Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài thu hoạch cuối khoá lớp Trung cấp lý luận năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.81 KB, 17 trang )

Mở đầu
1.

Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng học để hiểu biết, để làm việc, học để
phục vụ cách mạng, học để phục vụ nhân dân, học để làm người. Muốn vậy, phải
có thói quen đem lý luận liên hệ với thực tiễn, đem những lý luận đã tiếp thu được
cùng với những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong đời sống hằng ngày áp dụng
vào công việc thực tế. Theo Người, học ở trong ghế nhà trường, trong sách vở chưa
đủ, phải học cả trong cuộc sống, học ở những người xung quanh. Người nói “Lý
luận mà không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn mà không có lý luận là thực
tiễn mù quáng”.
Vì vậy, để học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, việc đi nghiên cứu
thực tế là phần học trong chương trình đào tạo. Trong thời gian đi nghiên cứu thực
tế theo chương trình, kế hoạch, học viên được nghe các báo cáo viên tại cơ sở báo
cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, trao đổi và giải đáp thắc
mắc về các vấn đề học viên quan tâm, đồng thời kết hợp tham quan những thắng
cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng để làm phong phú hơn về kiến thức cũng như số liệu
thực tế để phục vụ cho việc viết bài thu hoạch sau khi kết thúc chuyến đi nghiên
cứu thực tế. Thông qua việc đi nghiên cứu thực tế tại cơ sở, được tiếp xúc và làm
việc cụ thể với cơ sở đã giúp cho học viên có cái nhìn khách quan, vận dụng được
các kiến thức đã học, đồng thời giúp học viên củng cố, bổ sung kiến thức lý luận
đã được học trên lớp gắn với thực tiễn, tích lũy kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý mới,
hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện của học viên.
Qua thời gian học tập và nghiên cứu lý luận trên lớp, các giảng viên đã
truyền đạt những kiến thức cơ bản. Để liên hệ với thực tế, ngày 17/9/2019, Hiệu
trưởng Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ đã ban hành kế hoạch số 56-KH/TCT đi
nghiên cứu thực tế của lớp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính khoá 13 năm
2019 và Quyết định số 526-QĐ/TCT ngày 19/9/2019 thành lập đoàn đi nghiên cứu
thực tế cuối khoá tại thành phố Đà Nẵng và thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam từ


ngày 07/10/2019 đến ngày 10/10/2019. Đoàn đã đi thăm quan các danh thắng của
thành phố Đà Nẵng, Hội An và nghe báo cáo về tỉnh hình kinh tế xã hội thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam do đồng chí Lê Chơi, Phó bí thư thường trực thành phố
Hội An trực tiếp báo cáo.
2.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là quá trình phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam.
Phạm vi nghiên cứu là tình hình phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hội An
giai đoạn từ năm 2008 – 2018.


Phần nội dung
Chương 13.

Cơ sở lý luận

Khái quát về nền kinh tế thị trường

Cùng với lịch sử phát triển của loài người thì kinh tế xã hội cũng có bước
tiến phù hợp. Hình thái kinh tế chuyển từ kinh tế tự nhiên lên hình thái kinh tế cao
hơn đó là kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá ra đời đánh dấu sự phát triển của nền
kinh tế xã hội, tới nay nó đã phát triển và đạt tới trình độ cao đó là nền kinh tế thị
trường.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó
các yếu tố đầu vào, đầu ra đều thông qua thị trường; các chủ thể trong nền kinh tế
chịu tác động của các quy luật của thị trường.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác

động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường.
4.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN1

Khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được khẳng
định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001). Đây là kết quả của
quá trình 15 năm đổi mới tư duy và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở
đánh giá và rút ra các bài học lớn qua các thời kỳ Đại hội Đảng, đặc biệt là Đại hội
VII, VIII.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được Đại hội XI thông qua xác định “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”.
Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước, Đại hội XII của Đảng thể hiện những
nhận thức mới nhất, đầy đủ nhất (cho đến hiện nay) về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
Việt Nam “là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế,
có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”; “trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng của nền kinh tế. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và
phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng


1
/>
2


sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”.

Chương 21.

Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

Đặc điểm tỉnh hình thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông Thu
Bồn, ở vị trí địa lý từ 15o15’26” đến 15 o55’15” vĩ độ Bắc và từ 108 o17’08” đến
108o23’10” kinh độ Đông; cách quốc lộ 1A khoảng 9 km về phía Đông, cách thành
phố Đà Nẵng 25 km về phía Đông Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 50 km về
phía Đông Bắc. Có vị trí địa lý tiếp giáp:
Phía Nam giáp huyện Duy Xuyên với ranh giới chung là sông Thu Bồn;
Phía Tây và phía Bắc giáp huyện Điện Bàn,
Phía Đông giáp biển với bờ biển dài 7 km.
Hạt nhân trung tâm đô thị Hội An là các phường Minh An, Sơn Phong, Cẩm
Phô; trong đó có Khu phố cổ rộng chừng 5km2 đã được UNESCO công nhận là Di
sản Văn hóa Thế giới (ngày 04/12/1999).

/>Hội An có tổng diện tích tự nhiên 61,71 km2, trong đó phần đất liền có diện
tích 46,22km2 (chiếm 74,9% tổng diện tích tự nhiên toàn thành phố), cách đất liền
18 km là cụm đảo Cù Lao Chàm với diện tích 15,49 km2 (chiếm 25,1% tổng diện

tích tự nhiên toàn thành phố), ở vị trí tọa độ : 15 o52’30’’ đến 16o00’00’’ Bắc và
108o24’30’’ đến 108o34’30’’ kinh độ Đông. Cù Lao Chàm bao gồm nhiều hòn đảo
3


lớn nhỏ: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Ông, Hòn Tai, Hòn Lá, Hòn Khô (Khô
Mẹ, Khô Con), Hòn Nồm. Các hòn đảo này quần tụ thành hình cánh cung hướng
mặt ra Biển Đông, như bức bình phong che chắn cho đất liền. Cù Lao Chàm- Hội
An đã được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới (ngày
26/5/2009).
Ngoài ra, Hội An còn nằm trong chuỗi đô thị ven biển dài hơn 500 km vùng
duyên hải miền Trung, là cơ sở quan trọng để thiết lập và mở rộng các liên kết kinh
tế giữa các địa phương trong vùng. Khu vực lân cận Hội An đã và đang hình thành
các khu kinh tế, khu cảng phi thuế quan, các khu đô thị mới với quy mô lớn. Phía
Bắc có khu kinh tế Chân Mây- Lăng Cô gắn liền với Di sản văn hóa thế giới kinh
thành Huế, thành phố Đà Nẵng đang được đô thị hóa nhanh và đóng vai trò động
lực của khu vực. Phía Nam có cảng Kỳ Hà, khu kinh tế mở Chu Lai, khu công
nghiệp Dung Quất. Các khu kinh tế và đô thị này đều có cảng nước sâu, hệ thống
giao thông đường bộ và đường hàng không thuận lợi.
Với vị trí địa lý và quan hệ liên vùng, thành phố Hội An là trọng tâm của
cụm động lực phía Bắc vùng Đông của tỉnh Quảng Nam, có quan hệ mật thiết với
thành phố Đà Nẵng- vừa là đô thị lớn nhất Miền Trung, vừa là một trong những
trung tâm kinh tế lớn của cả nước; là điểm đầu tuyến của hành lang Bắc trong
chiến lược kết nối phát triển Vùng Đông- Vùng Tây tỉnh Quảng Nam, cùng với Đà
Nẵng kết nối Đông Tây theo trục Quốc lộ 14B qua cửa khẩu Nam Giang của hành
lang kinh tế EWEC2 và vùng kinh tế Tây Nguyên theo đường Hồ Chí Minh. Về
đối nội, Hội An nằm trong Cụm động lực phát triển số 1 của Quảng Nam, là vùng
giao thoa giữa Hành lang phát triển Bắc Quảng Nam (kết nối Vùng Đông Quảng
Nam với các huyện Tây Bắc (Đông Giang, Nam Giang, Tây Giang) tương đối dồi
dào tài nguyên, nguyên liệu) với Vệt ven biển Quảng Nam.

1.2. Hành chính
Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, Hội An là thị xã thuộc tỉnh Quảng
Nam- Đà Nẵng, gồm có 3 phường Minh An (sáp nhập các ấp Hội An, An Hội,
Minh Hương) Sơn Phong, Cẩm Phô và 6 xã là các xã Cẩm Hà, Cẩm Nam, Cẩm
Kim, Cẩm An, Cẩm Thanh, Cẩm Châu.
Ngày 25 tháng 7 năm 1978, Phủ Thủ tướng ra Quyết định số 131-BT “Về
việc phân vạch địa giới hành chính một số xã thuộc tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng”,
trong đó: “Thành lập trên Cù Lao Chàm một xã mới lấy tên là xã Tân Hiệp thuộc
thị xã Hội An.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, khóa IX, kỳ họp thứ 10, phê chuẩn việc tách Quảng Nam – Đà Nẵng thành 2
đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà
Nẵng. Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 1997. Hội An là thị
xã trực thuộc tỉnh Quảng Nam.
Ngày 29 tháng 1 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/NĐ-CP
thành lập Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích,
dân số và các đơn vị hành chính thuộc thị xã Hội An.
4


Cơ cấu hành chính của thành phố hiện nay gồm 9 phường và 4 xã với 77
thôn, khối phố. Năm 2019, thực hiện chủ trương của Đảng, thành phố Hội An sẽ
thực hiện sáp nhập 77 thôn, khối phố còn 54 thôn, khối phố.
1.3. Dân cư
Hội An trở thành thành phố vào tháng 1 năm 2008 trên cơ sở toàn bộ diện
tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Hội An, với
6.148 ha, 122.000 nhân khẩu. Năm 2019, Hội An có 163.040 người, là đô thị lớn
thứ hai của Quảng Nam. Tỷ lệ đô thị hoá của Hội An đã đạt khoảng 75%.
2.


Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

2.1. Những kết quả đạt được
Kế thừa và phát huy giá trị của di sản văn hóa cùng với truyền thống anh
hùng trong đấu tranh cách mạng và trong lao động, tiếp nối thành tựu mấy chục
năm xây dựng kể từ ngày quê hương được giải phóng, trong 10 năm qua (2008 –
2018) thành phố Hội An đã đạt được những thành quả to lớn:
2.1.1. Kinh tế phát triển bền vững và tiếp tục tăng trưởng ổn định. Nhóm
ngành Dịch vụ - Du lịch - Thương mại tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo:
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với đường lối,
chủ trương của Đảng, Nhà nước, của tỉnh Quảng Nam và thực tiễn tình hình, lợi
thế so sánh của Hội An. Tính bình quân 10 năm qua, giá trị Dịch vụ - Du lịch Thương mại chiếm tỷ trọng 65%, Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng
chiếm 27%, Ngư - Nông nghiệp chiếm 7%.
Theo báo cáo năm 2018, giá trị sản xuất theo giá so sánh năm 2010 đạt hơn
10.073,7 tỷ đồng, tăng 16,24% so với năm 2017, vượt 5,6% so với kế hoạch đề ra.
Trong đó, nhóm ngành dịch vụ, du lịch, thương mại đạt 7.180,5 tỷ đồng, tăng
17,98%, vượt 6,98% so với kế hoạch. Đặc biệt, năm 2018 tổng lượt khách tham
quan lưu trú đến Hội An đạt 4,992 triệu lượt, tăng 50,84% so với cùng kỳ (khách
quốc tế đạt 3,755 triệu lượt, tăng 90,94%); tổng lượt khách lưu trú đạt 1,78 triệu
lượt, tăng 18,8% so với cùng kỳ, bình quân ngày khách lưu trú ước đạt 2,13 ngày.
Doanh thu vé tham quan phố cổ đạt hơn 266 tỷ đồng, tăng 17% so với kế hoạch;
doanh thu vé tham quan Cù Lao Chàm gần 27 tỷ đồng, tăng 11,54%.
Nhóm ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng có mức tăng
trưởng khá, giá trị sản xuất đạt 2.280,5 tỷ đồng, tăng 16,43%, vượt 3,87% so với
kế hoạch. Thành phố đang tập trung đầu tư một số hạng mục công trình tại Cụm
công nghiệp Thanh Hà và tiến hành các thủ tục di dời các cơ sở sản xuất gây ô
nhiễm môi trường ở các khu dân cư vào hoạt động tại đây.
Nhóm nông - lâm - ngư nghiệp, giá trị sản xuất đạt 612,73 tỷ đồng, bằng
98,54% so với năm 2017, đạt 97,23% so với kế hoạch. Thành phố đã xây dựng kế
hoạch trung hạn thực hiện Chương hình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn

mới giai đoạn 2018-2020 và đẩy mạnh đầu tư các cổng trình trong năm 2018. Đã
triển khai kế hoạch xây dựng “Xã nông thôn mới kiểu mẫu ” tại cẩm Thanh. Việc
rà soát, đánh giá kết quả thực hiện Chương trình NTM ở xã Tân Hiệp và tiến độ
thực hiện phương án xây dựng "Khu dân cư NTM kiểu mẫu” ở các địa phương
5


được quan tâm5. Đến nay, xă Tân Hiệp đã đạt 19/19 tiêu chí, xã Cẩm Thanh đạt
14/19 tiêu chí, xã Cẩm Hà đat 16/19 tiêu chí, xã Cầm Kim dạt 9/19 tiêu chí.
- Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, phù hợp với cơ cấu kinh tế, theo
hướng giảm dần lao động sản xuất nông nghiệp, tăng lao động nhóm ngành CNXD, tăng cao nhất là lực lượng lao động trong nhóm ngành DL-DV-TM.
- Kinh tế từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng. Kinh tế tư nhân
phát triển nhanh và năng động hơn, trong đó kinh tế hộ gia đình tăng trưởng khá.
Đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng ổn định, phát triển, chênh lệch về mức
sống giữa các khu vực dân cư: nông thôn - đô thị - ven biển - hải đảo ngày càng
thu hẹp. Thu nhập bình quân đầu người ở thành phố không ngừng tăng lên: năm
2008 đạt 17,08 triệu đồng/người, năm 2010 đạt 20.33 triệu đòng/người, năm 2015
đạt 32,98 triệu đòng/người, đến năm 2018 đạt 46 triệu đồng/người.
Trong 6 tháng đầu năm 2019, dù gặp không ít khó khăn, thách thức nhưng
vẫn chứng kiến những phát triển tích cực trên tất cả lĩnh vực. Giá trị sản xuất theo
giá hiện hành, toàn thành phố ước đạt 7.553,1 tỷ đồng, bằng 50,18% so với kế
hoạch, tăng 14,64% so với cùng kỳ. Trong đó, nhóm ngành dịch vụ, du lịch,
thương mại giữ tốc độ tăng trưởng cao, giá trị sản xuất ước đạt 5.270,9 tỷ đồng,
tăng 16,31% so với cùng kỳ. Riêng doanh thu du lịch ước đạt 2.200 tỷ đồng.
Đặc biệt, 6 tháng đầu năm 2019 có khoảng 3 triệu lượt khách đến tham
quan, lưu trú trên địa bàn thành phố, tăng 15,62% so với cùng kỳ. Một số sản phẩm
du lịch truyền thống của Hội An như phố đi bộ, phố đêm, Không gian văn hóa Việt
Nam - Nhật Bản, chợ đêm… tiếp tục tạo sức hút và ấn tượng tốt với du khách.
Nhóm ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng có mức tăng
trưởng khá, giá trị sản xuất ước đạt 1.736,3 tỷ đồng, bằng 51,35% so với kế hoạch,

vượt 15,03% so với cùng kỳ. Nhóm nông - ngư - lâm nghiệp ước đạt 546 tỷ đồng,
bằng 55,43% so với kế hoạch, giảm 0,33% so với cùng kỳ
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH HỘI AN 10 NĂM
QUA:
a. Cơ sở vật chất chuyên ngành
Từ chỗ chỉ có thể đón tiếp hơn 6.000 khách/3.153 phòng lưu trú một ngày
của năm 2008 thì nay Hội An có thể sẵn sàng đón trên 20.000 khách/10.201 phòng
lưu trú một ngày. Hệ thống cơ sở lưu trú đã được khẳng định về mặt tiêu chuẩn
chất lượng và tiện nghi phục vụ. Hệ thống phương tiện vận chuyển du lịch đáp ứng
tốt nhu cầu vận chuyển, tham quan của du khách; hệ thống dịch vụ nhà hàng có
tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng được nhiều cấp độ nhu cầu của du khách; mạng lưới
cung cấp hàng mua sắm cũng rất đa dạng phong phú: May mặc lấy nhanh, giày
dép, lưu niệm, Lồng đèn, đồ mộc lưu niệm chạm khắc... Đội ngũ lao động từng
bước chuyên nghiệp hơn.
* Về cơ sở lưu trú: Tính đến thời điểm cuối năm 2018, Hội An có 600 cơ sở
lưu trú với 10.201 phòng, trong đó loại hình khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao trở lên
là 30 cơ sở với 3.041 phòng, chiếm tỷ trọng 5,7% tổng số cơ sở lưu trú và 33,6%
tổng số lượng phòng lưu trú trên địa bàn.
6


* Về vận chuyển - lữ hành: 84 đơn vị kinh doanh vận chuyển, lữ hành, trong
đó có chức năng kinh doanh lữ hành quốc tế 31 đơn vị, kinh doanh lữ hành nội địa
17 đơn vị, vận chuyển 33 đơn vị, bán vé 3 đơn vị. 42/84 đơn vị hoạt động tuyến
Hội An- Cù Lao Chàm.
* Dịch vụ khác: các loại hình dịch vụ ăn uống, chăm sóc sắc đẹp, mua
sắm…đa dạng về loại hình dịch vụ và chủng loại hàng hóa, đảm bảo phục vụ tốt
nhu cầu của khách du lịch.
b. Các nhóm sản phẩm du lịch hiện đang khai thác tại Hội An
- Du lịch văn hóa- lịch sử: Tham quan, nghiên cứu quần thể kiến trúc Khu

phố cổ Hội An- di sản văn hóa thế giới.
- Du lịch nghỉ dưỡng và trải nghiệm các dịch vụ thể thao tại biển- đảo: tại
Cẩm An, Cửa Đại, Cù Lao Chàm.
- Du lịch sinh thái: Khu vực sông nước; làng quê sinh thái Cẩm Thanh.
- Du lịch làng nghề, cộng đồng: Tham quan và trải nghiệm tại các làng quê,
làng nghề truyền thống như làng mộc Kim Bồng, làng gốm Thanh Hà, làng rau Trà
Quế, làng quê An Mỹ và trải nghiệm văn hóa, nếp sống, sinh hoạt tại cộng đồng
(dịch vụ Homestay).
c. Kết quả cụ thể về tình hình phát triển du lịch Hội An giai đoạn 10 năm
(2008-2018):
ST
Chỉ tiêu
T
1 Tổng lượt khách đến Hội An (lượt)
+ Khách Quốc tế:
+ Khách Việt Nam:
2 Tổng lượt khách tham quan (lượt)
+ Khách Quốc tế:
+ Khách Việt Nam:
3 Tổng lượt khách lưu trú (lượt):
+ Khách Quốc tế:
+ Khách Việt Nam:
4 Tổng ngày khách lưu trú (ngày)
+ Khách Quốc tế:
+ Khách Việt Nam:
5 Bình quân ngày khách lưu trú
(ngày)

Năm 2008
1.105.940

570.478

Năm 2018
4.992.000

3.755.00
0
1.237.00
0

535.462
848.482

2.380.000

607.480
241.002

1.780.00
0
600.000

591.888

1.780.000

483.940
107.948

1.540.00

0
240.000

1.462.410

3.120.000

1.226.411
235.999

2.770.00
0
350.000

2,47

2,13

Tăng/Giảm
(%)
351,38%
558,22%
131,02%
180,50%
193,01%
148,96%
200,73%
218,22%
122,33%
113,35%

125,86%
48,31%
-13,77%

7


Thị trường khách tham quan chủ yếu là khách Quốc tế, chiếm tỉ trọng
70,39% khách tham quan Hội An (giai đoạn 2008-2018). Khách quốc tế truyền
thống của Hội An là khách Tây Âu và Bắc Mỹ như Pháp, Anh, Đức, Hà Lan, Tây
Ban Nha, Thụy sĩ, Thụy Điển, Ý, trong thời gian vài năm trở lại đây thị trường khu
vực châu Á- chủ yếu là thị trường Đông Bắc Á cũng chiếm tỉ trọng cao trong cơ
cấu khách- điển hình là các thị trường dễ tiếp cận như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc. Thị trường khách nội địa chủ yếu tập trung ở hai thị trường chính là Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh.
Hội An tiếp tục khẳng định vị trí của mình trên bản đồ du lịch quốc tế. Hàng
năm Hội An đều liên tục xuất hiện trong tốp dẫn đầu kết quả các cuộc bình chọn
của du khách trong nước và quốc tế. Trong đó, tiêu biểu là các bình chọn một trong
những điểm đến du lịch hấp dẫn nhất của Việt Nam, Châu Á và thế giới, thành phố
cảnh quan Châu Á, thành phố lãng mạn nhất, điểm hẹn hò lý tưởng nhất, phong
cảnh chụp ảnh đẹp nhất, bãi biển đẹp nhất, thủ phủ ẩm thực thế giới, thành phố du
lịch bụi giá rẻ, lễ hội đèn lồng đẹp nhất…
2.1.2. Hoạt động tài chính - tín dụng cơ bản đáp ứng được yêu cầu của sự
phát triển.
Ngân sách nhà nước thành phố tăng thu hằng năm bình quân trên 20%. Tổng
thu từ 2008-2018 đạt 9.993,1 tỷ đồng. Riêng tổng thu ngân sách 2018 đạt 1519,1 tỷ
đồng, trong đó một số nguồn thu đạt và vượt cao như thu từ bán vé tham quan khu
phố cổ, Cù Lao Chàm, đóng góp xây dựng hạ tầng.
Tổng chi ngân sách từ 2008-2018 đạt 6.678,4 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư
phát triển 3.271,5 tỉ đồng, chiếm gần 50% tổng chi ngân sách. Đối với nguồn vốn

xã hội trong dân để đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sự nghiệp phát triển chung của
thành phố bình quân hàng năm huy động đạt 2.500 tỉ đồng.
Hệ thống ngân hàng trên địa bàn thành phố phát triển nhanh, hiện có 20 chi
nhánh hoạt động khá hiệu quả, đảm bảo nguồn vốn cung ứng cho phát triển kinh tế
- xã hội của thành phố.
2.1.3. Hạ tầng đô thị được đầu tư tương đối đồng bộ; công tác quản lý đô
thị, tài nguyên và bảo vệ môi trường có nhiều chuyển biến
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, đặc biệt là hạ tầng giao thông được tập trung
đầu tư và phát huy hiệu quả. Bằng sự nỗ lực huy động tối đa nguồn lực, thành phố
đã đẩy nhanh xây dựng và hoàn thiện nhiều công trình giao thông quan trọng, kết
nối giữa nông thôn, hải đảo và đô thị; đây được xem là bước đột phá, tạo tiền đề
cho sự phát triển đồng bộ giữa các khu vực. Hệ thống giao thông ở Hội An đã
thông suốt, các khu vực, các vùng dân cư đã được kết nối lẫn nhau, bộ mặt đô thị,
nông thôn ngày càng khởi sắc, nhà ở và các công trình phụ trợ của nhân dân được
cải tạo, xây dựng mới khang trang, thoáng mát, sạch, đẹp hơn.
- Dự án tiêu biểu nhất là “Cấp điện lưới Quốc gia cho đảo Cù Lao Chàm,
tỉnh Quảng Nam bằng cáp ngầm”. Dự án khởi công ngày 9/1/2016. Việc đưa điện
lưới quốc gia ra đảo có ý nghĩa to lớn về kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng,
giúp hơn 3.000 người dân trên đảo Cù Lao Chàm được sử dụng điện lưới quốc gia.
8


- Cầu Cửa Đại bắc qua sông Thu Bồn, nối thành phố Hội An với huyện Duy
Xuyên, trên tuyến đường ven biển tỉnh Quảng Nam. Dự án khởi công từ năm 2009,
khánh thành đúng vào dịp kỷ niệm 41 năm Ngày giải phóng Hội An- ngày
28/3/2016.
Tuyến đường ven biển và cầu Cửa Đại hoàn thành không chỉ phục vụ giao
thông, phòng tránh bão lụt, phục vụ an ninh quốc phòng mà còn đóng vai trò kết
nối du lịch giữa các địa phương ven biển, nối hai bờ di sản thế giới là phố cổ Hội
An và Khu đền tháp Mỹ Sơn. Đây là mắc xích quan trọng trong tuyến đường bộ

ven biển quốc gia, mang tính đột phá và có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược
phát triển vùng Đông tỉnh Quảng Nam, đồng thời khai thông kết nối đường ven
biển từ Đà Nẵng đến Quảng Nam - Quảng Ngãi.
- Cầu dân sinh Cẩm Kim nối trung tâm Thành phố Hội An với các vùng phía
Nam sông Thu Bồn: Cầu được khởi công xây dựng vào ngày 25-8-2015, khánh
thành ngày 29/01/2016.
- Ngoài ra còn các dự án: Cầu sông Đò – Cẩm Thanh, cầu Thanh Nam (nối
Cẩm Châu và Cẩm Nam). Đã đầu tư mới và nâng cấp hơn 300 km đường, cơ bản
kết nối các tuyến đường trọng điểm giữa nông thôn với nội thành.
- Nhiều khu đô thị mới có cơ sở hạ tầng tương đối đồng bộ, khang trang:
Phước Trạch – Phước Hải, khu tái định cư Làng chài Cẩm An, Võng Nhi xã Cẩm
Thanh… Các khu dân cư Ngọc Thành- Cẩm Phô, khu trài dân và tái định cư Tân
Mỹ - Tân Thịnh phường Cẩm Am, Trảng Kèo- Cẩm Hà, khu tái định cư Sơn Phô 1
phường Cẩm Châu…
- Nhiều công trình hạ tầng trọng điểm khác được hoàn thành với sự nỗ lực
cao trong việc huy động nguồn vốn đầu tư: Kè bảo vệ phố cổ Hội An từ chùa Cầu
đến cầu Cẩm Nam và các tuyến kè chống lở ven sông Cẩm Kim, Thanh Hà, Cẩm
Phô, Cẩm Nam, Sơn Phong, Cẩm Châu, kè Phước Thịnh- Cửa Đại (75 tỉ đồng)…
đã được đầu tư xây dựng.
+ Dự án “Cải thiện chất lượng nước và môi trường di tích Chùa Cầu - Hội
An” với kinh phí đầu tư hơn 243 tỷ đồng, trong đó, vốn viện trợ không hoàn lại của
Chính phủ Nhật Bản hơn 219 tỷ đồng (tương ứng 1,1 tỉ yên Nhật). Trạm xử lý
nước thải tại khối Hoài Phô, phường Cẩm Phô rộng 3.752m2, công suất
2.000m3/ngày đêm.
- Chợ Hội An mới đơn nguyên Bạch Đằng và đơn nguyên Trần Phú
- Cơ sở hạ tầng của các dự án doanh nghiệp đầu tư tăng nhanh. Nhà ở của
nhân dân được cải tạo, xây mới tốt hơn, đẹp hơn. Cảnh quan kiến trúc đô thị cơ
bản giữ được sắc thái Hội An.
2.1.4. Các tiểu vùng kinh tế - xã hội gắn kết tương tác nhau đã tạo động
lực cho sự phát triển đồng đều và ổn định của thành phố.

Năm tiểu vùng kinh tế - xã hội được Đại hội XVI xác định đã có những
bước chuyển tích cực. Đây là thực tế chứng minh quyết định chuyển dịch cơ cấu
9


vùng kinh tế trong 10 năm qua là đúng; đồng thời cũng là cơ sở quan trọng cho
định hướng xây dựng Hội An - Thành phố sinh thái - văn hóa - du lịch.
- Khu vực đô thị trung tâm (gồm các phường Minh An, Cẩm Phô, Sơn
Phong, mở rộng ra Tân An và một phần lân cận của Cẩm Châu) được chú trọng
đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phát triển dịch vụ - du lịch – thương mại. Trong đó,
các dự án trọng điểm như: Quảng trường Sông Hoài, các khu đô thị An Hội - Đồng
Hiệp, Ngọc Thành, hồ điều hòa Chùa Cầu, khơi thông Sông Hoài, cơ sở hạ tầng
Khu phố cổ…đã làm cho vai trò và giá trị của địa bàn hạt nhân thành phố được
nâng lên.
- Khu vực đô thị cận trung tâm (gồm Thanh Hà, Cẩm Nam và phần còn lại
của Tân An, Cẩm Châu phát triển khá, hình thành các khu đô thị mới và vùng nông
nghiệp sinh thái, mở rộng các hoạt động dịch vụ - du lịch.
- Khu vực đô thị bờ biển – ven sông Cẩm An, Cửa Đại đã có một số vùng
chuyển biến rõ theo hướng phát triển kinh tế biển, bao gồm cả du lịch, dịch vụ,
thương mại và ngư nghiệp.
- Khu vực làng quê Cẩm Thanh, Cẩm Kim có những khởi sắc, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân nâng dần lên; đề án xây dựng Cẩm Thanh – làng
quê sinh thái đặc thù được triển khai đạt một số kết quả bước đầu; các dự án đầu tư
hạ tầng giao thông, thủy lợi, bến đò, cầu…ở Cẩm Kim được quan tâm nghiên cứu
xúc tiến.
Khu vực Cù Lao Chàm đã có những nỗ lực đầu tư kết cấu hạ tầng và bảo vệ
môi trường tự nhiên - xã hội - nhân văn tạo nên bước chuyển căn bản cho định
hướng xây dựng một đô thị hải đảo sinh thái - du lịch; đặc biệt khi Cù Lao Chàm Hội An được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới và sự phát
triển những phương tiện giao thông hiện đại đã thu hút khách du lịch đến hải đảo
tăng nhanh.

2.1.5. Văn hóa khẳng định vai trò là nền tảng, mục tiêu và động lực cho
thành phố phát triển và hội nhập
a) Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá gắn với phát triển kinh tế-xã hội, tạo
nền tảng và đòn bẩy thúc đẩy du lịch:
Công tác nghiên cứu khoa học, quảng bá về di tích, tuyên truyền giáo dục và
phát huy các di sản văn hoá đạt được nhiều thành quả to lớn. Nổi bật là việc hoàn
thành xuất sắc hồ sơ công nhận Đô thị cổ Hội An là Di tích quốc gia đặc biệt
(2009), Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm (26/5/2009), Đồ án “Quy
hoạch đầu tư tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản văn hóa thế giới
Đô thị cổ Hội An gắn với phát triển thành phố Hội An và du lịch giai đoạn 20122025” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 12/01/2012). Nhiều công trình
nghiên cứu khoa học tiếp tục được triển khai, góp phần phục vụ công tác lãnh đạo
và chuyên môn trong các lĩnh vực quản lý, bảo tồn - bảo tàng, văn hóa, lễ hội, du
lịch, văn hóa đô thị…
b) Hoạt động văn hóa đạt nhiều kết quả nổi bật, tạo động lực cho thành phố
phát triển và hội nhập:
10


Các tài nguyên văn hóa (vật thể và phi vật thể), tài nguyên nhân văn (vai trò
chủ thể của con người và các giá trị chân - thiện - mỹ), tài nguyên thiên nhiên
(danh thắng, môi trường, cảnh quan) đã được nhận diện ngày càng sáng tỏ hơn.
Trong đó, việc kết nối Di sản văn hóa thế giới - Khu phố cổ với Khu dự trữ sinh
quyển thế giới Cù Lao Chàm và không gian văn hóa các làng quê, làng nghề truyền
thống đã có những kết quả bước đầu. Việc giữ gìn những làng quê sinh thái ở Cẩm
Thanh, Cẩm Kim bước đầu đem lại hiệu quả tích cực.
Bên cạnh các sản phẩm đã khẳng định được thương hiệu như: “Đêm phố
cổ”, “Phố đi bộ và xe không động cơ”, “Phố đêm Hội An”, Hội đèn lồng… đã trở
thành những sản phẩm văn hóa - du lịch đặc trưng, hấp dẫn; trong 10 năm qua,
thành phố tiếp tục triển khai các sản phẩm, sự kiện, chương trình mới như:
- Hội thi Hợp xướng Quốc tế Việt Nam tại Hội An: Bắt đầu từ năm 2011

định kỳ 2 năm một lần. Sự kiện đã thu hút được rất nhiều đoàn hợp xướng trong và
ngoài nước, đến từ nhiều quốc gia trên thế giới tham dự như: Úc, Indonesia, Hàn
Quốc, Malaysia, Philippin, Singapore, Đài Loan, Đức, HồngKông, Ấn Độ,
SriLanka, Trung Quốc, Thái Lan, Phần Lan, Hà Lan…)
- Tổ chức sự kiện Đón đoàn khách đầu tiên đến tham quan phố cổ Hội An
vào mỗi đầu năm mới: Đây là sự kiện được tổ chức mở đầu cho chuỗi các hoạt
động du lịch Quảng Nam nói chung và TP.Hội An nói riêng từ 01/01/2014 đến nay,
là hoạt động thiết thực góp phần quảng bá hình ảnh thân thiện và lòng hiếu khách
của người dân và ngành du lịch Hội An đến với du khách trong và ngoài nước. Sự
kiện nhận được sự hưởng ứng tham gia nhiệt tình từ phía du khách và được nhiều
cơ quan báo đài đưa tin, viết bài.
- Liên hoan Ẩm thực Quốc tế: Với mục đích quảng bá, giới thiệu và khẳng
định thương hiệu, hình ảnh văn hóa-du lịch, văn hóa ẩm thực của thành phố Hội
An đến với du khách trong và ngoài nước, tháng 3/2016, Thành phố đã tổ chức Lễ
hội Ẩm thực Quốc tế Hội An. Thông qua Lễ hội này, thành phố Hội An đã được
Hiệp hội đầu bếp thế giới công nhận là “Thủ phủ ẩm thực Việt Nam”. Sự kiện
được tiếp diễn vào tháng 3 định kỳ hàng năm, thu hút rất đông đảo du khách trong
và ngoài nước.
- Festival tơ lụa & Thổ cẩm Việt Nam-Thế giới
- Đề án "Mở rộng phố dành cho người đi bộ và xe thô sơ”: Từ ngày
04/12/2015, Thành phố đã thực hiện Mở rộng không gian tổ chức hoạt động "Phố
dành cho người đi bộ và xe không động cơ” tại đường Nguyễn Phúc Chu - phường
Minh An. Đến ngày 12/4/2017, Thành phố tiếp tục mở rộng không gian đề án “Phố
dành cho người đi bộ và xe không động cơ” 2017 với toàn bộ các tuyến đường về
phía Đông đến giáp đường Hoàng Diệu.
Hiện nay, Đề án đang thực hiện hàng ngày, đêm trong tuần, đã thu hút ngày
càng đông du khách tham quan đến thưởng lãm. Lượt khách du lịch đến phố cổ
Hội An khá đông, các tổ chức hoạt động du lịch trong và ngoài nước đã xây dựng
chương trình “Khám phá đêm Hội An” để giới thiệu cho du khách; nhiều giới báo


11


chí truyền thông luôn khuyến cáo khách du lịch đến với Hội An để khám phá về
cảnh quan và con người của Phố cổ.
- Hoạt động Múa rối nước phục vụ du khách: Được bắt đầu vào năm 2016,
với sự hỗ trợ một phần kinh phí từ Bộ văn hóa,Thể thao và Du lịch. Hoạt động múa
rối nước đã đưa vào khai thác với tần suất hoạt động là 3 ngày/1 tuần, thu hút bình
quân 100 lượt khách/1 đêm. Đây là 1 loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống
được tổ chức nhằm tạo thêm 1 điểm thu hút du khách đến và lưu trú tại Hội An.
c) Vai trò của văn hóa được khẳng định sâu sắc trong định hướng chính trị và
đời sống xã hội.
Các nhiệm vụ xây dựng Hội An - Thành phố văn hóa và phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh” được tích cực triển khai gắn kết với phong trào “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, “Quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc”
cùng với các phong trào khác của các tổ chức chính trị-xã hội… ngày càng phát
triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu góp phần quan trọng vào quá trình phát triển
nhanh và bền vững của thành phố.
Thành ủy đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Hội An đáp ứng yêu cầu xây dựng thành phố sinh thái, văn hóa, du
lịch” nhằm tạo lập môi trường để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Hội
An trong giai đoạn hội nhập.
Một số công trình văn hóa - thể thao tiêu biểu được xây dựng trong 10 năm
qua: hạ tầng phố cổ Hội An, Bảo tàng Hội An, Nhà lưu niệm Cao Hồng Lãnh,
Quảng trường Sông Hoài, Công viên tượng đài Nguyễn Duy Hiệu, Khu vườn
tượng An Hội, Công viên Kazic, Nhà biểu diễn nghệ thuật cổ truyền, Nhà thi đấu,
cải tạo nâng cấp sân vận động, thư viện Thanh Hóa, cải tạo nhà hát ngoài trời thành
phố Hội An, khai thác và phát huy khu công viên Đồng Hiệp, Cụm công viên ven
biển Cẩm An- Cửa Đại, công viên “Ấn tượng Hội An” (tại dự án Gami- Cẩm

Nam),Công viên Hội An, Công viên Đài Tưởng niệm thành phố tại xã Cẩm
Thanh…
2.1.6. Sự nghiệp Giáo dục - đào tạo, y tế, an sinh xã hội được quan tâm:
a) Giáo dục chuyển biến tích cực, góp phần phát triển văn hóa và trồng
người:
Mạng lưới trường lớp phát triển đa dạng và đều khắp với đầy đủ các cấp
học, bậc học. Thành phố đã nỗ lực góp phần cùng với tỉnh xây dựng Trường Trung
học phổ thông chuyên Lê Thánh Tông tại Hội An vào năm 2012. Hệ thống giáo
dục do thành phố quản lý tiếp tục phát triển quy mô trường lớp, cơ sở vật chất,
trang thiết bị giáo dục, chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên. Đến nay, đã có 9/13
trường mầm non, 10/14 trường tiểu học, 3/10 trường trung học cơ sở đạt chuẩn
quốc gia mức độ 1 và 2 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ 2. Tỷ lệ học
sinh đạt loại khá, giỏi và tốt nghiệp các cấp học, thi đỗ vào các trường đại học, cao
đẳng hàng năm đều tăng. Chất lượng giáo dục mầm non và các trường ở nông
thôn, hải đảo được nâng lên đáng kể. Các môn khoa học xã hội, hoạt động ngoại
12


khoá, giáo dục chính trị, pháp luật, đạo đức, nhân cách, thẩm mỹ được chú trọng
hơn trước. Nhiều trường đã bổ sung giáo trình giảng dạy về truyền thống địa
phương, đăng ký chăm nom, bảo vệ các di tích lịch sử - văn hóa, xây dựng nếp
sống văn hoá - văn minh học đường. Kết quả hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo
dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở và phổ cập bậc trung học được duy
trì bền vững. Công tác xã hội hóa giáo dục có nhiều tiến bộ; hoạt động khuyến học
của các địa phương, cơ quan, đơn vị,…đã thúc đẩy phong trào xã hội học tập, góp
phần nâng cao trình độ dân trí và phát triển giáo dục - đào tạo của thành phố.
b) Y tế và dân số có những tiến bộ trong các chương trình trọng điểm. Công
tác phòng chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm được triển khai
có hiệu quả. Y tế cơ sở được củng cố và phát triển với tất cả các trạm y tế
xã/phường và mạng lưới nhân viên y tế thôn/khối phố. Các bệnh viện ở thành phố

thường xuyên đầu tư tăng cường trang, thiết bị, đào tạo nâng cao đội ngũ chuyên
môn nhằm không ngừng cải thiện chất lượng khám và chữa bệnh. Việc liên kết,
hợp tác giữa các cơ sở dịch vụ y tế công - tư đã mang lại hiệu quả tích cực, nhất là
trong các chương trình bảo hiểm y tế, tiêm chủng mở rộng, giám sát và phòng ngừa
dịch bệnh, tư vấn sức khỏe,...
Công tác dân số tiếp tục diễn biến tích cực, đặc biệt là việc giảm tỉ suất sinh
thô, nâng cao chất lượng dân số thông qua việc sàng lọc trước sinh và sơ sinh,
chăm sóc sức khỏe sinh sản của bà mẹ và trẻ em. Ngoài tỉ lệ tăng dân số tự nhiên
ổn định ở mức 0,7%/năm, việc tăng dân số cơ học khá cao do nguồn nhập cư có
tay nghề lao động từ các vùng miền trong nước và nước ngoài đã góp phần nâng
cao chất lượng dân cư của thành phố. Tuổi thọ bình quân của người dân Hội An
tăng từ 72 lên 74 tuổi và cơ cấu dân số đang nằm trong thời kỳ “dân số vàng”, cơ
hội tốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
c) Chính sách an sinh xã hội được quan tâm, góp phần ổn định và nâng cao
đời sống của các tầng lớp Nhân dân.
Trong 10 năm qua, thành phố đã vận động nhân dân đóng góp trên 24 tỷ
đồng quỹ “Vì người nghèo”; hỗ trợ 1.034 nhà cho hộ chính sách (trong đó 157 xây
dựng mới, 877 sữa chữa) với tổng kinh phí 34.160 triệu đồng; xóa 291 nhà tạm cho
hộ nghèo với kinh phí 8.350 triệu đồng. Hiện thành phố còn 50 hộ nghèo và 172 hộ
cận nghèo.
Công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế chuyển biến tích cực. Đến nay, toàn
thành phố có 84.100 người tham gia BHYT, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 89,13%, vượt
6,63% so với chỉ tiêu tỉnh giao. Các đối tượng chính sách xã hội, Nhân dân xã đảo
Tân Hiệp được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, người dân trong các hộ nghèo, cận
nghèo được hỗ trợ bảo hiểm y tế đạt 100%.
Các chế độ, chính sách cho người có công, hộ nghèo, cận nghèo, đối tượng
bảo trợ xã hội được giải quyết chu đáo, kịp thời và đảm bảo theo quy định. Sau
nhiều năm nỗ lực phấn đấu, đến năm 2017 thành phố cơ bản xóa xong hộ nghèo.
Công tác đào tạo nghề, bảo vệ chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới tiếp tục được
quan tâm thực hiện.

13


2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Trong hơn 10 năm kề từ ngày Chính phủ ban hành Nghị định số 10/NĐ-CP
thành lập Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, tuy đạt được nhiều kết quả
quan trọng, song việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời
gian qua cũng còn một số mặt tồn tại, hạn chế:
- Kinh tế tuy tăng trưởng khá cao nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức. Lượng khách tham quan tăng cao nhưng các thị trường khách
châu Âu, châu Mỹ tăng không đáng kê; lượng khách trong nước giảm. Việc huy
động các nguôn lực đê đây mạnh phát triển hạ tầng du lịch tại các xã vùng ven
chưa mạnh. Nhiêu dự án, chương trình đầu tư trọng điểm phát triển du lịch triển
khai thực hiện chậm so với tiến độ đề ra. Ngành CN-TTCN vẫn còn khó khăn về
đầu ra; mâu mã, chất lượng sản phẩm còn hạn chế. Sản xuất nông, ngư nghiệp gặp
nhiều khó khăn và phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, tình trạng bỏ đất hoang,
bỏ vụ sản xuất còn xảy ra.
- Công tác quản lý quy hoạch, quản lý kiến trúc đô thị còn một số hạn chế.
Tình hình vi phạm trật tự đô thị và vệ sinh môi trường chưa giải quyết dứt điểm.
Tình trạng buôn bán lấn chiếm lòng, lề đường và quảng cáo, rao vặt gây mất mỹ
quan đô thị còn diên ra. Ý thức của cộng đồng dân cư và các doanh nghiệp trong
việc tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường, trật tự đô thị của một số địa phương chưa
cao. Việc thu gom, xử lý rác thài, nước thải hiện còn nhiều bất cập cần tập trung
giải quyết.
- Việc đầu tư phát triển sự nghiệp văn hóa, nhất là ở tuyến cơ sở vẫn chưa
được quan tâm đúng mức; một số thiết chế văn hóa thôn, khối phố đã hư hỏng,
xuống cấp. Chất lượng khám chữa bệnh tại Bệnh viện Đa khoa Hội An hiện nay,
tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh
ngày càng cao của người dân.
- Tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội vẫn còn diễn biến phức tạp; số vụ mua

bán, tàng trữ trái phép chât ma túy và tình hình sử dụng các chất gây nghiện trong
thanh, thiếu niên có chiều hướng tăng cao. Tệ nạn cờ bạc, cá độ xảy ra nhiều, hiên
tượng vay nóng, xã hội đen diễn biến phức tạp, số vụ vi phạm hành chính về kinh
tế, môi trường có dấu hiệu gia tăng.
- Tình hình ùn tắc giao thông cục bộ vẫn thường xuyên xảy ra tại một số
tuyên đường xung quanh khu phố cổ. Các vấn đề về ùn tắc giao thông, vệ sinh môi
trường, an ninh, an toàn cho du khách. Các kế hoạch, đề án phát triển du lịch cộng
đồng tại các địa phương thực hiện còn chậm; du lịch tâm linh, tín ngưỡng và văn
hóa ẩm thực chưa được khai thác tốt; một số dịch vụ chất lượng chưa cao, chưa
khai thác hết nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng của khách. Tình trạng lấn chiếm vỉa
hè, bán hàng rong, chèo kéo khách, bán hàng không niêm yết giá... chưa giảm làm
ảnh hưởng đến môi trường du lịch, hình ảnh điểm tham quan.
- Kinh tế du lịch tuy phát triển nhanh nhưng chưa thật sự bền vững, còn tiềm
ẩn nhiều nguy cơ. Lượng khách du lịch tăng nhanh, nhưng lượng khách Châu Âu
và châu Mỹ tăng không đáng kể, đặc biệt năm 2018 lượng khách quốc tế tăng đột
14


biến (tăng 90,94% so với năm 2017) chủ yếu là khách Trung Quốc, Hàn Quốc.
Lượng khách lưu trú có tăng nhưng so với lượng khách tham quan thì con số này
chưa tương xứng. Tốc độ tăng của khách vẫn thấp hơn tốc độ tăng của phòng lưu
trú.
- Lượng khách tham quan khu phố cổ đã quá tải, chỉ trong một phạm vi
không gian rất nhỏ, trung bình mỗi ngày khu vực này đón khách hơn 8 nghìn lượt
khách du lịch, cao điểm có lúc lên đến 10 nghìn người. Hầu hết lượng khách tham
quan chủ yếu vào khung giờ chiều đến tối dẫn đến không gian càng bí bách. Đặc
biệt, lượng khách tập trung tại Chùa Cầu rất lớn, trong khi công trình đã xuống
cấp, nhưng chưa có giải pháp bảo tồn.

Chương 31.


Giải pháp và kiến nghị

Giải pháp

Để bảo tồn, phát huy giá trị phố cổ Hội An gắn với phát triển du lịch một
cách hiệu quả và bền vững hơn nữa, chúng ta cần thực hiện một cách đồng bộ các
giải pháp chủ yếu sau:
Tiếp tục nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong công tác bảo tồn và phát
huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch ở Hội An. Ngành Văn hóa phải phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để thường xuyên tiến hành kiểm tra, hướng
dẫn hoạt động tại các di tích, chấn chỉnh kịp thời những sai phạm, lệch lạc, nhất là
trong việc trùng tu, tôn tạo, trong quản lý các hoạtđộng du lịch, dịch vụ…
Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch hiện có, tạo sản phẩm du lịch mới;
tăng tính hợp tác giữa nhà nước – doanh nghiệp, quảng bá du lịch, mở rộng không
gian phố cổ, giữ gìn vệ sinh môi trường, an ninh trật tự
Nâng cao nhận thức, vai trò của toàn xã hội trong bảo tồn và phát huy giá trị
di sản gắn với phát triển du lịch ở Hội An. Cần tuyên truyền, vận động, khuyến
khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia bảo vệ, bảo tồn, phát huy các giá trị di sản;
đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản; vận
động người dân có ý thức gìn giữ lối sống thân thiện, giản dị.
Nâng cao chất lượng công tác bảo tồn và phát huy di sản phố cổ Hội An; đa
dạng hóa sản phẩm du lịch; xây dựng môi trường văn hóa trong hoạt động du lịch.
Cần tạo nên sự hài hoà, đồng thuận giữa phát triển du lịch và bảo tồn di tích; đa
dạng hóa các sản phẩm du lịch; xây dựng môi trường văn hóa trong hoạt động du
lịch; tăng cường quảng bá di sản, sản phẩm du lịch bằng nhiều biện pháp.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực và kinh phí cho hoạt động bảo tồn và phát
huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch ở Hội An. Địa phương cần xây dựng,
đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa làm công tác bảo tồn, trùng tu di tích, tổ chức tập
huấn cán bộ quản lý di tích ở cơ sở cũng như đội ngũ quản lý du lịch, hướng dẫn

viên, thuyết minh viên đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay. Kinh phí để bảo
tồn, phát huy di sản Phố cổ Hội An là rất lớn, vì vậy cần phải huy động nhiều
nguồn cho công tác này. Có như vậy, chúng ta mới có được nguồn kinh phí khả dĩ
15


đáp ứng nhu cầu trùng tu, tôn tạo di tích, xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, khắc
phục những khó khăn, nguy cơ đang hiện hữu.
2.

Kiến nghị

Kết luận
1.

Đánh giá khái quát vấn đề nghiên cứu

Việc đi thực tế nghiên cứu tại thành phố Đà Nẵng và thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam là thực sự cần thiết và ý nghĩa. Đây là 2 thành phố phát triển rất mạnh
về du lịch. Bản thân nhận thức được rằng:
Việc phát triển du lịch luôn gắn với bảo tồn: Thành công mà ngành du lịch 2
thành phố này có được là bởi biết gắn việc khai thác di sản để phục vụ du lịch với
công tác bảo tồn di sản. Với Hội An, sự mất còn của di sản chính là sự mất được về
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân Hội An, không chỉ hôm nay mà
cho cả mai sau. Tại Hội An, cùng với việc sáng tạo các sản phẩm du lịch đặc trưng,
tập trung vào các hoạt động làm điểm nhấn, như: đêm phố cổ, phố đi bộ, hay phố
không có tiếng động cơ xe máy…
Đa dạng hoá sản phẩm du lịch: Thực tế cho thấy, nếu chỉ dựa vào hệ thống
di tích khu nhà cổ, du lịch Hội An sẽ rất dễ gây nhàm chán. Vậy nên, ngành du lịch
nơi đây đã nỗ lực rất nhiều trong việc sáng tạo ra những sản phẩm du lịch mới, hấp

dẫn để níu chân du khách. Cùng với việc dạo trong khu phố cổ lấp lánh đèn lồng
mỗi tối, du khách có thể hòa mình vào các trò chơi dân gian, cùng thưởng thức
nghệ thuật hát Bài chòi, các chương trình biểu diễn nghệ thuật.
2.

Liên hệ vấn đề nghiên cứu đến thực tế địa phương

Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới, thuộc vùng Đông Bắc với diện tích
tự nhiên 8.310,09 km2. Lạng Sơn nằm ở vị trí đường quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 279
đi qua, là điểm nút giao lưu kinh tế với các tỉnh phía Tây là Cao Bằng, Thái
Nguyên, Bắc Kạn, phía Đông là tỉnh Quảng Ninh, phía Nam là Bắc Giang và phía
Bắc tiếp giáp với Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc, với 2 cửa
khẩu quốc tế (cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị và cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng), 1
cửa khẩu chính Chi Ma và 9 cửa khẩu phụ. Lạng Sơn là điểm đầu tiên của Việt
Nam trên 2 tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội Hải Phòng và Lạng Sơn - Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài (tham gia
hành lang xuyên Á: Nam Ninh - Singapore), là cửa ngõ quan trọng nối Trung Quốc
và các nước ASEAN. Lạng Sơn có đường biên giới với Quảng Tây - Trung Quốc
dài trên 231 km. Lạng Sơn cách Nam Ninh là thủ phủ của Quang Tây, Trung Quốc
khoảng 230 km, cách thủ đô Hà Nội khoảng 150 km. Đang xây dựng tuyến đường
cao tốc nối với các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và thành phố Hà Nội, có đường sắt
liên vận quốc tế nối với Quảng Tây, Trung Quốc rất thuận lợi cho giao lưu kinh tế,
văn hóa, khoa học - công nghệ với các tỉnh trong cả nước với Trung Quốc. Lạng
Sơn có bề dày văn hóa, lịch sử, truyền thống với nhiều di tích, tín ngưỡng, tâm
linh, danh lam thắng cảnh hữu tình, nhiều lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc; có
16


nguồn tài nguyên du lịch phong phú. Đó là những tiềm năng to lớn cho phát triển
du lịch tại địa phương.
Muốn đẩy nhanh phát triển kinh tế địa phương, các cấp, các ngành cần có

những chính sách đúng đắn phù hợp, tạo được sự ủng hộ của toàn xã hội; huy động
mọi nguồn lực đầu tư, tạo điều kiện để thu hút đầu tư để phát triển kinh tế địa
phương. Xác định ngành du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn trên địa bàn tỉnh
Chú trọng phát triển các sản phẩm du lịch gắn với nông nghiệp tại địa
phương, dành nguồn lực nhất định cho hoạt động du lịch; tăng cường hoạt động
xúc tiến, quảng bá, thu hút đầu tư, xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh để phát
triển du lịch. Để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên địa bàn
tỉnh, trong thời gian tới yêu cầu các sở, ban, ngành, các huyện, thành phố tập trung
thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm:
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện hiệu quả Quyết định số
1685/QĐ-TTg, ngày 5/12/2018 của Thủ tưởng Chính phủ về phê duyệt đề án “Cơ
cấu lại ngành du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn”;
Chương trình hành động số 74-CTr/TU ngày 28/12/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị về phát
triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và Kế hoạch số 35/KH-UBND, ngày
26/2/2018 của UBND tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 103/NQ-CP, ngày
16/10/2017 của Chính phủ và Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị về phát
triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
- Tăng cường hoạt động liên kết du lịch giữa Lạng Sơn và các tỉnh, thành
phố phía Bắc góp phần đánh thức các tiềm năng du lịch của tỉnh.
- Chủ động phối hợp nâng cao chất lượng, cải thiện môi trường kinh doanh
du lịch; đa dạng hóa các sản phẩm mang đậm nét văn hóa đặc trưng của địa
phương và bảo đảm được yếu tố liên kết trong khu vực để phát triển du lịch; cần
gắn du lịch với các sự kiện văn hóa, thể thao.
- Có chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch của ngành; tăng cường đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ du lịch để nâng cao
năng lực, tính chuyên nghiệp nhưng vẫn giữ được bản sắc vùng miền, đặc trưng
của cộng đồng về du lịch.
- Khẩn trương hoàn thiện Đề án phát triển du lịch tỉnh Lạng Sơn đến năm

2030, bộ nhận diện thương hiệu du lịch Lạng Sơn; tổ chức thành công chương
trình “Du lịch qua những miền di sản Việt Bắc” lần thứ XI, năm 2019, bảo đảm
hiệu quả và đúng tiến độ đề ra.

17



×