Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Rèn luyện kĩ năng làm dạng đề so sánh, liên hệ theo định hướng đề thi THPT quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.63 KB, 24 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
I.1 Cùng với những thay đổi lớn trong đổi mới thi THPT Quốc gia 2018,
môn Ngữ văn cũng có một số điều chỉnh. Điểm mới và đáng lưu ý nhất trong
đề thi THPT QG năm 2018 là câu 2 phần làm văn(vì năm nay theo định
hướng đề minh họa của Bộ giáo dục và đào tạo thì đề thi chính thức môn Ngữ
văn sắp tới sẽ là dạng đề liên hệ, so sánh) . Để nhanh chóng bắt kịp với sự
thay đổi này, chưa có một tài liệu tham khảo chuyên sâu nào giáo viên chỉ biết
bám vào cấu trúc đề thi minh họa môn Ngữ văn kì thi THPT quốc gia 2017
để xây dựng ma trận đề, tìm tòi ngữ liệu, xây dựng hướng dẫn làm bài.
I.2 Mục tiêu của đề thi Ngữ văn hướng tới việc thí sinh tới kĩ năng liên
tưởng để chỉ ra được chỗ thống nhất và khác biệt giữa hai tác phẩm, hai tác
giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác
giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng
muôn màu của phong cách nhà văn hiểu và diễn đạt sự hiểu đó càng mạch lạc,
trôi chảy và đúng nội dung càng điểm cao.
I.3.Trong khi đó nghị luận văn học dạng đề liên hệ, so sánh là dạng bài “ khó
nhằn” bởi phạm vi vấn đề cần nghị luận thường không nằm trong một tác
phẩm. Hơn nữa, dạng bài này khá mới vì chưa được cụ thể hóa thành một bài
học trong sách giáo khoa. Đây là kiểu bài nghị luận văn học yêu cầu cao về
kiến thức và kỹ năng. Trong khi đó đối tượng của bài nghị luận văn học dạng
so sánh, liên hệ rất đa dạng và thời gian ôn tập của học sinh rất hạn chế...
=> Đó cũng là những lý do khiến tôi chọn đề tài “ Rèn luyện kĩ năng
làm dạng đề so sánh, liên hệ theo định hướng đề thi THPT quốc gia” để
nghiên cứu, áp dụng vào thực tế giảng dạy ở trường THPT. Hy vọng những
kinh nghiệm nhỏ này sẽ có tác dụng hữu ích với đồng nghiệp và học sinh
THPT.
II. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm “gỡ rối” và góp phần trang bị thêm kĩ năng cũng như kiến thức
làm dạng đề so sánh, liên tưởng (câu NLVH 5,0 điểm) cho giáo viên và học
sinh khi đối mặt với đề thi THPT Quốc gia năm 2018.


- Đi sâu kĩ năng làm dạng đề so sánh, liên tưởng (câu NLVH 5,0 điểm)
cho giáo viên và học sinh khi đối mặt với đề thi THPT Quốc gia năm 2018.
Đèi víi gi¸o viªn Ngữ văn, chúng tôi thiết nghĩ, không có một mục đích nào
khác là mong muốn cho học sinh có một “ cẩm nang”,“ phao cứu sinh” , là bí
kíp “hái quả ngọt” giúp học sinh đạt điểm cao trong các đợt kiểm tra, đặc biệt
kì thi THPT quốc gia 2018.
- Tăng cường được khả năng thực hành cho học sinh thông qua hệ thống
các đề thi minh họa.
III. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn đề tài :
- Học sinh lớp 12 trường THPT Lam Kinh năm học 2017 – 2018 ( lớp 12
B4, 12B6)

1


- Câu 2, phần II (Phần Làm văn) trong các đề thi minh họa THPT quốc
gia 2018.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
IV.1. Nghiên cứu lý thuyết :
- Lý thuyết đoạn văn, bài văn. Cách viết đoạn văn, bài văn NLXH.
- Trao đổi với bạn bè đồng nghiệp phụ trách dạy lớp 12 ở các trường
THPT trong khu vực ( THPT Thọ Xuân 5, THPT Lê Lợi, THPT Lê Hoàn,
THPT Thọ Xuân 4) và đồng nghiệp trong tỉnh Thanh Hóa, Ninh Bình, Hưng
Yên, Nghệ An để tìm ra các giải pháp..
IV.2. Nghiên cứu thực tiễn :
- Nghiên cứu các đề thi minh họa THPT quốc gia 2018 của Bộ GD &
ĐT cùng các đề thi của các đồng nghiệp.
- Chọn 1 đề tổ chức thảo luận trong tổ, thống nhất các ý kiến
- Tổ chức cho hs làm đề trong các buổi ôn luyện, chấm và rút kinh
nghiệm.

V. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CẦN BẢO VỆ
* Lý do chọn đề tài
* Giải quyết vấn đề.
* Kết quả thực nghiệm .
* Kết luận .
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CŨNG NHƯ Ý NGHĨA LÝ LUẬNVÀ
THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ( NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SKKN)
V.1. Đối với giáo viên:
- Đề tài sẽ cung cấp một “ cẩm nang” giúp người giáo viên trực tiếp
giảng dạy ( đặc biệt đang dạy lớp 12) tìm ra một hướng đi đúng đắn nhằm
nâng cao chất lượng dạy học, ôn luyện trong nhà trường.
V.2. Đối với học sinh:
- Giúp học sinh có kĩ năng, phương pháp làm bài làm dạng đề so sánh,
liên tưởng (câu NLVH 5,0 điểm) cho giáo viên và học sinh khi đối mặt với đề
thi THPT Quốc gia năm 2018 đạt kết quả cao.
- Viết được bài văn dạng đề so sánh, liên tưởng (câu NLVH 5,0 điểm)
đúng theo hình thức và nội dung của bài văn NLVH.
- Trang bị thêm những tri thức cuộc sống trong các vấn đề cuộc sống
(thái độ, hành động đúng đắn trước các vấn đề xã hội) - đó là hành trang tốt
để các em mang theo, không phải chỉ là trong câu chuyện thi cử mà trong cả
cuộc sống sau này.

2


B. NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:

- Với lối mòn ăn sâu trong tâm thức của người dạy và người học bài văn
nghị luận văn học đã được định hình theo từng tác phẩm riêng biệt và cách

giải quyết phụ thuộc vào các sách tham khảo bài văn mẫu.
- Lối mòn trong tư duy khiến cả người dạy và người học khó định hình
để tổng hợp kiến thức trong hai tác phẩm văn học ở chương trình Ngữ văn 11
và 12.
- Những tồn tại đối với học sinh khi làm bài văn nghị luận dạng đề so
sánh, liên hệ theo định hướng đề thi THPT quốc gia 2018.
+ Nếu để ý đề thi từ năm 2014 trở về trước, kiểu bài nghị luận so sánh
văn học thường xuất hiện trong đề thi khối C, vấn đề cần nghị luận thường
nằm ở 2 tác phẩm văn học. Đây là kiểu bài nghị luận văn học yêu cầu cao về
kiến thức và kỹ năng
+ Học sinh không hiểu được khái niện so sánh: Từ trước đến nay, khái
niệm “so sánh” trong văn học thường được học sinh hiểu nhiều cách. Có bạn
hiểu so sánh văn học như là biện pháp tu từ từ vựng trong tiếng Việt. Cũng có
bạn hiểu so sánh như một thao tác lập luận trong số thao tác cần thiết của một
bài làm văn. Còn trong bài viết này, chúng ta bàn về khái niệm so sánh dưới
góc độ một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết bài nghị luận, tức
là như một kiểu bài nghị luận.
+ Học sinh không nắm được mục đích của kiểu bài này trước hết và
quan trọng là để chỉ ra được chỗ giống và khác nhau giữa các đối tượng so
sánh, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng
khuynh hướng văn học, giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm; thấy được vẻ
đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn,
góp phần hình thành kỹ năng lý giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các
hiện tượng văn học.Trong khi đó đối tượng của bài nghị luận văn học dạng so
sánh, liên hệ rất đa dạng. Đó có thể là một khuynh hướng văn học, một giai
đoạn văn học hay các tác phẩm cụ thể. Đề có thể yêu cầu so sánh 2-3 tác
phẩm với nhau hoặc những yếu tố khác nhau trong cùng một tác phẩm. Bình
diện các vấn đề so sánh cũng rất rộng, bao gồm: đề tài, nhân vật, tình huống,
cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật trần thuật, phong
cách nghệ thuật…

- Nghị luận văn học so sánh, liên hệ là dạng bài “khó nhằn” bởi phạm vi
vấn đề cần nghị luận thường không nằm trong một tác phẩm. Hơn nữa,
dạng bài này khá mới và chưa được cụ thể hóa thành bài học trong sách
giáo khoa.
nên chưa có tài liệu tham khảo hay hướng dẫn cho người dạy và cả người đọc
để hình thành nên kĩ năng chinh phục.
=> Sự lúng túng cho cả người dạy và người học.
II. GIẢI PHÁP :

3


II.1. Phân chia thời gian làm bài hợp lý (Kinh nghiệm làm bài văn nghị
luận văn học dạng so sánh, liên hệ trong 65 phút).
* Phân chia thời gian hợp lý
Theo như đề thi minh họa 2017 thì môn Ngữ văn được rút xuống còn
120 p. Vậy làm thế nào để có một bài văn nghị luận hoàn chỉnh và đạt điểm
tuyệt đối mà có ngần đó thời gian => Thí sinh phải phân chia thời gian hợp

Theo như phương án mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở lấy đề
thi minh họa làm chuẩn và định hướng học và ôn tập cho học sinh cả nước, thì
phần đề thi và cấu trúc đề thi năm nay có phần thay đổi về cả nội dung lẫn
hình thức. Trong đó là việc giảm đáng kế 65 phút thời gian làm bài thi của thí
sinh. Từ 180 phút xuống 120 phút. Với lượng thời gian như thế này các thí
sinh phải chủ động phân bổ thời gian, đây cũng là băn khoăn của nhiều học
sinh lớp 12 là làm thế nào để đạt kết quả cao trong khung thời gian này.Theo
như kinh nghiệm của bản thân, để làm bài hiệu quả nên phân bổ thời gian
theo khung như sau để phù hợp:
- Phần đọc hiểu thời gian tối đa khoảng 15 phút
- Phần viết văn nghị luận xã hội thời lượng dành cho phần này là 30 phút

- Phần nghị luận văn học thời gian là 65 phút
- Kiểm tra và soát lỗi toàn bài thời gian 10 phút.
Đây là mức thời gian tương đối cho thí sinh khi làm bài và có thể điều
chỉnh tuy nhiên mách nhỏ các sĩ tử sắp bước vào kỳ thi THPT quốc gia là
nên rèn luyện mình trong khung thời gian này.Theo như khung thời gian trên
thì các thí sính chỉ có 65 phút để hoàn thành cho một bài văn nghị luận văn
học dạng so sánh, liên hệ hai tác phẩm Ngữ văn lớp 11, 12, vậy ta sẽ xử lý
như thế nào?
- Thứ nhất : yêu cầu đầy đủ các yếu tố của một bài văn. Bố cục 3 phần
rõ ràng mạch lạc: (mở bài, thân bài, kết bài); hệ thống các dẫn chứng luận
điểm, nêu ra và phân tích lấy dẫn chứng đánh giá và liên hệ vấn đề.
- Thứ hai : đọc kĩ đề trong 2 phút và 3 phút lên ý tưởng cho bài viết,
dành 20 phút đến 28 phút cho bài viết đã lên sườn và 2 phút để đọc lại cho
trôi chảy.
- Thứ ba: Khi viết nên hạn chế những câu văn dài lan man vừa làm mất
thời gian mà khó diễn đạt. Dùng những câu ngắn nếu có nhiều ý mỗi câu một
ý. Nên chia bài viết thành các đoạn ngắn trên các luận điểm mỗi luận điểm là
1 đoạn.Không đưa những luận điểm chung chung mà không dẫn chứng, tránh
sa đà việc “bình tán”. Bài viết cần rõ ràng các ý, các luận điểm, cần tập trung
thời gian cho luận điểm chính (phần cảm nhận).Điều quan trọng nhất là thí
sinh phải tập luyện thói quen viết văn nghị luận trong khoảng thời gian 65
phút để rèn luyện, hơn nữa điều quyết định đạt đến mục tiêu của đề thi Ngữ
văn hướng tới việc thí sinh hiểu và diễn đạt sự hiểu đó càng mạch lạc, trôi
chảy và đúng nội dung.

4


II.2. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM DẠNG ĐỀ SO SÁNH, LIÊNTƯỞNG
THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ THI THPT QUỐC GIA NĂM 2018.

I.2.1. KĨ NĂNG LÀM DẠNG ĐỀ SO SÁNH.
1. Mục đích của kiểu bài so sánh.
Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh chỉ ra được
chỗ giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những
mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được
vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà
văn. Không dừng lại ở đó, kiểu bài này còn góp phần hình thành kĩ năng lí
giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học – một năng
lực rất cần thiết góp phần tránh đi khuynh hướng “bình tán”, khuôn sáo trong
các bài văn của học sinh hiện nay. Lẽ hiển nhiên, đối với đối tượng học sinh
trung học phổ thông, các yêu cầu về năng lực lí giải cần phải hợp lí, vừa sức.
Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần có mức độ khó vừa phải, khả năng lí giải sự
giống và khác nhau cũng cần phải tính toán hợp lí với năng lực của các em.
Chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng trong từng bài, từng cấp học sẽ là căn cứ để
kiểm định những vấn đề này.
2. Các dạng so sánh thường gặp.
Kiểu bài so sánh văn học yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên
nhiều bình diện:
- So sánh các tác phẩm
- So sánh các đoạn tác phẩm (hai đoạn thơ hoặc hai đoạn văn xuôi)
- So sánh các nhân vật văn học.
- So sánh các tình huống truyện.
- So sánh các cốt truyện.
- So sánh cái tôi trữ tình giữa các bài thơ.
- So sánh các chi tiết nghệ thuật.
- So sánh nghệ thuật trần thuật…
Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một tác
giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng
hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu,
trường phái khác nhau của một nền văn học.

3. Cách làm bài dạng đề so sánh.
Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có
3 phần: mở bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần
lại có những điểm khác biệt so với kiểu bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn
trích thơ hay nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi. Dàn ý khái quát
của kiểu bài này như sau:
MỞ BÀI:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
THÂN BÀI:
Học sinh có thể chọn một trong hai cách sau
5


Cách 1:
1. Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao
tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
2. Làm rõ đối tượng thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập
luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
3. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai
bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều
thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập
luận so sánh).
4. Lý giải sự khác biệt: thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình
diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn;
đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…( bước này vận nhiều thao tác lập
luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
Cách 2:
1. Giới thiệu vị trí, sơ lược về hai đối tượng cần so sánh.
2. So sánh nét tương đồng và nét khác biệt giữa hai hai nhiều đối tượng

theo từng tiêu chí trên cả hai bình diện nội dung, nghệ thuật. Ở mỗi tiêu chí
tiến hành phân tích ở cả hai tác phẩm để có thể thấy được điểm giống, điểm
khác.
Học sinh có thể dựa vào một số tiêu chí sau để tìm ý (tất nhiên tùy từng
đề cụ thể có thể thêm, hoặc bớt các tiêu chí)
- Tiêu chí về nội dung: đề tài, chủ đề, hình tượng trung tâm (tầm vóc,
vai trò, ý nghĩa của hình tượng), cảm hứng, thông điệp của tác giả….
- Tiêu chí về hình thức nghệ thuật: Thể loại, hệ thống hình ảnh, ngôn
từ, nhịp điệu, giọng điệu, biện pháp nghệ thuật…
3. Sau khi chỉ ra điểm giống, điểm khác cần lí giải vì sao có điểm
giống, điểm khác này.
Với cách làm này các tiêu chí so sánh được thể hiện một cách rõ ràng
và phân tích kĩ hơn tuy nhiên đòi hỏi học sinh phải có khả năng tổng hợp và
tư duy rất cao để tìm ra các tiêu chí so sánh ( nếu không sẽ bị mất ý) nên cách
làm này theo chúng tôi chỉ nên áp dụng với đối tượng học sinh giỏi. Trong
khuôn khổ của chuyên đề, tất cả các đề thực nghiệm đều được chúng tôi triển
khai theo cách làm thứ nhất để phù hợp với đông đảo đối tượng học sinh phổ
thông cũng như đáp án của Bộ giáo dục và đào tạo.
KẾT BÀI:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
4. Thực hành
Dạng đề so sánh văn học rất đa dạng, phong phú có thể tiến hành ở rất
nhiều cấp độ khác nhau. Trong khuôn khổ của một chuyên đề chúng tôi chỉ
đưa ra đề thực nghiệm ở một số dạng thông dụng, phổ biến nhất với đối tượng
học sinh PTTH.
4.1. So sánh hai đoạn tác phẩm văn xuôi.
6



Đề bài: So sánh hai đoạn văn sau:
“ Đã từ nãy Mỵ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những
đêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao
nhiêungười có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ, không có
lòngvới nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc
này,Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy
nước mắt ứa ra.Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
"Anh ném pao
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi...".
A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai
vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy
đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng
bao giờMỵ nói. Bây giờ Mỵ cũng không nói. Mỵ đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn
một miếng, bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.Trongđầu Mỵ đang rập rờn tiếng
sáo. Mỵ muốn đi chơi. Mỵ cũng sắp đi chơi. Mỵ quấn lại tóc. Mỵ với tay lấy
cái váy hoa vắt phía trong vách”
(Vợ chồng A Phủ- SGK Ngữ văn 12 tập 2)
“Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất
thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà
của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở
đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn
chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn
thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra
giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”
(Vợ Nhặt- SGK Ngữ văn 12 tập 2)
Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn trên
Dàn ý:
1. Giới thiệu khái quát về hai tác giả Tô Hoài, Kim Lân và hai truyện ngắn

“Vợ chồng A Phủ”, “Vợ Nhặt”, hai đoạn văn được yêu cầu cảm nhận.
2. Cảm nhận về hai đoạn văn:
a. Đoạn văn trong “Vợ chồng A Phủ”
- Tóm tắt nhanh các sự kiện xảy ra trước đoạn văn này.
- Đoạn văn thể hiện tâm lí phức tạp của nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân qua đó cho thấy sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở con người tưởng như
đã chai lì đến mức là “con rùa nuôi trong xó cửa”:
+ Mị bừng lên khát vọng sống mãnh liệt qua việc muốn đi chơi ngày tết.
+ Mị ý thức được tuổi xuân của mình.
+ Mị phản ứng dữ dội với thực tại khi cay đắng nhận ra mối quan hệ không
có tình cảm với A Sử. Mị không còn tê liệt như trước đây mà có sự lựa chọn
rõ ràng: sẵn sàng chấp nhận cái chết để chấm dứt sự tồn tại vô nghĩa.
7


+ Mị hiện thực hóa khát vọng của mình bằng một loạt các hành động nhanh,
mạnh, gấp gáp-Nghệ thuật phân tích miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến trình độ
bậc thầy của Tô Hoài. Các câu văn ngắn, ngắt nhịp nhanh góp phần thể hiện
sức sống mãnh liệt ở Mị
-Nghệ thuật phân tích miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến trình độ bậc thầy của
Tô Hoài. Các câu văn ngắn, ngắt nhịp nhanh góp phần thể hiện sức sống
mãnh liệt ở Mị
b. Đoạn văn trong bài Vợ Nhặt của Kim Lân:
- Tóm tắt nhanh các sự kiện xảy ra trước đoạn văn này.
- Đoạn văn thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tâm lí, tính cách của nhân vật
Tràng
+ Từ một người vô tâm vô tính, sau khi có vợ, có một gia đình Tràng đã có
những cảm xúc cảm động, thấm thía. Anh cảm nhận được hạnh phúc, hơi ấm
của gia đình
+ Từ một anh cu Tràng có phần trẻ con, Tràng đã thực sự trưởng thành, chin

chắn, có những suy nghĩ nghiêm túc về gia đình và có ý thức lo cho tương lai
của gia đình mình
-Nghệ thuật phân tích miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân với những cảm
xúc nhẹ nhàng nhưng tinh tế của Tràng. Những câu văn thấm đẫm chất thơ.
3, So sánh:
Điểm tương đồng:
+ Cả hai đoạn văn đều cho thấy những diễn biến, phản ứng tâm lí rất tinh tế
của hai nhân vật chính trong hai tác phẩm. Đó đều là khát vọng mãnh liệt,
cháy bỏng về hạnh phúc và tương lai.
+ Cả hai nhân vật đều có những hành động thiết thực, cụ thể để hiện thực hóa
ước mơ khát vọng của mình
+ Đều cho thấy sự vận động mạnh mẽ từ bóng tối ra ánh sáng, từ đau khổ đến
hạnh phúc của người nông dân qua đó cho thấy tinh thần nhân đạo cao cả của
hai nhà văn
+ Đều thể hiện khả năng phân tích, miêu tả tâm lí bậc thầy của hai tác giả
- Điểm khác biệt:
+ Đoạn văn miêu tả tâm lí của Mị cho thấy sự giằng xé, mâu thuẫn giữa hiện
thực và ước mơ, khát vọng; còn đoạn văn miêu tả tâm lí của Tràng lại miêu tả
quá trình vận động tất yếu từ sự chuẩn bị của hiện thực (Tràng có vợ, có một
gia đình, nhận được tình yêu thương của vợ và mẹ)
+ Mức độ vận động: ở Mị thể hiện rõ sự mãnh liệt còn ở Tràng thiên về những
cảm xúc nhẹ nhàng, xúc động
- Lí giải điểm tương đồng khác biệt:
+ Có những điểm tương đồng là do cả Tô Hoài và Kim Lân đều là hai nhà văn
rất gắn bó với người nông dân; cả hai tác phẩm đều ra đời sau cách mạng khi
nhận thức của các nhà văn đã được Đảng soi đường, chỉ lối, khi người nông
dân đã có sự đổi đời

8



+ Có điểm khác biệt là do yêu cầu bắt buộc của văn học (không cho phép sự
lặp lại) và do phong cách riêng của mỗi nhà văn
Kết bài
-Khẳng định đây đều là hai đoạn văn đặc sắc vừa thấm đẫm tinh thần nhân
đạo, vừa thể hiện khả năng phân tích tâm lí của hai nhà văn.
- Cả Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt đều là những tác phẩm xuất sắc viết về
người nông dân trong văn học Việt Nam
4.2. So sánh hai đoạn thơ
Đề bài:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
(Vội vàng-Xuân Diệu, Ngữ văn 11, tập một, NXB GD, tr.23)
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập một, NXB GD, tr.156) Trình
bày cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên.
Dàn ý:
1. Giới thiệu khái quát về hai tác giả Xuân Diệu, Xuân Quỳnh và hai bài thơ
Vội vàng, Sóng, hai đoạn thơ được yêu cầu cảm nhận.
2. Cảm nhận hai đoạn thơ:
a. Đoạn thơ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:

- Đoạn thơ thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng cuộc đời mãnh liệt.
Như một tuyên ngôn của lòng mình, nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp,
tận hưởng vì cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi ! Mùa chưa
ngả chiều hôm); ý thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc sống ở mức độ cao nhất
(chếnh choáng, đã đầy, no nê ) những gì tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng,
thời tươi ).
- Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh.. góp
phần thể hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu
đoạn thơ sôi nổi, cuồng nhiệt.
b. Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:
- Đoạn thơ thể hiện khát vọng lớn lao, cao cả trong tình yêu: ước mong
được tan hòa cái tôi nhỏ bé-con sóng cá thể, thành cái ta chung rộng lớn“trăm con sóng” giữa biển cả mênh mông;

9


Những câu thơ có tính chất tự nhủ mình gợi cách sống, tình yêu mãnh liệt, hết
mình: mong muốn được tan hòa vào tình yêu lớn lao của cuộc đời. Đó là cách
để tình yêu trở thành bất tử.
- Thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng”vừa ẩn dụ vừa giàu tính thẩm mĩ
khiến đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính.
3, So sánh:
- Điểm tương đồng:
+ Cả hai đoạn thơ đều thể hiện được tình yêu mãnh liệt, trào dâng của nhân
vật trữ tình.
+ Đều thể hiện khao khát vượt qua giới hạn nhỏ hẹp để thỏa mãn tình yêu
rộng lớn.
+Đều có sự kết hợp giữa cảm xúc và triết lí
+Đều sự dụng thể thơ tự do, với các hình ảnh sóng đôi, khai thác hiệu quả của
nghệ thuật ẩn dụ

- Điểm khác biệt:
+Tình yêu trong Sóng là tình yêu lứa đôi còn tình yêu trong Vội vàng là tình
yêu cuộc sống.
+Khát vọng trong Sóng là khát vọng bất tử hóa, vĩnh viễn hóa tình yêu còn
khát vọng trong Vội vàng là khát vọng được tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc
sống của trần gian.
+ Cảm xúc của nhân vật trữ tình trong Sóng là cảm xúc lắng sâu, tha thiết,
đằm thắm còn trong Vội vàng là đắm say, cuồng nhiệt, vồ vập.
+Điểm khác biệt không chỉ nằm ở phong cách thơ mà còn trong cách “ứng
xử” của mỗi nhà thơ: trước sự “chảy trôi” của thời gian, Xuân Diệu chọn cách
sống gấp gáp, tận hưởng, Xuân Quỳnh lại thể hiện khát vọng muốn được tan
hòa cái riêng vào cái chung để tình yêu trở thành bất tử …
+ Về nghệ thuật: ở Sóng, Xuân Quỳnh sử dụng thể thơ ngũ ngôn trường thiên
với những câu thơ nhịp nhàng, đều đặn gợi âm điệu của tiếng sóng biển, hình
ảnh giản dị giàu sức gợi; còn ở Vội vàng , Xuân Diệu sử dụng thể thơ tự do
với những câu thơ dài ngắn không đều nhau, hình ảnh tươi mới, tràn đầy sức
sống, cách ngắt nhịp nhanh mạnh, giọng thơ sôi nổi
-Lí giải điểm tương đồng khác biệt:
+ Có những điểm tương đồng là do cả Xuân Diệu và Xuân Quỳnh đều lnhững
nhà thơ “Khát sống thèm yêu”.
+ Có điểm khác biệt là do yêu cầu bắt buộc của văn học (không cho phép lặp
lại) và do phong cách riêng của mỗi nhà văn
4. Kết bài:
-Khẳng định đây đều là hai đoạn thơ đặc sắc thể hiện rõ phong cách của hai
nhà thơ
4.3. So sánh hai nhân vật văn học
Đề bài: So sánh nhân vật Quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân với Đan Thiềm trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy
Tưởng.
10



Dàn ý:
1. Giới thiệu khái quát về hai tác giả Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng và
hai tác phẩm, hai nhân vật được yêu cầu cảm nhận
2. Cảm nhận về hai nhân vật:
a.Nhân vật quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
- Là người nắm giữ quyền lực cao nhất trong nhà ngục nhưng lại có sở thích
lạ lung: Thích chơi chữ. Chính sở thích cao quý này cùng tính cách nhẹ
nhàng, biết giá người, biết trọng người ngay đã khiến cho Quản ngục vượt
qua sự chi phối của địa vị xã hội để thể hiện tấm lòng biệt nhỡn liên tài với
Huấn Cao. Hành động suốt nửa tháng đem rượu thịt cho Huấn Cao và các bạn
đồng chí của ông cho thấy Quản ngục sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm để thể
hiện tình yêu với cái đẹp, cái tài. Trong cảnh cho chữ, vẻ đẹp tâm hồn của
Quản ngục một lần nữa được thể hiện rõ khi nhân vật này được cái đẹp từ
nghệ thuật và từ thiên lương của Huấn Cao hướng thiện, thanh lọc. Câu nói
Kẻ mê muội này xin bái lĩnh cùng cái bái lạy và dòng nước mắt đã cho thấy sự
trong sang, tốt đẹp trong nhân cách của Quản Ngục.
- Quản ngục là một nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, có sự
đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh. Nguyễn Tuân đi sâu làm rõ những phức
tạp trong tâm lí của Quản ngục bằng bút pháp độc thoại nội tâm.
b. Nhân vật Đan Thiềm trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
- Đan Thiềm là một cung nữ bị thất sủng có cái nhìn tỉnh táo, thức thời nhưng
quan trọng hơn là có một tình yêu mãnh liệt dành cho cái đẹp, cái tài. Bà
chính là người đã khuyên Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài rồi đến hồi kết
cũng chính bà là người đã khuyên Vũ Như Tô đi trốn. Cả hai lời khuyên đều
xuất phát từ tình yêu dành cho cái đẹp, cái tài. Trong đoạn trích Đan Thiềm
khẩn thiết giục Vũ Như Tô đi trốn, bà tìm cách bảo vệ Vũ Như Tô như bảo vệ
chính tính mạng cho mình. Khi không thể trốn được nữa Đan Thiềm đã xin
tha sau đó xin chết thay cho Vũ Như Tô. Đó chính là tinh thần dũng cảm sẵn

sàn hi sinh vì cái đẹp, cái tài. Cuối cùng khi mọi nỗ lực đều không thành Đan
Thiềm đã từ biệt Vũ Như Tô bằng tiếng kêu xé lòng.
- Đan Thiềm thuộc kiểu nhân vật loại hình (nhân vật đặc trưng của thể
loại kịch). Tính cách, tâm lí của nhân vật chủ yếu thể hiện qua ngôn ngữ và
hành động
3. So sánh:
- Điểm tương đồng:
+ Cả hai nhân vật đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhân vật chính (người
nghệ sĩ)
+ Cả hai nhân vật đều bị đặt trong thế tương phản, đối lập với hoàn cảnh.
+ Đều có tình yêu mãnh liệt dành cho cái đẹp, cái tài, sẵn sàng hi sinh vì cái
đẹp, cái tài
- Điểm khác biệt :+ Quản Ngục phải trải qua quá trình đấu tranh nội tâm gay
gắt sau đó mới đưa ra quyết định biệt đãi Huấn Cao còn Đan Thiềm ngay từ
đầu đã có lựa chọn dứt khoát.
11


+Trong quan hệ với nhân vật chính Quản ngục là người được tác động để
được thanh lọc còn Đan Thiềm lại là người trực tiếp tác động vào Vũ Như Tô
để nghệ thuật được khai sinh
+ Về nghệ thuật: Ở Quản Ngục có tâm trạng phức tạp gắn với bút pháp độc
thoại nội tâm còn ở Đan Thiềm tâm trạng được thể hiện qua ngôn ngữ, hành
động bên ngoài
-Lí giải điểm tương đồng khác biệt:
+ Có những điểm tương đồng là do cả hai nhà văn đều là những người nặng
lòng với cái đẹp. Cả hai tác phẩm đều ra đời trước cách mạng gắn với hiện
thực đen tối, ngột ngạt mâu thuẫn gay gắt với cái đẹp, ước mơ, khát vọng của
con
người.

+ Có điểm khác biệt là do yêu cầu bắt buộc của văn học (không cho phép sự
lặp lại) và do phong cách riêng của mỗi nhà văn
4. Kết bài:
-Khẳng định đây đều là hai nhân vật độc đáo thể hiện rõ thông điệp nghệ thuật
của hai nhà văn.
4.4. So sánh hai chi tiết nghệ thuật
Đề bài:So sánh ánh sáng và bóng tối giữa Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù.
Dàn ý: Trình bày cảm nhận của anh/ chị về hai chi tiết nghệ thuật:
1. Giới thiệu khái quát về hai tác giả Thạch Lam, Nguyễn Tuân và hai bài
truyện ngắn Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù; hai chi tiết được yêu cầu cảm nhận.
2. Cảm nhận về hai chi tiết nghệ thuật
a. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ.
- Dạng thức của ánh sáng, bóng tối
+ Ánh sáng: vừa mang ý nghĩa vật lý (những nguồn sáng xuất hiện trong tác
phẩm như: Phương tây đỏ rực, ngọn đèn chị Tý, bếp lửa của bác Siêu, chuyến
tàu...) vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho ước mơ, khát vọng
+ Bóng tối: vừa mang ý nghĩa vật lý (dãy tre làng đen lại, bóng tối mù mịt dày
đặc trong đêm…)
- Tương quan ánh sáng, bóng tối: tồn tại trong thế giao tranh từ đầu đến cuối
tác phẩm trong đó bóng tối càng lúc càng chiếm ưu thế để rồi thắng thế còn
ánh sáng thì nhỏ bé, tội nghiệp. Về ý nghĩa thực nó cho thấy bức tranh phố
huyện nghèo nàn, tăm tối. Về ý nghĩa biểu tượng nó cho thấy những con
người nhỏ bé như chị em Liên mang trong mình ước mơ, khát vọng mãnh liệt
vào một tương lai tươi sáng nhưng ước mơ đã mâu thuẫn gay gắt và có nguy
cơ bị bóp nghẹt bởi hiện thực tăm tối.
b. Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
- Dạng thức của ánh sáng, bóng tối:
+ Ánh sáng: vừa có dạng thức vật lý ( ngọn đèn của Quản ngục, ánh sáng của
vì sao Hôm , ngọn đuốc tẩm dầu..) vừa mang tính biểu tượng cho vẻ đẹp của
nghệ thuật cao quý và thiên lương trong sáng tốt đẹp của con người.

+Bóng tối: Vừa có dạng thức vật lý (Bóng tối bao trùm trong đêm quản ngục
ngồi suy nghĩ cùng cái chật hẹp, tối tăm, bẩn thỉu của buồng giam..) vừa
12


mang tính biểu tượng cho hiện thực đen tối, ngột ngạt, bạo tàn của nhà ngục
nói riêng và xã hội nói chung
-Tương quan ánh sáng, bóng tối và ý nghĩa: Có sự giao tranh gay gắt
nhưng ánh sáng đã nổi bật trên nền cái tăm tối, bẩn thỉu ( như ánh sáng của bó
đuốc và màu trắng của tấm lụa nổi bật trên nền của nhà giam bẩn thỉu, chật
chội; như vẻ đẹp trong thiên lương của Huấn Cao và Quản ngục đã nổi bật
trên nền hiện thực khắc nghiệt)
3. So sánh:
- Điểm tương đồng:
+ Cả ánh sáng và bóng tối trong hai tác phẩm đều xuất hiện với một tần số lớn
+ Ánh sáng đều biểu tượng cho những điều tốt đẹp còn bóng tối biểu tượng
cho hiện thực đen tối, nghiệt ngã.
+ Ánh sáng và bóng tối ở cả hai tác phẩm đều tồn tại trong thế giao tranh với
nhau một cách gay gắt
+ Đều được xây dựng bằng bút pháp tương phản đối lập đặc trưng của chủ
nghĩa lãng mạn.
- Điểm khác biệt:
+ Trong Hai đứa trẻ, ánh sáng nhỏ bé, yếu ớt còn bóng tối bao trùm, chiếm
ưu thế còn trong Chữ người tử tù ánh sáng lại nổi bật rực rỡ trên nền bóng
tối.
+ Thông điệp mà Thạch Lam muốn gửi gắm là hãy thay đổi hiện thực để con
người có thể sống trọn vẹn với ước mơ hi vọng của mình còn của Nguyễn
Tuân lại là cái đẹp có một sức mạnh kì diệu, nó có thể nối liền mọi khoảng
cách, có thể thanh lọc tâm hồn cho con người
+ Về Nghệ thuật: Thạch Lam miêu tả ánh sáng, bóng tối bằng thứ ngôn ngữ

giàu chất thơ, giàu nhạc điệu hình ảnh còn Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ
góc cạnh, giàu tính tạo hình
- Lí giải điểm tương đồng khác biệt:
+ Có những điểm tương đồng là do cả Nguyễn Tuân và Thạch Lam đều là
những nhà văn lãng mạn, cùng sống trong hiện thực tăm tối trước 1945
+ Có điểm khác biệt là do yêu cầu bắt buộc của văn học (không cho phép sự
lặp lại) và do phong cách riêng của mỗi nhà văn
4. Kết bài:
-Khẳng định đây đều là hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc thể hiện rõ phong cách
của hai nhà văn
II.2.2. KĨ NĂNG LÀM DẠNG ĐỀ LIÊN TƯỞNG.
1. Mục đích của kiểu bài liên tưởng.
Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh liên tưởng để
chỉ ra được chỗ thống nhất và khác biệt giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó
thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác
phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của
phong cách nhà văn.
2. Các dạng liên tưởng thường gặp.
13


Kiểu bài liên tưởng văn học yêu cầu thực hiện cách thức liên tưởng trên
nhiều bình diện:
- Liên tưởng các tác phẩm
- Liên tưởng các đoạn tác phẩm (hai đoạn thơ hoặc hai đoạn văn xuôi)
- Liên tưởng các nhân vật văn học.
- Liên tưởng các tình huống truyện.
- Liên tưởng các chi tiết nghệ thuật.
- Liên tưởng cách khai thác đề tài hoặc điểm nhìn của nhà văn…
Quá trình liên tưởng có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một tác giả,

nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không
cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác
nhau của một nền văn học.
3. Cách làm bài dạng đề liên tưởng.
Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn liên tưởng cũng có 3
phần: mở bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần
lại có những điểm khác biệt so với kiểu bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn
trích thơ hay nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi. Dàn ý khái quát
của kiểu bài này như sau:
MỞ BÀI:
- Dẫn dắt ( Mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng, tác phẩm
THÂN BÀI:
1. Phân tích ( Cảm nhận) làm rõ đối tượng chính: đoạn thơ, đoạn văn, tác
phẩm, nhân vật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng
chủ yếu là thao tác lập luận phân tích) để làm nổi bật đối tượng trên phương
diện nội dung và nghệ thuật.
2. Liên tưởng: Giới thiệu và phân tích khái quát đối tưởng liên tưởng.
3. Nhận xét:
Sự thống nhất và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội
dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập
luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so
sánh).
4. Lý giải sự thống nhất và khác biệt: thực hiện thao tác này cần dựa vào
các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách
nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…( bước này vận nhiều thao
tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
KẾT BÀI:
- Khái quát về đối tượng phân tích
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.

=>Dạng đề thi liên hệ Văn 12 Và văn 11
Dạng này là một dạng khác của so sánh. Thực chất dạng này cũng là so sánh
nhưng chỉ ở mức “vừa”, nghĩa là chỉ cần chỉ ra vài nét tương đồng, khác biệt
là được (Tuy nhiên với học sinh khá giỏi thì có thể làm lồng vào nhau như so
14


sánh đã nói ở trên). Cấu trúc sau đây là cấu trúc đơn giản, mọi học sinh đều
có thể áp dụng. Cách sau sẽ rất an toàn:
I. Mở bài: Nêu vấn đề
II. Thân bài
1. Khái quát tác giả tác phẩm A và B (hoặc chỉ khái quát tác giả, tác phẩm
chính A, còn B thì có thể đến phần liên hệ thì đưa vào)
2. Nội dung
2.1. Làm rõ đối tượng A (chính – nên sẽ dành 80% kiến thức)
• Nội dung
• Nghệ thuật
2.2. Liên hệ (20%)
• Điểm tương đồng (chủ yêu nói về Nội dung; nếu có tương đồng
nghệ thuật thì nói vào không thì chỉ nói nội dung)
Điểm riêng (chủ yếu nói về B)
* LƯU Ý: Đối với dạng đề liên tưởng, người viết cần phải xác định được
lượng kiến thức của từng đối tượng sẽ đưa vào bài viết. Với dạng đề này
thì kiến thức phân tích đối tượng chính phải chiếm 70%, 20% là đối
tượng liên hệ, còn 10% kiến thức là nhận xét điểm thống nhất và khác
biệt (tùy vào yêu cầu của từng đề thi)
4. Thực hành
Đề 1: Không thể sống bằng mọi giá đâu con ơi. Sống đảo điên, hèn hạ,
không được là chính mình còn tệ hơn cái chết! (Lời Trương Ba nói với con
trai). Hãy làm rõ triết lý sống ấy qua lớp đối thoại giữa Hồn và Xác của

Trương Ba trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu
Quang Vũ. Từ đó, liên hệ với cái chết của nhân vật Chí Phèo ( Nam Cao ) để
bình luận quan niệm sống của các tác giả.
Dàn ý:
1.Mở bài:
– Giới thiệu tác giả và vở kịch.
– Nêu vấn đề cần nghị luận
2.Thân bài:
a.Khái quát về tác phẩm:
- Vở kịch Hồn Trương ba, da hàng thịt: Viết năm 1981 nhưng đến năm
1984 mới được công chiếu. Đó là thời điểm đất nước có nhiều chuyển biến,
sự đổi mới của thực tiễn đòi hỏi văn học nghệ thuật phải lột xác, thay đổi cách
tiếp cận đời sống, con người và cách thể hiện trong tác phẩm. từ một câu
chuyện cổ dân gian, nhà văn Lưu Quang Vũ đã sáng tạo thành vở kịch nói
hiện đại và qua đó gửi gắm nhiều tư tưởng, triết lí nhân sinh sâu sắc.
- Nhân vật Trương Ba: người làm vườn giỏi, sống nhân hậu, trong sáng.
Đế Thích,vị tiên trên trời giỏi đánh cờ, sửa sai cho quan thiên đình bằng cách
cho hồn Trương Ba sống lại trong thân xác hàng thịt.
b. Giải thích:

15


- Bi kịch chính là trạng thái xung đột không điều hoà được giữa khả năng và
ước muốn, giữa cái cao cả và cái thấp hèn, giữa cái thiện và cái ác... Khi lên
đến đỉnh điểm của xung đột, cái chết chính là con đường để giải thoát bi kịch.
- Bi kịch của Trương Ba chính là bi kịch của một tâm hồn thanh cao nhưng
phải ẩn náu trong xác thịt tầm thường. Bi kịch đó tạo nên tình trạng đau khổ,
dằn vặt, bế tắc của Hồn. Đối thoại của Trương Ba với các nhân vật khác trong
đoạn trích cho chúng ta thấy xung đột tăng dần, để rồi cuối cùng, không thể

nào khác là Trương Ba phải chết.
c. Phân tích, chứng minh: Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác:
- Đó là một cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt. Xác đắc thắng cười cợt sự
tha hoá của Hồn. Hồn ra sức bảo vệ sự trong sáng của bản thân một cách yếu
ớt. Mức độ của cuộc tranh luận cứ yếu ớt dần theo sự phản ứng của Hồn (lúc
đầu là những lời nói khảng khái để khẳng định mình, lên án Xác chỉ là xác
thịt âm u đui mù, chỉ là cái vỏ bên ngoài không có ý nghĩa gì hết; sau đó là sự
áp đảo của xác, những lời thoại của Hồn cứ ngắn dần, bất lực dần và rơi vào
trạng thái tuyệt vọng).
- Bằng những chứng cứ của mình, Xác đã làm cho Hồn thấy rằng sự tồn tại
phàm tục của nó cũng có cái thú vị: nó đưa đến cảm giác khát thèm xác thịt
(Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thỏ nóng rực...), đưa đến cảm
giác khát thèm miếng ăn, vật chất (cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và đủ
các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc nào sao?), đắc
thắng trước bạo lực (ông có nhớ hôm ông tát thằng con ông toé máu mồm
máu mũi không? Cơn giận của ông có thêm sức mạnh của tôi...). Xác trong
thế thắng đã chỉ thẳng những thói hư tật xấu trong sự tồn tại của Trương Ba
mà ông ta không muốn nhận ra: Sao ông có thể khinh thường tôi thế nhỉ?...
Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông cứ vin vào cớ tâm hồn là quý,
khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ
sở, nhếch nhác. Hoặc: Làm xong điều gì xấu, ông cứ việc đổ lỗi cho tôi, để
ông được thanh thản... Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện... Những lý lẽ của xác anh
hàng thịt khiến cho Hồn Trương Ba gần như không nói được gì bởi cả Hồn và
Xác đều hiểu rằng chúng ta tuy hai mà một.
- Cuộc nói chuyện đào sâu đến tận cùng nỗi giằng xé trong Trương Ba khiến
Hồn gần như tuyệt vọng. Cuộc nói chuyên ấy giúp chúng ta nhận ra rằng
Trương Ba rất ý thức về sự tồn tại có ý nghĩa của tâm hồn cao thượng, trong
sạch; anh ta nhận ra rằng tâm hồn ấy đang bị thể xác phàm tục làm cho tha
hoá, biến chất, làm cho mình không được sống như chính mình. Sự tồn tại
một cách vênh váo giữa thể xác và tâm hồn khiến Trương Ba đau khổ, bất lực

và tuyệt vọng.
-Nhận xét về nghệ thuật thể hiện bi kịch Hồn Trương Ba:
+ Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện sự
phát triển của tình huống kịch;
+ Những đoạn đối thoại nội tâm của Hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ
tính cách nhân vật và quan niệm về lẻ sống đúng đắn.
16


+Đặc biệt, đoạn trích rất thành công trong việc xây dựng đối thoại. Những
đối thoại giàu kịch tính, đậm chất triết lí góp phần tạo nên chiều sâu cho vở
kịch.
d. Liên hệ với cái chết của nhân vật Chí Phèo ( Nam Cao ) để bình luận
quan niệm sống của các tác giả.
-Về cái chết của Chí Phèo:
+Khi bị thị Nở từ chối và không níu giữ được thị, Chí rơi vào trạng thái
tuyệt vọng. Chí thấm thía sâu sắc bi kịch tinh thần của người sinh ra là người
nhưng lại không được làm người. Chí vật vã, đau đớn. Chí tìm đến rượu
nhưng càng uống càng tỉnh.
+Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí càng thấm thía hơn tội ác của
kẻ đã cướp đi của mình cả bộ mặt lẫn linh hồn con người. Chí xách dao ra đi
và đâm chết bá Kiến, đồng thời kết liễu cuộc đời mình. Ban đầu ai cũng nghĩ
Chí cầm dao đi đến nhà thị Nở, nhưng bước chân đã đưa Chí đến nhà bá Kiến.
Việc giết bá Kiến và tự sát không phải là hành động mù quáng do hơi men
mang đến. Thực sự Chí đã thức tỉnh. Khi thức tỉnh, Chí biết mình không thể
đập phá, chém giết như trước. Chí muốn lương thiện nhưng ai cho Chí lương
thiện? Kẻ thù của Chí đâu phải chỉ là một mình bá Kiến hay bà cô thị Nở, mà
là cả xã hội thối nát, tàn bạo đương thời. Đồng thời, chỉ có cái chết mới giúp
Chí thoát khỏi kiếp sống của một con người - quỷ dữ. Trước đây, đê tồn tại,
Chí phải bán bộ mặt người và linh hồn cho quỷ dữ; đến nay, khi linh hồn đã

trở về, Chí lại phải đánh đổi cả sự sống của mình. Với Chí, niềm khát khao
được sống lương thiện còn cao hơn cả mạng sống.
+Khi Chí cất tiếng dõng dạc: "Tao muốn làm người lương thiện", trước
tiếng cười của bá Kiến, Chí đã nói to lên một sự thật mà ngay cả bá Kiến - cái
đầu lọc lõi nhất của làng Vũ Đại cũng không hiểu nổi. Bá Kiến không hiểu
được những điều Chí đặt ra trong hàng loạt câu hỏi: "Ai cho tao lương thiện?
Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thê
là người lương thiện nữa. Biết không!...". Hoá ra bộ óc cáo già của kẻ thống
trị như bá Kiến đã không hiểu được những điều mà một nô lệ thức tỉnh như
Chí đã hiểu, đã thấm thìa đến tuyệt vọng.
+Diễn biến tâm lí, những hành động, ngôn ngữ và những câu hỏi chất
vấn của Chí trước khi trả thù thể hiện rõ Chí Phèo từ một gã "mất trí, công cụ
nguy hiểm trong tay bọn thống trị" đã trở thành "một đầu óc sáng sủa nhất của
làng Vũ Đại". Nói cách khác, đó là kết quả quá trình chuyển biến tâm lí của
Chí Phèo dưới sự tác động của hoàn cảnh sống và việc nuôi dưỡng sức sống
tiềm tàng cũng như ý thức vể giá trị của đời sống của bản thân.
- Bình luận ngắn về quan niệm sống của 2 tác giả qua hai nhân vật:
+ Qua câu nói của nhân vật Chí Phèo trước khi chết: “Tao muốn làm
người lương thiện”, nhà văn Nam Cao đưa ra quan niệm sống đúng đắn. Đó là
làm người phải sống trong sạch, phải có khát vọng hoàn lương nếu đã lỡ sa
vào vũng bùn tội lỗi;

17


+ Qua li Trng Ba núi vi con trai, tỏc gi Lu Quang V khng
nh v quan nim sng: Con ngi phi luụn luụn u tranh vi bn thõn,
iu chnh, lm ch nhng nhu cu, ham mun cú c s thng nht hi
hũa gia linh hn v th xỏc hng ti s hon thin nhõn cỏch. ú l sng
thnh tht, sng trong sch, l sng vỡ mi ngi, khụng th sng gi di,

sng bng mi giỏ, sng trờn s au kh ca ngi khỏc...
+ Quan nim sng ca cỏc tỏc gi u m cht nhõn vn, k tha o lớ
truyn thng dõn tc: cht trong hn sng c
c.Kt bi:
Kt lun v vn ó ngh lun. Cm ngh ca bn thõn v bi kch ca
Trng Ba v ca Chớ Phốo. Bi hc v l sng ca bn thõn.
III.Kết quả thực nghiệm (Hiu qu ca sỏng kin kinh nghim
i vi hot ng giỏo dc, vi bn thõn, ng nghip v nh trng)
III.1. Kết quả giờ dạy:
Qua giờ dạy, học sinh tích cực suy nghĩ chủ động
tham gia các hoạt động học tập để khám phá lĩnh hội kiến
thức. Đặc biệt các em đã mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý
kiến của mình. Bớc đầu kết quả cho thấy, trớc một đề làm
văn, phần đông số học sinh có thói quen đọc đề một vài
lần mới viết bài, chú ý tìm hiểu đề, tìm ý trớc khi viết bài.
Đặc biệt đối với dạng đề mở, các em đã xác định đợc thao
tác, phơng thức lập luận và nội dung của bài văn .
*Cụ thể ở lớp 12 AB4 ( Ban c bn) ; Tổng số 42 hs ;
+ 41 /42 học sinh chiếm 97,6% đã có thói quen đọc
kĩ đề từ 2- 5 lần trớc khi viết bài văn, khụng nhm lón gi vit
on vn v bi vn.
+35/42 học sinh, chiếm 83, % biết vn dng cỏc bc v
phõn chia khung thi gian vit on vn hp lý.
* C th lp 12 B6 ( Ban c bn D) : có 47 hc sinh :
+ 47/ 4745 , chiếm 100% đã có thói quen đọc kĩ đề từ
2- 5 lần trớc khi viết bài văn, khụng cú s nhm ln gia vit on vn
v bi vn.
+37/47 hs, chiếm 78,7% biết vn dng cỏc bc v phõn
chia khung thi gian vit on vn hp lý.
III.2. Kết quả kiểm tra:

Trong quá trình thc hin ti ny tôi ó có ít nht 4
ln cho hc sinh lm bi kim tra trong mt hc k ; Trong nm
hc 2016 2017, nh trng ó t chc 3 t thi kho sỏt cht lng ụn tp
cho hc sinh lp 12 ,kt qu ca các ln kim tra u nâng lên v
mt cht lng .
Ln 1 : Ngy thi : 15/ 1/ 2016
Cõu 2 (5.0 im)

Thng nhau, chia c sn lựi
18


..............................................
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
(Trích Việt Bắc, Tố Hữu)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, liên hệ với bài thơ Từ
ấy (Tố Hữu) để bình luận về nhận định sau: Hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới
cái ta chung...(Ngữ văn 12, Tập một, tr.97, NXB Giáo dục – 2009)
Lần 2: / Ngày thi : 25/ 3/ 2018
Câu 2 (5.0 điểm): Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô
lúa đã xếp yên các nhà kho.Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đốt những lều
quanh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài, người ta thành lệ, cứ ăn tết thì gặt
hái vừa đoạn, không kể ngày tháng tết thế cho kịp mưa xuân xuống, đi vỡ
nương mới.
.......................................................................
"Mày có con trai con gái
"Anh ném pao
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi...".

( Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài)
Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của đoạn trích trên. Từ đó, liên hệ với
sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở để bình luận ý kiến của nhà văn
Tô Hoài: “Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý giá”
(Tác giả nói về tác phẩm, Hỏi chuyện các tác giả có tác phẩm giảng dạy
trong nhà trường, Nguyễn Quang Thiều chủ biên, Nxb Trẻ, 2000).
Lần 3: Ngày thi : 15/ 5/ 2018
Câu 2 (5.0 điểm): Không thể sống bằng mọi giá đâu con ơi. Sống đảo
điên, hèn hạ, không được là chính mình còn tệ hơn cái chết! (Lời Trương Ba
nói với con trai). Hãy làm rõ triết lý sống ấy qua lớp đối thoại giữa Hồn và
Xác của Trương Ba trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của
Lưu Quang Vũ. Từ đó, liên hệ với cái chết của nhân vật Chí Phèo ( Nam
Cao ) để bình luận quan niệm sống của các tác giả.
C

Lần
kiểm tra

Sè bµi §iÓm
0- §iÓm 0,75 §iÓm 1,25 §iÓm
0,5
-> 1,0
– 1,5
1,75
SL
TL
SL
TL
SL
TL

SL LT

Lần 1

355

252

71%

52

14,
7%

45

12,6
%

6

1,7
%

Lần 2

355

170


47,9
%

120

33,
8%

55

15,5
%

10

2,8
%

19


Ln 3


355

108

30,4

%

160

45% 68

19,3

19

5,3
%

Rõ ràng, việc áp dụng thực nghiệm đề tài đã tạo
ra kết quả học tập cao hơn cho học sinh

C. Kết thúc vấn đề:
Lm vn l mt cụng vic khú nhc, khụng ch ũi hi ngi vit s
am hiu ch ngha, nng lc t duy, vn hiu bit m cũn th thỏch trỡnh
to lp vn bn v c nhõn cỏch, cỏ tớnh ca ngi cm bỳt. Rốn luyn k nng
lm dng so sỏnh, liờn tng theo nh hng thi mi l nhng thao tỏc,
k nng quan trng lm nờn trỡnh to lp vn bn ca ngi lm vn. Vit
bi vn so sỏnh, liờn tng không phi l công việc mi, song vic
luyện tập cho học sinh hon thnh k nng vit nh th no cho
có hiu qu thì không phi giáo viên no cng chú ý lm.
Trong thc t rt nhiu giáo viên ch coi trng vit cung cp kin thc
ca tỏc phm m cha chỳ trng vic việc luyện tập k nng cho học
sinh cha khai thác ht vai trò ca thao tác này ny. Mun có
c iu ó, ph thuc rt nhiu vo tâm huyt ca ngi giáo
viên .

Hiểu biết tri thức, rèn luyện nhân cách cho học sinh, đó
cũng là mục đích cao đẹp của mỗi giờ dạy học văn nói
chung trong nhà trờng phổ thông. Đó cũng là mong muốn bất
cứ ngời thầy, ngời cô dạy Văn nào. Và đó cũng là mục tiêu
cao đẹp của giáo dục: Đánh thức năng lực nhạy cảm, phán
đoán đúng nhất; phát triển nhân cách... và để làm đợc
điều này hãy tìm ra một phơng pháp cho phép giáo viên
dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn (Akômexki). Với suy
nghĩ đó, tôi đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu đổi mới phơng
pháp, nhằm nâng cao hiệu quả của các giờ dạy của bộ môn
Ngữ văn tạo hứng thú cho học sinh trong học tập. Khiến các
em thấy thêm yêu thích những giờ học Văn, không còn thấy tẻ
nhạt, chán ngắt và lê thê. Những cách làm ấy tuy nhỏ, nhng
nó đã phần nào trả lại vị trí xứng đáng của môn Ngữ văn
trong lòng học sinh ở trờng phổ thông hiện nay. Những
trình bày của bản thân tôi còn nhằm giúp cho giáo viên và
20


học sinh bổ sung kiến thức về tạo lập văn bản, nâng cao
chất lợng làm văn trong sách giáo khoa Ngữ văn mới.
=> Trên đây là những kinh nghiệm bản thân tôi đã rút
ra từ thực tế giảng dạy. Có thể cách làm của tôi trong việc
giảng dạy còn nhiều điểm hạn chế, cha phù hợp với một số
nơi, một số đối tợng. Nhng với mong muốn góp phần nhỏ vào
công cuộc đổi mới phơng pháp giảng dạy môn Ngữ văn, tôi
đã mạnh dạn tiến hành thực nghiệm và trao đổi. Rất mong
đợc sự đóng góp của các đồng nghiệp có kinh nghiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xỏc nhn ca BGH trng


Thanh Húa ngy 22 05 2018
Tụi xin cam oan õy l SKKN ca
mỡnh vit, khụng sao chộp ni dung
ca ngi khỏc.
H Th Hng

Tài liệu tham khảo :
1. Cỏc ti liu hng dn ca B, ca S
2. Ló Nhõm Thỡn, Nguyn Th Nng, ễn luyn thi Trung hc ph thụng
Quc gia nm 2017 mụn Ng vn, Nxb i hc S phm.
3. Ngc Thng (Ch biờn), Luyn thi Trung hc ph thụng Quc gia
nm 2017 mụn Ng vn, Nxb Giỏo dc vit Nam.
4. Nguyn Thu Hnh, Nguyn Th Hoi An (ng ch biờn), luyn
thi Trung hc ph thụng Quc gia nm 2017 mụn Ng vn, Nxb i hc
Quc gia H Ni.
5. Cỏc trang mng xó hi.

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả:
Hà Thị Hương
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THPT Lam Kinh


TT
1
2
3
4

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
Sở GD &ĐT
B

Con người cô đơn trong thơ Tú
Xương
Rèn luyện kĩ năng đặt câu hỏi Sở GD &ĐT
trong giờ văn
Rèn luyện kĩ năng khai thác Sở GD &ĐT
nhịp điệu trong dạy thơ
Rèn luyện kĩ năng sử dụng lời Sở GD &ĐT
kể, ngôi kể trong dạy văn tự sự

Năm học

đánh giá xếp
loại
2003 - 2004

C

2005 - 2006

B

2005 - 2006

C

2007 - 2008

22


5
6
7

8
9

10

11
12

13

Khai thác tác phẩm dưới góc độ
tình huống truyện
Kỹ năng tìm hiểu đề, tìm ý cho
bài văn
Một số phương diện nghệ thuật
cần khai thác khi dạy tác phẩm
“ Những đứa con trong gia
đình” cuả Nguyễn Thi
Xây dựng hệ thống câu hỏi cho
bài soạn Ngữ văn 12
Giáo dục quan niệm sống
cho học sinh qua giờ đọc hiểu
văn bản: Người trong bao của
Sê khốp
Hướng dẫn học sinh tiếp nhận
truyện ngắn “ Một người Hà
Nội” theo hướng tiếp cận nghệ
thuật về con người của Nguyễn
Khải
Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôi
kể, lời kể trong dạy văn tự sự
Nâng cao chất lượng sinh hoạt
tổ chuyên môn qua chuyên đề
dạy học trên trường học kết nối
Rèn luyện kĩ năng viết đoạn
văn nghị luận xã hội theo định
hướng đề thi THPT quốc gia


Sở GD &ĐT

C

2008 - 2009

Sở GD &ĐT

C

2009 – 2010

Sở GD &ĐT

B

2010 – 2011

Sở GD &ĐT

C

2011 – 2012

Sở GD &ĐT

C

2012 – 2013


Sở GD &ĐT

C

2013 – 2014

Sở GD &ĐT

C

2014 - 2015

Sở GD &ĐT

C

2015 - 2016

Sở GD &ĐT

B

2016 - 2017

23


24




×