Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Lồng ghép kỹ năng sống trong giảng môn ngữ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.52 KB, 21 trang )

1.

MỞ ĐẦU

Năm học 2017 - 2018 là năm học tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29NQ/TW của Trung ương Đảng lần thứ 8 - Khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đổi
mới phương pháp dạy học là nhằm khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, hiện
đại vào quá trình dạy học. Từ đó mỗi GV sẽ phát huy tính tự giác chủ động sáng
tạo của học sinh phù hợp hơn với đặc điểm của từng lớp học, môn học. [1]
Vì vậy, đổi mới phương pháp, đổi mới cách thức tổ chức dạy học là một
trong những nhiệm vụ bắt buộc đối với mỗi thầy, cô giáo hiện nay.
Phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" đã
được Bộ Giáo dục & Đào tạo phát động và triển khai trong toàn ngành những
năm qua. Phong trào thi đua đã tạo nên diện mạo mới trong các trường học, góp
phần gắn bó thầy, trò cộng đồng trong học tập, rèn luyện, trau dồi kỹ năng sống
và tích cực tham gia các hoạt động xã hội.
Trong những năm qua, chất lượng giáo dục toàn diện tuy được nâng lên
một bước đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc dạy học vẫn còn nặng về truyền thụ kiến
thức đơn thuần, chưa coi trọng thực hành, chưa gắn với thực tiễn đời sống. Môn
Ngữ văn cũng không nằm ngoài tình trạng chung đó. Hiện nay, một số giáo viên
dạy môn Ngữ văn chỉ mới chú ý đến việc dạy kiến thức lý thuyết, chưa chú
trọng đến kiến thức thực hành. Nhất là việc rèn luyện kỹ năng sống cho học
sinh.
1.1. Lý do chọn đề tài.
Môi trường sống, hoạt động và học tập của thế hệ trẻ hiện nay có những
thay đổi đáng kể. Sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực kinh tế – xã hội đã
và đang tạo ra những tác động đa chiều, phức tạp ảnh hưởng tới quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ đặc biệt là lứa tuổi học sinh THPT.


Kỹ năng sống là yếu tố cần thiết trong mọi thời đại, đặc biệt là trong thời kì hội
nhập.
Kỹ năng sống là một thành phần quan trọng trong nhân cách con người
trong xã hội hiện đại. Muốn thành công và sống có chất lượng trong xã hội hiện
đại thì con người phải có kỹ năng sống. Đặc biệt là thời gian qua tình trạng đạo
đức của một bộ phận thanh thiếu niên trong đó có cả học sinh đang bị xuống
cấp, số lượng học sinh chửi bậy, hút thuốc, đánh nhau, phạm tội, sa đà vào các tệ
nạn xã hội...ngày càng gia tăng.
Thực trạng trên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến học sinh của trường
THPT Tĩnh Gia 4. Một trong những nguyên nhân khiến nhiều học sinh bị lôi kéo
vào vấn đề này chính là do các em còn yếu về kỹ năng sống.
Trước tình hình đó, trong những năm qua Bộ giáo dục đã có nhiều nỗ lực
để đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh,
1


gắn giáo dục với thực tiễn cuộc sống. Lồng ghép kỹ năng sống vào các môn
học cũng không ngoài mục tiêu đổi mới trên.
Xuất phát từ những lí do trên, là một giáo viên dạy văn, tôi luôn luôn có
tâm nguyện mong muốn giúp học sinh của mình có khả năng thích ứng với
cuộc sống mới, biết tự chủ, sống có bản lĩnh, có nhân cách ...; Đây là lí do tôi đi
sâu tìm hiểu và thực hiện đề tài “Lồng ghép kỹ năng sống trong giảng dạy
môn Ngữ văn THPT”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nhằm mục đích tăng cường và nâng cao hiệu quả của việc giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh thông qua các tiết dạy môn Ngữ văn.
Xây dựng mô hình để giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống
giúp cho học sinh có tinh thần và thái độ học tập tự giác, tích cực, sống có lý
tưởng và hoài bão, ứng xử, hành động mang tính nhân văn. Nó còn giúp cho học
sinh có ý thức bảo vệ và rèn luyện cơ thể, không vi phạm tệ nạn xã hội.

Đạt hiệu quả cao trong phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”.
Đạt được các mục tiêu của giáo dục, đã được định hướng theo bốn trụ cột:
Học để biết; Học để làm; Học để chung sống; Học để tự khẳng định mình.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu về quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua
tiết học môn ngữ văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Đối với đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp để nghiên cứu đó là:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề
tài.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Nhằm tìm hiểu
việc rèn luyện kỹ năng sống của học sinh qua bài học bằng phiếu điều tra và
phương pháp phỏng vấn.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
2.

NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Định nghĩa chung về kỹ năng sống:
Thuật ngữ kỹ năng sống (KNS) bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường
phổ thông Việt Nam từ những năm 1995 – 1996, thông qua dự án giáo dục kỹ
năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên
trong và ngoài nhà trường do UNICEF phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo
cùng Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện. Thông qua bốn trụ cột của giáo dục:
Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định mình thì có
thể hiểu kỹ năng sống là: Kỹ năng học tâp, kỹ năng làm chủ bản thân, kỹ năng
thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, kỹ năng làm việc. Hay có thể hiểu kỹ năng
sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với

2


người khác, với xã hội và khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của
cuộc sống. [2]
Có thể nói kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp cho con người biến kiến
thức thành thái độ, hành vi, thói quen tích cực.
Ở nước ta, kỹ năng sống thường được phân làm 3 nhóm:
- Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các KNS
cụ thể như: tự nhận thức, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự tin…
- Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm: giao
tiếp, thương lượng, bày tỏ cảm thông, hợp tác…
- Nhóm các kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm: tìm kiếm
và xử lí thông tin, ra quyết định, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo…[2]
Cũng cần phải nói thêm rằng kỹ năng sống của con người không phải tự
nhiên mà có được, nó phải được hình thành dần qua quá trình học tập, rèn luyện
lâu dài trong cuộc sống.
2.1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT.
Ngày nay, những ai quan tâm đến giáo dục đều hiểu rằng: giáo dục thế hệ
trẻ không chỉ chú trọng dạy chữ mà còn phải quan tâm đến nhiệm vụ dạy người ,
con người không chỉ cần có tri thức mà phải biết sống đúng, sống đẹp, sống có
ích. Muốn như thế con người nhất thiết phải có kỹ năng sống. Vì người có kỹ
năng sống mới luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải
quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống một cách tích cực và phù hợp; luôn lạc
quan, làm chủ bản thân và làm chủ hoàn cảnh. Có thể nói: kỹ năng sống là
“chiếc chìa khóa vạn năng” giúp con người từng bước khẳng định bản ngã của
chính mình. Hơn thế, người có kỹ năng sống luôn có hành vi tích cực để góp
phần xây dựng và làm giảm bớt các tệ nạn xã hội, làm cho cuộc sống tươi sáng
và văn minh hơn. [3]
Tuổi trẻ nói chung, đối tượng học sinh THPT nói riêng là những chủ nhân

tương lai của đất nước, là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong
những năm tới. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em không thể thực hiện tốt trách
nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. Do đó đất nước khó có
thể phát triển theo chiều hướng tích cực như mong muốn.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường của nước ta
hiện nay, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục phổ thông, hướng tới mục tiêu: đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, nghề nghiệp; trung thành với lí
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước.
2.1.3. Đặc trưng của bộ môn ngữ văn và những ưu thế của nó trong việc
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
“Văn học là nhân học” (M.Gorki), văn học với tư cách là môn khoa học
xã hội và nhân văn, nó không chỉ giúp học sinh hiểu biết về văn hóa, xã hội, lịch
sử, con người mà còn giúp mỗi người tự hiểu hơn về chính mình; với tính chất là
3


môn học công cụ, nó giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để tư duy, để học tập,
để giao tiếp, để nhận thức; với đặc trưng là môn học về giáo dục thẩm mĩ, nó bồi
dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành
mạnh để hoàn thiện nhân cách. [3]
Chương trình ngữ văn THPT đa dạng, phong phú phù hợp với kiểu tư duy
tình cảm của lứa tuổi thanh niên, rất thiết thực cho việc giáo dục những kiến
thức và các kỹ năng sống của học sinh.
2.2 . Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thực trạng chung:
Tất cả những ai có trách nhiệm với tương lai đất nước, với thế hệ trẻ đều
nhận thấy rằng: giáo dục kỹ năng sống cho lứa tuổi học sinh đặc biệt là học sinh

cấp THPT là vô cùng cấp thiết.
Bộ giáo dục và đào tạo từ năm 2005 đã xác định lại mục tiêu của giáo dục
Việt Nam: chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành và
phát triển những năng lực cần thiết ở người học để đáp ứng sự phát triển CNHHĐH đất nước. Thể hiện mục tiêu của giáo dục thế kỷ XXI: học để biết, học để
làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống. Chủ trương chung của Bộ
giáo dục là từ năm học 2009-2010 đưa vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh vào tích hợp trong tất cả các môn học từ cấp mầm non cho đến THPT. [7]
Nhưng có lẽ huấn luyện kỹ năng sống vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ và chưa
được quan tâm đúng mức; chưa có sự thống nhất đồng bộ trong hệ thống giáo
dục phổ thông của cả nước.
2.2.2. Thực trạng đối với giáo viên:
Các đồng nghiệp trường tôi và cả một số trường bạn, khi được hỏi tới vấn
đề: giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thế nào để đạt hiệu quả? Đa số chỉ cười
lảng tránh hoặc thú thật: “đối phó thôi, thời gian đâu mà tích hợp”. Có người
chân thành và cởi mở hơn thì tâm sự: chủ trương chung là phải tích hợp rèn
luyện kỹ năng sống cho học sinh nhưng thực tế chẳng có gì là cụ thể, thậm chí
làm cho giờ học phức tạp và rối rắm hơn. Bản thân tôi, khi mới tiếp cận với vấn
đề cũng có những cảm nhận như thế. Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, học sinh
chẳng mấy thiết tha với môn văn nên việc “tích hợp” càng khó khăn hơn. Một
điều đáng nói nữa là đa số phụ huynh, học sinh THPT, ngay cả phần lớn giáo
viên dạy cấp học này cũng đều xác định mục tiêu quan trọng nhất của việc học
là “học để thi” chứ không phải là “học để làm người”. Xác định mục tiêu như
thế nên kiến thức phải luôn đặt ở thế “thượng phong”, việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh THPT chỉ mang tính chất “tự phát” và “tùy hứng” chứ không
mang tính chiến lược nên hiệu quả chưa có.
2.2.3. Thực trạng đối với học sinh:
Trong một năm học trường chúng tôi đều phải tổ chức những buổi họp
Hội đồng kỷ luật để xử lí những vụ đánh nhau mà đôi khi vì những lí do chẳng
đâu vào đâu, các em cũng “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” với nhau để lại hậu
quả nghiêm trọng đối với từng cá nhân học sinh, với gia đình, với nhà trường,

với cả xã hội. Học sinh THPT mà chỉ cần một ánh mắt, một câu nói đùa của bạn
4


đã có thể gây ra một vụ ẩu đả ra trò. Đó chẳng phải do các em thiếu kỹ năng làm
chủ cảm cảm xúc, kỹ năng ra quyết định phù hợp đó sao? Mỗi ngày, các giáo
viên chủ nhiệm đều phải xử lí tại lớp mình bao nhiêu trường hợp nghỉ học để đi
chơi game, bao nhiêu trường hợp vô lễ với thầy cô giáo…Xử lí nhiều, kỷ luật
nhiều, thậm chí có những trường hợp kỷ luật nặng (đuổi học) nhưng tình hình
vẫn không thay đổi được là bao. Trong trường có biết bao nhiêu em rơi vào tình
trạng “ăn không nên đọi, nói không nên lời”, khi được thầy cô giáo chỉ định trả
lời một câu hỏi thì ấp úng, lúng túng, không thể diễn đạt nổi… Vấn đề cốt lõi
của cái gốc thực trạng đau lòng ấy chính là do các em thiếu những kỹ năng sống
quan trọng: kỹ năng làm chủ cảm xúc, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ…Thiết nghĩ, không thể
khắc phục được thực trạng đáng buồn ấy bằng kiểu “học thi” như bây giờ mà
phải chú tâm thỏa đáng đến việc rèn luyện cho các em những kỹ năng sống để
“làm Người”[4]
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vẫn đề
2.3.1. Giải pháp 1. Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống về giao tiếp phải bắt
đầu từ việc xác định mục tiêu cần đạt của bài học.
Muốn lồng ghép giáo dục kỹ năng sống về giao tiếp trong bài dạy có hiệu
quả cần phải có định hướng tốt, bắt đầu từ khâu xác định mục tiêu cần đạt của
bài dạy, nghĩa là trong quá trình thiết kế giáo án giảng dạy, ở phần mục tiêu cần
đạt về mặt kỹ năng cần nêu chi tiết những kỹ năng sống về giao tiếp gắn với
những
kỹ
năng
cụ
thể

của
bài
dạy
đó.
2.3.2. Giải pháp 2. Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống về giao tiếp thông qua
việc xác định phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng gắn
với những kỹ năng giao tiếp cụ thể.
Xác định mục tiêu giáo dục kỹ năng sống về giao tiếp trong mục tiêu cần
đạt của bài học sẽ không có ý nghĩa và hiệu quả nếu không gắn với việc xác
định các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực. Bởi vậy, trong phần định
hướng bài dạy, cần xác định và bổ sung thêm phần Các phương pháp, kỹ thuật
dạy học tích cực có thể sử dụng.
2.3.3. Giải pháp 3. Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống về giao tiếp trong tiến
trình dạy học.
- Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống về giao tiếp thông qua cách giới thiệu
bài mới . Bằng nhiều hình thức khác nhau, giáo viên có thể áp dụng để lồng
ghép giáo dục kỹ năng sống về giao tiếp qua khâu giới thiệu bài mới như: Sử
dụng câu hỏi phát vấn hoặc câu hỏi trắc nghiệm, cho học sinh viết cảm nhận ra
giấy về một chi tiết trong bài mới, dẫn dắt từ thực tiễn cuộc sống vào kiến thức
bài dạy, tạo tình huống giao tiếp cho học sinh...Điều quan trọng ở khâu này là
giáo viên phải linh hoạt tiếp nhận ý kiến và những biểu hiện phản hồi của học
sinh để trên cơ sở đó dẫn dắt, giới thiệu bài mới vừa ấn tượng, vừa có tác dụng
giáo dục kỹ năng sống
- Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống về giao tiếp thông qua các chi tiết, hình
ảnh, nội dung bài giảng.
5


+Phân môn giảng văn:
Ví dụ 1: Bài Nhàn ( Nguyễn Bỉnh Khiêm) [8]

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói đến cách sống nhàn tản, vui
thú với điền viên như một lão nông tri điền của mình. Nhà thơ thật thông tuệ khi
chủ động dứt khoát tìm cho mình một cách sống “ nhàn một ngày là tiên một
ngày”, xa lánh chốn quan trường đua chen danh lợi, tìm sự thư thái của tâm hồn
trong thời buổi nhiễu nhương. Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của xã
hội, mọi người đều cuốn theo dòng chảy hối hả của công việc, phải đối mặt với
nhiều vấn đề phức tạp của cuộc sống, cách sống của cụ trạng Trình vui thú với
điền viên, thân thiện với thiên nhiên cũng là một cách sống đẹp ta nên học tập để
cân bằng trạng thái, giảm bớt áp lực công việc, tránh rơi vào stress, tích lũy
thêm năng lượng để học tập và làm việc tốt hơn.
Ví dụ 2: Bài Trao duyên ( Truyện Kiều) [8]
GV bình thêm về bi kịch tình yêu của Thúy Kiều: Trong bi kịch tình yêu
của Kiều và Kim Trọng, người chịu nhiều đau khổ và hi sinh nhất là Kiều nhưng
nàng không nghĩ đến bản thân mình mà chỉ nghĩ đến Kim Trọng . Kiều đã quên
mình để nghĩ tới người khác, đó là một sự hi sinh cao qúy trong tình yêu. Nàng
đã cho đi và không nghĩ mình được nhận lại rất nhiều. Đoạn thơ đã đem đến cho
chúng ta bài học thật ý nghĩa trong cuộc sống . Đó là bài học cho và nhận Qua
đó Gv sẽ lồng ghép cho HS bài học “ Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” và
biết hi sinh bởi chỉ khi nào biết hi sinh thì mới biết yêu ( Tình yêu ở đây không
giới hạn trong tình yêu đôi lứa ).
Ví dụ 3: Bài Nỗi thương mình ( Truyện Kiều ) [8]
GV bình thêm về nhân cách của Kiều: Bị rơi vào nghịch cảnh phải tiếp
khách ở lầu xanh, Kiều vô cùng đau đớn nhục nhã ê chề. Điều đó càng chứng tỏ
nhân cách cao quý của nàng. Câu chuyện cách chúng ta đã hơn hai thế kỷ, vậy
mà đáng buồn thay, ngày nay nhiều người con gái sẵn sàng bán rẻ nhân phẩm
của mình một cách dễ dàng chỉ vì tiền. Mỗi chúng ta phải biết bảo vệ phẩm giá
của mình, biết tôn trọng mình, không được đánh mất mình dù ở trong bất kì
hoàn cảnh nào.GV giúp HS biết cách tự bảo vệ phẩm giá của mình ở trong
mọi hoàn cảnh.
Ví dụ 4 : Bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát ( cao Bá Quát ) [9]

Hình ảnh “Anh đứng làm chi trên bãi cát ? ”Nhân vật trữ tình tự hỏi mình
đồng thời cũng tìm câu trả lời. Trên con đường tìm kiếm công danh, nhân vật trữ
tình đã nhận ra cái bả phù phiếm ấy và đang khao khát tìm ra con đường đi mới.
Câu thơ báo hiệu sự thay đổi trong nhận thức của Cao Bá Quát dẫn đến những
hành động phản kháng mãnh mẽ của nhà thơ với xã hội sau này. Từ đó ta nhận
thấy thay đổi thái độ, nhận thức sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn trong cuộc đời.
Chúng ta phải mạnh dạn thay đổi nhận thức và tư duy tích cực thì sẽ thay đổi
được cuộc sống. Tuổi trẻ của các em cần phải mạnh dạn có những thay đổi trong
nhận thức và tư duy của mình để nắm bắt tương lai. Tương lai thuộc về các em.
 GV giúp HS mạnh dạn thay đổi những suy nghĩ bảo thủ, lạc hậu , lỗi thời đã
ăn sâu bám rễ rất lâu trong mỗi người để có hướng đi đúng trong tương lai.
6


Ví dụ 5: Bài Bài ca ngất ngưởng( Nguyễn Công Trứ ) [9]
Bài thơ là bức chân dung tự họa của Nguyễn Công Trứ về một cá tính mạnh
mẽ, một con người xuất chúng dám sống là mình, vượt lên thói tục thông thường
để khẳng định bản ngã vừa là một tuyên ngôn cho lí tưởng sống phóng khoáng
đối lập với xã hội phong kiến bảo thủ, lạc hậu đương thời. Nguyễn Công Trứ đã
khiến chúng ta phải suy nghĩ về bài học “ hãy tin vào chính mình”. Nếu nghĩ ta
làm được thì sẽ làm được. Đừng chấp nhận làm kẻ tầm thường, kẻ thất bại mà
luôn luôn đòi hỏi sự vượt trội của bản thân. Có như vậy các em mới thành công
trong cuộc sống.
Ví dụ 6: Bài Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh) [10]
Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một tác phẩm có giá trị lịch sử, giá trị
nghệ thuật mà còn là một tác phẩm có giá trị rất lớn trong việc giáo dục những
giá trị đạo đức, ứng xử, ngoại giao cho các thế hệ .Qua tác phẩm chúng ta càng
tự hào, yêu quý hơn trí tuệ nhân cách vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Hai bản
tuyên ngôn của Pháp, Mĩ được Bác đưa vào phần mở đầu của tác phẩm thể hiện
tài ngoại giao, ứng xử rất khôn khéo của Người. Pháp, Mĩ là kẻ thù trước mắt và

lâu dài của dân tộc nhưng Bác vẫn ngợi ca hai bản tuyên ngôn ấy bởi đó là
những giá trị văn minh mà ông cha họ đã đạt đươc; Bác cũng khoan dung độ
lượng với những người Pháp thua cuộc bỏ chạy; Bác còn kêu gọi Pháp hợp tác
để chống Nhật. Cách ứng xử, tài ngoại giao vô cùng trí tuệ, khéo léo dựa trên cơ
sở bình đẳng tôn trọng quyền tự do của các dân tộc của vị chủ tịch nước từ ngày
đầu của nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa đến nay vẫn sáng ngời tính thời
đại. GV giúp HS học cách ứng xử , ngoại giao khéo léo trong cuộc sống
thường nhật.
Ví dụ 7: Bài Số phận con người (Sô-lô-khốp) [10]
Hình ảnh “hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi
đến những miền xa lạ”, chi tiết đêm nào Xô-cô-lốp cũng khóc ướt đẫm gối và
việc Xô-cô-lốp nhận bé Va-ni-a làm con đã cho ta thấy một sự thật phũ phàng
về số phận côi cút nhỏ bé và những nỗi đau dai dẳng của con người sau chiến
tranh, cùng với muôn vàn khó khăn họ phải đương đầu nhưng họ đã vượt qua tất
cả bằng chính tấm lòng nhân ái bao la. Nhờ nó, hai cha con anh đã vượt qua
được sự cô đơn. Hình ảnh trên cho ta thấy đôi lúc ta phải rơi vào những hoàn
cảnh vô cùng khó khăn, phải đối mặt với những nỗi đau về vật chất và tinh thần
ghê gớm nhưng nếu cứ để nó găm nhấm thì nó sẽ hủy hoại cuộc đời . Vậy ta
phải thoát khỏi nó bằng nhiều cách : Bằng ý chí và nghị lực, bằng tình yêu
cuộc sống và tình yêu con người, bằng niềm tin và hi vọng một điều tốt đẹp nào
đó. Đừng bao giờ để cho mình chìm nghỉm trong nỗi đau riêng rẽ. GV giúp
cho HS có bài học: Mỗi con người đều có một quyền năng vô hạn ở chính trong
mình, biết vận dụng quyền năng ấy của bản thân, chúng ta sẽ vượt qua tất cả các
thử thách.
Ví dụ 8: Bài Ông già và biển cả (Hê-minh-uê) [10]
Trong cuộc chiến đấu ác liệt và đơn độc của ông lão với con cá kiếm và
đàn cá mập, ông đã biết vận dụng sức mạnh của tất cả những vật quanh mình,
7



khiến cho ông không hề đơn độc” Gió là bạn của ta”.Trong cuộc đời sẽ có
những lúc ta rơi vào tình cảnh cô đơn, bế tắc, chán nản, muốn bỏ cuộc, cần một
lời an ủi, một sự xẻ chia hoặc một sự hiện diện nào đó giúp ta bớt cô đơn song
không phải lúc nào cũng có. Vậy ta phải tìm cái gì đó quanh mình để hỗ trợ
( như gió ) Bài học: Đừng bao giờ để mình rơi vào tình cảnh cô độc hay
buông xuôi.
Ví dụ 9: Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu [10]
Đây là một tác phẩm có nhiều giá trị thẩm mĩ, gợi nhiều liên tưởng và đem
đến nhiều bài học cho chúng ta. GV có thể chọn một số chi tiết có ý nghĩa trong
truyện để liên hệ, giáo dục kỹ năng sống cho HS.
Ví dụ chi tiết Phác đánh lại bố. GV có thể gợi mở cho HS trình bày nhận
xét của các em về hành động này. Chắc chắn đa số các em với cái nhìn truyền
thống là phê phán Phác. Rất ít em ủng hộ Phác. Từ đó GV định hướng cho các
em. Hành động của Phác là một thái độ phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt chống
lại bất công. Đó là một thái độ rất cần có trước một hành vi xấu mà ta nhìn thấy
trong xã hội. Tuy nhiên vì còn quá non nớt, chưa từng trải lẽ đời nên Phác chỉ
nhìn sự việc một chiều và hành động theo cảm tính Phác đã phạm sai lầm đó là
vi phạm đạo đức luân lí của xã hội.Vì thế khó có ai chấp nhận việc làm của em.
Trong cuộc sống, hằng ngày, hàng giờ diễn ra bao sự việc rất trớ trêu, nghịch lí,
chúng ta phải nhìn nhận chúng một cách thấu đáo khi đó mới hành xử nếu không
chúng ta lại dẫn đến những hành động mang tính bạo lực vi phạm đaọ đức làm
người như Phác.
Ví dụ 10: Bài Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quan Vũ. [10]
Qua lời đối thoại của Trương Ba với xác hàng thịt GV có thể rút ra được bài
học về kỹ năng sống rất có ý nghĩa:
Bài học thứ nhất: Trong mỗi con người đều có hai phương diện gắn bó
chặt chẽ với nhau. Đó là thể xác và linh hồn. Nếu chỉ chạy theo cuộc sống vật
chất con người sẽ bị cuốn theo những dục vọng tầm thường, mất dần nhân cách
và sẽ dẫn đến những hành vi xấu. Ngược lại chỉ quan tâm đến đời sống tinh thần
bỏ bê thân xác sẽ dẫn đến một thái độ sống thờ ơ, vô trách nhiệm với cuộc đời,

với những người thân và ngay chính bản thân mình. Chúng ta phải sống hài hòa
thống nhất một cách tự nhiên giữa thể xác và tâm hồn, như thế cuộc sống mới
trở nên ý nghĩa.
Bài học thứ hai:“Sống nhờ vào đồ đạc của cải của người khác đã là một
điều không nên”, sống bám vào tinh thần của người khác lại càng không nên
chút nào. Vậy mỗi chúng ta phải phải biết kiên định cảm xúc, biết đứng trên đôi
chân của mình, để sống được là chính mình.
Tóm lại qua mỗi tác phẩm văn học, qua mỗi bài giảng, GV sẽ liên hệ một
đôi điều vừa có tác dụng giáo dục kỹ năng sống , vừa giáo dục đạo đức nhân
cách, giúp các em có khả năng đối diện hội nhập tốt cuộc sống, tránh được
những va vấp không đáng có đồng thời chuẩn bị tốt cho tương lai.
+Phân môn Tiếng Việt:

8


Trong các giờ dạy Tiếng Việt, ngoài việc cung cấp những kiến thức cơ bản
theo mục tiêu cần đạt, giáo viên văn cần cung cấp cho học sinh những kỹ năng
sử dụng từ ngữ đúng ngữ cảnh để chuyển tải đúng, rõ ràng những thông điệp của
bạn trong giao tiếp, kỹ năng tạo câu, tạo lập văn bản và cả chiến thuật để giao
tiếp, ứng xử trong cuộc sống đời thường cũng như trong công việc bằng nhiều
hình thức tăng vốn từ vựng, luyện nói, luyện viết, tạo tình huống giao tiếp ...
Qua một số bài tiếng Việt GV có thể lồng ghép tốt kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tư
duy, kỹ năng làm việc nhóm ...trong đó lồng ghép hiệu quả nhất là kỹ năng giao
tiếp và làm việc nhóm.
Ví dụ 1: Bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Thông qua bài học GV giúp HS nâng cao được năng lực giao tiếp, nói và
viết phù hợp với các nhân tố giao tiếp ( nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp,
nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện và cách thức giao tiếp).
Có thái độ và hành vi phù hợp với hoạt động giao tiếp ở nhà, ở trường và

trong sinh hoạt xã hội.
Ví dụ 2: Bài Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Giúp Hs nắm chắc đặc điểm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết từ đó sử dụng
đúng các loại phong cách ngôn ngữ này. GV có thể cho HS tập trình bày miệng
hai bài tập nhỏ, sau đó rút kinh nghiệm về cách thức trình bày miệng một vấn
đề , nhằm luyện tập khả năng giao tiếp cho các em.
Ví dụ 3: Các bài học về phong cách học sẽ giúp cho HS rất nhiều trong
cuộc sống như nắm chắc được đặc điểm từng phong cách để các em sử dụng nó
đúng mục đích, yêu cầu trong giao tiếp. Như phong cách ngôn ngữ hành chính
phải dùng đúng khuôn mẫu để viết đơn từ, biên bản, giấy xác nhận...phong cách
ngôn ngữ khoa học đòi hỏi tính chất chính xác tuyệt đối trong các văn bản nói và
viết; Đối với phong cách ngôn ngữ nghệ thuật lời văn cần phải có hình ảnh, trau
chuốt, gọt dũa...
+Phân môn Làm văn:
Giáo viên có thể lồng ghép giáo dục kỹ năng sống về giao tiếp trong phân
môn làm văn qua các giờ dạy về lí thuyết và thưc hành về các kiểu bài nghị luận:
nghị luận xã hội và nghị luận văn học, qua việc ra đề kiểm tra và lời nhận xét
của giáo viên.
GV vẫn có thể lồng ghép kỹ năng sống trong phân môn làm văn qua việc
ra đề kiểm tra và lời nhận xét của GV.Qua các đề kiểm tra GV sẽ giúp các em
không những trình bày những kiến thức lĩnh hội được ở trường mà thông qua
các bài tập này các em còn bộc lộ những suy nghĩ, nhận xét, cảm nhận của mình
về một vấn đề nào đó của cuộc sống. Từ đó các em cũng sẽ lớn dần lên trong
nhận thức và tâm hồn của mình.Cũng thông qua hình thức này GV sẽ góp phần
rèn luyện một số phẩm chất đạo đức, kỹ năng sống cho HS.
Khi chấm và trả bài, dựa vào yêu cầu các đề kiểm tra mà mình đã cho,
dựa vào bài làm của HS ,GV sẽ có những lời phê ý nghĩa vừa động viên, vừa
nhắc nhở vừa khuyến khích vừa chỉ dạy các em những vấn đề cần thiết trong
cuộc sống.
9



Ví dụ 1: Đề: Thời gian không chờ đợi ai. [6]
Qua bài tập này, GV muốn giáo dục các em biết quý trọng thời gian , đặc
biệt là thời gian của tuổi trẻ, nhắc nhở những em chưa ý thức được sự trôi chảy
nhanh chóng của thời gian hãy tỉnh ngộ không uổng phí thời gian vào những trò
vô bổ.
Khi chấm bài, Gv thấy có nhiều em tâm sự rất chân thành : “Em rất hối
hận vì thời gian qua em đã bỏ phí thời gian rất nhiều, nay em hứa sẽ quyết tâm
sửa chữa” hoặc “Trước đây em học khá nhưng từ năm lớp 9 đến nay em bị bạn
bè rủ rê chơi game , em rất hối hận vì mình đã bỏ phí quá nhiều thời gian”
Trước những lời lẽ chân thành như vậy, GV phê vào bài làm của các em
những câu như sau:
• “Trong cuộc đời không ai không mắc phải khuyết điểm, điều quan trọng
là tự nhận ra khuyết điểm của mình. Như vậy là em đã thành công. Cô tin tưởng
em sẽ thành công nữa. Thời gian lúc này đang chờ đợi em”
• “ Sẽ không bao giờ là muộn khi ta nhận ra những lỗi lầm của mình để từ
đó sửa mình. Chúc em sẽ là một HS khá như xưa và hơn thế nữa”
Ví dụ 2: Đề: Nỗi niềm biết ngỏ cùng ai. [6]
Qua bài tập này GV muốn chia sẻ những nỗi niềm, những tâm sự rất
riêng mà các em khó có điều kiện thổ lộ cùng ai. GV mong muốn sẽ là người
đồng hành cùng các em trong một quãng thời gian ngắn ở trường THPT, có thể
nhân đôi niềm vui hoặc chia đôi nỗi buồn của các em.
Nhiều năm qua tôi đã có nhiều thu nhận rất cảm động về các bài làm của
các em.
Nhiều em tâm sự “Em rất cảm ơn cô vì cô đã cho em có điều kiện để viết
ra điều khó nói”Hoặc “Em chỉ tâm sự với cô điều này, em mong cô đừng tiết lộ
với ai biết”, hoặc “Cô ơi, em rất khổ tâm về chuyện gia đình, em mong cô cho
em một lời khuyên”...
Với dạng đề này Gv phải tuân thủ một điều kiện rất nghiêm ngặt: không

được kể lại những chuyện các em đã tâm sự với mình với bất kì ai. Bởi nếu
không các em sẽ không bao giờ tôn trọng và yêu quý mình nữa.
Qua bài làm của HS tôi thường có các lời phê mang tính khích lệ, động
viên . Bởi tôi biết HS cần khích lệ giống như cây cần nước.

“Bài viết rất chân thành song hành văn chưa được chặt chẽ, em cần
cố gắng nhiều hơn nữa. Còn điều khó nói em đã chia sẻ với cô vậy là em đã vơi
bớt phần nào nỗi niềm riêng. Cô mong em tiếp tục vượt qua”

“Bài làm của em tuy còn dàn trải song cô vẫn hiểu được tâm sự của
em. Cố gắng tập viết văn hàm súc hơn. Còn chuyện khó nói, đấy mới chỉ là sự
quý mến và quan tâm tới nhau thôi, em cứ giữ tình bạn trong sáng như thế để
cùng giúp nhau học tốt hơn”

“ Bài làm của em khiến cô vô cùng cảm động! Không ngờ em đã
trải qua những chuyện đau lòng như thế trong gia đình song em hãy bình tĩnh và
làm cầu nối để cha mẹ xích lại với nhau được không? Có thể tiếp tục tâm sự với
cô nhé!”
10


Ví dụ 3. Đề: Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, cây hoa dại vẫn mọc lên
và nở những chùm hoa thật đẹp. Phát biểu suy nghĩ của em được gợi ra từ
hiện tượng trên. [6]
Với đề này GV lồng ghép bài học nếu có nghị lực và niềm tin con người
sẽ vượt qua được tất cả. Đặc biệt chúng ta có thể vượt qua được rào cản tiềm ần
trong chính bản thân mình, như thiếu tự tin, rụt rè, nhút nhát, do dự...Đó là
những điểm yếu mà HS trường ta mắc phải rất nhiều.
GV có thể phê những lời như sau trong bài làm của HS:
• “Em đã có tiến bộ rất nhiều so với những bài trước. Mong em mạnh

dạn, tự tin hơn nữa trong học tập, em sẽ còn tiến bộ hơn”.
• “ Em còn lúng túng trong cách trình bày các luận điểm, cách diễn
đạt. Cần phải cố gắng rèn luyện cách tìm ý và lập dàn ý nhiều hơn nữa mới tiến
bộ được”
• “ Bài làm có nhiếu sáng tạo, lập luận chặt chẽ, hành văn lưu loát”.
• “Có nỗ lực rất lớn. Nên tiếp tục phát huy tinh thần này”...
Thiết nghĩ một GV dạy văn là dạy cho các em trở thành những con người
có tâm hồn, có bản lĩnh, có nhân cách nên qua những bài làm văn và lời phê của
mình tôi vẫn cố gắng lồng ghép ít nhiều mục đích này.
2.3.4. Giải pháp 4: Tạo tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời
sống:
+ Vai trò của những tình huống có tính chất ứng dụng:
Thực tế, kỹ năng sống không thể chỉ được giới thiệu và giảng giải bằng lí
thuyết. Bởi “lí thuyết suông” có thể tạo ra sự nhàm chán hoặc suy nghĩ “văn nói
láo, báo nói phét” từ phía học sinh, khiến các em mất niềm tin vào lời thầy cô
giảng. Hơn nữa, chỉ lí thuyết không chắc hẳn các em sẽ rất chóng quên.
Ưu thế nổi bật nhất của việc tạo ra được những tình huống có ý nghĩa vận
dụng trong quá trình dạy học văn:
- Nâng cao tính thực tiễn của môn học, để văn học gắn với đời sống chứ
không phải là thế giới chỉ có trong sách vở.
- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của học sinh trong quá
trình học.
- Đặc biệt là sẽ rèn luyện, nâng cao kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng
trình bày, bảo vệ và phản biện ý kiến trước đám đông.
- Ngoài ra, giáo viên, trong vai trò của người dẫn dắt, cũng sẽ tiếp thu
được rất nhiều kinh nghiệm và những cách nhìn, những giải pháp mới từ phía
học sinh để làm phong phú bài giảng và điều chỉnh nội dung tình huống nghiên
cứu.
+ Cách thức thực hiện:
Trong mỗi bài học tôi đều cố gắng tạo ra những tình huống có vấn đề

mang tính chất ứng dụng vào thực tế đời sống, rồi tổ chức cho học sinh tự giải
quyết. Việc giải quyết các tình huống như thế lúc đầu mang tính chất cá nhân
sau đó được thảo luận để đi đến một cách giải quyết tối ưu nhất.
11


Ví dụ: Trong khi dạy bài “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống
HIV/ AIDS” của Cô-phi-a-nan [10], tôi đặt ra tình huống: Nếu em có một người
bạn thân bị nhiễm HIV/ AIDS, em sẽ hành động như thế nào? Vì sao? (lưu ý:
hãy trả lời bằng chính suy nghĩ thật và tình cảm thật của mình)
Sau khi đưa ra tình huống, tôi tổ chức cho học sinh tự giải quyết vấn đề
trên một tờ phiếu học tập, tất cả mọi người đều phải đưa ra chủ kiến của riêng
mình. Tôi chọn một số ý kiến (có thể để các em xung phong, cũng có khi chỉ
định bất kì), gọi một học sinh khác đọc to các ý kiến đó lên cho cả lớp cùng
nghe, cùng thảo luận, để thống nhất cách giải quyết tốt nhất. Với tình huống
trên, học sinh có thể có nhiều cách giải quyết khác nhau, chẳng hạn:
- Tìm cách trốn tránh, xa lánh, không chơi với bạn nữa vì sợ bị lây nhiễm.
Con người ta không thể cẩn thận tuyệt đối được và trong khi tiếp xúc với người
bệnh không thể chắc chắn rằng mình không bao giờ bị lây nhiễm.
- Vẫn giữ mối quan hệ bạn bè nhưng thận trọng và giữ một khoảng cách
nhất định khi tiếp xúc với bạn ấy. Vì mặc dù biết HIV không lây qua đường tiếp
xúc thông thường nhưng vẫn sợ, đó là bệnh nan y chưa có thuốc chữa, nhỡ may
sơ ý khi cả 2 cùng bị chảy máu, mình sẽ tự hủy hoại chính mình.
- Quan tâm chăm sóc, gần gũi, giúp đỡ bạn bằng tất cả những gì mình có
thể để bạn không rơi vào tình trạng mặc cảm, chán nản, bi quan. Vì lúc này là
lúc bạn cần mình nhất, lúc thể hiện tình bạn đẹp nhất…
Sau khi cho các em thảo luận, giáo viên định hướng chung để thống nhất
cách giải quyết: Nên gần gũi, giúp đỡ bạn bằng cả tình thương và trách nhiệm
nhưng tất nhiên phải cẩn thận để tự bảo vệ cho chính mình. Tìm hiểu kỹ để có
kiến thức thật vững vàng về căn bệnh, cũng như chú ý, quan tâm đến diễn biến

tâm lí, tình cảm của người bạn để chăm sóc bạn hiệu quả nhất và an toàn nhất.
Ví dụ 2: Khi dạy “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài [10], đến chi tiết: A Phủ
đánh A Sử trong lễ hội mùa xuân vì A Sử cậy quyền thế mà phá đám cuộc chơi.
Tôi sẽ đặt ra tình huống vận dụng: Giả sử, bạn là A Phủ, trong hoàn cảnh trên
bạn sẽ xử sự thế nào? Học sinh cũng sẽ có nhiều cách xử trí khác nhau như:
- Sẽ đánh A Sử như A Phủ đã đánh hắn để hắn bớt thói hống hách, cậy thế
làm càn.
- Sẽ tự kiềm chế mà bỏ đi để tránh bạo lực và để khỏi “rước vạ” vào thân.
- Sẽ tổ chức một cuộc gặp gỡ để dùng lí lẽ mà thuyết phục đối phương
không nên phá rối như vậy bởi vui là vui chung, nếu có thể, sẽ đi đến một thỏa
thuận giữa hai bên để cuộc vui vẫn được tiếp diễn, không có gì đáng tiếc xảy ra.
- Sẽ tổ chức, lôi kéo được nhiều người đứng về phía mình, đánh kẻ cậy
quyền thế như A Sử một cách có tổ chức để vẫn dạy cho hắn một bài học nhưng
lại không chịu tội một mình như A Phủ.
Sau cùng sẽ thống nhất phương án giải quyết: Tùy vào thái độ và mức độ
phá đám của “kẻ cậy quyền” để ứng phó. Tốt nhất vẫn là ngồi lại để nói chuyện
với nhau, tìm điểm yếu của hắn rồi dùng lập luận, lí lẽ để thuyết phục, buộc đối
phương phải suy nghĩ lại. Tất nhiên phải có nghệ thuật để “nâng cao tầm” của

12


đối phương để sự tự phụ của hắn được ru vỗ thì ắt xung đột bạo lực sẽ không
xảy ra.
Việc tổ chức giải quyết các tình huống trải nghiệm kiểu như thế này
thường tạo cho học sinh tâm thế “nhập cuộc”, hứng thú, cảm thấy mình là người
trong cuộc, cần phải thể hiện suy nghĩ và hành động cụ thể. Qua những tình
huống đó, học sinh dần dần hình thành kỹ năng giải quyết các vấn đề và điều
chỉnh hành vi theo hướng hợp lí.
2.3.5. Giải pháp 5. Tổ chức những hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy

học:
+ Tầm quan trọng của hoạt động đối thoại trong dạy học và rèn luyện kỹ
năng sống:
Với kinh nghiệm của một người đã nhiều năm đứng trên bục giảng, tôi
nhận thấy, đối thoại có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn luyện kỹ năng
cho học sinh: đối thoại có tác dụng rèn cho học sinh thói quen hợp tác với bạn
trong quá trình học tập, tự đánh giá, điều chỉnh vốn tri thức của bản thân trong
quá trình thảo luận. Qua đối thoại,học sinh rèn luyện được kỹ năng nói, phát
biểu trước tập thể, tăng cường tinh thần trách nhiệm, tự tin, kích thích sự chủ
động sáng tạo của các em.
Tổ chức cho học sinh đối thoại trên lớp không chỉ tạo điều kiện phát triển
năng lực cá nhân cho mỗi HS mà còn phát huy vai trò hỗ trợ của tập thể trong
học tập khiến cho những vấn đề đưa ra đối thoại được nhìn nhận đa dạng, phong
phú, toàn diện hơn. Hơn nữa, Khi HS được tự do phát biểu một cách độc lập,
sáng tạo theo cảm nhận cá nhân, giáo viên sẽ có cơ sở và điều kiện để phát huy
vai trò chủ thể HS trong giờ học, lớp học trở nên sinh động, và việc tiếp thu kiến
thức của HS trở nên tự nhiên, sâu sắc hơn.
Việc lười xây dựng phát biểu bài của các em còn nảy sinh tâm lí thụ động,
chờ đợi, co cụm, ỷ lại nên học sinh khó nắm bắt và làm chủ kiến thức của bài
học, lâu ngày sẽ tạo thành thói quen thiếu tự tin, hạn chế tính tư duy sáng tạo
của người học, vì vậy trí nhớ giảm sút, học lực giảm, không phát huy được ưu
điểm cũng như không khắc phụ được nhược điểm của mình; đồng thời việc rèn
luyện kỹ năng, khả năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử của các em với cộng đồng sẽ
gặp nhiều hạn chế. Điều đó sẽ làm cho giáo dục đào tạo ra một lớp người lạc
hậu, kém năng động, kém sáng tạo, không giám khẳng định mình, co mình như
con rùa rụt cổ, không dám mạnh dạn đứng lên phê phán , chống lại cái sai, cái
ác, bảo vệ cái đúng cái thiện, thậm chí đồng tình, đồng lõa với các thói hư tật
xấu là điều khó tránh khỏi.
+ Cách thức thực hiện:
Chính vì những lí do như vậy nên trong quá trình dạy học văn, tôi đã cố

gắng để tạo ra những hoạt động đối thoại đa dạng. Ví dụ: Khi dạy tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh Châu) [10] , tôi tạo ra các hoạt động đối
thoại sau:
- Đối thoại giữa giáo viên với học sinh thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở
như: Câu1: Cảm nhận của người nghệ sĩ trước “một cảnh đắt trời cho”? Vì sao
13


Phùng lại nghĩ đến sự đúc kết “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”? Câu 2: Ngay
khi đang tận hưởng cái khoảng khắc kì diệu mà hóa công ban tặng, Phùng đã
phát hiện ra điều gì? Thái độ của anh trước phát hiện ấy? Vì sao anh lại có thái
độ như vậy? Câu 3: Qua 2 phát hiện của Phùng, nhà văn muốn người đọc nhận
thức điều gì về cuộc đời? Câu 4: Giả sử đảo vị trí của 2 phát hiện ấy (cảnh bạo
lực của gia đình hàng chài thấy trước; cảnh đẹp của chiếc thuyền trên biển mờ
sương thấy sau), giá trị của tác phẩm có gì thay đổi?... Với những câu hỏi kiểu
này, tôi thường khuyến khích cá nhân các em suy nghĩ, trả lời và thưởng điểm
cho những người có câu trả lời hay, sáng tạo.
- Đối thoại giữa học sinh với học sinh: Yêu cầu một em học sinh tự đặt ra
câu hỏi, gọi một em khác trả lời, 2 em tranh luận với nhau để bảo vệ ý kiến của
riêng mình. Chẳng hạn: Nếu bạn chứng kiến cảnh bạo lực của một gia đình nào
đó như gia đình hàng chài trong truyện, bạn sẽ làm thế nào? Sẽ có nhiều hướng
giải quyết khác nhau, người giáo viên sẽ làm trọng tài cho cuộc tranh luận giữa
2 em học sinh để đi đến một cách giải quyết hợp lí nhất.
- Đối thoại giữa học sinh với giáo viên: Cho phép học sinh đặt ra những
câu hỏi, những tình huống đối với giáo viên, giáo viên sẽ chia sẻ suy nghĩ và
kinh nghiệm của mình với học sinh một cách dân chủ, cởi mở. Ví dụ có em học
sinh hỏi: Nếu cô là người đàn bà hàng chài, trong hoàn cảnh nghèo khổ và bị
hành hạ như thế cô sẽ làm thế nào? Tôi sẽ nói với các em rằng: nếu rơi vào hoàn
cảnh như vậy, tôi sẽ suy nghĩ vì sao mình lại nghèo, vì sao chồng mình lại có
những hành vi như thế? trước hết phải tìm cách để thoát nghèo; sau đó sẽ dùng

lời lẽ, lập luận để chỉ ra cái sai trái trong hành động của người chồng. Nếu bản
chất của người chồng là tốt đẹp thì không có lí do gì mà cảnh tượng ấy lại tái
diễn
Để có những cuộc đối thoại đạt hiệu quả, tôi xác định những vấn đề trọng
tâm, mở ra nhiều cách giải thích khác nhau, kích thích khả năng tư duy sáng tạo,
thúc đẩy HS bộc lộ quan điểm và đối thoại. Những tình huống nêu ra để HS
tham gia đối thoại vừa không thoát li tác phẩm, vừa phù hợp với trình độ tiếp
nhận của các em, đồng thời đảm bảo cuộc tranh luận không mất trật tự, và không
mất quá nhiều thời gian cho phép. Cần tránh những hình thức câu hỏi mà khi trả
lời, HS chỉ dựa vào những quan niệm và kinh nghiệm đã có hay chỉ trình bày
một chiều các luận cứ để khẳng định một kiến giải nào đó. Ngoài ra, tôi cũng dự
đoán những tình huống có thể xảy ra trong sự tiếp nhận của HS để điều khiển
cuộc đối thoại sao cho không rơi vào bế tắc mà luôn đi theo những con đường
hợp lí nhất.
2.3.6. Giải pháp 6. Tích cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm một cách
hiệu quả:
+ Ý nghĩa, tầm quan trọng của phương pháp dạy học nhóm
Làm việc theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học được áp
dụng trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay nhằm phát huy được tính tích
cực của người học, dạy học hướng về người học

14


Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yêu cầu làm việc
theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết vì trong thực tế cuộc sống không có ai là
hoàn hảo, do đó làm việc theo nhóm có thể tập trung được những mặt mạnh của
một nhóm người, từng người trong nhóm sẽ bổ sung, hoàn thiện cho nhau những
điểm yếu, hơn nữa nó còn tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học tập. Vì
vậy, trong những năm học qua tôi luôn có ý thức tích cực sử dụng phương pháp

dạy học nhóm nhằm phát huy được những điểm mạnh của nó.
Qua thử nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học văn trong những
năm học vừa qua, tôi thấy: bên cạnh việc giải quyết tốt nhiệm vụ nhận thức, tăng
cường dạy học theo nhóm giúp học sinh hình thành các phẩm chất nhân cách và
các kỹ năng xã hội tốt hơn, cụ thể là:
- Học theo nhóm phát huy cao độ vai trò chủ thể, tích cực của mỗi cá nhân
trong việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao; khi học theo nhóm, vai trò chủ
thể, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của học
sinh thường được phát huy hơn, cơ hội cho học sinh tự thể hiện, tự khẳng định
khả năng của mình nhiều hơn. Đặc biệt, khi học sinh học theo nhóm thì kết quả
học tập thường cao hơn, hiệu quả làm việc tốt hơn, khả năng ghi nhớ lâu hơn,
động cơ bên trong, thời gian dành cho việc học, trình độ lập luận cao và tư duy
phê phán. Nhóm làm việc còn cho phép các em thể hiện vai trò tích cực đối với
việc học của mình - hỏi, biểu đạt, đánh giá công việc của bạn, thể hiện sự
khuyến khích và giúp đỡ, tranh luận và giải thích... rất nhiều những kỹ năng
nhận thức được hình thành, như: biết đưa ra ý tưởng của mình trong môi trường
cùng phối hợp, giải thích, học hỏi lẫn nhau bằng ngôn ngữ và phương thức tác
động qua lại, phát triển sự tự tin vào bản thân như là người học và trong việc
chia sẻ ý tưởng với sự tiếp thu có phê phán (của nhiều người cùng nghe về một
vấn đề). Hay nói cách khác, HS trở thành chủ thể đích thực của họat động học
tập của cá nhân mình.
- Giúp hình thành các kỹ năng xã hội và các phẩm chất nhân cách cần thiết
như: kỹ năng tổ chức, quản lí, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng hợp tác, có
trách nhiệm cao, tinh thần đồng đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít, sự
ủng hộ cá nhân và khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, xác định giá trị của
sự đa dạng và tính gắn kết. Có những cảm xúc về trách nhiệm với nhóm và
khuyến khích ý thức tự giác, tự kỷ luật; phương tiện rèn luyện và duy trì các mối
quan hệ liên nhân cách.
+ Cách thức thực hiện:
Để một giờ học trên lớp thành công với phương pháp dạy học nhóm, tôi

thường tiến hành theo 3 bước:
Chuẩn bị: Trước khi diễn ra tiết học có sử dụng hoạt động nhóm trên lớp,
hướng dẫn cho học sinh cách chuẩn bị bài theo một dàn ý bao gồm các nội dung
cơ bản sau:
- Đọc kỹ phần “kết quả cần đạt” trong sách giáo khoa.

15


- Tìm hiểu trước những kiến thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm, đặc trưng thể loại của tác phẩm (kiến thức này chủ yếu nằm trong phần
“tiểu dẫn”)
- Đọc thật kỹ văn bản trước khi học (nếu là văn tự sự, kịch phải tóm tắt
cốt truyện; nếu là tác phẩm thuộc thể loại trữ tình phải nắm bắt được mạch cảm
xúc).
- Đọc phần chú giải trong sách giáo khoa để hiểu một số từ ngữ khó hoặc
các điển tích, điển cố, những chủ ý sáng tạo của nhà văn…
- Tự mình trả lời các câu hỏi trong phần “hướng dẫn học bài”; đánh dấu
những chỗ chưa giải quyết được hoặc còn băn khoăn để trao đổi với thầy cô và
các
bạn.
Khi đưa ra những yêu cầu chuẩn bị bài cho học sinh, tôi luôn kiểm tra
tính hiệu quả của công việc này bằng cách kiểm tra vở soạn bài kết hợp với
những câu hỏi về bài mới. Bởi vì nếu không chuẩn bị bài tốt, phương pháp dạy
học nhóm không thể thành công.
Xây dựng được những nội dung thảo luận quan trọng và phù hợp để hoạt
động nhóm có hiệu quả:
- Thảo luận về kết cấu ngôn từ của tác phẩm: từ nhan đề, bố cục cho đến
ngôn từ, hình ảnh, biểu tượng nghệ thuật mang tính sáng tạo của tác giả. Ví dụ:
Học tác phẩm “Vợ nhặt” ( Kim Lân) [10], giáo viên có thể hỏi: Tại sao tác giả

lại đặt tên cho tác phẩm là “Vợ nhặt”? Nhan đề đó có ý nghĩa và có quan hệ như
thế nào với nội dung của tác phẩm? Những từ ngữ tác giả dùng để miêu tả về
nạn đói có gì đặc biệt? gợi cho em cảm giác gì?
- Thảo luận về kết cấu hình tượng của tác phẩm: về các hình tượng nhân
vật chính trong tác phẩm tự sự; cái tôi trữ tình trong các tác phẩm thuộc thể loại
trữ tình. Ví dụ: Cảm nhận về hình tượng “sóng” khi hạy học bài thơ “Sóng”
(Xuân Quỳnh) [10] ; hình tượng Mị và A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
(Tô Hoài)? [10]
- Thảo luận về hiệu quả của các giá trị nghệ thuật độc đáo trong tác phẩm
qua hệ thống những câu hỏi so sánh. Để tạo tình huống cho học sinh tham gia
đàm thoại giáo viên có thể liên hệ các tác phẩm có cùng đề tài chủ đề, cùng một
kiểu kết cấu để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau. Giáo viên hướng
dẫn học sinh đi đến những kết luận, đánh giá tính đặc sắc, độc đáo của từng tác
phẩm và nhận xét về điều chúng giống nhau. Để có kỹ thuật so sánh yêu cầu
người học phải có khả năng khái quát, đánh giá và phải có vốn kiến thức sâu
rộng nhất định. Chẳng hạn khi học xong bài thơ Sóng ( Xuân Quỳnh) học sinh
có thể bộc lộ cảm nhận của mình về tình yêu trong mối liên hệ với những bài thơ
tình của Xuân Diệu.
- Thảo luận về nội dung cảm xúc, ý nghĩa khái quát, ý nghĩa tư tưởng của
hình tượng, của tác phẩm. Từ đó có sự liên hệ văn bản với đời sống. Đây là một
việc làm có ý nghĩa tổng kết cho những vấn đề phân tích chi tiết cụ thể về nội
dung và ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật. Việc tổng hợp, khái quát lại thành
những phạm trù ý, luận điểm ngắn ngọn,cô đọng là rất cần thiết và có ý nghĩa
16


sâu sắc. Đây là một yêu cầu khá phức tạp cho nên nó phù hợp với hoạt động
thảo luận với những dạng câu hỏi về giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật, sự
thay đổi tên gọi, sự liên tưởng và suy nghĩ về những vấn đề được tác giả đặt ra
trong bài thơ. Ví dụ học xong bài thơ “ Sóng” có thể thảo luận với câu hỏi: Vì

sao nhà thơ lại có ước muốn “Làm sao được tan ra, thành trăm con sóng nhỏ”?
Em lí giải như thế nào về ước muốn này của thi nhân, thái độ sống ấy có phù
hợp với những khao khát của tuổi trẻ hiện nay không? Hoặc khi học đoạn trích
“Đất nước” (Nguyễn Khoa Điềm) [10], có thể cho học sinh thảo luận với câu
hỏi: Em nghĩ gì về lời nhắn nhủ của nhà thơ: “Em ơi em! Đất nước là máu
xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hoá thân cho dáng hình
xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời”? [10] Lời nhắn nhủ ấy ngày nay có còn tác
dụng gì với tuổi trẻ của đất nước không?...
Tiến hành tổ chức thảo luận nhóm ở trên lớp:
- Mở đầu thảo luận: Giáo viên tổ chức phân nhóm, cho học sinh tự bầu
trưởng nhóm, giáo viên thông báo quy trình và quy định thảo luận.
- Giao nhiệm vụ cho từng nhóm; giáo viên chỉ làm nhiệm vụ quan sát,
theo dõi mà không tham gia ý kiến, không cắt ngang lời học sinh, không tỏ vẻ
phản ứng nếu câu trả lời, tranh luận không đúng với ý mình; khi học sinh đưa ra
những câu trả lời ngờ nghệch, không đúng, giáo viên nên nhanh chóng làm cho
học sinh nhận thức được sự không đúng của thông tin đó mà không làm ảnh
hưởng đến cảm xúc, lòng tự trọng của học sinh; khi học sinh trình bày, giáo
viên phải nghe cẩn thận những điều học sinh nói để hiểu các em định nói gì hoặc
ghi chép nhanh lại những
điểm cơ bản của mỗi ý kiến để chuẩn xác kiến thức.
- Sau khi thảo luận: Giáo viên phải tổng kết những ý kiến phát biểu thống
nhất và chưa thống nhất để mình tham gia vào những ý kiến chưa thống nhất và
bổ sung thêm những ý cần thiết; đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét tinh
thần, thái độ làm việc của học sinh để thưởng điểm hoặc trừ điểm cho cá nhân
của nhóm.
Tuy có nhiều ưu điểm và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc góp
phần rèn luyện những kỹ năng sống cho học sinh, song cũng cần lưu ý một điều
rằng: sử dụng một phương pháp dạy học không có nghĩa là đề cao và coi đó là
phương pháp độc tôn, bởi lẽ không có phương pháp nào là vạn năng. Hoạt động
nhóm sử dụng trong dạy học môn Ngữ văn chỉ thực sự phát huy tác dụng khi

được phối hợp linh hoạt với các cách dạy học khác.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Đối với giáo viên:
Việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào trong môn ngữ văn là một
vấn đề hết sức cần thiết. Bởi nó giúp người GV dạy văn làm tốt hơn thiên chức
của mình. Hơn nữa trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiên nay, việc làm này
cũng đi đúng quỹ đạo chung của việc cải cách giáo dục; quan tâm đến đối tượng
trung tâm của quá trình dạy và học là HS.

17


Việc lồng ghép kỹ năng sống vào trong các bài giảng cũng giúp tôi và các
đồng nghiệp giáo dục tốt hơn học trò của mình. Tôi mong muốn qua các bài
giảng, tôi không chỉ dạy các em chữ mà quan trọng là dạy các em làm người và
trong thời đại hiện nay, các em còn có các kỹ năng để hội nhập tốt. Làm được
điều này cũng đồng nghĩa với việc hạn chế những tác nhân xấu đang có nguy cơ
ảnh hưởng nhiều đến HS, tránh được tình trạng bạo lực học đường hoặc những
trò tiêu khiển lôi kéo các em.
2.4.2. Đối với học sinh:
- Về phía giáo viên:
+ Với bản thân thực hiện đề tài: Năng động hơn, tích cực nâng cao trình
độ chuyên, phương phá giảng dạy tích cực hơn, đa dang hơn. Phối hợp tốt hơn
với các giáo viên khác, gần gũi và thân thiện hơn với học sinh, hoàn toàn chủ
động trong việc hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức.
+ Với đồng nghiệp: Qua trao đổi về kiến thức chuyên môn và phương
pháp giảng dạy giúp nhau cùng tiến bộ trong giảng dạy, tạo mối quan hệ tốt cùng
nhau làm việc hiệu quả nâng cao kết quả giảng dạy của nhà trường.
- Về phía học sinh: các em hứng thú với các tình huống trải nghiệm thực
tế, say mê khám phá kiến thức, thể hiện được kỹ năng sống như quan trọng như

kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn
đề…được hình thành và phát triển bền vững; Tăng hứng thú của các em với môn
ngữ văn mà trước đây các em cho là lý thuyết, nhàm chán.
Sau khi áp dụng các hình thức trải nghiệm trên vào thực tiễn dạy học. Tôi
đã khảo sát trên 04 lớp gồm 02 lớp thực nghiệm(lớp 10B6, lớp 12C4) và 02 lớp
đối chứng (lớp 10B10, lớp 12C5). Mỗi khối lớp khảo sát bằng bài kiểm tra 10
phút và thu được kết quả cụ thể như sau:
Lớp/sĩ số
Lớp

số
10B6 40
(TN)
10B10 38
(ĐC)
12C4 38
(TN)
12C5 37
(ĐC)

Loại giỏi
số
TL
bài %
16
40

Loại khá
Số TL
bài %

17 42,5

Loại TB
Số
TL
bài
%
7
17,5

Loạiyếu
Số TL
bài %
0
0

9

23,7 10

26,3

15

39,5

4

10,5


19

50

10

26,3

9

23,7

0

0

8

21,6

9

24,4

15

40,5

5


13,5

Kết quả này là nguồn động viên rất lớn đối với bản thân tôi và đó là tiền đề
vững chắc cho những năm tiếp theo để tôi có thể làm tròn nhiệm vụ của một
người thầy đúng nghĩa- không chỉ dạy chữ mà còn góp phần dạy Người.

18


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kết luận
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục của thế kỷ XXI: Học để biết, học để làm,
học để tự khẳng định và học để cùng chung sống; đồng thời xuất phát từ yêu cầu
mới của công việc giảng dạy- lấy học sinh làm trung tâm, cho nên việc thể
nghiệm những biện pháp trên vào việc dạy học ngữ văn THPT không nằm ngoài
mục đích phục vụ mục tiêu và yêu cầu ấy. Việc làm này không chỉ có tác dụng
nâng cao việc dạy – học của thầy- trò mà còn có tác dụng rèn luyện học sinh
thành những người có kỹ năng thích ứng với đời sống ngày càng đa dạng và
phức tạp.
Đề tài này tuy không phải là một hướng đi mới mà chỉ là một cách làm cụ
thể trong quá trình lên lớp hằng ngày của giáo viên, hướng tới thực hiện mục
tiêu chung của nghành. Song, để thực hiện một cách có hiệu quả những giải
pháp trên với những tiết dạy cụ thể, đòi hỏi giáo viên phải thực sự có tâm huyết,
yêu trẻ, yêu nghề, có các phương tiện hiện đại hỗ trợ trong quá trình thực hiện.
Với điều kiện thời gian và trình độ có hạn, tuy bài viết còn nhiều hạn chế
nhưng với tình yêu nghề và tinh thần tự giác gắn bó với sự nghiệp trồng người
của mình, tôi muốn đóng góp một kinh nghiệm cho công việc dạy học văn để
các đồng nghiệp tham khảo. Kính mong nhận được sự đồng cảm, đồng tình và
những góp ý quý báu của các quý vị, các đồng nghiệp gần xa để sự nghiệp giáo
dục luôn luôn là sự nghiệp cao quý.

3.3.2. Kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả dạy- học văn và rèn luyện được những kỹ năng
sống quan trọng cho học sinh thể. Cần phải có sự phối hợp, quan tâm thỏa đáng
hơn từ phía Sở GD&ĐT, nhà trường, các đồng nghiệp, gia đình và các tổ chức
xã hội khác, không nên quá đề cao mục đích “học thi” của học sinh.
+ Phía nhà trường
- Đưa vào sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị hỗ trợ việc giảng dạy.
- Cần có những tài liệu về kỹ năng sống nhiều hơn để GV tham khảo.
- Tổ, nhóm cần có kế hoạch cụ thể khi giáo dục kỹ năng sống trong giờ
văn
- Cần có những buổi học ngoại khóa để rèn luyện thêm về kỹ năng sống
cho các em học sinh THPT để các em có thể phát huy hết kỹ năng sống của
mình.
+ Phụ huynh
- Kết hợp chặt chẽ với nhà trường để giáo dục ý thức học tập của học sinh.
- Hiểu được tầm quan trọng và sự quan tâm đúng mực cho môn Ngữ văn.
+ Phía học sinh
- Cần có thái độ học tập nghiêm túc. Chủ động học bài cũ, soạn bài mới,
đọc tác phẩm.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

19


XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của tôi
tự mình làm, không sao chép nội dung của

người khác.
Người viết sáng kiến

Trần Thị Hà

20


Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.

Dự thảo chương trình phổ thông- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015).
Giáo dục kĩ năng sống, Nxb ĐHSP Hà Nội - Nguyễn Thanh Bình (2007)
Giáo dục kỹ năng sống trong môn ngữ văn- Nhà xuất bản giáo dục
Giao tiếp ứng xử tâm lý tuổi học đường, Nhà xuất bản Thanh niên, 2007.
Nguyễn Công Khanh.
5. Sổ tay trường học thân thiện, học sinh tích cực 2008-2013 ( Bộ GD và ĐT)
6. Hạt giống tâm hồn ( Nhiều tác giả ) NXB TP Hồ Chí Minh.
7. Báo Giáo dục và Thời đại.
8. Sách giáo khoa ngữ văn 10 cơ bản - Nhà xuất bản giáo dục.
9. Sách giáo khoa ngữ văn 11 cơ bản - Nhà xuất bản giáo dục.
10. Sách giáo khoa ngữ văn 11 cơ bản - Nhà xuất bản giáo dục.
Trích dẫn tài liệu tham khảo
[1] Dự thảo chương trình phổ thông. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015).
[2] Giáo dục kĩ năng sống, Nxb ĐHSP Hà Nội - Nguyễn Thanh Bình (2007).
[3] Giáo dục kỹ năng sống trong môn ngữ văn- Nhà xuất bản giáo dục.
[4] Giao tiếp ứng xử tâm lý tuổi học đường, Nhà xuất bản Thanh niên, 2007.

Nguyễn Công Khanh.
[6] Hạt giống tâm hồn ( Nhiều tác giả ) NXB TP Hồ Chí Minh.
[7] Báo Giáo dục và Thời đại.
[8] Sách giáo khoa ngữ văn 10 cơ bản - Nhà xuất bản giáo dục.
[9] Sách giáo khoa ngữ văn 11 cơ bản - Nhà xuất bản giáo dục.
[10] Sách giáo khoa ngữ văn 12 cơ bản - Nhà xuất bản giáo dục.

21



×