Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

(Luận án tiến sĩ) Động từ ba diễn tố trong tiếng Việt (có so sánh với tiếng Anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 167 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HƯƠNG

ĐỘNG TỪ BA DIỄN TỐ TRONG TIẾNG VIỆT
(CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG ANH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HƯƠNG

ĐỘNG TỪ BA DIỄN TỐ TRONG TIẾNG VIỆT
(CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG ANH)
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã ngành: 9 22 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:


1. PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc
2. GS.TS. Đinh Văn Đức

THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả được nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào.
Thái Nguyên, tháng 3 năm 2019
Tác giả
Nguyễn Thị Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, cho tôi gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo và Ban Chủ
nhiệm Khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo (Bộ phận quản lý Sau đại học), Trường
Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên cùng các thầy cô giáo ở Viện Ngôn ngữ
học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
đã tận tình giảng dạy, động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong
suốt quá trình học tập.

Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc và
GS.TS Đinh Văn Đức, những người thầy mẫu mực đã truyền cho tôi tri thức, kinh
nghiệm, niềm say mê nghiên cứu để hoàn thành luận án này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè và người thân trong gia đình đã tiếp sức
cho tôi, giúp tôi có được kết quả như hôm nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 3 năm 2019
Tác giả
Nguyễn Thị Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
BẢNG KÍ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................ iv
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 2
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án .................................................................. 3
6. Bố cục của luận án .................................................................................................. 4
7. Những kết quả nghiên cứu chính của luận án ......................................................... 4
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ LUẬN ................................................................................................................... 5

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu...................................................................... 5
1.1.1. Nghiên cứu về động từ ...................................................................................... 5
1.1.2. Nghiên cứu về kết trị và kết trị của động từ ...................................................... 5
1.1.3. Nghiên cứu về động từ ba diễn tố ..................................................................... 9
1.2. Cơ sở lí luận ....................................................................................................... 13
1.2.1. Động từ ............................................................................................................ 13
1.2.2. Khái niệm diễn tố, phân biệt diễn tố với tham thể ngữ nghĩa và chu tố ......... 14
1.2.3. Các kiểu kết trị của động từ ............................................................................ 20
1.2.4. Khái niệm hiện thực hoá kết trị ....................................................................... 21
1.2.5. Cách phân loại động từ - khái niệm động từ ba diễn tố .................................. 22
1.2.6. Lí thuyết ba bình diện của câu với việc nghiên cứu động từ ba diễn tố ......... 24
1.2.7. Nguyên tắc, thủ pháp và quy trình nghiên cứu động từ ba diễn tố ................. 33
1.3. Tiểu kết............................................................................................................... 37
Chương 2:ĐỘNG TỪ BA DIỄN TỐ TRONG TIẾNG VIỆTXÉT TRÊN
BÌNH DIỆN CÚ PHÁP ........................................................................................... 38
2.1. Dẫn nhập ............................................................................................................ 38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




2.2. Đặc điểm ngữ pháp chung của động từ ba diễn tố ............................................. 38
2.2.1. Về ý nghĩa ....................................................................................................... 38
2.2.2. Về cấu tạo ........................................................................................................ 40
2.2.3. Về thuộc tính kết trị......................................................................................... 41
2.3. Phân loại động từ ba diễn tố ............................................................................... 52
2.3.1. Tiêu chí phân loại ............................................................................................ 52
2.3.2. Kết quả phân loại ............................................................................................ 53
2.3.3. Về ranh giới giữa các nhóm động từ ba diễn tố .............................................. 57
2.3.4. Miêu tả một số nhóm động từ ba diễn tố tiêu biểu ......................................... 59

2.4. Tiểu kết............................................................................................................... 76
Chương 3: ĐỘNG TỪ BA DIỄN TỐ TRONG TIẾNG VIỆT XÉT TRÊN
BÌNH DIỆN NGHĨA BIỂU HIỆN ......................................................................... 78
3.1. Dẫn nhập ............................................................................................................ 78
3.2. Đặc điểm chung về nghĩa biểu hiện của câu với hạt nhân ngữ nghĩa là
động từ ba diễn tố ...................................................................................................... 78
3.2.1. Đặc điểm chung của hạt nhân ngữ nghĩa ........................................................ 78
3.2.2. Đặc điểm chung của các vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của
câu với động từ ba diễn tố ......................................................................................... 80
3.3. Phân tích cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với hạt nhân ngữ nghĩa là một
số nhóm động từ ba diễn tố tiêu biểu ........................................................................ 88
3.3.1. Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với hạt nhân ngữ nghĩa là động từ
ban phát..................................................................................................................... 88
3.3.2. Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với hạt nhân ngữ nghĩa là động từ làm
chuyển dời đối thể ..................................................................................................... 96
3.3.3. Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với hạt nhân ngữ nghĩa là động từ
cầu khiến ................................................................................................................. 104
3.4. Sự tương ứng giữa cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa biểu hiện trong câu
với động từ ba diễn tố ............................................................................................. 113
3.4.1. Sự tương ứng giữa hạt nhân ngữ nghĩa và hạt nhân cú pháp ........................ 113
3.4.2. Sự tương ứng giữa các vai nghĩa và thành phần cú pháp của câu ................ 113
3.5. Tiểu kết............................................................................................................. 114

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




Chương 4:BƯỚC ĐẦU SO SÁNH ĐỘNG TỪ BA DIỄN TỐTRONG
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH .......................................................................... 116

4.1. Đặt vấn đề ........................................................................................................ 116
4.2. Một số nét khái quát về động từ ba diễn tố trong tiếng Anh............................ 117
4.3. Một số nét tương đồng và khác biệt giữa động từ ba diễn tố trong tiếng
Việt và tiếng Anh .................................................................................................... 119
4.3.1. Những nét tương đồng .................................................................................. 119
4.3.2. Những nét khác biệt ...................................................................................... 126
4.4. Tiểu kết............................................................................................................. 146
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢCÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




BẢNG KÍ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
V

Động từ hạt nhân (trường hợp sau động từ hạt nhân có diễn tố là động từ thì
động từ hạt nhân được kí hiệu là V1)

N1

Diễn tố thứ nhất chỉ chủ thể.

N2

Danh từ - diễn tố thứ hai, chỉ đối thể trực tiếp.


N3

Danh từ - diễn tố thứ ba, chỉ đối thể gián tiếp

V2

Động từ - diễn tố thứ ba chỉ nội dung

v

Động từ ngữ pháp có chức năng dẫn nối trong thành phần của diễn tố thứ ba.

p

Giới từ dùng để dẫn nối diễn tố thứ 3 (N3).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Động từ trong tiếng Việt là từ loại có số lượng lớn, được sử dụng rộng
rãi nhất, có vai trò cú pháp, ngữ nghĩa quan trọng nhất và có đặc tính hết sức phức
tạp. Về vai trò ngữ pháp, động từ là trung tâm của tuyệt đại đa số câu tiếng Việt. Do
có vị trí quan trọng trong hệ thống từ loại mà động từ luôn thu hút sự quan tâm đặc
biệt của các nhà nghiên cứu.
Việc nghiên cứu động từ trong tiếng Việt được tiến hành ở nhiều góc độ, từ

nghiên cứu theo quan niệm truyền thống tới nghiên cứu theo quan niệm ngữ pháp
phụ thuộc và ngữ pháp chức năng. Những kết quả nghiên cứu về động từ có đóng
góp quan trọng cho lí thuyết từ loại và cú pháp. Tuy nhiên, qua tìm hiểu, chúng tôi
nhận thấy ở động từ vẫn còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu sâu rộng hơn. Một
trong những vấn đề đó là việc nghiên cứu, xác lập, miêu tả các đặc điểm ý nghĩa và
hoạt động ngữ pháp của các tiểu loại, các nhóm động từ cụ thể.
1.2. Lý thuyết kết trị được sáng lập bởi L.Tesnière là một trong những lí
thuyết quan trọng, một thành tựu lớn của ngôn ngữ học thế kỷ XX. Sau khi ra đời, lí
thuyết kết trị của L.Tesnière đã được phát triển, ứng dụng rộng rãi vào việc nghiên
cứu ngữ pháp, ngữ nghĩa của các ngôn ngữ khác nhau.
Ở Việt Nam, lí thuyết kết trị đã được nghiên cứu sâu trong công trình chuyên
khảo Kết trị của động từ tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc. Kết quả nghiên cứu của
công trình này đã mở ra một hướng nghiên cứu mới mẻ và rất thiết thực với ngữ
pháp tiếng Việt. Điều này thể hiện rõ trong một loạt các nghiên cứu gần đây theo
khuynh hướng trên.
1.3. Động từ ba diễn tố trong tiếng Việt là tiểu loại động từ có số lượng khá
lớn và có ý nghĩa đặc điểm ngữ pháp rất phức tạp. Việc nghiên cứu nhóm động từ
này có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận lẫn thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay, tiểu
loại động từ này trong tiếng Việt chưa được nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống và
chuyên sâu theo hướng dựa triệt để vào lí thuyết kết trị và lí thuyết ngữ pháp chức
năng; đặc biệt là hướng nghiên cứu trên cứ liệu tiếng Việt có sự so sánh với các
ngôn ngữ khác loại hình.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Động từ ba diễn tố
trong tiếng Việt (có so sánh với tiếng Anh).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là miêu tả làm rõ đặc điểm về cú pháp và ngữ nghĩa
(nghĩa biểu hiện) của động từ ba diễn tố trong tiếng Việt, bao gồm các đặc điểm
chung của tiểu loại, những đặc điểm riêng của một số nhóm động từ tiêu biểu; đồng
thời, trên cơ sở so sánh động từ ba diễn tố tiếng Việt với các động từ tương ứng
trong tiếng Anh, chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt, đặc biệt là sự khác biệt
về mặt kết trị hình thức. Từ đó, luận án góp phần làm sáng rõ hơn đặc điểm ngữ
pháp, ngữ nghĩa của động từ nhìn từ góc độ lí thuyết kết trị và lí thuyết ngữ pháp
chức năng ở các loại hình ngôn ngữ khác nhau, phục vụ cho việc dạy học tiếng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đây, luận án thực hiện các nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, xác lập cơ sở lí luận của đề tài (những vấn đề lí luận chung,
bao gồm lí luận về động từ, về lí thuyết kết trị và kết trị của động từ, sự phân loại
động từ và khái niệm động từ ba diễn tố; khái niệm diễn tố, vai nghĩa, chức năng cú
pháp, mối quan hệ giữa vai nghĩa và chức năng cú pháp).
- Xác lập các nguyên tắc và thủ pháp phân tích, miêu tả động từ ba diễn tố về cú
pháp và ngữ nghĩa theo lí thuyết kết trị, lí thuyết ngữ pháp chức năng; miêu tả động từ ba
diễn tố về cú pháp và ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện) theo các nguyên tắc được xác lập.
- So sánh, đối chiếu động từ ba diễn tố trong tiếng Việt và tiếng Anh để chỉ
ra được những nét tương đồng và khác biệt.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là động từ ba diễn tố trong tiếng Việt hiện
đại có so sánh với tiếng Anh.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là đặc điểm cú pháp và ngữ nghĩa của động
từ ba diễn tố trong tiếng Việt hiện đại (được khảo sát trong các tác phẩm văn học,
báo chí và một số loại văn bản của các tác giả có uy tín về sử dụng ngôn ngữ) có so
sánh với các nhóm tương ứng trong tiếng Anh.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được sử dụng để miêu tả đặc điểm hoạt động ngữ pháp

(thuộc tính kết trị) và đặc điểm ý nghĩa biểu hiện (thuộc tính kết hợp ngữ nghĩa) của
động từ ba diễn tố trong các tác phẩm văn học, báo chí của các tác giả có uy tín về
sử dụng ngôn ngữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




4.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Phương pháp này được sử dụng (ở mức độ nhất định) với tư cách là phương
pháp bổ trợ để so sánh các đặc trưng của động từ ba diễn tố trong tiếng Việt với
tiếng Anh nhằm làm rõ một số nét tương đồng và khác biệt.
Phù hợp với các phương pháp chủ yếu trên đây, chúng tôi sử dụng một số thủ
pháp như: thống kê, phân loại và các thủ pháp hình thức như: lược bỏ, bổ sung, cải
biến, thay thế và mô hình hóa . Các thủ pháp hình thức trên đây tỏ ra phù hợp và có
hiệu quả đối với việc phân tích, miêu tả ngữ pháp của các ngôn ngữ đơn lập, giúp
cho việc nghiên cứu đặc điểm của nhóm động từ ba diễn tố tránh hoặc hạn chế được
sự chủ quan, cảm tính.
4.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Nội dung của phương pháp này là chọn nghiên cứu sâu một số nhóm động từ
ba diễn tố tiêu biểu nhằm làm rõ thêm đặc điểm của động từ ba diễn tố.
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
5.1. Về lý luận
Thứ nhất, đây là một công trình đầu tiên nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống và
chuyên sâu về các động từ ba diễn tố trong tiếng Việt dựa triệt để vào lí thuyết kết
trị và lí thuyết ngữ pháp chức năng. Việc nghiên cứu nhóm động từ ba diễn tố theo
lí thuyết kết trị và lí thuyết ngữ pháp chức năng sẽ góp phần soi sáng thêm một số
vấn đề lý thuyết về động từ, lý thuyết kết trị về động từ, lí thuyết về ngữ pháp chức
năng trên cứ liệu tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ đơn lập tiêu biểu.
Thứ hai, việc nghiên cứu các động từ ba diễn tố từ góc độ có so sánh, đối

chiếu với tiếng Anh là ngôn ngữ khác về loại hình sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm
những nét phổ quát và đặc thù về kết trị của động từ ba diễn tố nhìn từ góc độ lí
thuyết kết trị và lí thuyết ngữ pháp chức năng; qua đó, làm sáng tỏ thêm những nét
tương đồng và khác biệt về đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa của động từ tiếng Việt
với động từ trong các ngôn ngữ khác loại hình.
Thứ ba, qua việc phân tích, miêu tả sự tương ứng giữa chức năng cú pháp với
các vai nghĩa gắn với động từ ba diễn tố, luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ một trong
những vấn đề phức tạp, thú vị về lí thuyết là vấn đề mối tương quan giữa cấu trúc cú
pháp (với các thành tố cú pháp) với cấu trúc nghĩa biểu hiện hay cấu trúc nghĩa sâu
của câu (với các tham thể ngữ nghĩa hay các vai nghĩa).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




5.2. Về thực tiễn
Luận án sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết, bổ ích trong việc nghiên cứu
về động từ nói riêng, về ngữ pháp nói chung; đồng thời, có thể được sử dụng trong
việc biên soạn giáo trình, các tài liệu phục vụ cho việc dạy học ngữ pháp tiếng Việt
cũng như việc dạy học ngoại ngữ trong nhà trường.
6. Bố cục của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận án sẽ được
triển khai trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận.
Chương 2: Động từ ba diễn tố trong tiếng Việt xét trên bình diện cú pháp
(kết trị cú pháp).
Chương 3: Động từ ba diễn tố trong tiếng Việt xét trên bình diện nghĩa
biểu hiện.
Chương 4: Bước đầu so sánh động từ ba diễn tố trong tiếng Việt với các
nhóm tương ứng trong tiếng Anh.

7. Những kết quả nghiên cứu chính của luận án
- Xác lập được cơ sở lí thuyết của đề tài (qua việc làm rõ các khái niệm, các
vấn đề cơ bản thuộc lí thuyết kết trị và lí thuyết ngữ pháp chức năng), tạo tiền đề
cho việc nghiên cứu động từ ba diễn tố trong tiếng Việt có so sánh với các động từ
tương ứng trong tiếng Anh.
- Chỉ ra được những đặc điểm chung về cú pháp của động từ ba diễn tố, phân
loại và miêu tả làm rõ đặc điểm của một số nhóm động từ ba diễn tố tiêu biểu trên
bình diện cú pháp.
- Miêu tả làm rõ cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với hạt nhân ngữ nghĩa là
động từ ba diễn tố nói chung, cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với hạt nhân ngữ
nghĩa thuộc một số nhóm động từ ba diễn tố tiêu biểu nói riêng.
- Chỉ ra sự tương ứng giữa cấu trúc cú pháp (gồm hạt nhân cú pháp và các
diễn tố) và cấu trúc ngữ nghĩa biểu hiện (gồm hạt nhân ngữ nghĩa và các tham thể
ngữ nghĩa hay các vai nghĩa) của câu với động từ ba diễn tố.
- Chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản giữa động từ ba diễn tố
trong tiếng Việt và tiếng Anh về mặt ý nghĩa, kết trị và về mặt hiện thực hóa kết trị.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về động từ
Từ cuối thế kỉ XIX đến đầu những năm sáu mươi của thế kỷ XX, việc nghiên cứu
động từ tiếng Việt đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, trong giai đoạn
này chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên sâu về động từ.
Việc nghiên cứu về động từ trong tiếng Việt chỉ thực sự đi vào chiều sâu bắt đầu từ giữa

những năm sáu mươi của thế kỉ XX đến nay. Bên cạnh các công trình chung về ngữ
pháp thường có đề cập đến động từ, ở giai đoạn này đã xuất hiện một số chuyên luận
đáng chú ý về động từ như: “Phân loại động từ tiếng Việt” của I.S. Bưxtrov (1966);
“Cụm động từ tiếng Việt” của Nguyễn Phú Phong (1973); “Các động từ chỉ hướng trong
tiếng Việt” của Nguyễn Lai (1976); “Động từ trong tiếng Việt” của Nguyễn Kim Thản
(1977), “Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ” của Vũ Thế Thạch (1984)….
Qua các công trình nghiên cứu trên, diện mạo của động từ đã được nhìn nhận
một cách căn bản, rõ nét. Trong đó, có một số công trình đã nghiên cứu tương đối
toàn diện về động từ nói chung như: “Cụm động từ tiếng Việt” của Nguyễn Phú
Phong (1973), “Động từ trong tiếng Việt” của Nguyễn Kim Thản (1977)… Một số
công trình nghiên cứu từng mặt, từng nhóm hoặc từng khía cạnh của động từ như:
“Phân loại động từ tiếng Việt” của I.S. Bưxtrov (1966); “Các động từ chỉ hướng
trong tiếng Việt” của Nguyễn Lai (1976); “Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ” của
Vũ Thế Thạch (1984)…
Như vậy, những kết quả nghiên cứu về động từ nêu trên đã đánh dấu bước
tiến quan trọng trong nghiên cứu động từ tiếng Việt. Đồng thời, các kết quả này lại
là tiền đề thúc đẩy việc nghiên cứu về từ loại động từ trong tiếng Việt từ nhiều khía
cạnh khác nhau.
1.1.2. Nghiên cứu về kết trị và kết trị của động từ
1.1.2.1. Trên thế giới
1/ Lí thuyết kết trị của L. Tesinière
a) Vài nét về L.Tesnière và ngữ pháp phụ thuộc của ông
Người khởi xướng lí thuyết kết trị là L. Tesnière, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng
người Pháp. Những tư tưởng về lí thuyết kết trị được L.Tesnière trình bày trong
cuốn “Các yếu tố của cú pháp cấu trúc” (Elements de syntaxe structurale, 1959).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên





Trong cuốn sách trên đây của L. Tesnière, lí thuyết kết trị đã được trình bày
gắn liền với tư tưởng về ngữ pháp phụ thuộc của ông. Lấy câu “Quy tắc cao nhất là
sự phụ thuộc và tính phụ thuộc” làm lời đề cho Chương 2 (Tôn ti của quan hệ cú
pháp), L. Tesnière viết: “Quan hệ cú pháp xác lập giữa các từ mối quan hệ phụ
thuộc. Mỗi quan hệ thống nhất một yếu tố đứng trên với một vài yếu tố đứng dưới.
Yếu tố đứng trên chúng tôi sẽ gọi là yếu tố chi phối hoặc yếu tố chính, còn yếu tố
đứng dưới là yếu tố phụ thuộc. Chẳng hạn, trong câu “Alfred parle .”(Anphret nói),
parle (nói) là yếu tố chính, còn Anfred (Anphred) là yếu tố phụ”. [104, tr.64]
Mối quan hệ cú pháp ở câu trên được trình bày bằng sơ đồ sau:
Parle (nói)

Alfred
Cùng với nguyên tắc phụ thuộc và tính tôn ti của quan hệ cú pháp như đã
nêu, L. Tesnière cũng lưu ý đến tính chất một chức năng của yếu tố phụ thuộc: “Về
nguyên tắc, không một yếu tố phụ thuộc nào có thể phụ thuộc vào hơn một yếu tố
chính. Ngược lại, yếu tố chính có thể chi phối một vài yếu tố phụ thuộc” [104,
tr.25]. Theo L. Tesnière, quan niệm trên đây thực sự xuất phát từ mặt cấu trúc (mặt
ngữ pháp), khác với quan niệm truyền thống thường xuất phát từ mặt logic hoặc
ngữ nghĩa. [104, tr.118-124]
b) Khái niệm nút động từ, diễn tố, chu tố
Theo quan niệm của L. Tesnière, mỗi yếu tố chính mà ở nó có một hoặc
một vài yếu tố phụ lập thành cái ông gọi là nút (tiếng Pháp: noeut, tiếng Nga:
uzel). Nút được L. Tesnière định nghĩa là “tập hợp bao gồm từ chính và tất cả các
từ trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào nó” [104, tr.25]. Nút được tạo thành bởi từ
thu hút vào mình, trực tiếp hoặc gián tiếp, tất cả các từ của câu được gọi là nút
trung tâm. Nút này đảm bảo sự thống nhất cấu trúc của câu bởi nó gắn tất cả các
yếu tố của câu thành một chuỗi thống nhất. Trong ý nghĩa nhất định, nó đồng nhất
với cả câu [104, tr.26]. Nút trung tâm thường được cấu tạo bởi động từ (như các
thí dụ trên đây) nhưng cũng có thể là danh từ, tính từ, trạng từ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên





Nút động từ theo quan niệm của L. Tesnière là trung tâm của câu trong phần
lớn các ngôn ngữ châu Âu và biểu thị cái tương tự như một vở kịch nhỏ với các vai
diễn (gắn với hành động) và hoàn cảnh. Nếu đi từ mặt thực tế của vở kịch sang bình
diện cú pháp cấu trúc thì hành động, các vai diễn và hoàn cảnh sẽ trở thành các yếu
tố tương ứng với động từ, diễn tố (actants), chu tố (circonstants). Động từ biểu thị
quá trình (frappe - đánh trong Alfred frappe Bernard). Các diễn tố chỉ người hay vật
tham gia vào quá trình với tư cách bất kì (chủ động hay bị động). Chẳng hạn, trong
câu trên, các diễn tố là Alfred và Bernard. [104, tr.117]
Các diễn tố có đặc điểm chung là: 1/ Đều phụ thuộc vào động từ, là kẻ thể
hiện kết trị của động từ, kể cả diễn tố chủ thể (chủ ngữ). 2/ Đều có tính bắt buộc,
nghĩa là sự xuất hiện của chúng do nghĩa của động từ đòi hỏi và việc lược bỏ chúng
sẽ làm cho nghĩa của động từ trở nên không xác định. 3/ Về hình thức, chúng được
biểu hiện bằng danh từ hoặc các yếu tố tương đương.
Dựa vào chức năng mà các diễn tố thực hiện theo mối quan hệ với động từ,
L. Tesnière phân loại các diễn tố (actants) thành: diễn tố thứ nhất, diễn tố thứ hai và
diễn tố thứ ba.
Diễn tố thứ nhất từ góc độ ngữ nghĩa, chính là diễn tố chỉ kẻ hành động và vì
vậy, trong ngữ pháp học truyền thống, nó được gọi là chủ thể (sujet). L. Tesnière đề
nghị giữ thuật ngữ này. Trong câu “Alfred parle.” (Anphret nói.), Anphret từ góc độ
cấu trúc là diễn tố thứ nhất; từ góc độ nghĩa, chỉ chủ thể của hành động nói.
Diễn tố thứ hai về cơ bản, phù hợp với bổ ngữ chỉ đối thể trong ngữ pháp
truyền thống. L. Tesnière đề nghị gọi là đối thể. Chẳng hạn, trong câu “Alfred
frappe Bernard.” (Anphret đánh Bécna.), Bécna về cấu trúc là diễn tố thứ hai, về
nghĩa chỉ đối thể của hành động. Khi so sánh diễn tố chủ thể và diễn tố đối thế (bổ
ngữ), L. Tesnière lưu ý rằng chúng chỉ đối lập nhau về mặt nghĩa, còn mặt cấu trúc
(cú pháp) giữa chúng không có sự đối lập [104, tr.124]. L. Tesnière nhấn mạnh:

“Trên thực tế, từ góc độ cấu trúc, không phụ thuộc vào chỗ trước chúng là diễn tố
(actant) thứ nhất hay thứ hai, yếu tố bị phụ thuộc luôn luôn là bổ ngữ” [104, tr.124]
và khẳng định “diễn tố chủ thể (chủ ngữ truyền thống) chính là bổ ngữ cũng như
những bổ ngữ khác”. [104, tr.124]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




Diễn tố thứ ba, từ góc độ ngữ nghĩa là diễn tố chỉ sự vật mà hành động được
thực hiện có lợi hay gây hại cho nó. Về cơ bản, diễn tố thứ ba tương ứng với bổ ngữ
gián tiếp trong ngữ pháp học truyền thống. Thí dụ: trong câu: “Alfred donne le liver
à Charle. ” (Anphret đưa cuốn sách cho Sáclơ.) có: Alfred (Anphret) đóng vai trò là
diễn tố thứ nhất; le liver (cuốn sách) đóng vai trò là diễn tố thứ hai; à Charle (Sác
lơ) là diễn tố thứ ba. Có thể sơ đồ hóa câu trên như sau:
Donne (đưa)

Alfred

le livre

à Charle

(Anphret)

(cuốn sách)

(actant 1)

(actant 2)


(Sáclơ)
(actant 3)

Cùng nằm trong thành phần cấu trúc của câu động từ, bên cạnh các diễn tố
còn có các chu tố (circonstant). Về nghĩa, các chu tố biểu thị hoàn cảnh (thời gian,
vị trí, phương thức…) trong đó quá trình được mở rộng. Chẳng hạn trong câu:
Alfred fourve toujours son nez partout (Anphrét ở đâu cũng luôn ngoáy cái mũi của
mình), có hai chu tố là toujours (luôn luôn) và partout (ở mọi nơi).
Trong câu “Alfred parl bien.” (Anphret nói hay), từ bien (hay) là chu tố.
Lược đồ của câu này như sau:
Parl

Alfred

bien

2/ Sự mở rộng lí thuyết kết trị trong ngôn ngữ học các nước
Trong ngôn ngữ học Nga, kết trị thường được hiểu theo cách hiểu rộng hơn.
Chẳng hạn, N.I.Tjapkina cho rằng kết trị của động từ được xác định dựa vào toàn bộ
các mối quan hệ cú pháp có thể có đối với nó [105, tr.300]. Cách hiểu này, về thực
chất đã đồng nhất kết trị với khả năng của từ tham gia vào các mối quan hệ cú pháp
nói chung. Khi tính đến các kiểu kết trị của động từ, N.I.Tjapkina phân biệt kết trị
chung (được xác định dựa vào toàn bộ các mối quan hệ cú pháp có thể có đối với
động từ) với kết trị hạt nhân (được xác định dựa vào mối quan hệ của động từ với
các thành tố chủ thể và đối thể của hoạt động. Theo N.I.Tjapkina, kết trị hạt nhân là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên





cơ sở mà dựa vào đó, có thể tiến hành phân tích và phân loại câu động từ thành các
kiểu nhất định [105, tr.301], [106, tr.52]...
Khác với những tác giả chỉ áp dụng khái niệm kết trị ở cấp độ từ và ở mặt
khả năng kết hợp cú pháp, một số tác giả chủ trương mở rộng khái niệm kết trị sang
cả các cấp độ và các bình diện khác của ngôn ngữ. Theo hướng này, thuật ngữ kết
trị được dùng với nghĩa rất rộng. Với quan niệm này, ngoài kết trị của từ còn có thể
nói về kết trị của các đơn vị ngôn ngữ thuộc các cấp độ khác (chẳng hạn, kết trị của
các thân từ - kết trị cấu tạo từ) [103], ngoài kết trị chủ động còn có kết trị bị động,
ngoài kết trị cú pháp còn có kết trị ngữ nghĩa và kết trị logic. [103]
1.1.2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, lí thuyết kết trị và cách vận dụng lí thuyết này vào việc phân
tích ngữ pháp đã được đề cập trong các công trình của Cao Xuân Hạo [26], Nguyễn
Thị Quy [60], Đinh Văn Đức [19], Nguyễn Văn Lộc [41], [42], Nguyễn Văn Hiệp
[31], Lâm Quang Đông [16] và một số tác giả khác. Tuy nhiên, ở hầu hết các tác
giả này, lý thuyết kết trị và việc vận dụng vào phân tích ngữ pháp chủ yếu được đề
cập khi xem xét, miêu tả vị từ hoặc mặt ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện) của câu.
Gần đây, trong luận văn thạc sỹ của Gia Thị Đậm “Động từ chủ động trong
tiếng Việt”[15] khi nghiên cứu đặc điểm chung của động từ chủ động trong tiếng
Việt, tác giả đã phân tích chỉ ra khả năng kết hợp (thuộc tính kết trị) đặc trưng của
động từ chủ động với bổ ngữ mục đích và bổ ngữ chỉ công cụ, phương tiện.
Trong luận án tiến sĩ “Phân tích câu về cú pháp dựa vào thuộc tính kết trị của
từ (Trên cứ liệu câu động từ tiếng Việt)”, Nguyễn Mạnh Tiến đã vận dụng lý thuyết
kết trị vào việc phân tích câu tiếng Việt, từ đó, làm rõ bản chất, đặc điểm cú pháp của
các thành phần câu và ranh giới giữa chúng xét từ góc độ kết trị của từ. [79]
1.1.3. Nghiên cứu về động từ ba diễn tố
Động từ ba diễn tố trong tiếng Việt là nhóm động từ có số lượng khá lớn và
có vị trí quan trọng trong từ loại động từ. Tuy nhiên, trước đây, việc nghiên cứu về
tiểu loại động từ này phần lớn mới chỉ được đề cập một cách khái quát trong các
công trình nghiên cứu chung về ngữ pháp tiếng Việt.

Lâm Quang Đông trong công trình “Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với
nhóm vị từ trao/tặng (trong tiếng Anh và tiếng Việt)” [16] đã đề cập đến nhóm động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




từ trao/tặng là một trong những nhóm động từ ba diễn tố. Tuy nhiên, trong công
trình này, tác giả mới chỉ xem xét bình diễn nghĩa biểu hiện của nhóm động từ
trao/tặng.
Việc nghiên cứu riêng về động từ ba diễn tố mới chỉ thực sự được tiến hành
trong công trình “Động từ ba diễn tố trong tiếng Việt” (2012) của tác giả Nguyễn Thị
Thanh Tâm [66]. Trong công trình này, tác giả đã bước đầu miêu tả làm rõ một số đặc
điểm ý nghĩa và thuộc tính kết trị của động từ ba diễn tố trong tiếng Việt. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, ở công trình này, các động từ ba diễn tố mới
chỉ được tác giả đề cập một cách khái quát, chưa được chú ý miêu tả thật tỉ mỉ theo
từng nhóm nhỏ động từ. Hơn nữa, ở công trình này, thuộc tính cú pháp (kết trị hay kết
trị cú pháp) và thuộc tính ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện của động từ ba diễn tố) chưa được
tác giả phân biệt rõ ràng và chưa được xem xét một cách riêng biệt. Cùng với điều đó,
tác giả chưa có điều kiện xem xét mối tương quan giữa diễn tố (thành phần cú pháp) và
tham thể ngữ nghĩa. Ngoài ra, công trình này cũng chưa xem xét đến động từ ba diễn tố
trong mối quan hệ so sánh với các ngôn ngữ khác về loại hình.
Trong công trình “Hành động cầu khiến tiếng Việt” (2016) của Nguyễn Thị
Thanh Ngân, tác giả cũng đề cập đến động từ cầu khiến là một trong những nhóm
động từ ba diễn tố. Tuy nhiên, ở công trình này, tác giả chủ yếu đi vào xem xét hành
động cầu khiến từ góc độ ngữ dụng.
Gần đây, trong luận án Tiến sĩ “Phát ngôn có vị từ ba diễn tố trong tiếng
Việt” (2017), Đỗ Thị Hiên đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm của phát ngôn với vị từ
ba diễn tố trong tiếng Việt ở một số mặt như: khái quát về vị từ ba diễn tố và phát
ngôn có vị từ ba diễn tố trong tiếng Việt, các thành tố trong cấu trúc nghĩa miêu tả

của phát ngôn có vị từ ba diễn tố trong tiếng Việt, sự hiện thực hóa cấu trúc và ngữ
nghĩa của động từ ba diễn tố trong phát ngôn tiếng Việt. [29]
Có thể thấy bên cạnh một số kết quả bước đầu trong việc phân tích, miêu tả
đặc điểm của phát ngôn có vị từ ba diễn tố, ở công trình này còn một số vấn đề lí
luận và thực tiễn quan trọng liên quan đến động từ ba diễn tố chưa được xem xét
giải quyết một cách thấu đáo, triệt để theo quan điểm của lí thuyết kết trị và lí thuyết
ngữ pháp chức năng. Cụ thể:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




a) Về mặt lí luận:
- Ở công trình này, tác giả vẫn dựa vào quan niệm truyền thống theo đó, chủ
ngữ và vị ngữ được coi là hai thành phần chính tạo nên nòng cốt câu [29, tr.23].
Theo quan niệm này thì chủ ngữ không phải là diễn tố của vị từ vì diễn tố theo cách
hiểu của L.Tesnière là các thành tố phụ (bổ ngữ theo nghĩa rộng) thể hiện kết trị bắt
buộc của động từ giữ vai trò hạt nhân về cú pháp [104, tr.124]. Như vậy, việc dùng
khái niệm vị từ ba diễn tố dường như có sự mâu thuẫn với cách hiểu của chính tác
giả về bản chất cú pháp (là thành phần chính) của chủ ngữ.
- Ở công trình này, mặt cú pháp (gắn với kết trị hay kết trị cú pháp của từ) và
mặt ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện, nghĩa miêu tả) của phát ngôn có động từ ba diễn tố
chưa được tác giả xác định, phân biệt một cách rành mạch, rõ ràng.
Điều này thể hiện ở chỗ các khái niệm diễn tố (actant),chu tố (cirsconstant),
vốn là các thành tố cú pháp (theo cách hiểu của L. Tesnière, tương ứng với các
thành phần câu như chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ [104, tr.124]) không được tác giả
xác định cụ thể và phân biệt rõ với khái niệm tham thể ngữ nghĩa (vai nghĩa) là các
thành tố thuộc cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu. Chẳng hạn, ở mục (1.3.2.1.Nghĩa
miêu tả) trình bày về nghĩa biểu hiện, khi bàn về tham thể (TT) ngữ nghĩa với tư

cách là thành tố trong cấu trúc nghĩa miêu tả (nghĩa biểu hiện) của câu, tác giả cho
rằng: “Căn cứ vào chức năng của các TT trong mối quan hệ với VT (vị từ), có thể
chia tham thể thành hai loại: diễn tố (DT) và chu tố (CT)” [29, tr.28]. Cách hiểu
trên đây, về thực chất đã đồng nhất diễn tố, chu tố (theo cách hiểu của L. Tesnière
vốn là các thành tố cú pháp tương đương với chủ ngữ, bổ ngữ) với tham thể ngữ
nghĩa (các thành tố thuộc cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu). Đây là cách hiểu hoàn
toàn khác với cách hiểu của L. Tesnière về diễn tố, chu tố là những khái niệm do
chính ông đề xuất (cụ thể về sự phân biệt các khái niệm này, xin xem mục 1.2.2.2
dưới đây).
b) Về mặt cấu trúc và nội dung phân tích cụ thể của chương 3
- Ở Chương 3 (Các thành tố trong cấu trúc nghĩa miêu tả của phát ngôn có
vị từ ba diễn tố), lẽ ra cần đi riêng vào mặt nghĩa miêu tả của các thành tố, tác giả
lại dành nhiều trang trình bày về “Đặc điểm ngữ pháp” (đặc điểm về từ loại, cấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




tạo, vị trí, khả năng kết hợp, chức vụ cú pháp…) của vị từ và của các diễn tố (các
thành tố cú pháp) trong phát ngôn. Điều này rõ ràng không phù hợp với tên gọi của
Chương 3.
- Việc phân tích, miêu tả các vai nghĩa trong những phát ngôn cụ thể (ở
Chương 3) cũng còn bộc lộ sự mâu thuẫn và nhìn chung, chưa được luận giải một
cách thuyết phục.
Xin dẫn một vài trường hợp cụ thể:
+ Trong danh sách 15 vai nghĩa được tác giả xác định không hề có vai nghĩa
chủ thể nhưng ở nội dung miêu tả (trang 93) lại có vai nghĩa này.
+ Trong những câu như: (245) “Gã ném cho Điền ba tập giấy bạc.” và (246)
“Người ta quẳng vào rá nó một đồng xu.”, gã, người ta được tác giả coi là thuộc vai
nguồn [29, tr.94]. Điều không được luận giải làm rõ ở đây là: Vai nguồn với tư cách là

thành tố nghĩa (có quan hệ ngữ nghĩa với hạt nhân và do hạt nhân ngữ nghĩa quy định)
ở đây được xác định trong mối quan hệ với hạt nhân ngữ nghĩa nào? (Nếu không phải
là với ném, quẳng?). Mặt khác, lẽ nào bên các hạt nhân ngữ nghĩa là các động từ ném,
quẳng (rõ ràng chỉ hành động tác động đến các đối tượng ba tập giấy bạc, đồng xu) ở
những câu trên đây lại không có vai nghĩa tác thể (được tác giả coi là “chủ thể của một
hành động gây ra một tác động đến một đối tượng nào đó?”). [29, tr.31]
+ Tương tự như vậy, ở những câu như: (249) “Anh hào hứng nói với tôi mọi
chuyện.” hoặc (250) “Trái lại, ta sẽ sai lính đét cho anh chục roi thật đau.”, các
thành tố anh, ta cũng được tác giả coi là thuộc vai nguồn (theo cách hiểu: “nguồn
còn là nơi phát ra nội dung thông tin…” [29, tr.94]). Theo cách hiểu này thì có lẽ
tất cả các từ chỉ chủ thể của hành động nói năng (nói, bảo, thông báo, tuyên bố…),
cầu khiến (sai, cấm, mời, khuyên…) đều được coi là thuộc vai nguồn (vì chúng đều
chỉ “nơi phát ra thông tin”). Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Vai nguồn theo cách hiểu
trên đây được phân biệt như thế nào với vai tác thể (theo cách hiểu của tác giả như
vừa dẫn ở trên)? Câu hỏi này cũng như câu hỏi ở trên chưa hề được giải đáp rõ
ràng). Có thể thấy ở những câu (245), (246), (250) trên đây, các thành tố gã, người
ta, ta mà tác giả coi là thuộc vai nguồn thực ra, có đầy đủ đặc điểm của tác thể mà
theo ý kiến của chính tác giả là“chủ thể của một hành động gây ra một tác động đến
một đối tượng”. [29, tr.31]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




- Ngoài ra, trong phân tích của tác giả, ở nhiều trường hợp, tính chất, ranh
giới của một số vai nghĩa (chẳng hạn, giữa tiếp thể và đắc lợi thể, giữa đối thể và
thụ thể, đắc lợi thể, giữa đối thể và nội dung cầu khiến) không được xác định phù
hợp hoặc không được chỉ ra một cách cụ thể, rõ ràng.
Những điều chỉ ra trên đây cho thấy ở công trình của Đỗ Thị Hiên còn một
số vấn đề lí luận và thực tế chưa được giải quyết một cách hệ thống, nhất quán. Hơn

nữa, công trình này chủ yếu nghiên cứu phát ngôn có vị từ ba diễn tố chứ chưa phải
là công trình vận dụng triệt để lí thuyết kết trị và lí thuyết ngữ pháp chức năng vào
nghiên cứu động từ ba diễn tố (từ góc độ từ loại). Ngoài ra, công trình của Đỗ Thị
Hiên cũng không đề cập đến vấn đề so sánh động từ ba diễn tố trong tiếng Việt với
tiếng Anh.
Như vậy, với quan điểm, phạm vi, nội dung nghiên cứu như chỉ ra trên đây,
kết quả nghiên cứu trong công trình của Đỗ Thị Hiên hoàn toàn không trùng với
quan điểm, phạm vi, nội dung và đặc biệt là kết quả nghiên cứu trong luận án của
chúng tôi (như sẽ trình bày ở dưới đây).
Tóm lại, việc điểm qua các nghiên cứu về động từ nói chung và động từ ba
diễn tố nói riêng trong tiếng Việt trên đây cho phép khẳng định việc nghiên cứu sâu
hơn về động từ ba diễn tố trong tiếng Việt dựa triệt để vào lí thuyết kết trị và lí
thuyết ngữ pháp chức năng (có so sánh với tiếng Anh) là vấn đề thực sự cần thiết và
có ý nghĩa.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Động từ
1/. Khái niệm
Qua tìm hiểu các định nghĩa về động từ, chúng tôi đưa ra quan niệm của
mình về động từ như sau: Động từ là một từ loại thực từ biểu thị hoạt động (hành
động hoặc trạng thái) của sự vật, hiện tượng và có vai trò cú pháp chủ yếu là làm
hạt nhân cú pháp (vị ngữ) của cụm động từ (nút động từ) hay của câu.
2/. Đặc điểm của động từ và cách xác định động từ
Để phân định từ loại nói chung, động từ nói riêng, luận án chủ trương dựa cả
vào đặc điểm nội dung lẫn đặc điểm hình thức. Đặc điểm nội dung của từ chính là ý
nghĩa ngữ pháp của chúng. Đặc điểm hình thức của từ là toàn bộ những dấu hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên





hình thức phản ánh theo cách nào đó, những đặc điểm nội dung. Theo quan niệm
trên đây, động từ là từ loại được xác định theo những đặc điểm sau:
a) Về ý nghĩa:
- Chỉ hoạt động (hành động hoặc trạng thái).
- Có khả năng được bổ sung ý nghĩa thời thể (thời gian, mệnh lệnh, phương
thức, kết quả…).
b) Về hình thức:
- Có khả năng thay thế bằng “làm gì”, “làm sao”.
Thí dụ: (1): Nam chạy. → Nam làm gì?
(2): Nam ốm. → Nam làm sao?
- Có khả năng làm trung tâm (hạt nhân) của cụm động từ (nút động từ theo
thuật ngữ của L. Tesnière hay cụm chủ vị theo cách gọi truyền thống), tức là có khả
năng kết hợp vào mình các thành tố phụ để tạo lập cụm động từ. Cụ thể:
+ Có khả năng kết hợp với các phó từ trong đó, các phó từ đặc trưng cho
động từ là: phó từ chỉ thời gian (đã, sẽ…), mệnh lệnh (hãy, đừng, chớ), phương
hướng (ra, vào, lên, xuống), kết quả (xong, rồi…).
+ Có khả năng kết hợp vào mình các thực từ gồm các từ chỉ chủ thể, đối thể,
hoàn cảnh.
Thí dụ:
(3): Nam đang đọc sách ở thư viện.
(4): Tuấn tặng hoa cho Hiền nhân ngày phụ nữ Việt Nam.
1.2.2. Khái niệm diễn tố, phân biệt diễn tố với tham thể ngữ nghĩa và chu tố
1.2.2.1 Khái niệm diễn tố
Trong các tài liệu ngữ pháp, khái niệm diễn tố (actant) vốn do L.Tesnière đề
xuất thường được hiểu không hoàn toàn thống nhất, không đúng như cách hiểu của
ông. Bên cạnh cách hiểu diễn tố là thành tố cú pháp (tương ứng với các thành tố cú
pháp bắt buộc của câu như chủ ngữ, bổ ngữ) như cách hiểu của L.Tesnière còn có
cách hiểu diễn tố là thành tố ngữ nghĩa (tham thể ngữ nghĩa trong cấu trúc nghĩa
biểu hiện của câu).
Trong luận án này, diễn tố (actant) được hiểu theo cách hiểu của L.Tesnière

như đã giới thiệu ở mục 1.1.2.1 trên đây. Cụ thể, diễn tố được hiểu là các thành tố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




cú pháp bắt buộc (tương ứng với chủ ngữ, bổ ngữ truyền thống) thể hiện kết trị bắt
buộc của động từ [104, tr.124]. Diễn tố theo cách hiểu này, một mặt, được phân biệt
với tham thể ngữ nghĩa hay vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu; mặt
khác, được phân biệt với chu tố (trạng ngữ) là các thành tố cú pháp tự do bên động
từ hay vị từ.
Để làm rõ hơn khái niệm diễn tố, dưới đây, xin trình bày rõ thêm về sự phân
biệt diễn tố với tham thể ngữ nghĩa và chu tố.
1.2.2.2 Phân biệt diễn tố với tham thể ngữ nghĩa
Thực tế cho thấy trong một số tài liệu ngữ pháp, việc phân biệt các khái niệm
diễn tố và tham thể ngữ nghĩa thường không được chú ý, thậm chí, còn có sự nhầm
lẫn các khái niệm này.
Sự khác nhau cơ bản giữa diễn tố và tham thể ngữ nghĩa thể hiện ở những
mặt sau:
1/ Về bản chất
Xét từ góc độ mối quan hệ với các bình diện của câu (theo quan điểm ngữ
pháp chức năng), diễn tố và tham thể ngữ nghĩa có bản chất rất khác nhau: diễn tố
là thành tố cú pháp thuộc cấu trúc cú pháp của câu hay nút vị từ (cụm vị từ); còn
tham thể ngữ nghĩa hay vai nghĩa là các thành tố ngữ nghĩa thuộc cấu trúc nghĩa
biểu hiện (nghĩa miêu tả) của câu. Có thể thấy rõ bản chất cú pháp của diễn tố qua ý
kiến của L.Tesnière.
Trong lý thuyết kết trị của mình, khi xác định, phân loại các kiểu diễn tố
(actants), vì chủ trương xuất phát từ mặt cú pháp chứ không phải từ mặt ngữ nghĩa
(nghĩa biểu hiện, nghĩa miêu tả, nghĩa sâu) nên L. Tesnière quan niệm trong cấu
trúc bị động (Bernard est frappe par Alfred - (5) Becna bị Alphred đánh), từ Becna

về nghĩa biểu hiện hay nghĩa sâu, mặc dù chỉ đối thể nhưng vẫn được ông xếp vào
kiểu diễn tố thứ nhất - diễn tố chủ thể (sujet). [104, tr.124]
L. Tesnière cho rằng trong cải biến bị độngđã có sự chuyển hóa giữa các
kiểu diễn tố với tư cách là các thành tố cú pháp. Cụ thể: Diễn tố thứ hai (bổ ngữ)
trong cấu trúc chủ động (Alfred frappe Bernard) chuyển thành diễn tố thứ nhất (chủ
ngữ, sujet) trong cấu trúc bị động (Bernard est frappe par Alfred); còn diễn tố thứ
nhất (chủ ngữ, sujet) trong cấu trúc chủ động sẽ chuyển thành diễn tố thứ hai (bổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




ngữ) trong cấu trúc bị động. Ông chỉ rõ rằng về mặt ngữ nghĩa, nếu trong cấu trúc
chủ động, diễn tố thứ hai (Bernard) chỉ kẻ chịu sự tác động của hành động thì trong
cấu trúc bị động, diễn tố thứ hai (Alfred) lại chỉ kẻ thực hiện hành động [104,
tr.124]. Ông giải thích thêm: với ý nghĩa chỉ kẻ thực hiện hành động, diễn tố thứ hai
ở cấu trúc bị động trong ngữ pháp truyền thống được gọi là bổ ngữ chủ thể [104,
tr.124]. Ý kiến trên đây của L. Tesnière cho thấy rõ diễn tố chính là các thành tố cú
pháp bắt buộc (bổ ngữ theo nghĩa rộng hoặc chủ ngữ và bổ ngữ theo cách hiểu
truyền thống) chứ không phải là các tham thể ngữ nghĩa hay vai nghĩa được xác
định theo đặc trưng nghĩa biểu hiện hay nghĩa sâu (đặc trưng thuần ngữ nghĩa).
Khác với diễn tố, tham thể ngữ nghĩa hay vai nghĩa được thừa nhận rộng rãi
là các thành tố thuộc bình diện nghĩa biểu hiện và nằm trong cấu trúc nghĩa biểu
hiện (có tác giả gọi là cấu trúc ngữ nghĩa hay cấu trúc sâu) của câu. Ở Simon C.Dik,
bình diện ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện) của câu (được phân biệt với bình diện cú
pháp) bao gồm hạt nhân ngữ nghĩa (biểu thị các loại sự tình cơ bản là: hành động,
tư thế, quá trình, trạng thái) chi phối các chức năng ngữ nghĩa hạt nhân (tác thể,
đích, tiếp thể...) và các chức năng ngữ nghĩa mở rộng (phương thức, đặc trưng,
công cụ, vị trí, thời gian...) [62, tr.50-56]. Ở M. Halliday, thuộc về bình diện ngữ
nghĩa (nghĩa biểu hiện) là các phạm trù ngữ nghĩa chính như: quá trình, tham thể,

chu cảnh được coi là ba thành phần “ cung cấp khung tham chiếu để giải thích kinh
nghiệm của chúng ta về những gì đang diễn ra”. [51, tr.208]
Sự khác nhau về bản chất giữa diễn tố và tham thể ngữ nghĩa như vừa chỉ ra
được thể hiện cụ thể ở một loạt đặc điểm sẽ được phân tích dưới đây.
2/ Về ý nghĩa và hình thức
Là thành tố cú pháp, mỗi diễn tố (ở dạng điển hình) được đặc trưng bởi một
ý nghĩa cú pháp tương ứng với một hình thức cú pháp nhất định. Các tham thể ngữ
nghĩa lại được đặc trưng bởi nghĩa biểu hiện và ý nghĩa này không có hình thức cú
pháp riêng để biểu thị. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, diễn tố chủ thể (chủ ngữ) được
đặc trưng bởi nghĩa cú pháp chủ thể và hình thức cú pháp cơ bản tương ứng biểu thị
nghĩa này là danh từ chiếm vị trí liền trước vị từ giữ vai trò hạt nhân cú pháp. Trong
khi đó, các tham thể ngữ nghĩa chỉ được xác định theo đặc trưng thuần ngữ nghĩa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




(theo nghĩa biểu hiện). Để làm rõ vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét đặc điểm của các
diễn tố và các tham thể ngữ nghĩa trong những câu sau:
(6a): Mẹ khen Nam.
(6b): Nam được mẹ khen.
Về cú pháp, trong câu (6a), Nam là diễn tố đối thể xét trong mối quan hệ với
hạt nhân cú pháp là động từ khen. Diễn tố này được đặc trưng bởi ý nghĩa cú pháp
đối thể và nghĩa cú pháp này có hình thức cú pháp phù hợp để biểu thị là hình thức
danh từ chiếm vị trí sau động từ (khen). Trong câu (6b), Nam là diễn tố chủ thể của
động từ được. Diễn tố này được đặc trưng bởi ý nghĩa cú pháp chủ thể và ý nghĩa
này có hình thức cú pháp tương ứng là danh từ chiếm vị trí liền trước động từ
(được). Về mặt nghĩa biểu hiện, Nam trong cả hai câu trên đây đều là tham thể đối
thể hay bị thể (xét trong mối quan hệ với hạt nhân ngữ nghĩa là động từ khen), mặc

dù Nam trong hai câu có hình thức cú pháp hoàn toàn khác nhau.
3/ Về mối quan hệ với hạt nhân
Là thành tố cú pháp, diễn tố thể hiện kết trị (khả năng kết hợp cú pháp) của vị
từ giữ vai trò hạt nhân cú pháp. Về đặc tính từ loại, vị từ giữ vai trò hạt nhân cú pháp
của câu (cụm vị từ) có thể là thực từ (đi, chạy, ăn, đọc, đánh, mắng, khen…) hoặc
bán thực từ (là, trở thành, trở nên, được, bị, khiến…). Như vậy, diễn tố luôn có mối
quan hệ cú pháp (quan hệ tổ hợp, quan hệ kết trị) với vị từ và do đó, chỉ được xác
định trong mối quan hệ cú pháp với vị từ. Các tham thể ngữ nghĩa, với tư cách là
thành tố ngữ nghĩa, là các yếu tố thể hiện khả năng kết hợp từ vựng (ngữ nghĩa) của
vị từ giữ vai trò hạt nhân ngữ nghĩa của câu. Về đặc tính từ loại, vị từ giữ vai trò hạt
nhân ngữ nghĩa chỉ có thể là thực từ, yếu tố có ý nghĩa cụ thể, chân thực (nghĩa từ
vựng) và biểu thị lõi sự tình được biểu đạt trong câu. Điều đáng chú ý là trong nhiều
trường hợp, tham thể ngữ nghĩa có thể không có mối quan hệ cú pháp (mà chỉ có
quan hệ thuần ngữ nghĩa) với vị từ là hạt nhân ngữ nghĩa của câu. Chẳng hạn, trong
câu (6b) “Nam được mẹ khen.” về nghĩa biểu hiện, Nam với tư cách là tham thể đối
thể (bị thể) được xác định trong mối quan hệ thuần ngữ nghĩa với động từ khen giữ
vai trò hạt nhân ngữ nghĩa (động từ này không có quan hệ cú pháp với danh từ Nam).
4/ Về mặt chức năng
Mỗi diễn tố, về nguyên tắc, chỉ có một chức năng cú pháp. Đây là quy tắc về
sự phụ thuộc cú pháp mà L. Tesnière đã chỉ ra [104, tr.25]. Với các tham thể ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên




×