Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn toán cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học đông hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.43 KB, 19 trang )

MỤC LỤC:
ĐỀ MỤC

Trang

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

2

1. Lí do chọn đề tài.

2

2. Mục đích nghiên cứu.

2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.

2
3

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

3

1. Cơ sở lí luận.

3


2. Thực trạng của việc dạy Toán lớp 3 ở trường tiểu học Đông Hòa.

4

3. Các giải pháp thực hiện chủ yếu.

5

Giải pháp 1: Luyện cho Học sinh thuộc bảng nhân, chia.

6

Giải pháp 2: Hướng dẫn đọc, viết, so sánh các số tự nhiên.

7

Giải pháp 3: Hướng dẫn cách đặt tính, thực hiện phép tính (cộng, trừ,
nhân, chia cột dọc).

9

Giải pháp 4: Hướng dẫn giải Toán có lời văn.

13

Giải pháp 5: Giúp học sinh năm, thuộc các quy tắc đã học.

15

Giải pháp 6: Sự chuẩn bị bài dạy của giáo viên.


16

a) Chuẩn bị thiết kế bài dạy.

16

b) Điều kiện tiến hành một tiết dạy đạt hiệu quả.

16

c) Những yêu cầu chung của một tiết dạy trên lớp.

16

d) Thực hiện lập kế hoạch bài dạy.
4. Hiệu quả việc áp dụng các biện pháp vào dạy học.
III. KẾT LUẬN

17
17
18

1. Bài học kinh nghiệm.

18

2. Kết luận.

19


3. Đề xuất.

19

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1


1. Lí do chọn đề tài:
Mỗi môn học ở Tiểu học đều có tầm quan trọng riêng của nó. Thông qua quá
trình dạy học các phân môn để hình thành những cơ sở ban đầu nhằm phát triển
con người toàn diện cho học sinh. Cùng với môn Tiếng Việt, Đạo đức, TNXH,
Nghệ thuật, Thể dục, môn Toán có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ Toán học
không những cung cấp cho học sinh những kiến thức kỹ năng cần thiết để học lên
các lớp trên hay áp dụng vào cuộc sống, mà Toán học còn góp phần quan trọng
trong việc hình thành nhân cách ở học sinh, và hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu giáo
dục toàn diện cho các em. Vì thế trong quá trình dạy học người giáo viên phải
luôn biết vận dụng việc đổi mới phương pháp vào thực tiễn giảng dạy sao cho
hiệu quả. Song việc đổi mới như thế nào, bắt đầu từ đâu, thực hiện ra sao thì quả
là không dễ dàng chút nào. Muốn làm được việc đó đòi hỏi người giáo viên phải
dày công nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo.
Trong trường Tiểu học hịên nay, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán là
môn có thời lượng giảng dạy cao hơn hẳn các môn học khác. Điều đó cho thấy
môn Toán hết sức quan trọng trong việc dạy học.
Chuẩn kiến thức, kĩ năng là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu mà tất cả học sinh
cần phải đạt được sau từng giai đoạn học tập. Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Toán
đối với từng lớp ở Tiểu học đã được quy định tại Chương trình sách giáo dục phổ
thông cấp Tiểu học (ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006 QĐ-BGDDT
ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Vì vậy, để

giúp học sinh nắm vững kiến thức, kĩ năng làm nền tảng cho việc học tốt môn
Toán là một vấn đề hết sức quan trọng đòi hỏi người làm công tác giáo dục phải
nghiên cứu, tìm những biện pháp giảng dạy hay, giúp học sinh dễ hiểu, phù hợp
để hình thành kiến thức, kĩ năng nhằm giúp học sinh học “Hoàn thành tốt” môn
Toán. Thấm nhuần tinh thần đó, thời gian qua bản thân tôi đã không ngừng
nghiên cứu, tìm tòi, chủ động nắm bắt để giảng dạy đạt kết quả. Tuy nhiên, đây
cũng chỉ là thành công bước đầu.
Chính vì vậy tôi lựa chọn nghiên cứu và đưa ra "Một số giải pháp nâng cao
hiệu quả dạy học môn Toán cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Đông Hòa".
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán cho học
sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Đông Hòa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu nội dung chương trình sách Toán lớp 3.
- Nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến học sinh lớp 3B chưa hoàn thành môn
Toán.

2


- Nghiên cứu những giải pháp, phương pháp giáo dục hay, phù hợp để khắc sâu
kiến thức, hình thành thói quen, giúp học sinh nắm và học tốt môn Toán, để nâng
cao hiệu quả dạy học môn Toán lớp 3.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, với học sinh lớp
3B.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
- Phương pháp thực hành luyện tập.
- Phương pháp thực nghiệm, đối chiếu, so sánh.

- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận.
Dạy Toán là dạy cho học sinh cách sáng tạo, là rèn luyện các kỹ năng, trau
dồi phẩm chất đạo đức, tính siêng năng, cần cù, chịu khó. Đó là phẩm chất vốn
có của con người. Thông qua học Toán các đức tính đó được thường xuyên phát
huy và ngày càng hoàn thiện. Chương trình Toán Tiểu học là một công trình khoa
học mang tính truyền thống và hiện đại. Việc dạy Toán tiểu học phải được đổi
mới một cách mạnh mẽ về phương pháp, về cung cách lên lớp, về chấm chữa và
đánh giá học sinh. Nghiên cứu chương trình Toán lớp 3 ta thấy đó là một nội
dung hoàn chỉnh sắp xếp từ dễ đến khó, từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và đặc điểm nhận thức của trẻ. Nghiên cứu để
thấy rõ nội hàm của nó, bản chất của nó mới có phương pháp giảng dạy hợp lí.
Sáng kiến kinh nghiệm là một tập hợp về nhận thức, cách nhận định, đánh giá,
phân tích tình hình để tìm ra con đường đi mang lại kết quả theo mong muốn.
Nếu chỉ dựa vào các văn bản của trên, dựa vào thiết kế bài dạy và sách giáo khoa
để giảng dạy theo lối áp đặt thì quả là phản khoa học, không mang tính sư phạm.
Dễ cho người dạy, song khó cho người học. Vai trò của người thầy không rõ, tính
sáng tạo cũng không có. Dạy Toán là dạy sáng tạo là dạy cách suy luận lôgíc thì
phải mở rộng ngoài sách giáo viên, sách giáo khoa, sách thiết kế của Bộ. Dạy
Toán là dạy cách làm việc sáng tạo, cách suy luận, cách sống nhân văn thời hiện
đại. Thế nên, người giáo viên phải có tầm nhìn. Tầm nhìn đó vừa xa vừa thực tế,
phải nắm được lý thuyết, song phải có kỹ năng khái quát vừa hết sức cụ thể. Như
vậy phải đọc nhiều, tích luỹ nhiều, và phải rút ra được những điều cần thiết để tận
dụng.
Trong quá trình dạy học Toán ở phổ thông nói chung, ở Tiểu học nói riêng,
môn Toán là một trong những môn học quan trọng nhất trong chương trình học ở
tiểu học.


3


Môn Toán có hệ thống kiến thức cơ bản cung cấp những kiến thức cần thiết,
ứng dụng vào đời sống sinh hoạt và lao động. Những kiến thức kĩ năng Toán học
là công cụ cần thiết để học các môn học khác và ứng dụng trong thực tế đời sống.
Toán học có khả năng to lớn trong giáo dục học sinh nhiều mặt như: Phát triển tư
duy lôgic, bồi dưỡng những năng lực trí tuệ (Trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân
tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh, ...). Nó giúp học sinh biết tư duy suy nghĩ,
làm việc góp phần giáo dục những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của người lao
động.
Giáo dục Toán học là một bộ phận của giáo dục tiểu học. Do đó, môn Toán
có nhiệm vụ góp phần vào thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của bậc học, đó là:
Trang bị cho học sinh một hệ thống kiến thức và kĩ năng cơ bản, cần thiết
cho việc học tập tiếp hoặc đi vào cuộc sống. Giúp học sinh biết vận dụng kiến
thức vào hoạt động thiết thực trong đời sống, từng bước hình thành, rèn luyện
thói quen phương pháp và tác phong làm việc khoa học, phát triển phù hợp với
tâm lí của từng lứa tuổi. Tạo tiền đề cho học sinh học tốt các môn học còn lại.
2. Thực trạng của việc dạy học Toán lớp 3 ở Trường Tiểu học Đông Hòa.
Trường Tiểu học Đông Hòa là trường thuộc vùng xa trung tâm huyện, đa số
các em đều là con các gia đình làm nông nghiệp. Đời sống của đa số gia đình còn
rất khó khăn về điều kiện kinh tế nên ảnh hưởng không ít đến việc học tập của
các em. Một số em môn Toán còn chưa hoàn thành, phương pháp học tập chưa rõ
ràng, còn thụ động trong việc tiếp thu bài. Điều đáng nói ở đây là trình độ nhận
thức của phụ huynh còn nhiều hạn chế. Hơn phần nửa số học sinh là con nhà
nghèo, cận nghèo và có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Ngoài giờ học ở trường, về
nhà các em còn phụ giúp gia đình để kiếm sống. Một số học sinh cha mẹ phải đi
làm ăn xa không trực tiếp dạy dỗ, chăm sóc, giao phó cho ông bà, thầy cô giáo ...
Vì vậy, các em còn mải chơi chưa chú ý về học tập. Những bài học, bài tập cô
giao còn xao lãng. Trách nhiệm nặng nề thuộc về người giáo viên trực tiếp đứng

lớp.
Trong thực tiễn có nhiều điều không sách vở nào nói hết. Toán học cũng
vậy, sách vở không nói hết mới cần đến vai trò của người thầy. Trong thực tiễn
sách học không lường hết những tình huống xảy ra trong quá trình dạy học. Bởi
vậy sách dạy chúng ta phương pháp truyền thụ kiến thức. Song chúng ta cũng có
thể giúp người viết sách hoàn thiện phương pháp giảng dạy một cách tốt hơn.
Chưa nói đối tượng học sinh ở mỗi địa phương lại có sự khác nhau. Nhận thức
của các em có sự chênh lệch, do đó người giáo viên tuỳ theo học sinh của lớp
mình, của địa phương mình để có cách dạy thích hợp.
Qua nhiều năm đứng dạy lớp 3 và thực hiện đổi mới chương trình sách giáo
khoa môn Toán 3. Bản thân đã có tinh thần trách nhiệm, có ý thức về chuyên môn
4


trong việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy Toán 3. Tôi nhận thấy đối tượng
học sinh không đồng đều, số học sinh Hoàn thành, chưa hoàn thành phần nhiều
chưa nắm vững chắc những kiến thức cơ bản về Toán như:
+ Chưa thuộc bảng nhân, chia.
+ Chưa nắm vững cách đọc, viết và so sánh số tự nhiên (đến hàng nghìn, chục).
+ Chưa biết đặt tính, thực hiện phép tính (cộng, trừ, nhân, chia cột dọc).
+ Đặc biệt các em còn rất chậm trong việc giải Toán có lời văn.
+ Chưa hiểu và nắm chắc được bản chất các quy tắc đã học trong giải Toán.
Ngay từ đầu năm học được phân công giảng dạy lớp 3B. Sau khi khảo sát
chất lượng đầu năm và qua các tiết ôn tập Toán đầu năm, tôi đã phân loại các đối
tượng học sinh trong lớp cụ thể như sau:
Chưa thuộc
Tổng bảng nhân,
số
chia lớp 2
SL


%

8

26,7

Chưa nắm
vững đoc,
viết, so sánh
số tự nhiên.
SL
%

Chưa đặt
tính và
thực hiện
tính đúng.
SL
%

Giải toán
có lời văn
chưa được
SL

%

8


26,7

Chưa thuộc
các quy tắc
đã học trong
giải toán
SL
%

30
6

20

4

13,3

7

23,3

Tìm hiểu điều kiện hoàn cảnh học sinh tôi được biết: Lớp 3B có 30 em trong
đó có 4 em thuộc hộ nghèo, 6 em thuộc hộ cận nghèo, 4 em có bố mẹ đã ly hôn,
1 em mồ côi cả cha lẫn mẹ thật sự khó khăn, 10 học sinh cha mẹ đi làm ăn xa nên
không có thời gian thường xuyên chăm sóc.
Đứng trước thực trạng trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp 3B tôi thật sự băn
khoăn và đặt ra nhiệm vụ là làm thế nào để bồi dưỡng, hình thành cho học sinh
những kiến thức cơ bản giúp học sinh học Hoàn thành tốt môn Toán. Chính vì thế
nên tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán cho

học sinh học lớp 3 ở trường Tiểu học Đông Hòa".
3. Các giải pháp thực hiện chủ yếu:
Để rèn luyện và bồi dưỡng học sinh học tốt môn Toán. Việc đầu tiên tôi tìm
hiểu về gia đình, điều kiện sống, sự chăm lo của phụ huynh đối với con em. Tổ
chức họp phụ huynh học sinh ngay từ đầu năm. Thông qua cuộc họp tôi báo cáo
lại tình hình học tập của từng học sinh đặc biệt là học sinh “Chưa hoàn thành”
môn Toán.
Động viên phụ huynh mua đầy đủ dụng cụ học tập cho học sinh. Nhắc nhở
phụ huynh tạo điều kiện cho con em có góc học tập ở nhà. Đặc biệt là nhắc nhở
việc học tập của các em và học thuộc các bảng nhân, chia. Thường xuyên theo
dõi, kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi đến lớp.
5


Để lớp đủ dụng cụ học tập tôi liên hệ thư viện mượn sách giáo khoa và vở
bài tập cho học sinh, nên lớp tôi có 30/ 30 học sinh có đầy đủ dụng cụ học tập.
Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến các em “Chưa hoàn thành” môn Toán.
Từ đó tôi suy nghĩ tìm hiểu, lựa chọn các phương pháp, biện pháp mới, để
giúp học sinh có kĩ năng, thói quen và căn bản trong quá trình học Toán. Cụ thể
như sau:
* Giải pháp 1: Luyện cho học sinh thuộc bảng nhân, chia.
Muốn học sinh học tốt môn Toán thì trước tiên chúng ta phải luyện cho học
sinh học thuộc bảng nhân, chia. Bởi lẽ học sinh có thuộc bảng nhân, chia mới vận
dụng giải các bài tập có liên quan. Đặc biệt là các phép chia có số bị chia 3, 4 chữ
số và giải Toán hợp.
- Để luyện cho học sinh thuộc và khắc sâu các bảng nhân, chia cần làm như sau:
+ Hướng dẫn học sinh lập được bảng nhân, chia và sau khi lập được bảng nhân
chia rồi thì chốt lại cho học sinh nắm sâu hơn và dễ nhớ hơn như sau:
VD: Bảng nhân.
+ Các thừa số thứ nhất trong bảng nhân đều bằng nhau.

+ Các thừa số thứ hai trong bảng nhân là các số theo thứ tự là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7,
8, 9, 10. Hai thừa số liền nhau hơn kém nhau 1 đơn vị. (trong bảng nhân các
thừa số thứ hai nhỏ nhất là 1, lớn nhất là 10 không có thừa số 0).
+ Mỗi tích liền nhau hơn kém nhau bằng thừa số thứ nhất. (Tích thứ nhất trong
bảng nhân chính là thừa số thứ nhất, tích cuối cùng trong bảng nhân gấp thừa số
thứ nhất 10 lần).
VD: Bảng chia 8.
+ Các số bị chia trong bảng chia 8 là các tích của bảng nhân 8, và hơn kém
nhau 8 đơn vị.
+ Số chia trong bảng chia 8 là các thừa số thứ nhất của bảng nhân 8 đều là 8.
+ Các thương của bảng chia 8 là thừa số thứ hai của bảng nhân 8.
+ Hàng ngày, đầu giờ học môn Toán, thay vì cho học sinh vui, để khởi động, giáo
viên cho cả lớp cùng đọc một bảng nhân hoặc chia và cứ thế lần lượt từ bảng
nhân 2, bảng chia 2 đến bảng nhân, chia hiện học.
+ Sau mỗi giờ học Toán giáo viên thường xuyên kiểm tra những học sinh chưa
thuộc bảng nhân, chia từ 3 đến 4 em. Việc kiểm tra học sinh có thuộc bảng nhân,
chia không? Giáo viên có thể kiểm tra bằng cách in bảng nhân, chia trên giấy A4,
nhưng không in kết quả và bỏ trống một số thành phần của phép nhân, chia trong
bảng. Vào cuối tuần hoặc cuối các tiết ôn luyện ở buổi hai dành thời gian khoảng
10 phút cho các em ghi đầy đủ và hoàn chỉnh bảng nhân, chia như yêu cầu.

6


+ Cho học sinh chép bảng nhân nào mà các em chưa thuộc vào vở riêng. Buổi
học hôm sau trình bày và đọc cho nhóm trưởng cùng bàn nghe vào đầu giờ, sau
đó nhóm trưởng báo cáo cho giáo viên.
* Để khắc sâu kiến thức Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi.
VD: Trò chơi ôn lại bảng nhân 6 (trò chơi: Ai đúng ? Ai sai?).
Giáo viên chuẩn bị nhiều bảng theo thứ tự đảo ngược như sau:

12
48
60

30
18
42

24
36
54

12
30
24

48
18
36

60
42
54

Cách chơi:
Phát cho mỗi em một bảng. Giáo viên yêu cầu HS nối tiếp nhau lần lượt đọc
mỗi em 1 phép tính bất kì trong bảng nhân 6 nhưng không nêu kết quả. Học sinh
nghe và tự tìm kết quả khoanh tròn vào số trong ô có kết quả đúng. Nếu học sinh
nào khoanh đúng, đủ 3 ô hàng ngang hoặc hàng dọc thì em đó thắng. Giáo viên
nhận xét, tuyên dương học sinh thắng cuộc, khuyến khích động viên học sinh làm

chưa tốt.
Tiếp tục như những cách làm trên cho đến khi cả lớp đều thuộc từ bảng nhân,
chia 2 đến bảng nhân, chia 9.
* Giải pháp2: Hướng dẫn đọc, viết, so sánh các số tự nhiên.
Học sinh biết đọc, viết, so sánh các số tự nhiên là chuỗi kiến thức rất quan
trọng trong chương trình Toán 3.
- Chuỗi kiến thức này nhằm giúp học sinh nắm được cách đọc, viết và so sánh
các số tự nhiên vận dụng vào cộng, trừ, nhân, chia, số thứ tự và giải bài toán hợp.
- Dạy chuỗi kiến thức này người giáo viên cần hình thành cho học sinh những
kiến thức cơ bản sau:
* Giúp học sinh hiểu các số tự nhiên.
- Các số 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, ... là các số tự nhiên.
- Số 0 là số tự nhiên bé nhất, không có số tự nhiên lớn nhất.
- Hai số tự nhiên liên tiếp hơn kém nhau 1 đơn vị.
- Số 0, 2, 4, 6 ... là các số tự nhiên chẵn, số 1, 3, 5,7, 9, 11,13,... là các số tự nhiên
lẻ. Hai số chẵn (hoặc lẻ) liên tiếp hơn kém nhau 2 đơn vị.
- Nắm được tên và vị trí của các hàng (hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm, hàng
nghìn).
- Biết qui tắc các giá trị theo vị trí của các chữ số trong cách viết số.
VD: Dạy cho học sinh:
- Các số có bốn chữ số gồm hàng nghìn, hàng trăm, hàng chục, hàng đơn vị.
Giáo viên cần giải thích cho học sinh là: hàng nghìn bao giờ cũng là các chữ số
lớn hơn 0.
7


VD: 1235; 2475; 5431; .... hàng nghìn là: 1, 2, 5 nghìn. Không thể có hàng
nghìn là 0 như: 0235, 0475, 0431,.... Vậy số có bốn chữ số có hàng nghìn nhỏ
nhất là 1, lớn nhất là 9.
* Hướng dẫn đọc, viết.

- Hướng dẫn phân hàng:
VD số: 6931.
+ Hàng nghìn, hàng trăm, hàng chục, hàng đơn vị.
+ Số 6931: Có 6 nghìn, 9 trăm, 3 chục, 1 đơn vị.
+ Đọc số 6931: sáu nghìn, chín trăm ba mươi mốt.
Giáo viên viết: 6931.
Phân tích: 6
9
3
1
6 nghìn 9 trăm 3 chục 1 đơn vị.
Hoặc: lớp nghìn
lớp đơn vị.
+ Khi viết, ta viết từ hàng cao đến hàng thấp (viết từ trái sang phải).
+ Khi đọc lớp nào ta kèm theo đơn vị lớp đó.
+ Học sinh đọc: Sáu nghìn, chín trăm ba mươi mốt.
- Hơn thế nữa người giáo viên còn hướng dẫn thêm cho học sinh cách đọc như
sau:
VD: Số 6931 và 6911.
+ Số 6931 đọc là: Sáu nghìn, chín trăm ba mươi mốt.
+ Số 6911 đọc là: Sáu nghìn, chín trăm mười một.
- Từ hai số trên cho học sinh nhận ra được cách đọc ở cùng hàng đơn vị của hai
số là khác nhau chỗ mốt và một. Nghĩa là số 6931, hàng đơn vị đọc là mốt, còn
số 6911 hàng đơn vị đọc là một. Tuy cùng hàng và đều là số “1” nhưng tên gọi
lại khác nhau. Giúp học sinh phát hiện và đọc và nhận ra cách đọc của một vài số
lại có cách đọc tương tự trên:
VD: Số 4105 và 4125 cùng hàng đơn vị là số “5” nhưng lại đọc là “năm” và
“lăm”.
VD: Số 3010: Học sinh nhiều em đọc là “Ba nghìn không trăm linh mười”.
Giáo viên hướng dẫn các em. Trong số tự nhiên chỉ được đọc“linh một, linh

hai,.... linh chín, không có đọc là linh mười” vậy số 3010 đọc là: Ba nghìn không
trăm mười.
* Hướng dẫn so sánh.
Trong qui tắc là: Khi ta so sánh trong hai số thì: Số nào có ít chữ số hơn thì
số đó bé hơn và ngược lại. VD: 999 < 1000 ;
10 000 > 9999.
+ Còn các số có cùng chữ số thì sao? Ngoài việc làm theo qui tắc thì người giáo
viên cần làm như sau:

8


VD: Bài tập 3a trang 100:
Để tìm số lớn nhất trong các số: 4375 ; 4735 ; 4537 ; 4753. Giáo viên hướng
dẫn học sinh như sau:
- Xếp theo cột dọc, sao cho thẳng hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị với nhau. Cụ
thể trên bảng phần được xoá là:
4375
4735

4735

4537
4753
4753
Số lớn nhất 4753.
47
475
- Phân theo hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị.
VD: Bài tập 3b trang 100:

Để tìm số bé nhất trong các số: 6091 ; 6190 ; 6901 ; 6019.
Giáo viên hướng dẫn học sinh cách làm tương tự bài tập 3a:
- Xếp theo cột dọc, sao cho thẳng hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị với nhau. Cụ
thể trên bảng phần được xoá là:
6091
6190

6091

69 01
60 19
6019
Số bé nhất 6019.
60
601
- Phân theo hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị.
- So sánh từng hàng để chọn ra số lớn nhất trong hàng như: hàng nghìn đều
bằng nhau là 4. Đến hàng trăm chọn được hai số lớn là 7 có trong 4735 và 4753.
Sau đó yêu cầu các em chỉ so sánh hai số này và tìm được số lớn nhất là 4753.
* Giải pháp 3: Hướng dẫn cách đặt tính, thực hiện phép tính (cộng, trừ, nhân,
chia cột dọc).
Đặt tính cũng là một việc hết sức quan trọng trong quá trình làm tính. Nếu
học sinh không biết cách đặt tính hoặc tính sai sẽ dẫn đến kết quả sai. Vì thế để
học sinh khi thực hiện phép tính tính đúng kết quả phải nắm vững cách đặt tính,
các thành phần của phép tính cũng như mối quan hệ giữa các thành phần của
phép tính trong khi tính cộng trừ, nhân chia.
* Đối với phép cộng, trừ: (giúp học sinh nhớ và áp dụng)
- Phép cộng:
VD: 5341 + 1488 = 6829
Số hạng


số hạng

Tổng
9


+ Nếu ta thay đổi chỗ các số hạng của tổng thì tổng không thay đổi.
5341 + 1488 = 1488 + 5341 = 6829
+ Muốn tìm tổng ta lấy số hạng thứ nhất cộng với số hạng thứ hai.
5341 + 1488 = 6829
+ Muốn tìm số hạng chưa biết, ta lấy tổng trừ đi số hạng đã biết.
5341 + x = 6829
x = 6829 – 5341
x = 1488
+ Bất kì số nào cộng với 0 cũng bằng chính số đó.
3 + 0 = 3; 6 + 0 = 6
- Phép trừ: VD: 8652 - 3917 = 4735
Số bị trừ

số trừ

hiệu

+ Muốn tìm hiệu ta lấy số bị trừ, trừ đi số trừ.
8652 - 3917 = 4735
+ Muốn tìm số bị trừ chưa biết, ta lấy hiệu cộng với số trừ.
x - 3917 = 4735
x = 4735 + 3917
x = 8652

+ Muốn tìm số trừ chưa biết, ta lấy số bị trừ trừ đi hiệu.
8652 - x = 4735
x = 8265 - 4735
x = 3917
+ Bất kì số nào trừ 0 cũng bằng chính số đó.
4-0=4 ;

5-0=5

- Đặt tính và tính:
Cần hướng dẫn học sinh kĩ là phải đặt tính thẳng hàng (hàng đơn vị theo hàng
đơn vị, hàng chục theo hàng chục, hàng trăm theo hàng trăm, hàng nghìn theo
hàng nghìn). Hướng dẫn học sinh bắt đầu cộng từ hàng đơn vị (hoặc từ phải sang
trái). Nên lưu ý học sinh đối với phép trừ có nhớ, cần bớt ra khi trừ hàng kế tiếp.

10


VD: Phép cộng có nhớ một lần.
• 6 cộng 8 bằng 14, viết 4 nhớ 1.
+
• 3 cộng 4 bằng 7, thêm 1 bằng 8, viết 8.
536
• 5 cộng 2 bằng 7, viết 7.
- GV nói: Khi kẻ vạch ngang dưới hai số, tất cả các em đều dùng bằng thước.
- Nhắc học sinh chú ý: Trong phép cộng, trừ chỉ nhớ số 1, không nhớ 2,3,
4,5,6,7,8,9.( trừ khi có nhiều số hạng cộng với nhau như bài tập 1b trang 156).
* Đối với phép nhân, chia: (giúp học sinh nhớ và áp dụng).
- Phép nhân: VD: 2125 x 3 = 6375
Thừa số Thừa số

Tích
+ Muốn tìm tích, ta lấy thừa số thứ nhất nhân với thừa số thứ hai.
2125 x 3 = 6375
+ Muốn tìm thừa số chưa biết, ta lấy tích chia cho thừa số đã biết.
x x 3 = 6375
x = 6375 : 3
x = 2125
+ Khi ta thay đổi các thừa số trong một tích thì tích không thay đổi.
4 x 8 = 8 x 4 = 32
+ Số nào nhân với 1 cũng bằng chính số đó.
4 x 1 = 4 ; 9 x 1 = 9 ; ...
+ Số nào nhân với 0 cũng bằng 0.
3 x 0 = 0 ; 8 x 0 = 0; …
- Đặt tính và tính:
Khi đặt tính giáo viên lưu ý cho học sinh: Viết thừa số thứ nhất ở 1 dòng,
viết thừa số thứ hai ở dòng dưới sao cho thẳng với chữ số ở hàng đơn vị (nhân số
có 2, 3, 4 chữ số với số có 1 chữ số). Viết dấu nhân ở bên trái giữa hai dòng thừa
số thứ nhất và thừa số thứ hai và lùi ra khoảng 1, 2 mm, rồi kẻ vạch ngang bằng
thước kẻ.
Khi thực hiện phép nhân này, ta phải thực hiện tính bắt đầu từ hàng đơn vị,
sau đó đến hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn (hoặc tính từ phải sang trái). Các
chữ số ở tích nên viết sao cho thẳng cột với nhau theo từng hàng, bắt đầu từ hàng
đơn vị, chục, trăm, nghìn của thừa số thứ nhất.
Đối với cách viết từng chữ số của tích có nhớ, ta nên viết số đơn vị, nhớ số
chục. (hoặc nhắc học sinh viết số bên tay phải nhớ số bên tay trái).
VD:
*

x


2035
3
6105

• 3 nhân 5 bằng 15, viết 5 nhớ 1.
• Không viết 1 nhớ 5.
• 3 nhân 3 ....
Nhắc thêm cho học sinh:

11


Nếu trường hợp như: 9 nhân 3 bằng 27, thì viết 7 nhớ 2, . . . ( đối với phép
nhân thì chỉ có nhớ 1, 2, . . . 8, không có nhớ 9).
- Phép chia:
VD: 6375 : 3 = 2125
+ Muốn tìm thương, ta lấy số bị chia, chia cho số chia. 6375 : 3 = 2125
+ Muốn tìm số bị chia chưa biết, ta lấy thương nhân với số chia.
x : 3 = 2125
x = 2125 x 3
x = 6375
+ Muốn tìm số chia chưa biết, ta lấy số bị chia, chia cho thương.
36 : x = 9
x = 36 : 9
x= 4
+ Số nào chia cho 1 cũng bằng chính số đó.
5 : 1 = 5; ....., 7 : 1 = 7
+ 0 chia cho bất kỳ số nào cũng bằng 0.
0: 6=0 ; 0: 8 = 0
* Nhắc thêm cho học sinh: không thể chia cho 0.

Ví dụ: 4 : 0
+ Muốn tìm số chia trong phép chia có dư, ta lấy số bị chia trừ đi số dư rồi
chia cho thương.
Ví dụ: 9 : 4 = 2 (dư 1). Vậy: 9 : x = 2 (dư 1)
x = (9 - 1) : 2
x= 4
+ Muốn tìm số bị chia trong phép chia có dư, ta lấy thương nhân với số chia
rồi cộng với số dư. Ví dụ: 9 : 4 = 2 (dư 1). Vậy: x : 4 = 2 (dư 1)
x = 2x4+1
x = 9
+ Trong phép chia có dư, số dư nhỏ nhất là 1, số dư lớn nhất kém số chia 1
đơn vị. (trong chương trình Toán 3 số dư trong phép chia nhỏ nhất là 1, lớn nhất
là 8). VD: Số chia là 9, thì số dư là 1, 2, 3, …, . ... 8. (số dư phải nhỏ hơn số
chia)
- Đặt tính và tính:
Việc thực hiện đặt tính và tính cộng, trừ, nhân, chia theo cột dọc, thì phép
chia là khó nhất vì:
- Học sinh hay quên, thực hiện chưa đầy đủ các hàng cao đến hàng thấp (có em
chỉ mới thực hiện đến hàng trăm, chục mà không thực hiện hết). Cần hướng dẫn
kĩ cho học sinh cách nhân ngược lên và trừ lại,... Đặc biệt đối với học sinh chưa
hoàn thành môn Toán cần hướng dẫn kĩ cách đặt tính, nhằm giúp các em thấy
được hàng nào thực hiện rồi, hàng nào chưa thực hiện. Thực hiện như sau:
12


VD: Chia số có 4 chữ số cho số có 1 chữ số: 1257 : 4 = ?
- Trước tiên giúp học sinh biết ghi theo cột dọc và hiểu tên gọi các thành phần
trong cột dọc của phép chia. (sử dụng phần bảng được xoá)
Số bị chia
dấu chia

số chia
1257
:
4

Số dư lần chia 1
Số dư lần chia 2

1257 4
Hạ
314
05
17
1

Thương tìm được.

Số dư lần chia cuối cùng
(Phép chia có dư).
+ Khi hạ hàng nào phải hạ xuống dưới sao cho thẳng hàng, để ta biết sẽ thực hiện
hàng đó, sau đó mới thực hiện hàng kế tiếp.
+ Nhắc học sinh trong các phép tính cộng, trừ, nhân, chia theo cột dọc thì các
phép cộng, trừ, nhân ta thực hiện tính theo thứ tự từ phải sang trái, hoặc từ hàng
đơn vị, hàng chục, ... Còn riêng phép chia ta tính theo thứ tự từ trái sang phải,
hoặc từ hàng cao nhất đến hàng thấp nhất (hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị).
Nhìn chung, các em có tiến bộ rõ rệt. Các em không còn đặt tính sai, cộng,
trừ, nhân, chia không viết lộn kết quả và quên số nhớ nữa.
Đối với các em còn chậm, chưa hoàn thành, trong mỗi tiết học Toán người
giáo viên phải gọi các em lên bảng được ít nhất 1, 2 lần thực hiện phép tính. Giáo
viên phải thường xuyên quan tâm đến các em có kĩ năng tính toán còn chậm,

thiếu chính xác, yêu cầu các em chỉ cần đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng. Yêu cầu
những em này chỉ làm một phần trong mỗi bài tập và hướng dẫn rất kĩ khi làm
bài vào vở. Cách trình bày từng con số, cách sửa sai để từng trang vở được sạch
đẹp.
Qua một thời gian các em có tiến bộ rõ rệt. Mỗi lần thực hiện các em viết rất
rõ ràng và tính chính xác.
* Giải pháp 4: Hướng dẫn giải toán có lời văn.
Đây là mạch kiến thức học sinh thường gặp khó khăn nhất. Các em thường
chưa biết phân tích đề toán, chưa biết suy luận, tổng hợp, so sánh tìm cách giải
hợp lí cho từng bài. Vì vậy, trong mỗi tiết học gặp những bài toán giải có lời văn
cần yêu cầu học sinh như sau:
- Phần đọc thành tiếng và đọc thầm.

13


+ Đọc kĩ đề toán, gạch chân từ, số quan trọng liên quan đến khâu giải. (GV theo
dõi cả lớp đọc thầm và yêu cầu em nào cũng phải đọc và đọc ít nhất là 3 lần, có
đọc mới hiểu và làm bài đựơc).
+ Khi đọc cần hiểu được bài toán cho ta biết điều gi? Bài toán hỏi gi?
- Phần hướng dẫn giải.
+ Hướng dẫn tóm tắt đề toán bằng hình vẽ, lời câu văn, ...
+ Tìm hướng giải: Phân tích hoặc tổng hợp.
+ Gợi mở khâu đặt lời giải rõ ràng, gọn, đúng yêu cầu bài toán.
VD: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. (Bài 1 trong Toán 3, trang 166).
Có 40 kg đường đựng đều trong 8 túi. Hỏi có 15 kg đường đựng trong mấy túi
như thế?
Bước 1: Gọi học sinh đọc kĩ đề: 2 em đọc to, cả lớp đọc thầm. (chú ý nội dung).
Bước 2: Hướng dẫn phân tích để xác định cái đã cho và cái cần tìm, sau đó giáo
viên gạch chân.

- GV Hỏi – HS nêu: + Cái đã cho: 40 kg đường, 8 túi.
+ Cái cần tìm: Có 15 kg đường đựng trong bao nhiêu túi?
* Giáo viên hướng dẫn tóm tắt bài toán.
40 kg đường: 8 túi.
15 kg đường: . . . túi?
Bước 3: Tìm hướng giải:
+ Bài toán hỏi gì? (có 15 kg đường thì đựng trong bao nhiêu túi?)
+ Muốn biết 15kg đường đựng trong mấy túi, ta phải làm gì? (tìm xem 1 túi đựng
được bao nhiêu ki-lô-gam đường).
+ Muốn tìm được 1 túi đựng bao nhiêu ki-lô-gam đường ta làm thế nào?
- Gợi mở cho học sinh đặt lời giải và chọn phép tính giải.
Số k-lô-gam đường đựng trong 1 túi là:
40 : 8 = 5 (kg)
+ Hỏi tiếp: Biết được mỗi túi 5kg đường. Vậy nếu có 15 kg đường thì đựng trong
mấy túi như thế?
- Gợi mở để cho học sinh chọn lời giải và phép tính.
Số túi đựng 15kg đường là:
15 : 5 = 3 (túi)
Đáp số: 3 túi.
- Song song với qui trình hướng dẫn giải, giáo viên luôn lưu ý học sinh cách trình
bày bài giải sao cho phù hợp với trình tự yêu cầu của đề, cụ thể như sau:
Bài giải
Số ki-lô-gam đường đựng trong mỗi túi là:
40 : 8 = 5 (kg)
Số túi đựng 15 kg đường là:
15 : 5 = 3 (túi)
Đáp số: 3 túi.

14



- Những biện pháp trên được áp dụng ở lớp về giải bài toán có liên quan đến rút
về đơn vị mang lại kết quả tương đối cao, và trong lớp bây giờ có khoảng 75 %
số học sinh giải thành thạo.
* Giải pháp 5: Giúp học sinh nắm, thuộc các qui tắc đã học.
Tuy nhiên học sinh đã biết cộng, trừ, nhân, chia,... cũng chưa giải hết được
các bài toán trong chương trình sách giáo khoa Toán lớp 3. Vì thế giáo viên cần
giúp cho các em thuộc và khắc sâu các qui tắc đã học để áp dụng và làm toán tốt
hơn. Cụ thể:
+ Ghi lại các qui tắc đã học và có ví dụ, rồi in trên giấy A4, phát cho học sinh và
yêu cầu các em phải học thuộc.
+ Tổ chức cho học sinh ôn lại qui tắc: Chia lớp làm 3 nhóm (theo tổ). cho các
nhóm thi với nhau về nhớ các qui tắc như sau:
VD: Nhóm 1 nêu câu hỏi: Muốn giảm một số đi nhiều lần ta làm thế nào?
Nêu xong gọi nhóm 2 hoặc nhóm 3 trả lời, nhóm nào trả lời được, sau đó nêu câu
hỏi cho nhóm khác trả lời. (không được hỏi trùng câu hỏi). VD: Muốn tính chu vi
hình chữ nhật ta làm thế nào? Hoặc Muốn tìm một thừa số chưa biết ta làm thế
nào?; Muốn tính diện tích hình vuông ta làm thế nào?; Muốn tính cạnh hình
vuông ta làm thế nào?; ... Cứ làm như vậy, khoảng 15 phút chốt lại nhóm đặt và
trả lời đúng nhiều thì nhóm đó thắng cuộc. (hàng tuần tổ chức cho học sinh 2 lần,
và áp dụng đến việc trực nhật lớp).
- Qua khoảng thời gian không lâu có rất nhiều học sinh học thuộc và biết áp dụng
rất tốt về qui tắc đã học.
- Đặc biệt để có những giải pháp bồi dưỡng cho học sinh học tốt môn Toán nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học Toán. Ngoài việc hưóng dẫn kĩ cho học sinh những
kiến thức cơ bản và kèm học sinh “Chưa hoàn thành” môn Toán còn chú ý bồi
dưỡng cho học sinh “Hoàn thành tốt” như sau:
- Tìm tòi, tham khảo sách báo, vở bài tập, … chọn những bài toán lạ có những
nội dung phù hợp và hay, để các em làm thêm những phút rảnh, hoặc làm thêm ở
nhà nhằm giúp các em làm toán ngày càng tốt hơn.

VD1: Giáo viên hỏi cho học sinh (T) giơ tay nhanh và trả lời nhanh đúng bài
toán:
75 x 2 +
= 158
+ 75 nhân 2 cộng mấy bằng 158?
+ HS giơ tay nhanh và trả lời: 75 nhân 2 cộng 8 bằng 158.
VD2: Hãy tìm số chẵn thích hợp điền vào ô vuông.
2 x

8 +

4 = 20

15


* Giải pháp 6: Chuẩn bị bài dạy của giáo viên:
- Để đạt được kết quả trên thì đòi hỏi giáo viên phải có tinh thần công tác giảng
dạy nhiệt tình tất cả vì học sinh thân yêu, vượt nhiều khó khăn để dồn về công
sức vào nhiệm vụ giảng dạy.
- Để học sinh chiếm lĩnh và khắc sâu kiến thức, vận dụng được chính xác, linh
hoạt kiến thức đó trong luyện tập, thực hành thì đòi hỏi người giáo viên phải
chuẩn bị kĩ nội dung bài dạy trước khi lên lớp.
- Để chuẩn bị tốt cho nội dung bài dạy người giáo viên phải chuẩn bị những yêu
cầu sau:
a) Chuẩn bị thiết kế bài dạy.
* Những việc làm để chuẩn bị bài dạy.
Nghiên cứu nắm vững chương trình, hệ thống kiến thức, mức độ yêu cầu
kiến thức, kĩ năng của học sinh, nghiên cứu nắm vững sự thể hiện cụ thể của
chương trình, sách giáo khoa, sách bài tập, sách hướng dẫn (sách giáo viên). Sưu

tầm nghiên cứu các kinh nghiệm dạy học trên các tạp chí, tài liệu bồi dưỡng giáo
viên về kiến thức, nghiệp vụ, nắm tình hình điều kiện địa phương, trường lớp và
hoàn cảnh học tập của học sinh.
* Nghiên cứu tài liệu và xác định nội dung bài dạy.
Nghiên cứu mục đích yêu cầu bài học cả về 3 mặt (kiến thức, kĩ năng tư
duy và giáo dục). Xác định kiến thức trọng tâm căn cứ trên mục đích yêu cầu.
Lựa chọn phương pháp cụ thể và phương tiện dạy học, các biện pháp sẽ thực hiện
từng khâu từng đối tượng học sinh.
* Soát lại việc chuẩn bị của học sinh về bài học.
Tình hình nắm kiến thức đã học có liên quan, tình hình sách giáo khoa và đồ
dùng học tập của học sinh.
b) Điều kiện tiến hành một tiết dạy đạt hiệu quả.
Tạo được không khí hứng khởi sẵn sàng học tập cho học sinh ngay từ phần
nắm chắc bài cũ, chuẩn bị tốt sách giáo khoa và đồ dùng học tập. Tập thể học
sinh tự giác, tôn trọng nội quy, nền nếp và làm việc tốt. Học sinh trong trạng thái
khoẻ mạnh, tỉnh táo.
Tạo mối quan hệ tốt giữa giáo viên và học sinh thể hiện ở chỗ:
+ Giáo viên có thái độ cởi mở, chan hoà, ân cần, quan tâm tận tình đến từng đối
tượng học sinh, mẫu mực trong tác phong. Giáo viên nghiên cứu kĩ và chuẩn bị
kế hoạch bài học, sẵn sàng lên lớp.
+ Học sinh lễ phép, chăm chỉ và tích cực xây dựng bài trong học tập.
c) Những yêu cầu chung của một tiết học trên lớp.
- Tiết học Toán phải chú ý đến hai mặt giáo dục và giáo dưỡng. Hai mặt này kết
hợp chặt chẽ với nhau.
- Luôn luôn chú ý theo dõi thái độ học tập và sự lĩnh hội nội dung bài học của
học sinh, để có biện pháp điều chỉnh, uốn nắn học sinh được kịp thời.
16


- Tiết học trên lớp cần căn cứ vào trình độ học sinh “Hoàn thành” ở lớp, có phân

biệt đến hai đối tượng Hoàn thành tốt và chưa hoàn thành.
d) Thực hiện lập kế hoạch bài học.
- Giáo viên thực hiện tiết học theo trình tự của kế hoạch bài học, có điều chỉnh
thời gian các phần nhưng đảm bảo nội dung trọng tâm của bài.
- Cần quan tâm đến hoạt động của học sinh, sao cho học trực tiếp giải quyết vấn
đề qua các bước suy luận, thảo luận thực hành phát biểu, báo cáo kết quả...
- Cần quan tâm đối tượng khác nhau về trình độ để giao việc, đặt câu hỏi thích
hợp. Có động viên khuyến khích, biểu dương kịp thời các tiến bộ, cố gắng của
học sinh. Nhưng phải nghiêm khắc đối với học sinh lười biếng, vô trách nhiệm.
Giáo viên phải linh động, khéo léo xử lí tình huống diễn ra sao cho đạt mục đích
yêu cầu của tiết dạy.
4. Hiệu quả việc áp dụng các biện pháp vào dạy học.
Áp dụng những giải pháp trên trong năm học 2018 – 2019 tại lớp 3B Trường
tiểu học Đông Hòa. Tôi nhận thấy học sinh trong lớp có tiến bộ rõ rệt so với đầu
năm. Học sinh nắm được các kiến thức cơ bản về Toán lớp 3 như: thuộc hết các
bảng nhân, chia; nắm được cách đặt tính và cách tính; cách so sánh số nhanh gọn
chính xác; nắm chắc thứ tự thực hiện các phép tính trong một biểu thức; thực
hiện nhân chia số có nhiều chữ số nhanh gọn; xác định được các dạng toán giải
để giải đúng; Biết vận dụng để tính nhanh. Quan trọng hơn nữa là học sinh biết tự
làm việc với sách giáo khoa; biết cách đọc sách và tự giải quyết vấn đề.
Qua thời gian đứng lớp giảng dạy theo cách làm nêu trên đã đưa chất lượng
lớp tôi có kết quả rất khả quan.
Kết quả kiểm tra chất lượng cuối học kì I:
Điểm


số

10


9

8

7

6

5

dưới 5

30
SL % SL %
9 30 10 33,3
Thuộc
Tổng bảng nhân,
số chia lớp 2,
3.
SL
%
30
30 100%

SL
5

%
16,7


SL
3

%
10

SL
2

%
6,7

SL
1

Kết quả khảo sát cuối tháng 2:
Đã nắm vững Biết đặt tính Giải toán
đọc, viết, so
và thực hiện có lời văn
sánh số tự
tính đúng.
chưa thành
nhiên.
thạo.
SL
%
SL
%
SL
%

30

100%

30

100%

1

3,3%

%
3,3

SL %
0 0

Chưa thuộc
các quy tắc đã
học trong giải
toán.
SL
%
1

3,3%

17



III. KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm:
Sau khi nắm thực trạng học sinh về môn Toán. Tôi đã kịp thời áp dụng một
số giải pháp nêu trên mang lại kết quả khả quan. Qua đó tôi rút ra được một số
kinh nghiệm như:
- Cần khảo sát nắm chắc điều kiện hoàn cảnh từng đối tượng học sinh và
phân loại được năng lực học của học sinh từ đó đưa ra biện pháp thiết thực, nâng
chất lượng phù hợp đối với từng học sinh.
- Kêu gọi lực lượng Phụ huynh học sinh kết hợp hỗ trợ giúp các em về điều
kiện học Toán cũng như học lý thuyết và thực hành giải các bài tập ở nhà để kết
quả dạy, học Toán càng khả quan hơn.
- Theo dõi, tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến học sinh “Chưa hoàn thành”
nội dung bài học và đề ra những biện pháp khắc phục.
- Giáo viên phải nhiệt tình, luôn quan tâm tận tình đến mọi đối tượng học
sinh, không ngại khó.
- Tổ chức nhiều hình thức học tập, với nhiều phương pháp đảm bảo tính
vừa sức.
- Kèm học sinh “Chưa hoàn thành” và bồi dưỡng học sinh “Hoàn thành tốt”.
- Trong giảng dạy cần phân loại học sinh thật hợp lí, để có phương pháp
giảng dạy phù hợp từng đối tượng.
- Đối với học sinh mất kiến thức cơ bản, cần chú ý lấp dần các lỗ hổng kiến
thức cho các em bằng cách phối hợp nhiều phương pháp như: Tổ chức phụ đạo,
nhắc lại kiến thức cơ bản, chú trọng thực hành giải bài tập, yêu cầu vừa sức và
khuyến khích để từng bước khôi phục lòng tin của em, ...
- Tăng cường phát huy phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm theo
hướng phù hợp giữa nội dung bài dạy và đối tượng học sinh đang học. Chú ý
khai thác các khía cạnh gây hứng thú của bộ môn, tạo niềm say mê học tập cho
học sinh.
- Giáo viên tham khảo kĩ nội dung bài, xác định yêu cầu trọng tâm bài dạy

(Lập kế hoạch bài học). Lựa chọn phối hợp tốt, hợp lí các phương pháp và
phương tiện dạy học, các biện pháp thực hiện trong từng khâu, từng đối tượng
học sinh. Từ đó, giáo viên truyền thụ đúng, chính xác nội dung bài, khắc sâu kiến
thức. Học sinh nắm vững nội dung bài, vận dụng luyện tập, thực hành đạt kết quả
cao.
2. Kết luận:
18


Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu áp dụng “Một số giải pháp nâng cao
hiệu quả dạy học môn Toán cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Đông Hòa”.
Thực tiễn cho thấy kết quả học Toán của học sinh có chuyển biến rất rõ rệt. Bước
đầu đã cải thiện được phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, chất lượng môn
Toán của lớp được nâng lên rất đáng kể. Đồng thời đã hình thành khắc sâu cho
những kĩ năng, thói quen hứng thú, chăm chỉ học Toán. Thật đáng mừng, vì sau
mấy tháng áp dụng giải pháp nghiên cứu trên mà chất lượng môn Toán của lớp
tôi được nâng lên rõ rệt. Học sinh có kĩ năng, thói quen căn bản trong quá trình
học Toán, góp phần nâng cao chất lượng môn Toán của lớp, của trường ngày một
tốt hơn.
3. Đề xuất:
Để việc dạy và học đạt kết quả cao, tôi có một số ý đề xuất sau:
- Nhà trường tổ chức họp Phụ huynh học sinh sớm hơn, để phụ huynh có thời
gian chuẩn bị sách giáo khoa, đồ dùng học tập cho con em một cách đầy đủ và
chăm sóc học sinh kịp thời.
- Tạo điều kiện để giáo viên vận dụng sáng kiến kinh nghiệm“Một số giải pháp
nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán cho học sinh lớp 3” vào việc giảng dạy và
giáo dục cho HS ở các khối lớp khác trong trường.
- Phòng giáo dục và nhà trường hỗ trợ đồ dùng học tập kịp thời cho đối tượng là
học sinh nghèo. (sách giáo khoa, vở bài tập, bảng con, Tập viết,...).
- Nhà trường tổ chức chuyên đề về đổi mới phương pháp để giáo viên có điều

kiện học hỏi nhau để gnâng cao trình độ chuyên môn hơn nữa.
- Tổ chức báo cáo kinh nghiệm hay về dạy học cho giáo viên học hỏi.
Trên đây là những giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán cho học
sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Đông Hòa nhằm giúp các em học tốt môn Toán góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Mặc dù bản thân đã rất cố gắng nhưng không tránh khỏi những thiếu sót, tôi
rất mong sự giúp đỡ, góp ý, bổ sung của ban giám hiệu nhà trường, các cấp quản
lý giáo dục, chị em đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện và tôi có được những
kinh nghiệm bổ ích áp dụng cho những năm học sau.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
XÁC NHẬN CỦẢ THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Đông Hòa, ngày 4 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết:

Lê Thị Năm

19



×