THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BHXH TỰ NGUYỆN CHO NÔNG DÂN Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY VỚIMỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT.
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI BHXH CHO NÔNG DÂN.
1. Vai trò của nông dân và lao động nông thôn trong hệthống kinh tế xã hội ở
nước ta.
Người nông dân là lựclượng lao động chính trong ngành nông nghiệp và
giữ vai trò then chốt trong quá trình ptkt xã hội ở nước ta.
Nông nghiệp là ngành sản xuất giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân của mỗi quốc gia, cho dù quốc gia đó có nền kinh tế phát triển hay
đang phát triển. Bởi vì ngành này cung cấp cho con người những sản phẩm
thiết yếu nhất cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày như: lương thực,thực phẩm là
yếu tố đầu tiên của sự tồn tại và phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ quốc gia
nào.
Xã hội càng phát triển, đời sống con người càng nâng cao về vật chất lẫn
tinh thần thì nhu cầu về các sản phẩm từ nông nghiệp cũng tăng lên cả về số
lượng và chất lượng, chủng loại. Nguyên nhân của sự tăng lên này là do:
- Dân số tăng lên không ngừng.
- Nhu cầu của bản thân con người cũng không ngừng tăng lên.
Bên cạnh đó nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho công
nghiệp nhẹ và công nghệ thực phẩm hàng hoá để xuất khẩu.
Hơn nữa, nông nghiệp vànông thôn cònglà thị trường tiêu thụ rộng lớn
của công nghiệp baogồm tư liệu sản xuất và tưliệu tiêu dùng mà chủ yếulàdựa
vào thị trường trong nước trước hết là khu vực nôngnghiệp và nông thôn. Sự
thay đổi về nhu cầu trong nông nghiệp và nông thôn sẽ tác động trực tiếp đến
sản xuất ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh nông nghiệp nâng cao
thu nhập cho dân cư nông thôn, từ đó tăng sứcmua của khu vực nông thôn là
điều kiện hết sức quan trọng làm tăng nhu cầu đối với các sản phẩm công
nghiệp, tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển nhanh và ổn định.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm chuyển dịch cơ cấu lao
động trong các thành phần kinh tế. Nhu cầu về lao động tăng lên. Năng suất
lao động trong nông nghiệp cũng tăng lên làm cho số lượngld giải phóng ra
khỏi ngành nông nghiệp càng nhiều, xuất hiện xu hướng chuyển dịch lao động
vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, xu hướng đô thị hoá tăng cao.
Đó là tất yếu khách quan mang tính quy luật của mọi quốc gia trong quá
trình công nghiệp hoá hiện đaị hoá đất nước.
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang trên con đường công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước thì nông nghiệp giữ một vai trò vô cùng quan trọng
và to lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Hàng năm không những đã tạo ra một
khối lượng sản phẩm khổng lồ phong phú, đa dạng cho sản xuất công nghiệp
tạo sự ổn định tình hình kinh tế chính trị xã hội ở nông thôn và tạo ra sự bền
vững của đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cùng với sự hăng say lao động,
tinh thần tích cực sản xuất. Từ một nước không đủ gạo để ăn, hàng nămphải
nhập một số lượnglớn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước cung cấp đủ
nhu cầu gạo trong nước cònlà một trong 3 nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế
giới. Điều này càng khẳng định hơn nữa vai trò củangười nông dân là quan
trọng trong mọi lúc,mọi nơi.
Hiện nay cơ cấu lao động nông nghiệp và nông thôn nước ta vẫn chiếm
tỷ trọng lớn trong toàn bộ nguồn lao động xã hội. Điều này thể hiện ở bảng
sau:
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản 23,3%
Côngnghiệp 37,7%
Dịch vụ 39%
Với đặc tính của nền kinh tế thị trường,tỷ trong nông nghiệp ngày càng
giảm trong các ngành kinh tế thay vào đó là ngành công nghiệp dịch vụ
tănglên. Do đó có thể tỷ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP có thể
giảm đi, nhưng tổng giá trị của ngành nông nghiệp vẫn tăng lên qua các năm.
Theo viện khoa học xã hội thìhiện nay có 10% nông dân làm thêm các
ngành phụ khác như tiểu thủ công nghiệp, xậy dựng, dịch vụ… Đặc tính của
nông nghiệp là phụ thuộc vào thời tiết khí hậu và mang tính thời vụ. Do vậy
những lúc nông nhàn,luông người từ khu vực nông thôn ra thànhthị ngày càng
đông để tìm những công việc phụ không đòi hỏi trình độ tay nghề để kiếm
thêm thu nhập cho bản thân và gia đình. Điều này vừa gâya ảnh hưởng xấu
đến trật tự đô thị của những nơi họ đến mặt khác cũng tạo ra nhưngx lợi ích
không nhỏ. Như vậy người nông dân nước ta không chỉ có đóng góp vào sản
xuất và phát triển nông nghiệp mà còn đóng góp vào các ngành nghề khác
trong xã hội. Do vậy người nông dân có một vai trò rất quan trọng đốivới sự
tồn tại và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
2. Thu nhập của người nông dân và lao động nông thôn.
Năm 2001, thu nhập bình quân đầu người của nước ta là khoảng
650.000
đ
. Tuy nhiên thu nhập của người nông dân còn thấp so với thu nhập
bình quân của cả nước, tuy rằng đó là kết quả tốt nhất từ trước đến nay.
Thu nhập bình quân nhân khẩu của các hộ nông thôn:
Dưới 100.000đ/tháng/người: 18,7%
Dưới 150.000đ/tháng/người: 33,9%.
Từ 400.000 – 1000.000đ/người/tháng chiếm 30,74%.
Trên 1.000.000 đ/người/tháng chiếm 3,36%.
(Nguồn: tạp chí LĐ & XH 5/2001)
Thu nhập bình quân củamột người lao động một tháng tham gia hoạt
động kinh tế chia theo nhóm hộ (nguồn: điều tra của Bộ LĐTB & XH).
+ Vùng duyên hải miền trung:
Vùng, khu vực
Nhóm hộ
Nhóm 1 Nhóm 2
Nông thôn đồng bằng 280 323
Nông thôn ven biển 333 361
Nông thôn miền núi 268 310
+ Vùng Bắc Trung Bộ:
Vùng, khu vực Nhóm hộ
Nhóm 1 Nhóm 2
Nông thôn đồng bằng 174 193
Nông thôn ven biển 194 195
Nông thôn miền núi 162 183
- Nhóm 1: nông nghiệp thuần: gồm các hộ trong 12 tháng trong nămn
chỉ thuần tuý hoạt động về trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng và
đánh bắt thuỷ hải sản.
- Nhóm 2: Nông nghiệp kiêm các ngành khác.
Gồm các hộ ngoài hoạt động chính là sản xuất nông lâm thuỷ sản còn
tham gia thêm một số hoạt động kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực khác không
phân biệt là ổn định hay không ổn định.
Như vậy, so với những năm trước thì thu nhập bình quân của dân cư
nông thôn đã tănglênmột cách rõ rệt. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
hàng ncày họ bắt đầu có tích luỹ (dù còn thấp) và quan tâm đến các nhu cầu xã
hội khác, trong đó có nhu cầu về BHXH. Đây là điểm rất quan trọng là tiền đề
và cơ sở để tiến hành BHXHtự nguyện cho người nông dân.
3. Nhu cầu được BHXH của người nông dân.
Trong lịch sử nước ta, ở thời kỳ kinh tế chậm phát triển, điều kiện sống
gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ chết cao, tuổi thọ trung bình của dân số chỉ 40 đến 50
tuổi, do đó chỉ những người trên 50 tuổi là được gọi là “lão”, những người trên
70 tuổi thì gọi “nhân sinh thất thập cổ lai hy” tức là ít có. Hiện nay, nhờ những
thành tựu trong y học và kinh tế đemlại nên tỷ lệ chết giảm nhanh và tuổi thọ
trung bình tăng lên. Bộ luật lao động của nước ta đã xác định trên 55 tuổi đối
với nữ và trên 60 tuổi đối với nam mà vẫn hoạt động kinh tế thuộc nhóm lao
động là người cao tuổi.
Liên hiệp quốc dự báo thế kỷ 21 là thế kỷ già hoá. Tại nhiều nước đang
phát triển rất quan tâm đến vấn đề già hoá dân số và đang tìm biện pháp để
giảm những ảnh hưởng tiêu cực của nó. Năm 1995, tỷ lệ người cao tuổi trên
thế giới là 9%, thì vào năm 2015 quỹ dân số LHQ dự báo sẽ là 14%. ở Việt Nam
, theo số liệu điều tra năm 1989 trong số 64 triệu dân thì có 7,2% dân số từ 60
tuổi trở lên. Đến năm1999 thì tổng số dân là 78 triệu người thì có tới hơn 10%
dân số từ 60 tuổi trở lên, như vậy người già tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ,
đặc biệt là từ năm1989 đến nay, do đất nước ta thực hiện tốt chiến lược dân ố
– kế hoạch hoá gia đình làm giảm đáng kể tỷ lệ sinh con và đã gián tiếp làm
tăng tỷ lệ người cao tuổi. Theo nhiều chuyên gia thì mô hình biến động dân số
ở Việt Nam khá giống với Trung Quốc và Hàn Quốc. Đó lànhững quốc giamà
dân số chuyển từ loại”trẻ” sang “già” chỉ trong gần 20 năm. Như vậy có thể
trong vài năm tới tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ tăng lên rất nhanh.
Khác với các nước phát triển, người cao tuổi Việt Nam hiện nay hầu hết
đã trải qua các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Hoà bình lập lại, họ trở về
với cuộc sống hàng ngày và phải đối phó với nhièu khó khăn về kinh tế, xã hội
chịu đựng tình trạng suy dinh dưỡng, những bệnh phổ biến như sốt rét, lao và
những bệnh dịch hiện tại như HIV, AIDS, ung thư, tim mạch… Hơn nữa, hầu hết
những người cao tuổi trong số họ họ đều ở nông thôn. Do vậy mà cuộc sống
hiện tại của họ gặp nhiều khó khăn nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện
nay. Cơ chế thị trường bên cạnh mặt tích cực còn có mặt tiêu cực là làm cho
quan hệ người già người trẻ, thế hệ trước thế hệ sau, thậm chí quan hệ gia
đình, dòng họ phần nào cũng bị tiền tệ hoá… Do vạy, nếu Nhà nước không chủ
động nhận thức được các nhu cầu, các tính biến dạng của xã hội tthì khó giải
quyết tốt nhiệm vụ xã hội trong nước.
Hiện nay, nhu cầu BHXH cho người nông dân là cần thiết, là nguyện
vọng khát khao của người dân.
Thực tế hình thức sơ khai của loại hình BHXH đã xuất hiện dưới dạng
cácquỹ, hội ở nông thôn với tính chất tương trợ, tương hỗ lẫn nhau. Hàng bao
đời nay, họ đều phảu tự bảo hiểm cho mình thông qua nhiều hình thức phong
phú, đa dạng trở thành nếp văn hoá truyền thống của dân tộcta (con cái có
nghĩa vụi chăm sóc cha mẹ, hàng xóm đùmbọc giúp đỡ lẫn nhau khi khó
khăn…). Trước đây, trong co chế bao cấp, xã viên hợp tác xã khi về già gặp khó
khăn đều được hợp tác xã trợ giúp từ quỹ phúc lợi hoặc mua thóc điều hoà với
giá thấp. Cùng với cơ chế thị trường năng động, linh hoạt vàmèm dẻo thì sự
giúp đỡ này không còn, do vậy nếu nhà nước thực hiện chính sách BHXH cho
nông dân thì người nông dân sẽ yên tâm hơn lkhi cuộc sống về già không phải
lo lắng đối phó với ốm đau bệnh tật tuổi già vì đã có sự bảo trợ an toàn, đáng
tin cậy là BHXH.
Để xác định nhu cầu tham gia BHXH của người nông dân và lao động
nông thôn đã có một số cuộc điều tra ở các địa bàn khác nhau. Kết quả khảo
sát cho thấy trong số những nông dân và lao động nông thôn, số người ở nhóm
tuổi từ 25 – 55 tuổi chiếm đại đa số. Đây là nhóm người đang là lựclượng lao
động chủ chốt của các gia đình nông thôn. Đồng thời, những người này cũng sẽ
là nhóm chủ yếu tham gia BHXH và có nguyện vọng tham gia rất cao.
Nhu cầu tham gia BHXH không chỉ cho chính bản thânngười lao động
nông thôn mà còn đối với các thành viên khác trong gia đình. Đây là một đặc
điểm trong truyền thống gia đình Việt Nam.
Qua số liệu một số cuộc điều tra của Bộ LĐTB & XH ta thấy rằng nhu cầu
nội tại BHXH của người lao động nông thôn là rất lớn:
- Sự cần thiết phải có chính sách BHXH: 89,40%.
- Mong muốn tham gia BHXH: 86,30%.
- Sẵn sàng tham gia BHXH: 51%.
- Chế độ BHXH muốn tham gia:
+ Hưu trí: 81,42%.
+ Tử tuất: 35,78%.
+ BHYTế (ốm đau): 54,74%.
4. Khả năng tham gia BHXH của người nông dân.
Khả năng tham gia BHXH của người lao động nông thôn thường biẻu
hiện qua tình trạng làm việc và khả năng tạo thu nhập của họ.
Hiện nay, người nông dân ngoài các công việc chính là làm ruộng, chăn
nuôi, trông cây công nghiệp, cây ăn quả… thì còn một tỷ lệ khá lớn làm thêm
các nghề phụ như thủ công nghiệp, mỹ nfgghệ…Như vậy sự đa dạng hoá công
việc ở nông thôn đã tạo ra khả năng lớn hơn cho người nông dân nông thôn có
thêm thu nhập.
Công việc làm thêm có sự khác biệt giữa các nhóm lao động, những
người trồng lúa có thêm nghề phụ nhiều hơn so với nhóm lao động khác. Từ
lao động sản xuất người lao động nông thôn đã tạo ra thu nhập và đã đóng
góp đáng kể vào tổng thu nhập của gia đình. Tính bình quân mỗi lao động
nông thôn có thu nhập là 651.oođ/tháng trong đó thu nhập từ các công việc
chính chiếm 71,93%. Thu nhập của bản thân người lao động có sự khác biệt
giữa các nhóm lao động điều này cho thấy khả năng tham gia BHXH tự nguyện
của các nhóm lao động có khác nhau.
Ta biết rằng, người nông dân chi tiêu khá tằn tiện. Trung bình chi tiêu
của một gia đình ở nông thôn là khoảng 10,68 triệu đồng/năm. Trong đó chi
cho ăn uông chiếm 54,21%, các sinh hoạt khác khoảng 40%. Do vậymà họ đã
tích luỹ được ở một mức nhất định. Điều này không có nghĩa là họ khá giả mà
chẳng qua là họ để dành để chi dùng vào những việc khác của gia đình.
Cũng như đối với các đối tượng chưa tham gia BHXH khác, khả năng
tham gia BHXH của người nông dân còn rất hạn chế, điều này một phần do thu
nhập thực tế của họ còn thấp, mặt khác do nhận thức của người dân lao động
trong nông thôn về BHXH còn hạn chế.
Chính vì vậy, qua điều tra cho thấy đa số người lao động chỉmuốn tham
gia BHXH ở mức từ 150.000 đ/tháng trở xuống (chiếm 68,32%). Trong đó số
những người có khả năng đóng BHXH ở mức cao hơn nhưng tỷ lệ này chiếm tỷ
lệ không cao nó đại diện cho tàng lớp khá giả ở nông thôn.
II. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BHXH TỰ NGUYỆN CHO NÔNG DÂN Ở
NƯỚC TA.
1. Thực trạng triển khai BHXH tự nguyện.
Xuất phát từ tình hình thực tế người lao động ở khu vực nông thôn đã có
tích luỹ, có nhu cầu tham gia BHXH đồng thời cũng thấy được sự cần thiết, lợi
ích của việc tiến hành thí điểm ở một số tỉnh, thành trong cả nước và bước đầu
đã được đông đảo người dân đón nhận tham gia.
Người nông dân Việt Nam với đặc thù là ã thủ công,phụ thuộcmùa vụ,
thời tiết nên năng suất lao động thấp thu nhập cũng bấp bênh không ổn định
do vậy cuộc sống của họ cũng không phải slà sung túc mà nhiều khi rất khó
khăn. Điều này càng thể hiện rõ khi người nông dân về già, họ không có một
nguồn thu nhập nào sẵn để trang trải những chi phí cho cuộc sống họ phải nhờ
cậy vào sự phụng dưỡng của con cái mà tâm lý người Việt Nam lại không
muốn thế. Do vậy, việc triển khai loại hình BHXH cho người nông dân tập trung
chủ yếu vào chế độ hưu trí là đáp ứng được tốt nhất nhu cầu trên. Từ đó,
người nông dân có thể yên tâm khi về già có sự trợ cấp của BHXH, họ không
còn phải lo lắng cho cuộc ống khi về già,lại giảm nhẹ gánh nặng cho con cái. Do
vậy BHXH đã tạo niềm tin cho họ.
Một diển hình cho công tác triển khai BHXH cho người nông dân ở nước
ta là tỉnh Nghệ An. Từ năm 1982 đến tháng 12 năm 1997, Nghệ An có 172 hội
nông dân cấp xã, tổ chức quỹ (hưu nông dân) với giá trị gần 6 tỷ đồng, tuy
mức trợ cấp thấp, những đemlại cho họ niềm vui, phấn khởi sự hăng hái hoạt
động công tác xã hội.Xuất phát từ đòi hỏi của hơn 90% lao động ở nông thôn
Nghệ An, trong đó có trên 60% lao động có mức tthu nhậpbình quân hàng
tháng từ 100.000 đ trở lên và hàng ngàn chủ trang trại sản xuất hàng hoá có
mức thu nhập hàng trăm triệu một năm. Do đó, thắng 12/1997, Hội nông dân
Nghệ An đã báo cáo, đề xuất với thường trực tỉnh uỷ vấn đề BHXH đối với nông
dân và ngày 28/4/1998 UBND tỉnh đã quyết định thànhlập BHXH nông dân
Nghệ An trực thuộc hội nông dân tỉnh.
Theo cục thống kê nghệ an, thì chúng ta xác định được số lao động
không thuộc diện tham gia BHXHbắt buộc.Đây chính là nhu cầu hiện hữu của
BHXH tự nguyện.
Lao động không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc ở Nghệ An.
TT Địa phương 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng số 1.262.61
9
1.287.87
3
1.309.87
7
1.332.49
3
1.367.64
3
% tổng số dân 45,86% 46,14% 46,28% 46,62% 46,69%
I Vùng đồng bằng 800.008 813.969 827.848 841.631 852.172
1 Diễn Châu 126.892 129.329 131.879 133.934 134.667
2 Yên Thành 115.554 118.105 120.918 122.818 123.946
3 Quỳnh Lưu 153.793 156.980 159.218 162.108 163.217
4 Nghi Lộc 94.770 97.115 98.358 100.481 102.279
5 Hưng Nguyên 55.289 56.943 57.840 58.547 58.969
6 Nam Đàn 73.497 74.930 75.165 76.204 77.158
7 Đô Lương 85.921 87.924 88.985 90.894 92.673
8 Vinh 74.286 72.300 74.785 75.719 77.841
9 Cửa lò 20.024 20.343 20.670 20.926 21.412
II Vùng miền núi 462.611 473.904 481.999 490.862 515.471
10 Thanh Chương 103.310 105.320 107.162 109.423 112.818
11 Anh Sơn 47.737 48.639 49.104 49.744 50.762
12 Nghĩa Đàn 80.369 83.409 84.609 86.951 89.769
13 Tân Kỳ 56.244 57.320 58.439 59.205 64.203
14 Quỳ Châu 21.415 21.966 22.381 22.657 25.038
15 Quỳ Hợp 50.020 51.506 52.846 53.735 56.709
16 Quế Phong 24.612 25.027 25.367 25.664 27.472
17 Con Cuông 26.813 27.342 28.167 28.465 30.170
18 Tương Dương 29.406 29.902 30.051 30.606 32.161
19 Kỳ Sơn 22.685 23.473 23.873 24.412 26.414
Từ những số liệu trên cho thấy số người thuộc đối tượng của BHXH tự
nguyện là rất lớnvà tăng lên hàng năm theo mức tăng của dân số ở Nghệ An.
Thực tế trong việc triển khai BHXH tự nguyện đối với lao động nông nghiệp và
nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An cho thấy: nhu cầu nội tại BHXH của người
lao động nông thôn là rất lớn.
Có số liệu về dân số trong độ tuổi lao động của nghệ an (người)
TT Địa phương
Tổng số
% tổng số dân
I Vùng đồng bằng
1 Diễn Châu
2 Yên Thành
3 Quỳnh Lưu
4 Nghi Lộc
5 Hưng Nguyên
6 Nam Đàn
7 Đô Lương
8 Vinh
9 Cửa lò
II Vùng miền núi
10 Thanh CHương
11 Anh Sơn
12 Nghĩa Đàn
13 Tân Kỳ
14 Quỳ Châu
15 Quỳ Hợp
16 Quế Phong
17 Con Cuông
18 Tương Dương
19 Kỳ Sơn
Năm 1998, Nghệ An đưa BHXH tự nguyện vào hoạt động this điểm tại 41
xã của huyện Quỳnh Lưu và 3 xã của 3 huyện khác là Diên Thọ (Diễn Châu),
Tân Sơn (Đô Lương), và phường Đông Vĩnh Thành phố Vinh. Với các quy định
tạm thời như sau:
- Đối tượng tham gia gồmld nông thôn gồm các ngành nông nghiệp,lâm
nghiệp, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn với
hình thức tự nguyện tham gia.
- Quy định mức đóng góp bằng tiền với 3 mức 10.000 đ/tháng; 20.000
đ/tháng và 30.000 đ/tháng
- Đóng 6 tháng một lần, mỗi năm nộphai lần vào tháng 5 và tháng 11,
cũng có thể đóng một lần hay nhiều làn tuỳ theo quy định.
- Điều kiện được hưởng: Có thời gian đóngvào quỹ BHXH tự nguyện tối
thiểu là 20 năm, tuổi: nam 60 và nữ 55. Nừu đóng trên 21 năm thì sẽ được
cộng thêm một phần nhất định vào khoản trợ cấp. Người tham gia BHXH có đủ
2 tiêu chuẩn tuổi và thời gian đóng BHXH thì được hưởng trợ cấp lương hưu
hàng tháng với các mức sau:
50.000 đ với mức10.000 đ.
100000 đ với mức 20000 đ.
150.000đ với mức 30.000
Nếu thời gian đóng trên 20 năm thìmỗi năm đóng thêm được hưởng
một khoản tiền công vào mức hưởng trên cụ thể:
4000 đ với mức 10.000 đ
8000 đ với mức 20000 đ
12.000 đ với mức 30.000 đ
Nếu người tham gia BHXH tự nguyện chuyển đến nơi ở mới mà nơi đó
không cóloại hình BHXH này thì đươcj hưởng trợ cấp một lần. Hoặc người
đang tham gia BHXH tự nguyện bị chết thì gia đình được trả một lần của số
tiền đã nộp và một phần lãi nhất định.
Với điều lệ như trên, sau năm đầu tiên thực hiện, tổng số tiền thu được
của quỹ hưu nông dân đã lên tới hơn 1 tỷ đồng và tăng trưởng, bảo toàn bằng
cách gửi tiết kiệm, mua công trái và trái phiếu.
Ngày 5/1/19999 Nghệ An tổ chức sơ kết đợt đầu tiên và có tới 1000 hộ
nông dân được giao sổ4 BHXH. Cho đến nay đã có 45 xã của tỉnh được triển
khai BHXH nông dân với số lượng người tham gia chiếm một tỷ lệ không nhỏ,
riêng huyện Quỳnh vưn con số này là 30%. Nhiều hộ gia đình tham gia hết
(tính người lao động).
Hiện nay, nhu cầu tham gia BHXH tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên do gặp
phải một số khó khăn cả chủ quan lẫn khách quan, do đó hiện nay đòi hỏi phải
có những chính sách hợp lý cấp bách giải quyết những vấn đề còn tồn đọng để
cho loại hình BHXH này tồn tại và phát triển trong những nămtới.