện ở nhân lực, phương tiện, các thông tin được thu
thập, kiến thức chuyên môn, thậm chí là cả khả năng sử dụng bạo lực của mỗi

bên. Các cán bộ điều tra có nhiều phương tiện để thu thập bằng chứng, có
quyền không cho người bị điều tra biết được các thông tin mà họ đã có, có
kiến thức chuyên sâu về pháp lý hình sự và kỹ thuật thẩm vấn... Ngược lại,
6


người bị điều tra luôn yếu thế hơn cán bộ điều tra vì trong nhiều trường
hợp, họ bị giam cách ly khỏi thế giới bên ngoài, không có các kiến thức pháp
lý về hình sự và không biết liệu các kỹ thuật dẫn dụ trong hỏi cung có đúng
pháp luật không. Đồng thời, xét về mặt pháp luật thì phần lớn những người bị
bắt giam, khởi tố… có nhiều hạn chế về hiểu biết pháp luật và đang bị khủng
khoảng, lo lắng về tinh thần nên rất dễ bị rơi vào “bẫy” của các điều tra viên.
Trong tình trạng đó, họ thường hay trình bày lời khai nhận tội (tự buộc tội
mình) theo gợi ý của các điều tra viên. Đặc biệt có trường hợp, nếu người bị
tạm giữ, bị can, không khai theo “sự gợi ý” của điều tra viên liền bị đánh, bị
ép buộc phải viết theo gợi ý hay chúng ta còn gọi là bức cung, nhục hình.
Chẳng hạn như vụ việc ông Nguyễn Thanh Chấn, ông Huỳnh Văn Nén, rồi cả
ông Hàn Đức Long đã bị vướng oan sai là những ví dụ nổi bật. Cho nên, trong
những trường hợp trên đây, nếu có luật sư tham gia hỏi cung ngay từ đầu thì
sẽ có thể hạn chế được bức cung, nhục hình. Như vậy, cần thiết phải quy định
quyền im lặng trong luật TTHS và cần phải khẳng định rằng quyền im lặng
gắn bó chặt chẽ với quyền bào chữa của người bị buộc tội (bị cáo, bị can,
người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam). Bộ luật TTHS năm 2015 đã làm rất
tốt điều này, tại Điều 15 quy định nguyên tắc Xác định sự thật của vụ án:
“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh
là mình vô tội” và tại Điều 16 quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào
chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người
bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi

ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”
Thứ hai, ở một khía cạnh khác, có quan điểm cho rằng nếu xem xét trên
lĩnh vực trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước thì quyền im lặng cũng góp
phần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác
điều tra, truy tố và xét xử. Vì lẽ, khi đã áp dụng quyền im lặng, các cơ quan tư
7


pháp phải nâng cao trách nhiệm và năng lực trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ
trong công tác khám nghiệm hiện trường, thu thập dấu vết, tài liệu, hỏi nhân
chứng, giám định kỹ thuật và các nguồn thông tin khác về nghi phạm. Do đó,
việc quy định và thực hiện quyền im lặng chỉ làm cho cơ quan tư pháp tốt hơn
mà thôi. Quyền im lặng không đồng nghĩa với việc “im như thóc”, không
nói gì, không khai gì, không trả lời gì, không làm gì khi Cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng yêu cầu người bị tình nghi phạm tội thực hiện
những nghĩa vụ của họ theo đúng quy định của pháp luật. Phải hiểu rằng
người bị tình nghi phạm tội, người bị điều tra có quyền im lặng cho tới
khi họ có được các công cụ bảo vệ khác mà pháp luật cung cấp hoặc tạo điều
kiện cho họ, chứ không phải là mọi trường hợp đều sử dụng quyền im lặng.
Pháp luật Hình sự hiện hành cũng đã có quy định: Người phạm tội thành
khẩn khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là một tình tiết giảm nhẹ (điểm s
khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cho nên, nếu
hiểu trường hợp nào cũng thực hiện quyền im lặng thì chính quy định đó đã
tước đi quyền được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo chính sách hình sự của nhà
nước ta. Vậy câu hỏi đặt ra là trường hợp nào nên im lặng, trường hợp nào
không? Chẳng hạn, một người bị bắt quả tang đang thực hiện hành vi cướp tài
sản hoặc trộm cắp tài sản thì họ vẫn có thể sử dụng quyền im lặng, nhưng nếu
kết quả điều tra xác minh được động cơ, mục đích phạm tội và nhân thân của
họ thì họ sẽ không được hưởng tình tiết giảm nhẹ, do không thành khẩn khai
báo. Vì vậy, trong trường hợp này họ không nên thực hiện quyền im lặng. Bên

cạnh đó, thực tiễn cho thấy có nhiều trường hợp phạm tội quả tang, phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng, vụ án có đồng phạm, khi tạm giữ người tình nghi phạm
tội, phải nhanh chóng lấy lời khai để truy bắt kẻ đồng phạm ngay. Trong
trường hợp này nếu cứ máy móc chờ luật sư có mặt mới hỏi hoặc người bị
tình nghi sử dụng quyền im lặng, thì sẽ không đảm bảo cho nguyên tắc đấu
tranh phòng chống tội phạm là nhanh chóng, khẩn trương, triệt để,… kịp thời
ngăn chặn những hậu quả do tội phạm gây ra.
8


Mặt khác, nếu ai đó cho rằng việc quy định và thực hiện quyền im lặng
sẽ chống được oan sai trong TTHS thì cũng không hẳn đúng. Bởi vì, thực tiễn
cho thấy, tại các nước văn minh, họ đã áp dụng quyền im lặng từ rất lâu song
cũng còn nhiều trường hợp oan, sai xảy ra, trong đó có trường hợp oan rất
nghiêm trọng (như ở Mỹ, Nhật…). Giáo sư Anna C.Conley, chuyên gia pháp
luật Mỹ, trong một trả lời phỏng vấn báo chí đã nói: “Trong lịch sử tố tụng
Mỹ 15 năm qua có khoảng 250 vụ án mà công dân bị kết án oan hoặc bị xét
xử sai. Nhưng dường như không có những vụ án oan kiểu do không áp dụng
đúng quyền im lặng. Bởi, đó sẽ là lợi thế cho bị can, bị cáo vì họ sẽ tận dụng
điều đó để bác bỏ những bằng chứng của bên buộc tội. Những vụ án oan ở
Mỹ phần lớn là do công tố viên không cung cấp đủ thông tin của vụ án cho
luật sư theo đúng quy định. Quyền im lặng không phải giải pháp kiềm chế
oan sai”. Theo ý kiến của TS. Đặng Quang Phương, nguyên Phó Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao không hoàn toàn đồng ý với quan điểm cho rằng
quyền im lặng là vũ khí để chống oan sai.1 Bởi vì quyền im lặng có thể xảy ra
cả trong hai trường hợp: 1) Trường hợp thứ nhất, chính tôi là người thực hiện
tội phạm, nhưng tôi không khai và quyền im lặng trong trường hợp này là một
trong những phản xạ “bảo vệ tự thân” vì nếu khai đúng sự thật hoặc khai
không đúng sự thật thì đều là tự chống lại mình và còn có thể làm hại người
khác; 2) Trường hợp thứ hai, tôi không phải là người thực hiện tội phạm và

quyền im lặng trong trường hợp này là tôi có biết gì đâu mà khai? Nếu bắt tôi
khai thì tôi phải khai những gì không có thật, do tôi tự nghĩ ra hoặc theo sự
“mớm cung” của người tiến hành tố tụng. Hơn nữa, chúng ta cần phải lưu ý
rằng đoạn cuối của bản cung thường được ghi theo mẫu sau: “Lời khai này do
tôi tự nguyện khai báo, tôi đã được đọc lại, công nhận Cán bộ điều tra ghi
đúng lời khai của tôi, tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời khai
này”. Như vậy, rõ ràng việc lấy lời khai, ghi bản cung của Cơ quan Điều tra
sẽ không vi phạm vào quyền im lặng, vì do bị can tự nguyện khai báo. Khi ra
1 Theo bài viết “Góp ý vào Bộ Luật tố tụng hình sự sửa đổi: Ai cũng làm đúng luật thì rất

khó sai sót”, báo Việt Nam Net, phỏng vẫn TS. Đặng Thanh Phương và TS. Dương Thanh
Biểu.
9


tòa, nếu bị cáo nói rằng do bị ép buộc mới khai như vậy thì cũng chẳng có gì
để làm căn cứ chứng minh cho việc bị cáo cáo không tự nguyện mà do ép
buộc.
Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định:“Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1, Điều 31). Như vậy,
từng pháp luật Việt Nam đang thực thi quyền im lặng đã được bao hàm trong
đó. Do vậy, Bộ luật TTHS năm 2015 có quy định rõ về quyền im lặng đã bảo
đảm nội dung quyền này nhằm thực hiện các cam kết của Việt Nam với pháp
luật quốc tế. Bởi vì Việt Nam đã là thành viên của Công ước 1966 về các
quyền dân sự, chính trị của Liên hợp quốc từ 24/9/1982. Quy định này sẽ góp
phần chính thức hóa và bảo vệ tốt hơn, hiệu quả hơn quyền con người, quyền
công dân. Sự đảm bảo quyền này cũng sẽ nâng cao tính nhân bản của nền tư
pháp XHCN cũng như nâng cao tính chuyên nghiệp của Cơ quan Điều tra.
Đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu về một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh,

đồng bộ, “pháp luật mang tính tối thượng, pháp luật vị nhân sinh” trong điều
kiện chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhiều ý kiến cho rằng nên
quy định quyền im lặng vào Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với lý do, thời
gian qua, xảy ra một số vụ án, người bị bắt, bị tạm giữ bị bức cung, dùng nhục
hình và sự việc có thể không xảy ra nếu khi được triệu tập đến cơ quan điều
tra, họ có quyền im lặng cho đến khi luật sư có mặt hoặc việc hỏi cung chỉ
được diễn ra khi có mặt luật sư. Tuy nhiên, sẽ là không thuyết phục nếu quy
định quyền im lặng vào Bộ luật Tố tụng hình sự, bởi những lý do sau đây:
Một là, nếu quyền im lặng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự
thì được áp dụng như thế nào và trong giai đoạn nào của quá trình tố tụng.
Theo đó, quyền im lặng chỉ được áp dụng từ khi một người bị bắt cho đến khi
được gặp luật sư hay quyền im lặng được áp dụng trong suốt quá trình tố
tụng, theo đó, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ im lặng
10


trong suốt quá trình điều tra mà đến giai đoạn xét xử, tại phiên tòa đều có
quyền giữ im lặng, không cần biết có hay không có sự hiện diện của luật sư,
không cần thiết phải nói bất cứ điều gì vào bất cứ thời điểm nào hoặc trả lời
bất cứ câu hỏi nào. Tất nhiên, quyền im lặng không phải là quyền tuyệt đối và
có thể không được áp dụng trong một số trường hợp nhất định.
Nếu chọn cách thứ nhất, quyền im lặng chỉ được áp dụng từ khi bị bắt
cho đến khi gặp luật sư thì khi chưa có sự hiện diện của luật sư thì người bị
bắt, bị tạm giữ sẽ không khai bất cứ điều gì có liên quan đến vụ việc, có luật
sư mới khai, không có sẽ không khai. Vậy khoảng thời gian chờ đợi sự hiện
diện của luật sư có được giới hạn không và nếu có thì sẽ được giới hạn trong
thời gian bao lâu, trong thời gian chờ đợi luật sư, cơ quan tiến hành tố tụng có
được khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác
hay không. Chưa kể, không phải trường hợp nào cũng thuê luật sư hoặc luật

sư đến ngay sau khi thân chủ của họ bị bắt, bị tạm giữ như ở một số nước trên
thế giới, trong trường hợp người bị bắt không thuê luật sư thì giải quyết như
thế nào.
Nếu chọn cách thứ hai, thì việc im lặng trong suốt quá trình tố tụng có bị
coi là chống đối, là không hợp tác với cơ quan thực thi pháp luật và trong
nhiều trường hợp có thể gây ra những cản trở nhất định cho cơ quan tiến hành
tố tụng trong việc thu thập thông tin, củng cố chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ vụ
án. Chưa kể, với vụ án có nhiều đồng phạm, nhiều tình tiết liên quan đến
nhiều người, nhiều vụ thì việc im lặng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
thể sẽ gây trở ngại trong quá trình điều tra, phá án, thậm chí có thể để lọt tội
phạm.
Chính sách pháp luật của nhà nước ta, luôn khoan hồng với những người
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây cũng là những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự khi lượng hình. Nếu quyền im lặng được áp dụng trong
suốt quá trình tố tụng thì sẽ là bất lợi không chỉ đối với người bị bắt, tạm giữ,
bị can, bị cáo mà còn ảnh hưởng đến quá trình điều tra, thu thập chứng cứ, dễ
11


bỏ lọt tội phạm, nhất là những vụ án có tình tiết phực tạp, có đồng phạm.
Trong khi với điều kiện phương tiện kỹ thuật hình sự phục vụ điều tra còn
nhiều hạn chế thì việc phải nâng cao nghiệp vụ điều tra bằng cách tăng cường
kỹ thuật khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai từ nhân chứng, tìm kiếm các
thông tin khác sẽ rất khó khăn và tốn kém, không thể so sánh được với các
nước phát triển. Vì thế việc củng cố và thu thập chứng cứ của cơ quan tiến
hành tố tụng sẽ ít chắc chắn hơn, việc bỏ lọt tội phạm hoặc không đủ chứng
cứ kết tội là điều dễ xảy ra. Bỏ lọt tội phạm nhiều sẽ đe dọa đến cuộc sống
bình yên của nhân dân, luật pháp không nghiêm, không công bằng.
Hai là, Bộ luật Tố tụng hình sự tại Điều 59, Điều 60 đã quy định người
bị tạm giữ, bị can có quyền “trình bày lời khai”. Thực chất, đây chính là một

phần của quyền im lặng vì đã là quyền thì họ có thể trình bày lời khai hoặc
không thực hiện việc trình bày lời khai. Việc họ không trình bày lời khai hoàn
toàn thông qua việc họ im lặng trước cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, không
cần thiết quy định “quyền im lặng” của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo nữa. Thực tế họ có thể im lặng (nếu họ muốn), cơ quan tiến hành tố
tụng không có quyền bắt họ phải khai báo bằng các biện pháp không hợp
pháp.
Ba là, nếu nói rằng ghi nhận quyền im lặng để tránh oan sai, chống bức
cung, nhục hình là không thuyết phục bởi lẽ, dù quyền im lặng được ghi nhận
thì cũng chỉ là một trong những quyền mà người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có được, bản thân quyền im lặng không phải là công cụ để con người
chống lại một sự vi phạm. Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã
giành riêng một số điều luật để xử lý đối với hành vi bức cung, dùng nhục
hình, đó là các Điều 371 (Tội dùng nhục hình), Điều 372 (Tội bức cung). Việc
một số người có hành vi bức cung, dùng nhục hình đối với người bị bắt,
người bị tạm giữ chỉ là những“con sâu làm rầu nồi canh”, là hành vi của một
số người cố tình vi phạm, biết luật pháp đã quy định rõ là cấm bức cung, dùng
nhục hình, nhưng vẫn vi phạm thì đã có chế tài xử lý theo quy định. Không
12


thể quy chụp việc không quy định quyền im lặng là nguyên nhân dẫn đến oan
sai, bức cung, nhục hình.
Bốn là, tỷ lệ luật sư trên tổng dân số ở nước ta hiện nay rất thấp. Trong
khi tỷ lệ án phải giải quyết tại các địa phương là rất lớn, thời gian có hạn, nếu
quy định quyền im lặng được áp dụng từ khi bị bắt cho đến khi gặp luật sư thì
có lẽ phải thành lập văn phòng luật sư hoặc chi nhánh ở tất cả địa bàn cấp
huyện để đáp ứng cho tương xứng với số lượng án và số lượng người bị bắt,
bị tạm giữ liên quan đến vụ việc hình sự, chưa kể ở địa bàn cấp huyện, địa
hình đi lại khó khăn, nhiều khu vực ở vùng sâu, vùng xa. Thực tế thì ở hầu hết

địa bàn cấp huyện ở các tỉnh thành trên cả nước đều chưa có văn phòng luật
sư hoặc nếu có thì số lượng rất khiêm tốn. Nếu căn cứ vào thực trạng này mà
quy định quyền im lặng cho đến khi luật sư có mặt thì không biết phải giải
quyết thế nào cho đủ số lượng luật sư đáp ứng cho tất cả những người bị bắt,
bị tạm giữ, bị can, bị cáo để họ thực hiện quyền của mình khi có nhu cầu;
Chúng ta không phủ nhận việc tham gia của luật sư ngay từ giai đoạn ban đầu
của quá trình tố tụng sẽ góp phần làm sáng tỏ vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho thân chủ của họ. Tuy nhiên, không vì thế mà cho rằng, quy định
cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền im lặng cho đến khi có
mặt luật sư bảo vệ quyền lợi cho họ sẽ đảm bảo quyền con người, nâng cao vị
thế của luật sư trong tiến trình giải quyết một vụ án.
Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bao giờ cũng phải dung hòa giữa
lợi ích nhà nước với lợi ích cá nhân. Nếu mở rộng quá nhiều quyền cho cá
nhân sẽ dẫn tới quá trớn, tùy tiện thậm chí chống đối, không hợp tác. Trong
điều kiện dân trí, nhận thức và truyền thống pháp lý của nước ta cùng với một
đội ngũ luật sư còn khiêm tốn thì việc quy định thêm quyền nói chung và
quyền im lặng nói riêng cũng cần cân nhắc và có lộ trình phù hợp, theo từng
giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội. Trước mắt, các cơ quan tiến hành
tố tụng phải giải thích với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo về
quyền trình bày lời khai một cách trung thực, thành khẩn và quyền tiếp cận,
13


nhờ luật sư bào chữa hoặc trợ giúp pháp lý để đảm bảo quyền con người nói
chung và quyền công dân nói riêng.
Trên cơ sở những tiếp thu những tinh hoa pháp luật quốc tế, kế thừa phát
triển tinh thần pháp luật nước ta, Quyền im lặng của bị can, bị cáo ở Việt Nam
đã được ghi nhận tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2018), lần đầu tiên quyền im lặng của bị can, bị cái được ghi nhận tuy
nhiên Bộ luật không ghi nhận trực tiếp mà thể hiện gián tiếp qua một số điều

luật.
Cụ thể, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 60 và điểm h khoản 2
Điều 61 Bộ luật TTHS 2015: Bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình
bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc
phải nhận mình có tội.
Có thể thấy, bị can, bị cáo có quyền tự chủ trong việc khai báo; “trình
bày lời khai” là quyền của bị can, bị cáo mà không phải là nghĩa vụ bắt buộc.
Theo đó, bị can, bị cáo có thể trình bày lời khai hoặc không. Việc không
trình bày lời khai thể hiện ở việc bị can, bị cáo im lặng, cơ quan tiến hành tố
tụng. Khi bị can, bị cáo im lặng, cơ quan tiến hành tố tụng không có quyền ép
buộc họ phải khai báo bằng các biện pháp không hợp pháp.
Như vậy, có thể hiểu rằng bị can, bị cáo hoàn toàn có quyền im lặng.
Việc bị can, bị cáo không trả lời cơ quan, người tiến hành tố tụng những điều
bất lợi cho bản thân sẽ không bị coi là tình tiết tăng nặng.
C.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu về Quyền im lặng trong pháp luật tố tụng Hoa Kỳ, rút ra
được kinh nghiệm cho Việt Nam như sau: Trong đấu tranh phòng chống tội
phạm, bao giờ cũng phải dung hòa giữa lợi ích nhà nước với lợi ích cá nhân.
Nếu mở rộng quá nhiều quyền cho cá nhân sẽ dẫn tới lạm dụng, tùy tiện thậm
chí chống đối, không hợp tác. Trong điều kiện dân trí, nhận thức và truyền
thống pháp lý của nước ta cùng với một đội ngũ luật sư còn khiêm tốn thì việc
14


quy định thêm quyền nói chung và quyền im lặng nói riêng cũng cần cân nhắc
và có lộ trình phù hợp, theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội.
Trước mắt, các cơ quan tiến hành tố tụng phải giải thích với người bị bắt, bị

tạm giữ, bị can, bị cáo về quyền trình bày lời khai một cách trung thực, thành
khẩn và quyền tiếp cận, nhờ luật sư bào chữa hoặc trợ giúp pháp lý để đảm
bảo quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

2.

Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

3.

Trần Dương Công - Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh

Đăk Lăk, Bàn về quyền im lặng trong tố tụng hình sự, Tạp chí kiểm sát.
4.

Jay M. Feinman; Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao dịch (Hiệu

đính), Luật 101- Mọi điều bạn cần biết về pháp luật Hoa Kỳ; NXB Hồng
Đức, Hà Nội: 2014.
5.

Vũ Thế Hùng, Hồng Hạnh, Minh Nguyệt (dịch), Khái quát hệ


thống pháp luật Hoa Kỳ, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2006.
6.

Nghị quyết 08 ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị

7.

Nghị quyết 49/2005 của Bộ Chính trị

8.

TS. Đặng Thanh Phương và TS. Dương Thanh Biểu, Bài phỏng

vấn “Góp ý vào Bộ Luật tố tụng hình sự sửa đổi: Ai cũng làm đúng luật thì
rất khó sai sót”, báo Việt Nam Net.
9.

ThS. Lê Quang Thành, Giảng viên Bộ môn Pháp luật - Trường

Đại học CSND, Bài viết “Trao đổi về vấn đề “Quyền im lặng” trong Tố tụng
hình sự”, Tạp chí KHGD CSND số 68 (tháng 11/2015)
10.

Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Tư pháp hình sự so

sánh.
11.

Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Mô hình tố tụng hợp chủng


Hoa Kỳ, />.

16



×