Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số biện pháp giảm áp lực, tăng hứng thú và hiệu quả trong rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4,5 trường tiểu học thọ thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 16 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Để đáp ứng mục tiêu của ngành Giáo dục nói chung và Giáo dục Tiểu học
nói riêng, chúng ta đã và đang không ngừng tích cực đổi mới nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. Với mục
tiêu chung là giáo dục đào tạo nên những con người phát triển toàn diện, tự tin,
năng động sáng tạo, biết chủ động khám phá tìm ra cái mới và phát huy những
giá trị đích thực. Để thực hiện được điều đó, ở Tiểu học, môn Tiếng việt có vai
trò hết sức quan trọng – Là thành phần không thể thiếu để kiến tạo nên những
con người như thế. Sở dĩ như vậy là vì môn Tiếng việt hình thành ở học sinh cả
bốn kĩ năng: Nghe; nói; đọc; viết và cung cấp cho các em những hiểu biết về
Tiếng việt nhằm từng bước làm chủ ngôn ngữ để học tập và rèn luyện các thao
tác tư duy cơ bản; cung cấp cho các em những hiểu biết về xã hội về tự nhiên …
Góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Trong đó phân
môn Tập làm văn hết sức quan trọng và chiếm ưu thế. Để làm được bài văn hay,
người làm phải sử dụng được cả bốn kĩ năng và phải sử dụng được các kiến thức
Tiếng việt. Trong quá trình sử dụng kiến thức sẽ ngày được nâng lên. Làm văn
góp phần hoàn thiện mục tiêu quan nhất của việc dạy học đặc biệt là giao tiếp.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học phân môn Tập làm văn ở trường Tiểu học
hiện nay:
- Rất nhiều học sinh cảm thấy không hứng thú và có phần áp lực khi học
Tập làm văn.
- Đa số giáo viên có tâm lí “ngại” dạy vì nó đòi hỏi rất nhiều kĩ năng, nó
không chỉ cần có vốn sống, vốn kiến thức phong phú mà còn phải biết cách quan
sát tinh tế và nhạy cảm.
- Một số giáo viên còn gặp khó khăn trong quá trình thực hiện chương
trình sách khoa hiện hành.
- Đối tượng học sinh của chúng tôi là ở nông thôn đa số các em ít được
giao tiếp và va chạm với môi trường xã hội rộng, các em ít được đi tham quan
dã ngoại…nên các em chưa mạnh dạn và ngôn ngữ cũng hạn chế; vốn sống thực
tế và kinh nghiệm chưa phong phú.


Qua khảo sát chất lượng học sinh lớp 4; 5 những năm trước cho thấy kĩ
năng làm văn kiểu bài miêu tả chưa cao.
Xuất phát từ những lí do trên, qua trải nghiệm thực tế, qua nghiên cứu tìm
tòi; học hỏi; thực nghiệm, bản thân đã tìm ra một số biện pháp để giảm áp lực
tăng hứng thú học tập mang lại hiệu quả cao hơn trong làm văn miêu tả cho học
sinh lớp 4; 5. Bản thân đã mạnh dạn đưa ra SKKN “ Một số biện pháp giảm áp
lực tăng hứng thú và hiệu quả trong rèn luyện kĩ năng làm văn miêu tả cho học
sinh lớp 4; 5 Trường Tiểu học Thọ Thanh; Thường Xuân”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “ Một số biện pháp giảm áp lực tăng hứng thú và
hiệu quả trong rèn luyện kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4; 5 Trường
Tiểu học Thọ Thanh; Thường Xuân.” nhằm giúp học sinh lớp 4; 5 nói chung và
1


học sinh lớp 4; 5 của Trường Tiểu học Thọ Thanh nói riêng cảm thấy thoải mái
nhẹ nhàng hơn khi học. Mang lại kết quả học tập tốt hơn. Giúp học sinh có con
đường cách thức để học tập phân môn. Nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng dạy
học, đào tạo những con người phát triển toàn diện, năng động và sáng tạo, đảm
bảo mục tiêu mà ngành Giáo dục đề ra.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nội chung chương trình sách giáo khoa môn Tiếng việt ở Tiểu học, đặc
biệt là thể loại văn miêu tả trong phân tập làm văn.
- Phương pháp dạy tập làm văn ở Tiểu học.
- Việc dạy và học phân môn Tập làm văn và thể loại văn miêu tả ở lớp 4;
5 Trường Tiểu học Thọ Thanh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết, Tâm lí học Tiểu học đã chỉ rõ: Học sinh Tiểu học có
những đặc điểm tâm sinh lí và đặc điểm nhận thức đặc trưng khác với những
cấp học khác.
2.1.1. Một số đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học
Ở lứa tuổi tiểu học, học sinh có những đặc điểm tâm lí lứa tuổi đặc trưng.
Một trong những đặc điểm đó là: Tiểu học là giai đoạn các em đang chuyển dần
hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập vì thế khả năng điều khiển và kiểm
soát chú ý còn kém, tư duy có chủ định chưa bền vững nhưng các em lại vô
cùng hào hứng và cuốn hút theo các ý tưởng và kiến thức lí thú mới lạ. Các em
chỉ quan tâm và hứng thú với những môn học, những tiết dạy mà các em cảm
thấy hứng thú. Tư duy còn mang tính trực quan hình ảnh, nhanh nhớ chóng
quên, dễ thèm chóng chán, giàu cảm xúc rất dễ bị tổn thương và đặc biệt rất
thích được khen ngợi và động viên khuyến khích kịp thời.
2.1.2. Một số kiến thức, kĩ năng và biện pháp dạy học thể loại văn miêu tả
ở tiểu học
Ở đây, nói đến kiến thức, kĩ năng và biện pháp dạy học thể loại văn miêu
tả thì quả là vấn đề rộng nên tôi chỉ đề cập đến những vấn đề còn tồn tại chưa
được thông suốt trong thực tế dạy học.
a, Miêu tả là gì? Một bài văn miêu tả hay, thành công là thế nào?
Miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh cá cảm xúc làm cho người
đọc người nghe hình dung một các rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự vật,
sự việc như vốn có của nó trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những
chỉ thể hiện rõ nét, chính xác sinh động được đối tượng miêu tả mà còn phải thể
2



hiện trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối với đối tượng miêu
tả. Bởi vì trong thực tế không ai tả để mà tả mà thường để gửi gắm những suy
nghĩ, cảm xúc, tình cảm của mình.
b, Mục tiêu cơ bản và sự khác biệt giữa các kĩ năng sản sinh văn bản ở
dạng nói và dạng viết.
+ Làm văn miệng (nói): Làm văn miệng nhằm rèn luyện cho học sinh kĩ
năng trình bày bài nói theo chủ đề đã cho. Nó góp phần phát triển ở học sinh tiểu
học nói một bài theo hình thức đọc thoại và mang phong cách “khẩu ngữ”. Bài
nói này có những điểm riêng về nhiều mặt so với “bút ngữ” từ cách triển khai ý
cho đến các lựa chọn từ ngữ, kiểu câu cho đến cách lựa chọn các yếu tố phi
ngôn ngữ và kể cả các yếu tố phụ trợ và đến cả cách thu hút người nghe. Bài tập
làm văn nói không phải bài viết được nói nói lên.
Tuy nhiên cũng không nên tuyệt đối hóa danh giới giữa bài nói và bài
viết. Làm hai bài văn này đều sử dụng hệ thống kĩ thuật như nhau trong giai
đoạn chuẩn bị chỉ khác một số kĩ thuật trong giai đoạn thể hiện. Đặc biệt là sự
khác nhau trong công việc lựa chọn từ ngữ, kiểu câu do sự chi phối giữa hai
phong cách khẩu ngữ và bút ngữ.
Dạng bài văn nói giúp ích cho người học khi bước vào cuộc sống và học
lên các cấp học trên. Khả năng độc thoại theo chủ đề là kĩ năng mà mỗi người
thường gặp trong cuộc sống, trong học tập.
Điều cần quan tâm ở đây là hầu hết các bài văn miệng chưa mang lại hiệu
quả như mong muốn. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó đáng chú ý
nhất là chúng ta chưa tạo được điều kiện, hoàn cảnh nói năng, khích thích nhu
cầu của học sinh. Không có nhu cầu, không có hứng thú và động cơ thì hoạt
động nói năng của các em trở nên gượng gạo, không tự tin.
+ Làm bài viết: Tập làm văn viết nhằm luyện cho các em viết theo đề tài
đã cho. Trong hai dạng làm văn thì đây là dạng thành công hơn.
Bài tập làm văn viết là kết tinh nhiều mặt của năng lực sử dụng Tiếng việt
của học sinh vì thế bài văn viết được dùng để đánh giá năng lực của học sinh.
Trong thực tế giảng dạy đôi khi chúng ta vẫn quan niệm rằng : “Làm văn miệng

là chuẩn bị cho làm văn viết”. Điều này đúng không? Như trên đã nói, mỗi dạng
bài có yêu cầu, một nội dung và sản phẩm khác nhau. Chúng nhằm phát triển ở
người học năng lực sử dụng Tiếng việt theo hai phong cách khẩu ngữ và bút
ngữ. Xét về mặt ngôn ngữ học thì hai phong cách này tuy có điểm khác nhau
nhưng chúng có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau bổ sung cho nhau. Vì thế không thể
quan niệm rằng “Làm văn miệng là chuẩn bị cho làm văn viết”. Quan niệm như
vậy là chưa hiểu rõ vai trò của làm văn miệng, ảnh hưởng đến phương pháp
giảng dạy, ảnh hưởng đến kết quả học tập.
c, Từng bước cụ thể, mức độ quan trọng của từng bước và vai trò của
giáo viên trong việc mang lại hiệu quả qua từng bước dạy.
Để có một sản phẩm (một bài văn) đó là cả một quá trình. Quá trình đó
được thể hiện qua từng bước như sau:
Bước 1: Tích lũy vốn sống, vốn kinh nghiệm – Quan sát, tìm ý.
3


25 học sinh

Bước 2: Sắp xếp ý, lập dàn bài.
Bước 3: Trình bày bài văn miệng – Trình bày bài văn viết.
Bước 4: Đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm.
Lẽ thường trong thực tế chúng vẫn thường chú trọng và dành sự quan tâm
nhiều cho bước thể hiện bài làm (làm bài). Nhưng khoa học và công bằng thì
cần phải quan tâm dẫn dắt, giúp đỡ, khuyến khích động viên các em qua từng
bước một.
2.2. Thực trạng của việc dạy học thể loại văn miêu tả của bản thân
nói riêng và của Trường Tiểu học Thọ Thanh nói chung
+ Rất nhiều học sinh cảm thấy không hứng thú và có phần áp lực khi học
Tập làm văn bởi vì đôi khi đâu đó có còn có những quan niệm sai lệch đó là: Chỉ
nhìn và đánh giá kết quả học sinh qua sản phẩm bài làm của các em chứ chưa

quan tâm đến từng bước các em đã đi như thế nào, chưa để ý đến sự tiến bộ của
các em trong từng bước nhỏ từng chi tiết nhỏ theo đúng nguyên tắc của giáo dục
tiểu học nói chung và tinh thần của thông tư 30 và thông tư 22 nói riêng.
+ Đa số giáo viên có tâm lí “ngại” dạy vì nó đòi hỏi rất nhiều kĩ năng, nó
không chỉ cần có vốn sống, vốn kiến thức phong phú mà còn phải biết cách quan
sát tinh tế và nhạy cảm.
+ Một số giáo viên còn gặp khó khăn trong quá trình thực hiện chương
trình sách khoa hiện hành đó là nội dung kiến thức được cung cấp thông qua
các bài tập mà các bài tập lại rất đa dạng. Bên cạnh đó chương trình lại hình
thành kiến thức kĩ năng theo kiểu cắt ngang chia nhỏ từng phần của bài văn để
dạy như vậy tuy học sinh có thể nắm rõ cách làm từng phần riêng biệt nhưng nó
lại rời rạc và không lo gíc không hệ thống vì thế tất cả đòi hỏi giáo viên phải có
kiến thức sâu rộng và linh hoạt sáng tạo trong việc sử dụng phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học.
+ Đối tượng học sinh chưa mạnh dạn và ngôn ngữ cũng hạn chế; vốn sống
thực tế và kinh nghiệm chưa phong phú.
Qua khảo sát chất lượng học sinh lớp 4; 5 những năm trước cho thấy kĩ
năng làm văn kiểu bài miêu tả chưa cao, cụ thể.
2.2.1.Kết quả khảo sát:
Chất lượng khảo sát
Tổng số
Hoàn
Hoàn
Chưa hoàn
Các tiêu chí khảo sát
HS KS
thành tốt
thành
thành
SL % SL % SL

%
Hứng thú học tập, tích cực, tự
18 72 7 28
giác.
Nắm vững kiến thức kĩ năng
20 80 5 16
cơ bản.
Kĩ năng thực hành và khả
9
36 16 64
năng sáng tạo.
Khả năng vận dụng.
10 40 15 60

4


2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
- Do học sinh tiểu học có những đặc điểm riêng về tâm lí mà đôi khi
người dạy học chưa chú ý và quan tâm đúng mức, chưa tạo được hứng thú học
tập, chưa quan tâm đến những khó khăn mà học sinh gặp phải, có lúc còn hạn
chế lời khen chưa động viên khuyết khích kịp thời.
- Do đặc thù của làm văn là đòi hỏi rất nhiều kĩ năng, nó không chỉ cần có
vốn sống, vốn kiến thức phong phú mà còn phải biết cách quan sát tinh tế và
nhạy cảm.
- Do một số giáo viên còn gặp khó khăn trong quá trình thực hiện chương
trình sách khoa hiện hành đó là nội dung kiến thức được cung cấp thông qua
các bài tập mà các bài tập lại rất đa dạng. vì vậy tất cả đòi hỏi giáo viên phải có
kiến thức sâu rộng và linh hoạt sáng tạo trong việc sử dụng sử dụng phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học.

- Do đối tượng học sinh của chúng tôi là ở nông thôn đa số các em ít được
giao tiếp và va chạm với môi trường xã hội rộng, các em ít được đi tham quan
dã ngoại…nên các em chưa mạnh dạn và ngôn ngữ cũng hạn chế; vốn sống thực
tế và kinh nghiệm còn chưa phong phú.
2.3. Các biện pháp cụ thể:
Từ những cơ sở lí luận và thực tế ở Trường Tiểu học Thọ Thanh cùng với
kết quả khảo sát tôi đã nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng thành công sáng kiến kinh
nghiệm với các biện pháp cụ thể như sau:
Biện pháp 1: Thấu hiểu đặc điểm tâm lí học sinh, cảm nhận những
khó khăn mà các em gặp phải để có cách thức giúp đỡ, tạo hứng thú cho các
em qua từng bước, từng chi tiết khi thực hiện làm văn miêu tả.
Cụ thể:
Bước tích lũy vốn sống và quan sát, tìm ý: Thực tế giảng dạy có hai vấn
đề còn tồn tại.
Vấn đề thứ nhất: Học sinh chưa có ý thức chủ định trong việc tích lũy vốn
sống, vốn hiểu biết cho mình về mảng kiến thức có liên quan.
Vấn đề thứ hai: Học sinh chưa biết cách quan sát.
- Để khắc phục vấn đề thứ nhất tôi có một số biện pháp nhỏ sau: Khi dạy
các em phân môn khác hoặc môn học khác tôi luôn có ý thức dạy đầy đủ và giúp
học sinh lưu tâm những kiến thức và mảng kiến thức có liên quan. Bên cạnh đó
tuy nhà trường chưa có điều kiện tổ chức đi tham quan dã ngoại riêng biệt .
Xong ở những lúc ngoài giờ có cơ hội gần gũi các em như: giờ giải lao, giờ lao
động, giờ ngoại khóa... tôi đều tận dụng để giúp các em vừa học vừa chơi.
VD: Để thay đổi không khí trong giờ lao động, tôi có thể giúp học sinh
quan sát bầu trời bằng cách gợi mở cho các em: “ Nói cho cô một câu về màu
sắc của bầu trời lúc này!”. Hay khi đứng trên ban công cùng học sinh, trước một
cây phượng nở hoa đột ngột, tôi có thể giúp học sinh quan sát: “ Các em nhìn
kìa! Cây phượng kia hôm nay đã thay một chiếc áo mới!”. Hay trong những
phút giải lao chuyển tiết, tôi có thể giúp học sinh quan sát gương mặt của mỗi
5



người bằng: “ Đố các em tìm ra nét riêng khác biệt giữa gương mặt của bạn
Ngọc Nhi và bạn Ngọc Huyền?” vv..
Với vấn đề thứ hai, để học sinh biết quan sát tôi đã dạy cho các em cách
quan sát đó là:
Quan sát không chỉ biết nhìn thấy mà phải biết nghe thấy, biết ngửi thấy,
sờ thấy và cảm nhận thấy... Tức là phải quan sát bằng tất cả các giác quan.
Quan sát phải là một hoạt động có chủ định, có động cơ, có hứng thú để đi
đến kết quả, kết quả trong quan sát để miêu tả đó là việc đem lại nhận thức mới,
cảm xúc mới có tính thẩm mĩ trong cảm nhận về đối tượng.
Quan sát không chỉ là cảm nhận bề ngoài mà là sự nhập thân hóa thân vào
sự vật, sống đời sống của nhân vật.
Quan sát phải gắn liền với liên tưởng, tìm ra những nét đồng nhất, nét độc
đáo của sự vật gắn liền với tình cảm thái độ của tác giả.
Điều hết sức quan trọng là quan sát phải có lựa chọn không phải thấy gì tả
nấy, phải tìm ra nét đặc trưng, nét tiêu biểu của đối tượng tránh liệt kê kể lể khô
khan, vô hồn...
Vấn đề này là cả một quá trình, ngoài việc giúp các em thấm nhuần các
vấn đề trên qua các tiết học, bài học qua việc phân tích các câu văn, ý văn, đoạn
văn điển hình của các tác giả thành công (Cảm thụ văn học) thì tôi luôn luôn
theo sát, cận kề, giúp đỡ, khuyến khích các em khi các em quan sát.
VD: Trong giờ ra chơi tôi có thể hỏi các em: “ Bây giờ, trong không gian
xung quanh đây, các em thấy những âm thanh gì, màu sắc gì và mùi vị gì?...”
Hay: Trong lớp, ngoài trời đang mưa to, cô có thể: “ Các em tìm cho cô
một từ chính xác để tả tiếng mưa rơi lúc này.”
Hay: Nếu quan sát để tả một cây bóng mát thì các em quan sát kĩ bộ phận
nào? Còn quan sát một cây hoa thì các em lại cần quan sát kĩ bộ phận nào? vv...
Bước sắp xếp ý, lập dàn bài:
Đây là bước không có tầm quan trọng đặc biệt như các phần còn lại

nhưng nó cũng góp phần không nhỏ vào thành công của bài văn. Đó là lúc mà
cô cần giúp học sinh cần phải biết sắp xếp các ý mà mình quan sát được theo
trình tự hợp lí về không gian hay thời gian. Từ gần đến xa hay từ xa đến gần, từ
mới đến cũ hay cũ đến mới, từ rộng đến hẹp hay từ hẹp đến rộng, hoặc có thể
theo mạch liên tưởng hay mạch cảm xúc của sự hồi tưởng, tưởng tượng.
Bước diễn đạt - Trình bày bài làm của mình:
Đây là bước quan trọng – Vấn đề không phải bàn cãi. Nó có vai trò đặc
biệt hơn đối với dạng bài làm văn nói vì ở đây nó bao gồm cả bước nhận xét
đánh giá kết quả bài làm của học sinh.
Như trên đã nói: Dạy làm văn miệng không chỉ với mục đích chuẩn bị cho
làm văn viết mà còn có mục tiêu riêng. Đó là kĩ năng trình bày bài theo phong
cách khẩu ngữ. Học sinh biết sử dụng từ ngữ, kiểu câu đúng với ngôn ngữ nói,
ngoài ra còn phải sử dụng cả các yếu tố phi ngôn ngữ để thể hiện nội dung, cảm
xúc đó là điệu bộ, cử chỉ, nét mặt vv... Bên cạnh đó học sinh phải biết tự tin và
tự nhiên và có nhiều cảm hứng khi nói. Vậy giáo viên phải là người giúp các em
6


vượt qua điều này. Đó là tạo ra hoàn cảnh tự nhiên để các em cảm thấy hứng thú
trong hoạt động nói của mình.
VD: Với đề bài: Tả một cảnh đẹp ở địa phương em. Tôi nói rằng: “ Khi
bằng tuổi các em, thỉnh thoảng cô thường chợt nhận ra những cảnh thật đẹp ở
xung quanh mình, cảm giác đó thật thích. Bây giờ do nhiều yếu tố chi phối nên
ít tìm thấy cảm giác ấy. Vậy nên cô muốn các em sẽ thay nhau nói về một cảnh
đẹp của quê hương để cô và các bạn cùng chia sẻ”
Tôi khuyến khích động viên các em kịp thời để các để tạo hứng thú cho
các em. Để làm được điều này, hơn tất cả là thái độ lắng nghe của cô. Nếu cô
lắng nghe các em một cách chăm chú, say sưa, cùng suy nghĩ, cùng cảm nhận
với học sinh đó chính là nguồn động viên khuyến khích các em rất nhiều. Bên
cạnh đó là cách nhận xét đánh giá, đối với những em làm tốt khen là đương

nhiên nhưng đối với những em thực hiện chưa đạt thì cần phải thấy các em đã cố
gắng thực hiện như thế nào? Ví dụ như: “ Tuy phần thể hiện của em chưa nói lên
được vẻ đẹp của ảnh vật nhưng em đã có quan sát và mạnh dạn trình bày trước
các bạn. Nếu lần sau em chú ý quan sát và sử dụng các từ ngữ phù hợp hơn thì
em sẽ làm tốt đấy!”...
Ngoài ra, cô còn phải linh hoạt và nhạy cảm trong việc chấm chữa bài và
nhận xét cho học sinh, giáo viên cần có kĩ năng phân tích tổng hợp nhạy bén để
kịp thời nhận xét sửa chữa cho các em.
Đối với dạng bài viết, ở bước này cô có thể nhàn hơn. Tuy nhiên cũng cần
lưu ý tạo điều kiện cho các em có sức tập trung cao độ, tạo không khí yên tĩnh
cho học sinh làm bài, tránh tình trạng học sinh đang làm bài mà cô vẫn hướng
dẫn nhắc nhở các em khác quá to.
Bước nhận xét, đánh giá rút kinh nghiệm:
Bước này nằm chủ yếu ở tiết trả bài. Đây cũng là bước đặc biệt quan
trọng. Đó là lúc mà học sinh nhìn nhận đánh giá và rút kinh nghiệm cho bài làm
của mình. Lúc này cô có điều kiện giúp các em tự điều chỉnh, tự học tập tiến bộ.
Để có tiết trả bài hiệu quả giáo viên cần:
- Đánh giá chung về việc thực hiện yêu cầu đề bài: Cho học sinh nhắc lại
yêu cầu của đề bài: Thể loại, nội dung trọng tâm.
- Nêu những ưu nhược điểm cho học sinh về việc thực hiện các yêu cầu
trên. Dẫn chứng cụ thể qua bài làm của các em do cô chuẩn bị (chỉ nên tên các
em có ưu điểm, những em có nhược điểm thì nên nhận xét riêng)
- Nhận xét lỗi bố cục (3 phần): Chữa các lỗi phổ biến về các mở bài, kết
bài, cách sắp xếp ý phần thân bài.
- Chữa lỗi về nội dung: Sai, chưa chính xác, thiếu ý, hoặc các chi tiết
chưa hợp lí...
- Nhận xét về lỗi dùng từ đặt câu: Cô nêu những nhược điểm dùng từ đặt
câu, chính tả,... có minh họa bài làm của các em và kết hợp với sửa lỗi lỗi biến
trong bài.
- Thực hiện trả bài cho học sinh và giúp các em chữa lỗi trong bài.


7


Như vậy tiết trả bài cần được cô chuẩn bị công phu từ lúc chấm bài. Cô
phải thống kê phân tích, phân loại lỗi phổ biến, chuẩn bị các dẫn chứng cụ thể để
minh họa. Cô cần phải soạn giáo án chi tiết cho tiết trả bài có sự gợi mở dẫn dắt
ứng sử linh hoạt trên lớp. Ngoài yêu cầu chuyên môn, việc chấm chữa bài còn
cần sự thấu hiểu về đặc điểm lứa tuổi, là sự thể hiện tinh thần trách nhiệm, là lúc
thể hiện cái tâm của người thầy theo đúng tinh thần của thông tư 30 và thông tư
22 của Bộ Giáo dục Đào tạo. Điều này có lẽ ai cũng có xong việc thể hiện thế
nào và mang lại hiệu quả ra sao chưa hẳn ai cũng làm tốt được. Vậy nên ở vấn
đề này tôi xin đưa ra một số biện pháp nhỏ như sau:
* Khi chấm chữa bài cho học sinh cô phải là chính các em hoặc ít nhất
cũng là người đồng hành cùng các em, có như thế thì việc nhận xét sửa chữa
mới làm cho các em thấy phấn khởi, thấy thỏa đáng và mang lại hiệu quả dạy
học cao hơn.
VD: Trong trường hợp: Khi tả cây ăn quả học sinh có câu văn “ Đây là lúc
hoa xoài nở rộ, cả cây xoài như một mái nhà lợp bằng màu vàng đậm của hoa”.
Lẽ thường trong tư duy của chúng ta, cả cây xoài phải được so sánh như một cái
ô khổng lồ hoặc là ngôi nhà chứ sao lại là một mái nhà? Nếu như giáo viên
không phải là người cũng đã từng quan sát cây cây xoài như thế hoặc hỏi em câu
hỏi Tại sao? Thì làm sao biết được quả đúng trong vườn nhà em có một cây xoài
như vậy. Đó là cây xoài lai, nó có thật nhiều hoa. Không hiểu vì gió hay vì phía
bên kia bị rợp mà tất cả các cành hoa xoài đều xỏa sang một bên và lợp kín bằng
màu vàng của hoa như một mái nhà chứ hoàn toàn không phải một ngôi nhà.
Hay: Khi tả cô giáo có khuôn mặt gầy, hai má hóp lại thì học sinh tả: “ Cô
có khuôn mặt gầy gầy xương xương. Mỗi khi cười hay nói, hai má trông như hai
miếng phồng tôm rán”. Và khi tả một chú công an có cái mũi to tẹt mà lại phồng
to ở hai cánh mũi, da lại xù xì thì học sinh tả: “ Chú có cái mũi giống như bụng

con cóc ăn no”. Vậy với những trường hợp như thế này ta nên khen hay chê
đây? Sửa chữa cho các em như thế nào? Ở đây tôi đã bỏ công tìm hiểu xem điều
mà các em tả có đúng như vốn có trong thực tế của nó không. Đó đúng là như
vậy và tôi đã khen nhiều hơn chê. Khen ở chỗ: Học sinh đã có sự quan sát thực
tế và sử dụng hình ảnh so sánh cực kì chính xác. Đó là điều mà các em tự phát
hiện ra chứ không phải bắt chước, khuôn mẫu và sáo rỗng như đã từng được
nghe, được đọc ở đâu đó. Tuy vậy tôi cũng cần phải góp ý cho học sinh: Các em
sử dụng hình ảnh như vậy là chưa thẩm mĩ để phù hợp với chủ đề tư tưởng tình
cảm của bài văn. Các em nên lựa chọn những hình ảnh cũng chính xác mà lại
thẩm mĩ hơn.
Không những thế mà khi chấm bài giáo viên còn phải phát hiện ra những
cố gắng và tiến bộ, sáng tạo dù rất nhỏ để khuyến khích động viên các em kịp
thời.
VD: Với một em ít khi viết được những câu hoàn chỉnh, nhưng hôm nay lại viết
đúng được vài câu thì cô cần phải khen ngay: “Hôm nay con viết được câu “...”

8


và câu “...” có đầy đủ chủ ngữ vị ngữ, biết viết hoa đầu câu lại có dấu chấm ở
cuối câu. Cô khen nhiều, con cố gắng phát huy nhé!”.
Hay: Khi học sinh tả Bà học sinh viết: “ Mỗi tối bà lại kể chuyện cổ tích
cho em nghe, đưa em vào giấc ngủ sâu lòng”. Từ “sâu lòng” ta nghe thấy lạ, đây
là từ mới mà học sinh đã phát hiện ra và sử dụng rất chính xác trong hoàn cảnh
này. Nó giúp người nghe cảm nhận rõ ràng đây là một giấc ngủ ngon trong tận
tâm. Như vậy giáo viên cần phát hiện điều này và khen ngợi học sinh thỏa đáng.
Vv..
Ngoài sự nhạy cảm của giáo viên trong việc chữa lỗi dùng từ đặt câu, sửa
ý văn cũng đặc biệt quan trọng. Cô không nên cảm nhận bài văn của học sinh
bằng nhãn quan của mình mà phải bằng nhãn quan của học sinh. Để từ đó có

cách sửa sao cho vừa mang đặc thù của tư duy trẻ thơ vừa có ý tứ của người dạn
dày kinh nghiệm.
VD: Khi miêu tả chi tiết bé cho trâu ăn dọc theo bờ ruộng, hai bên lúa xanh mơn
mởn nhưng trâu lai không ăn lá lúa mà chỉ ăn cỏ. Học sinh viết: “ Em dắt cho
trâu ăn dọc theo bờ ruộng. Nó không bao giờ ăn những cây lúa tốt tươi mà chỉ
ăn những cây cỏ nhỏ trên bờ ruộng.” Ở đây giáo viên phải hiểu điều mà các em
muốn diễn tả để từ đó giúp các em dùng những biện pháp tu từ để làm cho câu
văn trở nên sinh động, giàu hình ảnh và cảm xúc hơn. Vậy có thể sửa lại là: “Em
dắt cho trâu ăn dọc theo bờ ruộng. Dường như chú rất thèm những khóm lúa
mượt như nhung kia, nhưng chú chẳng bao giờ đụng đến một ngọn lúa nào mà
chỉ gặm những nhánh cỏ xơ xác trên bờ ruộng, bởi vì chú không muốn làm
phiền lòng cô chủ nhỏ đang đứng ở bên cạnh mình.”. Vv..
Biện pháp 2: Tăng cường tổ chức các hoạt động thi đua hoặc trò chơi
để dạy làm văn miêu tả.
Như trên đã nói đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học là khả năng điều
khiển và kiểm soát chú ý còn kém, tư duy có chủ định chưa bền vững và các em
lại vô cùng hào hứng và cuốn hút theo các ý tưởng và kiến thức lí thú mới lạ.
Các em chỉ quan tâm và chú ý với những môn học, những tiết dạy mà các em
cảm thấy hứng thú. Như vậy việc tổ chức các hoạt động dưới hình thức thi đua
hoặc trò chơi là các tốt nhất để tạo hứng thú học tập và tránh được mệt mỏi, áp
lực cho các em. Giúp các em hào hứng tham gia học mà không biết mình đang
học. Học mà chơi – Chơi mà học. Vì vậy tôi đã thực hành một số một số hoạt
động như sau:
* Tổ chức thi “ Những điều em muốn viết” gửi vào “Hộp thư vui” của
lớp.
Cách tổ chức thực hiện như sau:
Ở cuối lớp đã chuẩn bị sẵn một bảng trang trí có gắn các hộp thư riêng
của từng thành viên trong lớp, kể cả cô giáo và thêm một hộp dự phòng. Thường
ngày học sinh có thể viết tất cả những điều mình muốn nói với bạn hoặc cô giáo
mà có thể không có cơ hội hoặc là điều khó nói để bỏ vào hộp thư của người ấy


9


(người viết có thể dấu tên). Và cũng mỗi ngày mỗi người có thể kiểm tra và đọc
thư mà mọi người viết cho mình. Đó cũng là cách để các em rèn luyện kĩ năng
viết. Nhưng để vận dụng cụ thể vào việc dạy làm văn miêu tả tôi đã làm như
sau: VD: Để chuẩn bị cho đề bài “ Hãy tả một thầy giáo (cô giáo) đã để lại cho
em nhiều ấn tượng và tình cảm tốt đẹp.” vào tuần sau thì tuần này tôi phát động:
Mỗi bạn thi viết một đoạn văn khoảng 5 câu miêu tả về hình dáng của thầy (cô)
mình định tả bỏ vào hộp thư của cô hoặc hộp thư dự phòng. 15 phút đầu giờ thứ
hai tuần sau cô sẽ đọc và cùng các bạn nhận xét. Tiếp tục làm tương tự với yêu
cầu tả về tính tình để nhận xét vào thứ ba, tả về các kỉ niện đáng nhớ để nhận xét
vào thứ tư. Sau khi được cô giáo và các bạn nhận xét mỗi bạn tự tổng hợp lại,
nếu có nhiều câu văn đúng và hay được cô và các bạn khen sẽ được thưởng môt
lá cờ thi đua. Vì không cần viết tên người viết nên các em rất thoải mái trong
việc lựa chon ai để viết, và thoải mái miêu tả theo sự thực như vốn có trong cuộc
sống không phải ngại cô hay các bạn. Và người nhận xét cũng vô cùng thoải mái
không phải nể nang. Kết quả thu được là các em vô cùng hào hứng tham gia,
mạnh dạn nhận xét và rút được rất nhiều kinh nghiệm cho bài làm của mình.

Ảnh học sinh đang kiểm tra và đọc thư trong hộp thư của mình

10


Ảnh cô giáo đang kiểm tra và đọc thư trong hộp thư của mình
Với cách làm này, tôi có thể sử dụng cho tất cả các đề bài miêu tả trong
chương trình lớp 4;5.
Ngoài ra tôi tận dụng hộp thư dự phòng của lớp để tổ chức trò chơi

“Hộp thư chạy” như sau:
* Trò chơi “Hộp thư chạy”
Cách tổ chức thực hiện:
Hộp thư sẽ được chuyền từ bạn này sang bạn khác một cách khẩn trương,
gọn gàng theo nhịp bài hát nào đó. Khi có hiệu lệnh của giáo viên, hộp thư dừng
chạy. Học sinh nào đang cầm hộp trên tay phải mở hộp ra bốc câu hỏi trả lời.
Nếu trả lời đúng được cả lớp tuyên dương, nếu không trả lời được sẽ phải thực
hiện một hình phạt nhẹ nhàng do giáo viên quy định và học sinh khác sẽ xung
phong trả lời thay bạn. Giáo viên nhận xét và cho trò chơi tiếp tục.
Khi dạy về quan sát, tìm ý và lập dàn bài tôi thường tổ chức "Hộp thư
chạy". Bằng một hệ thống câu hỏi chuẩn bị sẵn mang tính gợi mở đòi hỏi HS
phải độc lập suy nghĩ, quan sát để tìm hiểu được vấn đề. Tuỳ dạng bài mà giáo
viên chọn hệ thống câu hỏi phù hợp cho trò chơi.
Sau khi cho học sinh quan sát tranh, hình ảnh tĩnh, động, vật thật để giúp học
sinh tái hiện nội dung khi ta quan sát, nhận biết. Giáo viên có thể chuẩn bị hệ
thống câu hỏi như sau
Bài "Tả chiếc áo em mặc đến trường hôm nay"
- Chiếc áo em mặc màu gì?.
11


- Nó được làm bằng chất liệu gì?
- Nó có mấy bộ phận ?
- Thân áo được trang trí như thế nào?
- ...
- Em gìn giữ áo ra sao? Tình cảm của em với chiếc áo thế nào?
Tôi cũng có thể vận dụng trò chơi này vào rất nhiều tiết dạy làm văn miêu
tả ở cả lớp 4 và lớp 5.
Để thay đổi không khí tôi còn tổ chức một số trò chơi khác như:
* Trò chơi “Thi tìm từ nhanh”

Cách tổ chức thực hiện :
Chuẩn bị 2 bảng phụ có ghi các câu yêu cầu và vác ô trống để gắn các thẻ
từ; các thẻ từ có ghi các từ ngữ phục vụ nội dung bài học. Giáo viên nêu cách
chơi : Chọn 2 đội, mỗi đội 2 đến 4 em (tùy thuộc vào số lượng từ) cùng tham gia
trò chơi. Trước khi bắt đầu trò chơi giáo viên gắn yêu cầu cần tìm lên bảng, Sau
khi có hiệu lệnh 2 nhóm nhanh chóng tìm từ giáo viên đã cho sẵn, gắn lên bảng
khi có hiệu lệnh hết giờ, 2 nhóm dừng trò chơi, nhóm nào tìm được nhiều từ
hơn, chính xác và phù hợp hơn là nhóm thắng cuộc.
Lưu ý: Trước khi chơi học sinh phải được quan sát hình ảnh có thể bằng vật
thật, hình ảnh động hoặc tĩnh mà giáo viên đã chuẩn bị.
*Trò chơi “Thi đố bạn”
Cách tổ chức thực hiện:
Mỗi tổ chuẩn bị từ hai đến ba đoạn văn, trong đoạn văn đó có sử dụng
biện pháp nghệ thuật. Tổ này đọc đoạn văn của tổ mình và yêu cầu tổ bạn nêu
biện pháp nghệ thuật mà tổ đã sử dụng trong đoạn văn đó. Biện pháp nghệ thuật
được sử dụng trong đoạn văn là hình ảnh so sánh, nhân hóa, … tác dụng của nó.
Cứ như vậy đến tổ khác lên đọc đoạn văn rồi mời tổ bạn tìm và nhận xét. Đội
nào nói đúng, nhanh là thắng cuộc.
* Trò chơi “Tuyển chọn biên tập viên”
Đối với những tiết chữa bài, tôi thường tổ chức cho các em “Tập viết câu
đúng câu hay” bằng trò chơi “Tuyển chọn biên tập viên”
Cách tổ chức thực hiện:
Ghi lại một số câu sai ngữ pháp trong bài làm hoặc một số câu viết chưa
có hình ảnh và cảm xúc vào mảnh giấy nhỏ bỏ vào hộp của mỗi nhóm. Các
nhóm đọc kỹ câu sai, xác định rõ nguyên nhân sai và chữa lại cho đúng cho hay
(chỉ được thay đổi một số từ, không viết lại thành câu có ý khác hẳn ý của câu
cũ), chữa lại bằng nhiều cách thì càng tốt trong thời gian cho phép hoặc viết câu
lại cho có hình ảnh. GV và cả lớp nghe từng nhóm đọc kết quả để đánh giá nhận
xét. Kết thúc cuộc thi GV cộng kết quả đạt được của từng nhóm và công bố kết
quả nhóm có kết quả cao nhất được tuyển chọn làm “Biên tập viên”

Biện pháp 3: Sử dụng công nghệ thông tin và các phương tiện nghe
nhìn để giúp học sinh tăng hứng thú và hiệu quả trong làm văn miêu tả:
12


Như trên đã nêu, đặc điểm của học sinh tiểu học là tư duy trực quan sinh
động. Cái gì được nhìn thấy, nghe thấy thì các em sẽ dễ dàng tiếp nhận. Trong
thực tế không phải cái gì, người nào, cảnh nào các em cũng đã từng được quan
sát hoặc có thể được quan sát rồi nhưng các em chẳng lưu tâm. Vì vậy nếu có
được những hình ảnh thực tế để các em quan sát để làm bài thì tốt biết mấy.
Điều đó chẳng khó khăn gì, vì hầu như đa số giáo viên ai cũng có một chiếc điện
thoại có thể quay phim chụp ảnh. Máy tính và máy chiếu thì trường nào cũng có.
Vận dụng điều này, tôi đã luôn để ý để lưu lại những hình ảnh thiết thực để các
em có thể quan sát hỗ trợ khi làm các bài miêu tả.
VD: Có thể sử dụng các hình ảnh sau vào các đề bài : Tả quang cảnh
trường em. Tả cây bóng mát đã gắn bó với em. Tả cảnh đẹp ở quê hương em.
Vv...

Trường Tiểu học Thọ Thanh

Hồ Cửa Đạt

Cây đa Trường TH Thọ Thanh

Đập Bái Thượng

Đồng thời khi gặp các đề bài mà đối tượng học sinh của mình sẽ gặp khó
khăn vì các em chưa từng được biết, chưa từng được trải nghiệm ví dụ như:
“Giới thiệu về một trò chơi hoặc một lễ hội ở quê hương em.” Thì cô cần phải
giúp các em chuẩn bị trước tư liệu. Khi vào tiết học dành thời gian hợp lí

13


khoảng 5 phút giúp học sinh tìm hiểu về một trò chơi hoặc một lễ hội đặc trưng
nào đó ở quê hương . Vùng đất Địa linh Nhân kiệt - Quê hương Thanh Hóa quê
ta có rất nhiêu lễ hội ý nghĩa nhưng chắc đã có mấy em được tham gia Ví dụ
như: Lễ hội Đền Độc Cước; lễ hội Nàng Han – Vạn Xuân; Lễ hội Lam Kinh...
Thông tin, kiến thức mà cô có thể đưa đến cho học là rất phong phú cô có thể dễ
dàng khai thác và tìm hiểu được. Tuy vậy, để nguồn thông tin này dễ dàng đi vào
tiềm thức của học sinh trong khuôn khổ thời gian có hạn đồng thời kịp để học
sinh có thể vận dụng và liên hệ được, tôi đã nghiên cứu, chắt lọc và xử lí chúng
để tạo thành một đơn vị ngắn gọn, cô đọng xúc tích và cập nhật gần gũi để đưa
đến cho học sinh. Chẳng hạn: Đối với Lễ hội Lam Kinh giáo viên có thể
download một số video phù hợp rồi cắt ghép để tạo thành một đoạn ngắn với
dung lượng khoảng hai phút để học sinh quan sát và tìmhiểu.

Kích vào xem video

vivideovideo
(Ảnh đoạn video về lễ hội Lam Kinh)
Từ hình ảnh trực quan sinh động và hấp dẫn đó, cùng với những thông tin
kiến thức thực tế, gần gũi các em sẽ dễ dàng vận dụng vào bài văn của mình
ngoài ra các em còn có thể liên hệ với bản thân như các em sẽ rất mong muốn
được tham gia lễ hội để tìm hiểu, được thể hiện tình cảm, thể hiện lòng biết ơn
và tưởng nhớ tới các vị anh hùng dân tộc của quê hương Thanh hóa. Chắc chắn
rằng các các em sẽ còn tiếp tục tìm hiểu sâu hơn và góp phần mình vào việc giữ
gìn và phát huy nét đẹp văn hóa của người dân Thanh Hóa nói riêng và người
dân cả nước nói chung qua việc tổ chức lễ hội.
Tôi thường sử dụng tiện ích của mạng Internet và công nghệ thông tin để
hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động dạy học, thông qua đó học sinh không chỉ nắm

vững được nội dung kiến thức mà còn tăng khả năng vận dụng thực hành và liên
hệ thực tế.
2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm
Sau quá trình nghiên cứu đã thực nghiệm sáng kiến kinh nghiệm ở đối
tượng học sinh lớp mình phụ trách và đã thu được kết quả như sau:
14


25 học sinh

- Học sinh hứng thú và hăng hái tích cực hơn trong học tập, nắm được các
kiến thức kĩ năng cơ bản theo yêu cầu, tiết học diễn ra nhẹ nhàng.
- Học sinh có vốn sống, vốn kiến thức phong phú hơn biết cách quan sát
tinh tế và nhạy cảm hơn.
- Giải quyết được khó khăn trong quá trình thực hiện chương trình sách
khoa hiện hành, giáo viên có kiến thức sâu rộng và linh hoạt sáng tạo trong việc
sử dụng sử dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
- Học sinh giao tiếp mạnh dạn và ngôn ngữ cũng phong phú hơn vốn sống
thực tế được cải thiện.
- Điều kiện giao tiếp giữa giáo viên và học sinh được mở rộng, học sinh
được hình thành thêm nhiều kĩ năng khác.
Cụ thể kết quả kiểm tra vào thời điểm gần đây như sau:
Chất lượng khảo sát
Tổng
Hoàn
Hoàn
Chưa hoàn
số HS
Các tiêu chí khảo sát
thành tốt

thành
thành
KS
SL
% SL % SL
%
Hứng thú học tập, tích cực, tự
22
88 3 10
giác.
Nắm vững kiến thức kĩ năng
20
80 5 20
cơ bản.
Kĩ năng thực hành và khả
15
60 10 40
năng sáng tạo.
Khả năng vận dụng.
16
64 9 36
Qua bảng số liệu khảo sát ta thấy: Tất cả các tiêu chí về kĩ năng làm văn
của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Các biện pháp thực hiện của sáng kiên
kinh nghiệm đã thực sự mang lại hiệu cao.

3. Phần kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Qua thực tế thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, tôi cùng các đồng nghiệp,
dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của Ban lãnh đạo nhà trường đã rút bài học kinh
nghiệm như sau:

Để giảm áp lưc, tăng hứng thú và hiệu quả trong việc rèn kĩ năng làm văn
miêu tả cho học sinh lớp 4; 5 giáo viên cần:
Thứ nhất: Thấu hiểu đặc điểm tâm lí học sinh, cảm nhận những khó khăn
mà các em gặp phải để có cách thức giúp đỡ, tạo hứng thú cho các em qua từng
bước, từng chi tiết khi thực hiện làm văn miêu tả.

15


-Thứ hai: Tăng cường tổ chức các hoạt động thi đua hoặc trò chơi để dạy
làm văn miêu tả.
Thứ ba: Sử dụng công nghệ thông tin và các phương tiện nghe nhìn để
giúp học sinh tăng hứng thú và hiệu quả trong làm văn miêu tả.
Sáng kiến kinh nghiệm đã thực nghiệm hiệu quả ở Trường Tiểu học Thọ
Thanh và nó còn có thể thực thi có hiệu quả ở tất cả các trường trên toàn huyện
và rộng hơn nữa.
Sáng kiến kinh nghiệm có thể làm cơ sở để phát triển các sáng kiến kinh
nghiệm khác về đề tài Dạy học kĩ năng làm văn miêu tả tiếp theo của bản thân
cũng như của đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị: Bản thân xin kiến nghị, các cụm trường cũng như Phòng
Giáo dục và đào tạo nên tổ chức thường xuyên hơn các dịp giao lưu trao đổi các
đề tài khoa học cũng như các SKKN để các giáo viên chúng tôi có cơ hội học
hỏi nhiều hơn.

Thanh Hóa, ngày 02 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của
mình viết, không sao chép của người khác.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Người viết:

Lê Thị Bách

16



×