Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm tích hợp kĩ năng sống vào giảng dạy một số bài GDCD lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.04 MB, 20 trang )

I. MỞ ĐẦU :
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay đang phát triển mạnh mẽ bên
cạnh những thành tựu của khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão trên thế giới
mở ra thời kì hội nhập quốc tế làm cho con người tiếp cận với những tri thức
nhanh hơn, hiệu quả hơn…bên cạnh đó kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội đã
tác động không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của HS, cộng với sự phối hợp của
các ngành chức năng còn lỏng lẻo, một mặt các em chưa được sự quan tâm chăm
sóc, động viên, giáo dục từ phía gia đình như cha mẹ chỉ biết lao vào kiếm tiền mà
không quan tâm gì đến việc học tập, sinh hoạt và những hoạt động khác của con
em mình như thế nào; mặt khác về phía nhà trường thì nội dung chương trình giáo
dục đạo đức- giáo dục công dân có bài còn nặng về lí thuyết, ít liên hệ với thực
tiễn địa phương, phương pháp giảng dạy của một số giáo viên chậm đổi mới còn
nặng về phương pháp truyền thống nên ít nhiều chưa cuốn hút được học sinh.
Công tác giáo dục đạo đức lối sống cho HS ở những nơi còn mang nặng dạy
“chữ” nhẹ về dạy “người”, còn nặng về biện pháp xử lí kỷ luật hơn tìm biện pháp
ngăn chặn. Trong nhà trường một số thầy cô chưa thể hiện hết trách nhiệm của
mình trong việc giáo dục và định hướng cho HS.
Thực tế hiện nay một bộ phận lớn HS còn thiếu hiểu biết về pháp luật, đạo
đức, lối sống. Đặc biệt kĩ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối sống có
văn hóa và chưa biết đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động, chưa nhận
thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua đòi phạm tội
một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả theo thị hiếu tầm
thường. Nhiều em có hoàn cảnh kinh tế khá nhưng thiếu ý chí vươn lên tự buông
thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm pháp luật, đạo đức.
Vấn đề HS hiện nay thiếu kĩ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống ích kỉ, vô
tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình, và bản thân đang là những cản trở lớn cho sự
phát triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến không ít các bậc làm cha mẹ phải
phiền lòng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng HS này
trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các em sẽ rất
năng động, tự tin khi được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh hoạt, học


tập.
Vấn đề khác là tình trạng bạo lực học đường ngày càng tăng và có dấu hiệu
lan rộng làm cho HS lo lắng làm thế nào để bảo vệ mình an toàn khi đi học từ nhà
đến trường khi có nhóm đối tượng xấu rình rập, ức hiếp những HS ngoan hiền…
nhiều HS có cuộc sống khép kín với thực tại, luôn đắm mình vào thế giới ảo của
Internet
của thế giới game…, mà quên đi hoặc đánh mất những cơ hội kết bạn, thể hiện
khả năng tiềm ẩn của mình trước đám đông và ngoài xã hội.
Trước những yêu cầu thiết thực trên bộ môn GDCD giữ vai trò quan trọng và
trực tiếp trong việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi người công dân, phát
1


triển tâm lực và nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên, thực tế khi xét về
phương diện nào đó thì vai trò của môn học này chưa được nhìn nhận một cách
đúng đắn như nó vốn có. Môn GDCD thường bị các em coi nhẹ, “học đối phó để
lấy điểm”. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần tích cực đổi mới nội dung, phương pháp
dạy và học là rất cần thiết nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, của học
sinh; Mặt khác, góp phần vào việc đào tạo nguồn nhân lực và những công dân
mới có tính năng động, sáng tạo, thích ứng với cơ chế thị trường, có phẩm chất và
năng lực để thực hiện thành công sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta hiện nay và
phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Với phạm vi đề tài “Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm tích
hợp kĩ năng sống vào giảng dạy một số bài GDCD lớp 10” tôi hy vọng cung
cấp cho động nghiệp những kinh nghiệm nho nhỏ trong thời gian đứng lớp vừa
qua, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy của bộ môn góp phần tích cực
hóa việc học tập của HS thục hiện mục tiêu chung của nền giáo dục đào tạo nước
nhà.
1.2. Mục đích nghiên cứu :
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu từ thực tế những tiết dạy môn học

GDCD ở trường THPT Hoằng Hoá 4, với đề tài này tôi xin đề xuất sử dụng nhiều
phương pháp dạy học tích cực làm thế nào có thể biến hành vi từ chương trình
kiến thức đã học trong chương trình thành hành động cụ thể đi vào cuộc sống của
cá nhân một cách hiệu quả, tổ chức trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng, xã hôi. Giúp HS giải quyết được nhu cầu và thách thức của cuộc sống một
cách có hiệu quả thông qua bài dạy.
Giúp HS có kiến thức, thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh.
KNS giúp các em có kỹ năng vững vàng trước khó khăn, thử thách; biết ứng
xử giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp trong cuộc sống, luôn yêu đời
và làm chủ cuộc sống của mình.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số bài trong chương trình GDCD 10 .
- Độ tuổi HS THPT là độ tuổi các em có nhiều biến động vầ tâm- sinh lý cần
có những KNS sống cơ bản.
- Vận dụng tất cả những phương pháp dạy học nhằm tích hợp kĩ năng sống
mà trọng tâm là ứng dụng vào giảng dạy nhằm giáo dục kỹ năng sống cho HS
THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong phạm vi bài viết của mình tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết để nghiên cứu sách giáo khoa
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp tư duy động não.
- Phương pháp giải quyết tình huống.
2


- Phương pháp xử lí tình huống, phim, ảnh, biểu đồ…
1.5. Đóng góp của đề tài :
a. Về mặt lí luận:

Phương pháp dạy học là một phạm trù rất phức tạp cà về mặt lí luận lẫn thực
tiễn. Vì thế, việc ứng dụng nhiều phương pháp dạy học bằng cách nào đó có thể
tích hợp giáo dục KNS vào trong chương trình giảng dạy là vấn đề mà hiện nay
nhiều giáo viên còn băn khoăn, lúng túng. Muốn đạt được hiệu quả của việc tích
hợp giáo dục KNS đòi hỏi người dạy phải kết hợp nhuần nhiễn, hợp lí những
phương pháp nào có khả năng làm cho người nhận kiến thức phải thật sự thu hút,
lôi cuốn như đang đắm mình trong một môi trường thực của cuộc sống đang diễn
ra trước mắt. Đồng thời, việc tích hợp KNS phải được diễn ra liên tục trong
những tiết dạy tiếp theo, làm sao cho HS tích tụ lại kiến thức theo kiểu mưa giầm
thấm lâu thì KNS của các em hình thành, do đó việc sử dụng phương pháp nào
lồng ghép vào mục nào trong bài dạy có ý nghĩa quyết định rất lớn đến chất lượng
của HS, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục tri thức cũng như giáo dục KNS
cho HS.
b. Về mặt thực tiễn:
Đề xuất việc sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực nhằm tích hợp kỹ
năng sống vào giảng dạy một số bài trong chương trình GDCD 10. Mục đích vừa
cung cấp cho HS những kỹ năng sống cơ bản có thể ứng phó với những thách
thức trước yêu cầu phát triển của xã hội; đồng thời làm giảm bớt sự đơn điệu, khô
khan trong tiếp nhận tri thức của người học.

3


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2 .1. Cơ sở lí luận:
Tích hợp KNS vào trong bộ môn GDCD 10 là xuất phát từ yêu cầu đổi mới
của BGD& ĐT, xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Giáo dục KNS
càng trở nên cấp thiết đối với thế hệ trẻ hiện nay, bởi vì: Thế hệ trẻ là chủ nhân
tương lai của đất nước. Nếu không có KNS, các em sẽ không thực hiện tốt trách
nhiệm của bản thân, gia đình và xã hội.

Mục tiêu của giáo dục nước nhà đã chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là
chủ yếu sang hình thành và phát triển thành những năng lực cần thiết ở người học,
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong thời kì mới, thế kỉ XXI. Tích hợp KNS
vào bộ môn GDCD nhằm đáp ứng mục tiêu chung về con người mới cho xã hội
năng động như hiện nay; học để biết, học để làm, học để khẳng định mình không
bị tụt hậu so với thời đại.
2.2. Cơ sở thực tiễn:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay thì việc tích hợp KNS vào giảng
dạy trong bộ môn GDCD là hết sức cần cấp bách, vì lứa tuổi HS THPT đang hình
thành những giá trị sống với những ước mơ, hoài bão luôn tìm tòi khám phá…
nhưng lại thiếu hiểu biết sâu sắc về kiến thức xã hội, thiếu KNS nên dễ bị lôi kéo,
kích động có những hành vi tiêu cực, bạo lực, sống ích kỉ, thực dụng và rơi vào
phạm tội: Đua xe, nghiện hút, chích ma túy, cãi thậm chí hành hung cha mẹ…
Vì vậy, việc tích hợp KNS vào môn GDCD chính là rèn luyện hành vi có trách
nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và tổ quốc. Giúp các em có khả năng
ứng phó tích cực, trước tình huống của cuộc sống nhằm xây dựng mối quan hệ tốt
đẹp với những người xung quanh, chủ động an toàn, hài hòa và lịch sự.
Thực tế ở trường phổ thông hiện nay việc đưa nội dung vệ KNS vào chương
trình môn học còn sơ sài, thiếu tính hệ thống. Vì vậy việc hiểu biết của các em về
KNS còn nhiều hạn chế và thực sự chưa mang lại hiệu quả.
Để hiểu rõ thực tiễn giảng dạy tích hợp kiến thức KNS trong dạy học môn
GDCD nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, tôi đã tiến hành khảo sát thực tế ở
trường THPT Hoằng Hoá 4: Cụ thể tôi đã chọn 4 lớp ở khối 10 làm thí điểm
- Số lượng học sinh: 170 em.
- Lớp đối chứng
: 10A7, 10A8.
- Lớp thực nghiệm : 10A9, 10A11.
Đặc điểm học sinh : Học sinh có điểm chung đều là các em theo ban khoa
học xã hội. Việc chọn học sinh sẽ có những ưu điểm và nhược điểm nhất định.
Về ưu điểm: Các em đều là học sinh lớp khối C nên khá nhạy cảm, phân

tích, đánh giá vấn đề tương đối tốt. Mặt khác các em cũng có ý thức học tập, có
niềm đam mê tìm tòi khám phá .
Về nhược điểm: Là học sinh lớp 10 nên các em chưa có hiểu biết sâu về
các vấn đề liên quan đến kiến thức môn GDCD, một số em còn chưa chú trọng
môn học mà tập trung nhiều vào các môn khối.
4


Chính vì vậy, khi chọn đối tượng học sinh trên tôi mong muốn với những
điểm mới của mình trong phương pháp tích hơp kiến thức sẽ làm tăng hứng thú cho
các em trong việc học tập môn GDCD, giúp các em tìm tòi khám phá những kiến
thức liên quan với nhau, những hình ảnh sống động, gần gũi và các em không còn e
ngại với các môn xã hội trong đó có môn GDCD.
2.3. Thực trạng của vấn đề :
Đối với các trường THPT hiện nay việc đưa vào tích hợp KNS trong chương
trình môn học là hoàn toàn mới mẽ, vì chương trình này mới được BGD& ĐT
triển khai vào tháng 11/2012 . Vì thế, vấn đề vận dụng tích hợp KNS vào trong bộ
môn học cụ thể gặp rất nhiều khó khăn là điều không thể tránh khỏi.
Nhưng trong thực tế việc giảng dạy ở bộ môn này gặp rất nhiều khó khăn bất
cập vì từ trước tới nay bộ môn vẫn xem là một môn học phụ có vai trò thứ yếu và
mờ nhạt trong nhà trường, việc giảng dạy thường diễn ra một cách khô khan, nặng
nề, đơn điệu ít gây hứng thú cho HS; Do đó chất lượng và hiệu quả giảng dạy còn
thấp, chưa mang lại hiệu quả giáo dục, đặc biệt HS chưa thấy được những điều bổ
ích rõ rệt, việc học tập chưa gắn với thực tiễn nhất là những thay đổi mau lẹ diễn ra
trong cuộc sống hàng ngày. Trên thực tế các em học sinh chưa có kiến thức về
KNS, cụ thể như kết quả khảo sát cho thấy trước khi đã tìm hiểu những vấn đề về
KNS:
Lớp
Sĩ số
Về sự hiểu biêt

Áp dụng thực tế
Không
Biết it
Có biết Không
Biết ít
Có áp
biết
biết
dụng
44
10A7
18%
54%
28%
23%
66%
11%
42
10A8
14%
63%
23%
34%
46%
20%
41
10A9
11%
68%
21%

29%
54%
17%
43
10A11
9%
66%
25%
28%
47%
25%
170
Tổng
12%
64,1%
23,9%
31,1%
50,2%
18,7%
Bảng khảo sát sự hiểu biết của học sinh về KNS (phụ lục 1)
Qua kết quả thống kê ta thấy rằng nói chung một số học sinh cũng ít
biết về vấn đề KNS mà ở lứa tuổi các em là tuổi đang phát
triển cả về trí lực và thể lực nên các em cần phải hiểu tầm quan trọng của KNS
trong cuộcsống.
Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, năm học 2009 –
2010 trên toàn quốc đã xảy ra khoảng 1.598 vụ việc học sinh đánh nhau ở trong
và ngoài trường học. Các nhà trường đã xử lý kỷ luật khiển trách 881 học sinh,
cảnh cáo 1. 558 học sinh, buộc thôi học có thời hạn (3 ngày, 1 tuần, 1 năm học)
735 học sinh. Theo số lượng trường học và học sinh hiện nay thì cứ 5.260 học
sinh lại xảy ra một vụ đánh nhau, và cứ 9 trường học lại xảy ra một vụ đánh

nhau. Cứ 10.000 học sinh thì lại có 1 học sinh bị kỷ luật khiển trách, cứ 5.555
học sinh thì lại có 1 học sinh bị kỷ luật cảnh cáo vì đánh nhau, cứ 11.111 học
sinh thì có 1 học sinh bị buộc thôi học có thời hạn vì đánh nhau.
5


Theo kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu và phát triển giáo dục Việt
Nam năm 2010, tỉ lệ học sinh đi học muộn: THPT 58%; tỉ lệ quay cóp: THPT
60%; tỉ lệ nói dối cha, mẹ: THPT 64%; tỉ lệ không chấp hành an toàn giao
thông: THPT 70%, ... Những con số này cho thấy, càng lớn ý thức đạo đức của
học sinh
càng
đi
xuống
.
Từ những thách thức và yêu cầu cấp bách trên thì việc đưa KNS vào trong giảng
dạy là hết sức cần thiết và bổ ích, góp phần quan trọng to lớn vào sự hình thành
nhân cách cũng như KNS cho HS. Tuy nhiên, lồng ghép vào mục nào trong bài, sử
dụng phương pháp gì nhìn chung vẫn còn hạn chế hoặc xa lạ đối với một số GV khi
kinh nghiệm thực tế chưa nhiều.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên, trong đó có nguyên nhân chủ
yếu sau đây:
* Về phía xã hội:
Trong những năm trở lại đây nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính
sách để đưa đất nước phát triển sánh kịp với bạn bè quốc tế. Vì thế, chính sách
mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu đã đem lại chất lượng cuộc sống tốt hơn. Bên
cạnh sự phát triển mạnh mẽ đó đã kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội, tác
dộng không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của HS cộng với sự phối hợp lỏng lẽo
của một số ngành chức năng, không khó lắm để mọi người nhìn thấy quán
Internet mọc đầy dãy hai bên đường mà không tuân thủ hoạt động theo giờ giấc

nào miễn sao có khách là tiếp nhận. Chưa hết, gần đây báo chí và thông tin đại
chúng đã lên tiếng cảnh báo đối với những loại sách, tranh ảnh mang nội dung
khiêu dâm, đồi trụy, băng đĩa hình tràn ngập thị trường với nội dung tương tự bày
bán công khai. Facebook, Game online, đồ chơi trẻ em như kiếm, súng…mang
tính chất bạo lực, nhiều tệ nạn xã hội khác…những sân chơi lành mạnh, những
khu vui chơi giải trí công cộng còn ít, sự phục hồi giá trị văn hóa truyền thống ở
nhiều nơi chưa chú trọng, cho thấy việc quản lí và xử lí chưa nghiêm là vấn đề
đáng lo ngại và báo động trong xã gội hiện nay.
* Về phía ngành giáo dục và nhà trường.
Nhận thức được tầm quan trọng trong ngành giáo dục, những năm qua
BGD& ĐT đã đưa vào giảng dạy với nhiều chương trình ngoại khóa như: Hoạt
động ngoài giờ lên lớp, hướng nghiệp, giáo dục pháp luật về môi trường, an toàn
giao thông…Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học lấy HS làm trung tâm, xây
dựng phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được các thầy cô
và các em HS hưởng ứng tích cực. Bằng tình thương và trách nhiệm với HS,
những năm qua đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình tiên tiến học tập và làm
theo tấm gương đạo đức HCM, cả thầy và trò đều nhận danh hiệu này. Có nhiều
giáo viên tận tâm ngoài việc truyền đạt tri thức còn giúp đỡ các em có hoàn cảnh
khó khăn biết tự mình vươn lên học tập, trong cuộc sống…điều đó phần nào làm
giảm đáng kể tình trạng nêu trên.
6


Tuy nhiên ở những nơi còn nặng về dạy “chữ” mà chưa trú trọng về dạy
“người”, công tác Đoàn trong nhà trường còn nặng về hình thức, chưa đi vào
chiều sâu nên chưa cuốn hút HS tham gia tích cực. Tình trạng xuống cấp về đạo
đức, lối sống, tình hình tội phạm và bạo lực học đường trong nội bộ ngành và nhà
trường đã và đang diễn ra theo chiều hướng khó kiểm soát. Đây là điều trăn trở
gây lo lắng và bức xúc trong toàn xã hội, đặc biệt là những người làm công tác
giáo dục và những người mang trọng trách cao cả trong sự nghiệp “trồng người”.

* Về phía gia đình.
Trong xã hội phát triển năng động như hiện nay các bậc phụ huynh phải lao
động kiếm tiền, ngoài việc phục vụ cho cuộc sống gia đình, chăm sóc cho con cái
học hành và nhiều vấn đề phải lo lắng khác với thời kỳ bão giá như hiện nay.
Nhưng có lẽ điều mà phụ huynh quan tâm nhất là trẻ thiếu KNS, thiếu tính tự lập,
sống ích kỷ vô tâm thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội làm cho cha
mẹ không phải chạnh lòng.
Trước tình hình phực tạp diễn ra trong cuộc sống nhiều phụ huynh chỉ lo
kiếm tiền thật nhiều mà không quan tâm gì đến việc học tập và giáo dục con cái.
Vì họ cho rằng cho con cái họ có cuộc sống sung túc, đầy đủ thì con em mình sẽ
có điều kiện phát triển năng động. Đó cũng là một trong những nguyên nhân
khiến nhiều phụ huynh phải ngậm ngùi hối tiếc khi con mình trượt dài và đắm
mình với thế giới ảo game online, quan hệ với bạn bè xấu lao vào tệ nạn xã hội:
Cướp giật, ma túy thậm chí là giết người…lúc phát hiện ra đã quá muộn màng.
Lo lắng về một lớp trẻ thiếu kỹ năng sống, nhiều phụ huynh bên cạnh việc
cho con đi học các môn như ngoại ngữ, thể thao, năng khiếu… cũng cho con
tham gia những lớp về giao tiếp ứng xử tại các trung tâm văn hoá. Đó cũng là
những dấu hiệu tích cực cho thấy phụ huynh không còn phó mặc việc giáo dục
con em cho nhà trường như trước nữa nhưng có một điều căn bản mà ít bậc phụ
huynh có thể nhận ra rằng vai trò của gia đình, trách nhiệm của người làm cha,
mẹ chính là môi trường giáo dục kỹ năng sống đầu tiên cho con họ.
Khi những sự việc đáng tiếc xảy ra, điều đầu tiên mà người ta nhắc tới là
sự giáo dục lỏng lẻo của nhà trường rồi mới tới trách nhiệm của gia đình. Nhưng
bài học đầu đời về học ăn, học nói, học cách đối nhân xử thế lại bắt nguồn từ cách
cha mẹ đối xử với con cái, với những người xung quanh. Rõ ràng, giá trị sống
trong mỗi gia đình là giải pháp đầu tiên. Hãy để trẻ trải nghiệm những kỹ năng
sống “thật” trong môi trường gia đình (một xã hội thu nhỏ) trước khi bước ra một
môi trường lớn hơn, phức tạp hơn.
* Về phía học sinh:
Lứa tuổi HS THPT là lứa tuổi đang có sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất lẫn

tinh thần, chính vì có sự biến động về mặt tâm- sinh- lý nên các em rất năng động,
luôn tìm tòi, khám phá, có những ước mơ và hoài bảo lớn. Vì thế, độ tuổi này có
những em rất ngoan biết vượt lên số phận, nhưng có những HS rất khó dạy bảo,
không muốn ai chỉ trích nói đến mình ngay cả lời dạy bảo của cha mẹ, HS cho là
7


cổ hữu, luôn đề cao cái tôi của mình rất lớn, quan niệm sống buông thả, tầm
thường, lố bịch, luôn đua đòi học theo những thị hiếu mà các em cho rằng đó là
cái mốt, thời thượng của một xã hội phát triển đem lại.
Trước những hành vi của lứa tuổi này chứng tỏ các em thiếu kiến thức xã hội
nên dễ dàng bị lôi kéo vào những lối sống thiếu lành mạnh, thói quen sống buông
thả chính là nguyên nhân đem đến hậu quả khó lường. Nói cách khác là các em
thiếu KNS trước những thách thức và thay đổi nhanh chóng của hệ quả xã hội
phát triển để lại hiện nay.

Lối sống buông thả và thác loạn của giới trẻ hiện nay.

HS tham gia vào các tệ nạn xã hội
Trong khi có những HS biết vươn lên từ hoàn cảnh, có ước mơ hoài bảo lớn
thì vẫn còn một bộ phận HS ham chơi, đua đòi, chạy theo những thói hư tật xấu,
điển hình, thời gian gần đây, dư luận xã hội lên án mạnh mẽ những hành vi bạo
lực trong học sinh. Mọi người chưa hết bàng hoàng khi tận mắt chứng kiến hoặc
gián tiếp xem qua thời sự VTV3 đài TH VN, trên Internet…Có thể suy nghĩ gì khi
nhiều bạn cung lớp chỉ đứng nhìn cổ vũ, khiêu khích cho bạo lực tăng thêm, sau
đó quay lại những hình ảnh của bạn mình rồi tung lên Internet cho mọi người
cùng chiêm ngưỡng, ngay cả khi có người lớn đi qua mà không hề can ngăn…
những hình ảnh thật sự đã gây chấn động đến các ngành chức năng có liên quan
phải quan tâm về vấn đề đạo đức, lối sống của HS hiện nay.
Có thể nói lên hiện trạng các em thiếu KNS một cách trầm trọng, tình trạng

không tự tin làm chủ bản thân, thường vi phạm đạo đức, chạy theo những thị hiếu
tầm thường, lố bịch đang là xu hướng chung của giới trẻ hiện nay. Chúng ta nhìn
thấy những quán Internet dọc hai bên đường lúc nào cũng đông HS, dù thời gian
đó là đang học, không kể ngày hay đêm những HS này đang đắm mình vào một
8


thế giới “ảo” thay vì thời gian đó là để nghỉ ngơi, tham gia vận động rèn luyện
sức khỏe.
Vấn đề khác nổi lên hiện nay là lối sống buông thả của một phận HS, các em
nhầm lẫn giữa tình bạn và tình yêu, quan niệm tình yêu cởi mở hơn, họ yêu sớm
và “sống thử” sau đó ghi lại những hình ảnh cho là kỉ niệm ấy tung lên Internet
cho mọi người cũng thưởng thức. Biểu hiện của hành vi nêu trên đã xâm phạm
đến danh dự và nhân phẩm của người khác cho đến nay nhà trường và xã hội
chưa có biện pháp xử lí thích đáng những hành vi trên, song vấn đề đáng nói ở
đây là các em phải biết giữ mình trước khi để sự việc đáng tiếc xảy ra.
2.4. Các giải pháp thực hiện
2.4.1. Những ưu điểm và hạn chế của việc ứng dụng phương pháp dạy học
tích cực nhằm tích hợp KNS vào bộ môn GDCD 10.
- Ưu điểm:
+ GV có thể sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực để lồng ghép (Cần
nói thêm là chọn một vài PP phù hợp với nội dung kiến thức cần tích hợp cho
từng đề mục chứ không phải tất cả PP đều áp dụng vào đó).
+ GV dễ dàng đưa vào tích hợp nhiều KNS với những vấn đề nóng bỏng mà
xã hội đang quan tâm trong thời gian ngắn. Tuy nhiên không nên đưa quá nhiều
nội dung vào 1 tiết như vậy sẽ làm cho người tiếp nhận bị “bội thực” và ảnh
hưởng đến nội dung chính của bài học.
+ Người trình bày chủ động về thời gian trình bày theo nội dung chuẩn bị
trước hoặc yêu cầu HS chuẩn bị.
+ Do đặc thù của bộ môn GDCD nên việc giáo dục KNS là gần gũi, thích hợp

từ trong chương trình bài dạy gắn liền với liên kết thực tế cuộc sống.
- Hạn chế:
+ Đây là chương trình mời được triển khai vào tháng 11 năm 2010 nên việc
vận dụng tích hợp vào mục nào của bài dạy, sử dụng phương pháp gì cho phù hợp
thì vấn đề lung túng là không thể tránh khỏi.
+ Thời gian tích hợp KNS khoảng 5->8 phút, GV dễ bị cuốn theo những vấn
đề HS quan tâm về KNS của mình ở một số trường hợp cụ thể nhất định
+ Một số GV KNS của bản thân chưa nhiều.
+ HS chỉ thích ứng tích cực với môn học này nhưng chưa có được liên hệ với
những môn học khác và ngoài xã hội.
2.4.2. Cách thức tiến hành tích hợp giáo dục KNS vào bộ môn GDCD 10.
Bài 1: Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng:
Chọn mục 1- b/ Thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. ( Để tích hợp)
- Giáo viên có thể tích hợp kĩ năng so sánh, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng
thể hiện sự tự tin, kĩ năng thể hiện sự thông cảm, xử lí tình huống, giải quyết
vấn đề, ra quyết định...
- Phương pháp:
+ Đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
9


+ Phương pháp tìm hiểu qua mẫu truyện và giải quyết bài tập.
- Bước 1: Cho đại diện HS đứng dậy đọc mẫu truyện “ Thần trụ trời”
- Bước 2: GV: Đặt câu hỏi từ mẫu truyện trên.
? Em hãy chỉ ra đâu là yếu tố duy vật và duy tâm trong truyện thần thoại “
Thần trụ trời”?
- Bước 3: HS cả lớp suy nghĩ trả lời. Cả lớp bổ sung, nhận xét.
- GV: Nhận xét, kết luận.
=> KNS: Thông qua câu truyện trên, GV chỉ cho HS biết nhận xét, hiểu được
thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, từ đó cảm nhận được thế giới

quan duy vật là cần thiết, giúp hỗ trợ các môn học khác.
- GV cho HS làm bài tập để nhấn mạnh thêm yếu tố duy vật.
BT: Em hãy giải thích cau tục ngữ sau: “ Sống chết có mệnh, giàu sang do
trời”
- Sau khi HS đưa ra những ý kiến khác nhau, GV chốt lại đặt câu hỏi cho HS
làm rõ vấn đề. Con người sinh ra ai không muốn giàu sang, sung túc mà không
cần lao động?
Giáo dục KNS ở đây là cho HS thấy được muốn giàu có phải lao động sản
xuất, làm ra của cải vật chất phục vụ cho bản thân, gia đình và xã hội. Biết đấu
tranh chống lại tư tưởng duy tâm làm cho con người lười biếng chỉ biết hưởng thụ
mà không lao động, tránh tư tưởng “ Ngồi gốc cây chờ sung rụng”.
Bài 3: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.
Chọn mục 2- Thế giới vật chất luôn luôn phát triển.
Ở mục 1 GV đã làm rõ các hình thức vận động cơ bản của SV, HT. Mục này
GV làm rõ thế nào là phát triển trong tự nhiên, XH và tư duy.
- Giáo viên có thể tích hợp kĩ năng so sánh, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng
thể hiện sự tự tin, kĩ năng xử lí tình huống, giải quyết vấn đề, ra quyết định...
- Phương pháp: Kích thích tư duy, động não.
* Cách tiến hành:
- GV: Cho HS lấy VD về vận động của SV, HT trong tự nhiên, xã hội và trong
tư duy?
- Sau khi HS lấy VD xong, GV đặt câu hỏi cho HS suy nghĩ, động não.
? Từ các hình thức vận động trên, những vận động nào nói lên sự phát triển?
? Vận động và phát triển có mối quan hệ với nhau không?
- HS: Cả lớp suy nghĩ, phát biểu
- GV: Liệt kê tất cả các ý kiến của HS lên bảng phụ.
- Cả lớp bổ sung, nhận xét.
- GV: Kết luận.
Vận động và phát triển có mối quan hệ mật thiết với nhau, bất kì SV,HT nào
cũng vận động, không có vận động thì không thể phát triển được.

Vậy có ý kiến cho rằng mọi sự vận động đều được xem là phát triển đúng hay
sai?
10


GV đặt thêm câu hỏi để tích hợp KNS.
? Để lên được lớp 10, các em có trãi qua quá trình vận động không? Vậy có
được xem là phát triển? Từ lớp 1->9 có lúc nào gặp khó khăn, thụt lùi?
? Các em học môn Tin học từ tầng 1 lên tầng 3 có xem là vận động? Vận động
đó có gọi là phát triển không? Vì sao?
? Em quan sát cây Bàng ở trường (ở nhà), chăm sóc từ nhỏ, đến lớn rồi ra hoa,
kết trái? Sự lớn lên của cây có được gọi là sự vận động và phát triển không? Vì
sao?
=> Từ những câu hỏi nêu trên GV chỉ cho HS hiểu thế nào là phát triển, Từ đó
giúp HS có kỹ năng và thái độ luôn phải vận động không ngừng để đem lại kết
quả cao nhất trong học tập, lao động…Biết vận động theo chiều hướng đi lên
(mặc dù có lúc khúc khửyu, quanh co) nhưng với ý chí vươn lên nhất định đến 1
lúc nào đó ta có thể làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội.
KNS: Loại bỏ tư tưởng bảo thủ không biết cầu tiến, lười vận động…
Vận động trong học tập bằng cách làm bài và học bài đầy đủ trước khi đến lớp.
Sắp xếp thời gian học tập, giải lao hợp lí.
Thực hiện tốt nội quy trường, lớp.
Vận động TDTT lành mạnh không tham gia vào những trò chơi vô bổ, để có
sức khỏe tốt phục vụ cho việc học.
Vận động trong gia đình: Phụ giúp cha mẹ lúc rảnh rỗi bằng những hành động
cụ thể: Nấu cơm, giặt đồ, giúp đỡ em học tập…
Vận động xã hội bằng cách: Tích cực tham gia các hoạt động trong nhà
trường, đoàn trường, và một công tác xã hội khác. ( Hiến máu cứu người, ủng hộ
đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, giúp đỡ bạn khi gặp hoạn nạn, khó khăn…)


(Hình ảnh hiến máu nhan đạo)
Bài 4: Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng.
1/ Thế nào là mâu thuẫn:
- Giáo viên có thể tích hợp kĩ năng so sánh, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng
thể hiện sự tự tin, kĩ năng thể hiện sự thông cảm, xử lí tình huống, giải quyết
vấn đề, ra quyết định...
- Phương pháp:
+ Kể chuyện, VD minh họa.
11


+ Thảo luận nhóm.
- GV: Kể 2 mẫu truyện nói về mâu thuẫn ( Theo cách hiểu thông thường và
theo nghĩa triết học).
* Cách tiến hành:
Chuyện kể 1: Đầu giờ vào lớp An thường đi học trước khi vào tiết học khoảng
15 phút để nghỉ ngơi và ôn bài, như thường lệ An vào vị trí chổ ngồi bỏ cặp vào
học bàn, vừa định lấy quyển vở của môn học dầu tiên ra xem lại thì có một bạn
cùng lớp tên K xuống tát vào mặt ồ ạt mấy cái, lúc đó bạn trong lớp can ra trong
sự ngỡ ngàn chưa hiểu sự tình tại sao lại bị tát như vậy. Bạn can An ra định qua
gọi Quản sinh giải quyết nhưng An không cho để hỏi rõ xem chuyện gì đã vì mình
cũng chưa bị trầy xước gì mà, nghe có cơ sở An và bạn qua hỏi sự tình thì ra mới
biết chiều hôm qua đi học về An đi phía sau K từ cầu thang xuống, An bị một bạn
phía sau xô đẩy làm An lao vào phía trước đẩy theo bạn K làm bạn K chúi nhủi,
không nói gì hết ra về và để bụng đợi đầu giờ chiều hôm sau An vào lớp rồi mới
xử tội.
GV đặt câu hỏi từ nội dung câu truyện vừa kể trên. ( Chia lớp 4 nhóm)
Nhóm 1,3: Hãy chỉ ra những chi tiết mâu thuẫn giữa bạn An và ban K trong
câu truyện vừa kể trên? Sự hiểu lầm dẫn tới đánh bạn, sự việc đó gọi là gì? Hãy
lấy thêm VD về sự sung đột, chống đối nhau cả về hình thức và nội dung?

Chuyện kể 2: Bốn năm liền Q là HS tiên tiến ở trường cấp II em luôn là niềm
tự hào của cha mẹ vì ham học ít đi chơi. Vào lớp 10 Q thi xếp vào lớp chọn của
khối, vì học giỏi, hiền là con nhà khá giả nên một số bạn tìm cách làm quen và kết
bạn. Vào môi trường mới nên Q cần có những mối quan hệ bạn bè, chẳng may
những bạn mà Q làm quen có tính hay ham chơi cứ giờ nào rãnh là lướt Web với
trò chơi ưa thích và game online…là bạn nên Q thường được mấy bạn rủ đi theo,
mới đầu thì coi cho biết, sau đó tập chơi thử vì theo Q đó cũng là môn giải trí.
Thời gian lặng lẽ trôi đi, cứ mỗi ngày em dành thời gian một ít đi chơi với bạn,
ngày sau lại tăng thêm 1 ít…cứ như thế trò chơi này em đã nghiện từ lúc nào
không biết. Kết quả thi HK I đã rõ có nhiều môn dưới 3,5 khi cha mẹ đi họp
PHHS mới vỡ lẽ…
Được gia đình động viên và tự bản thân hứa sẽ cố gắng làm lại từ đầu, bắt đầu
từ HK II, Q đã hạ quyết tâm phải dậy sớm học bài và làm bài để lấy lại kiến thức,
Q đã hành động, 4h 30 sáng Q hẹn đồng hồ báo thức, khi nghe chuông reo…Q
ngáp ngủ, trời lại lạnh,…thôi tắt ngủ thêm xíu nữa,…lúc bật dậy đã là 6h sáng.
Nhóm 2,4: Em có nhận xét gì về mâu thuẫn trong cùng một con người của bạn
Q? Chi tiết nào cho thấy điều đó? Mâu thuẫn đó diễn ra ở đâu? Lấy thêm VD
khác minh họa?
- HS: thảo luận nhóm, đại diện trình bày, cả lớp nhận xét, bổ sung.

12


(Hình ảnh học sinh thảo luận nhóm)
- GV nhận xét, kết luận và tích hợp KNS.
Qua câu truyện trên giúp HS phân biệt đâu là mâu thuẫn thông thường, đâu là
mâu thuẫn theo nghĩa triết học. Từ đó, đấu tranh chống lại sự sung đột đối kháng
xung đột thông thường.
KNS: HS cần đấu tranh giải quyết giữa lười học >< siêng học, phê phán lối
sống ngại va chạm với những bài tập khó trong học tập, trong suy nghĩ, Trong

thảo luận nhóm thì đùn đẩy nhau đứng dậy trình bày…phê phán những bạn quay
cóp khi làm bài kiểm tra, tránh tư tưởng dĩ hòa vi quý trong cuộc sống cá nhân,
tập thể.
Bài 10: Quan niệm về đạo đức.
Tích hợp mục 1-b/ Phân biệt giữa đạo đức, pháp luật và phong tục tập quán.
- Giáo viên có thể tích hợp kĩ năng so sánh, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng
thể hiện sự tự tin, kĩ năng thể hiện sự thông cảm, xử lí tình huống, giải quyết
vấn đề, ra quyết định...
- Phương pháp: Tình huống, đóng vai.
- GV: Giao tình huống cho HS khi kết thúc tiết dạy bài 9, chuẩn bị 2 nội dung
giao về cho 2 tổ thực hiện ( GV gợi ý trước nội dung nào HS thắc mắc). Khi dạy
bài 10 cho HS tiến hành tại lớp như sau.
* Cách tiến hành:
Tổ 1: Đóng vai ( Giúp người hoạn nạn, gặp khó khăn khi qua đường: người
già, người tàn tật, trẻ em…)

(Hình ảnh học sinh giúp đỡ người khác)
13


Tổ 2: Đóng vai ( Hành vi vi phạm pháp luật của HS hiện nay: An toàn giao
thông, bạo lực trong học đường…)

(Hình ảnh bạo lực trong học đường)
- HS: 2 tổ lên thực hiện, cả lớp trao đổi, bổ sung nhận xét.
- GV: nhận xét, kết luận và rút ra KNS cho HS qua phương pháp đóng vai trên.
Sau khi HS kết thúc GV đặt câu hỏi bài tập để làm rõ:
Bài tập: Làm con cha mẹ dạy bảo → cãi lại? Khi cha mẹ nói nặng liền dùng
hành động đánh cha mẹ rồi lấy xe máy của cha mẹ bỏ nhà ra đi? Không có tiền vì
quen theo thói ăn tiêu đã đi cướp giật…

Hỏi: Em hãy chỉ ra đâu là vi phạm pháp luật? vi phạm đạo đức?
=> Giúp HS nhận biết và hiểu đạo đức, pháp luật, các em có thể tự ruát ra
điểm giống nhau đều là điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với cộng
đồng và xã hội. Từ đó, điều chỉnh hành vi của bản thân theo hướng tích cực.
KNS: Kỹ năng tự tin thể hiện mình trước tập thể, HS có thể bọc lộ khả năng cá
tính của mình thông qua vai diễn.
Biết giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn, biết quan tâm chia sẽ với mọi
người xung quanh một cách tự nguyện. ( Giúp bạn trong lớp nhà có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, nhường ghế cho người phụ nữ mang thai khi đi xe bus từ nhà
tới trường…).
Có khả năng tự đánh giá năng lực của bản thân làm sao cho phù hợp với cộng
đồng, xã hội. Hiện nay vấn đề về HS đánh nhau trong nhà trường đặc biệt là HS
nữ, ngay cả trường chúng ta đã diễn ra các em cần tu dưỡng đạo đức, tham gia các
hoạt động lành mạnh do đoàn trường và nhà trường tổ chức, tránh xa những thói
quen không tốt.
Biết được cái nào cần thực hiện, việc gì nên tránh và hướng dẫn mọi người
không vi phạm đạo đức, pháp luật và phong tục tập quán…
Có ý thức giữ gìn phong tục tập quán, đấu tranh loại bỏ những thói hư tật xấu
trong bản thân: Đi xe gắn máy đội mũ bảo hiểm, không dàn hàng ngang trên
đường, không nói tục chửi thề, không cải lời cha mẹ… đấu tranh loại bỏ những
hủ tục: Bói toán, cờ bạc, mê tín dị đoan: Đi lễ cầu xin được học giỏi trong khi đó
không chịu học bài,…
Bài 11: Một số phạm trù cơ bản cuả đạo đức học
1-a/ khái niệm nghĩa vụ:
14


- Giáo viên có thể tích hợp các kĩ năng phù hợp như: kĩ năng xác định giá
trị, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ứng phó với những căng thẳng ...
- Phương pháp: Động não, so sánh, hình ảnh trực quan.

- GV: Đưa ra bài tập tình huống cho HS so sánh, Sau đó cho HS bài tập để làm
rõ khái niệm nghĩa vụ. Từ đó liên hệ nghĩa vụ của bản thân đối với bản thân, gia
đình và xã hội.
* Cách tiến hành:
- Bước 1: Em hãy so sánh điểm giống và khác nhau giữa cha mẹ nuôi con và
vật nuôi ở nhà nuôi con?
- Bước 2: Đưa ra câu hỏi hoặc bài tập có tình huống cho HS giải thích.
Bài tập: Trong xã hội hiện nay có một số người sống theo kiểu “ Đèn nhà ai,
nhà ấy rạng”. Em có suy nghĩ và nhận xét gì? Em có đồng tình với kiểu sống của
một số người như trên không? Vì sao?
- Bước 3: Chiếu hình ảnh trực quan về “Nghĩa vụ” cho các em liên hệ thực tế.

( Thanh niên lên đường nhập ngũ)
( Canh gác hải đảo)
? Muốn có được cuộc sống hòa bình, hạnh phúc, không có chiến tranh thì
nghĩa vụ đặt ra chúng ta cần phải làm gì?

( Nghĩa vụ đối với xã hội)
- Bước 4: Nhận xét, kết luận và rút ra KNS cho HS.
=> KNS:
Giúp HS hiểu được nghĩa vụ là gì, xác định được nghĩa vụ của bản thân cần
phải làm gì?
15


Trong gia đình làm con, HS phải biết nghĩa vụ ngoan ngoãn, vâng lời ông bà
cha mẹ, chăm sóc và phụng dưỡng khi cha mẹ già yếu, biết phụ giúp gia đình
những công việc phù hợp với bản thân, sức khỏe…
Trong nhà trường: Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng học phí, làm bài và học bài
trước khi đến lớp, biết vâng lời thầy cô, thực hiện tốt nội quy nhà trường…

Ngoài xã hội có ý thức tham gia những hoạt động chung của xã hội như: Bạo
vệ môi trường, tham gia tình nguyện mùa hè xanh, giúp đỡ những người không
may mắn trong cuộc sống, tham gia nghĩa vụ quân sự khi đủ tuổi…
Những hình ảnh, bài tập và VD trên giúp HS có kỹ năng phân tích, đánh giá
nghĩa vụ của bản thân vận dụng vào trong thực tế cuộc sống. Phê phán những
người thiếu ý thức nghĩa vụ đối với bản thân, gia đình và xã hội như quan điểm
sống “ Đèn nhà ai, nhà ấy rạng”. Đấu tranh với tư tưởng né tránh trong xã hội như
gặp tai nạn giao thông không giúp đỡ, thấy người khác vứt xác động vật ra đường
không tố cáo,…
Bài 12: Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình.
Chọn phần 1-b Những điều cần tránh trong tình yêu.
- Giáo viên có thể tích hợp các kĩ năng phù hợp như: Kĩ năng giải quyết
vấn đề, ra quyết định, kỹ năng từ chối, trình bày suy nghĩ , ý tưởng.
- Phương pháp: nêu vấn đề, xử lí tình huống.
- Mục đích: Giúp HS hiểu thế nào là tình yêu, tình yêu chân chính, HS hiểu
được và biết điều nào trong tình yêu chúng ta cần giữ gìn và điều nào cần tránh.
* cách tiến hành:
Bước 1: GV cho HS tìm hiểu và giải quyết tình huống sau:
Hiện nay có một số quan niệm cho rằng:
+ Tuổi HS trung học phổ thông là lứa tuổi đệp nhất, không yêu sẽ bị thiệt thòi?
Em cho biết ý kiến của mình, có đồng tình với quan niệm trên hay không?
+ Thời kì Phong kiến cho rằng “ Nam nữ thụ thụ bất thân”, thời đó không
được lựa chọn người mình yêu…là xưa rồi, thời nay chúng ta phải yêu một lúc
nhiều người để có nhiều cơ hội lựa chọn.
? Theo em “ Nam nữ thụ thụ bất thân” của thời kì phong kiến áp dụng vào thời
kì hiện nay có còn phù hợp không? Em có đồng tình với quan niệm yêu một lúc
nhiều người để có nhiều lựa chọn?
+ Hiện nay quan niệm của giới trẻ cho rằng: Khi yêu là yêu hết mình, hiến
dâng cho nhau tất cả ( Sống thử trước hôn nhân) mà không cần suy nghĩ đánh đo.
? Em có đồng tình với quan niệm trên hay không? Nếu là em, em sẽ thể hiện

quan niệm tình yêu của mình như thế nào?
KNS: HS Trình bày quan niện sống của mình về tình yêu, tất nhiên có rất
nhiều quan điểm khác nhau được nêu ra, GV cần lắng nghe và tôn trọng tất cả các
ý kiến trên (không nên phủ nhận). Cần có thái độ tế nhị, chia sẽ kiến thức như
một người bạn đáng tin cậy để HS có thể bọc lộ tâm tư, tình cảm của mình khi
chia sẽ vấn đề này. từ đó giúp các em hiểu sâu sắc ý nghĩa của tình yêu trong
16


sáng, lành mạnh phù hợp với quan niệm đạo đức xã hội. có trách nhiệm sống
nghiêm túc với bản thân.
- GV: Sau khi HS thể hiện hết ý kiến của mình, GV nhận xét và đưa ra những
dẫn chứng bằng kinh nghiệm sống của mình dưới nhiều góc độ khác nhau để
thuyết phục. VD: Sống thử trước hôn nhân đặc biệt ở lứa tuổi học trò là vi phạm
pháp luật dù có đồng tình từ 2 phía nhưng chưa tới độ tuổi pháp luật cho phép,
“Sống thử” có thể để lại nhiều vấn đề phức tạp như có thai ngoài ý muốn, mất khả
năng làm mẹ, quan hệ tình dục không an toàn dẫn đến HIV/ AIDS. Đặc biệt, phái
nữ sẽ bị thiệt thòi và chịu nhiều tai tiếng…

(Hình ảnh học sinh hôn nhau trong trường học)
Các giá trị truyền thống cho tới nay vẫn còn có ý nghĩa nhất định và tình yêu
chân chính không nhất thiết phải chứng minh bằng sống thử trước hôn nhân.
Không đổ lỗi cho hoàn cảnh xã hội, gia đình sau khi hiểu rõ tác hại của việc
yêu sớm và sống thử hay chạy theo mốt yêu nhiều người mới chứng tỏ mình với
bạn khác phái…Các em hãy tập trung học tập thật tốt, sau khi có công việc ổn
định tuổi tác đã chửng trạc thì xác định yêu và tiến tới hôn nhân vẫn chưa muộn
màng.
Biết đấu tranh chống lại tư tưởng về lối sống buông thả vi phạm chuẩn mực
đạo đức xã hội, biết cách bảo vệ mình và làm chủ được danh dự và nhân phẩm
của chính mình, đừng để sự việc xảy ra mới hối hận muộn màng.

2.5. Kiểm nghiệm thực tiễn
2.5.1. Phương pháp kiểm nghiệm
Để đánh giá hiệu quả của đề tài, khẳng định thực chất tính trung thực, tính
khả thi của đề tài, tôi đã sử dụng phiếu điều tra về hứng thú học tập của học sinh ở
trường THPT Hoằng Hoá 4.
Lưu ý: Phiếu điều tra dùng để đánh giá hiệu quả của đề tài cho nhóm thực nghiệm
và nhóm đối chứng cả trước và sau tác động là giống nhau.
2.5.2. Kết quả kiểm nghiệm
a) Đối với lớp đối chứng
Bảng 1: Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn GDCD
(Không sử dụng tích hợp kiến thức giáo dục KNS để dạy) kết quả như sau:
17


Lớp

Sĩ số

Mức độ hứng thú
Bình thường
Không thích
SL
%
SL
%
13
29,5 22
50,0
15
36,6 18

43,9
28
32,9 40
47,1

Rất thích
SL
%
10A7 44
9
20,5
10A8 41
8
19,5
Tổng
85
17
20,0
b) Đối với lớp thực nghiệm
Bảng 2: Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn GDCD (Khi
sử dụng tích hợp KNS để dạy) kết quả như sau:
Mức độ hứng thú
Lớp Sĩ số
Rất thích
Bình thường
Không thích
SL
%
SL
%

SL
%
10A9 42
27
64,3 12
28,5 3
7,1
10A11 43
25
58,1 14
32,5 4
9,3
Tổng
85
52
61,2 26
30,5 7
8,3
Với kết quả trên cho thấy chất lượng dạy học lớp thực nghiệm luôn cao hơn
lớp đối chứng, học sinh ở lớp thực nghiệm nắm vững kiến thức hơn lớp đối chứng.
Ở lớp thực nghiệm không khí học tập rất sôi nổi các em tích cực sử dụng kiến thức
của đời sỗng xã hội mà các em tìm hiểu được để giải thích, chứng minh nội dung
kiến thức của bài học. Các em ở lớp thực nghiệm hăng hái phát biểu, xây dựng bài,
tiếp thu bài nhanh và hiểu bài sâu sắc. Ngược lại ở lớp đối chứng, các em chỉ chăm
chú nghe giảng và ghi chép, các em tham gia xây dựng bài một cách chiếu lệ,
không khí lớp học buồn tẻ, nặng nề, dẫn tới hiệu quả giờ học không cao.

Một giờ học GDCD sôi nổi khi giáo viên tích hợp KNS
Vì vậy, thực tế cho thấy việc sử dụng tích hợp KNS vào bài học để gây hứng
thú học cho học sinh trong dạy học GDCD ở trường THPT như đề tài đưa ra sẽ đem

lại hiệu quả cao trong việc giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc đầy
hứng khởi và điều đó đã khẳng định giả thuyết khoa học của đề tài là hoàn toàn
đúng.

18


III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận
Sử dụng tích hợp kiến thức KNS vào trong bài giảng là một trong những
phương pháp rất quan trọng trong dạy học nói chung và trong dạy học môn GDCD
nói riêng. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với việc hình thành kiến thức GDCD, qua
đó giáo dục tư tưởng tình cảm, trách nhiệm của công dân với sự phát triển kinh tế
xã hôi của đất nước và phát triển toàn diện ở học sinh. Vì vậy, sử dụng tích hợp
kiến thức giáo dục KNS vào trong bài học để gây hứng thú học tập cho học sinh là
cần thiết.
Chương trình sách giáo khoa GDCD THPT hiện nay đã đổi mới về nội dung,
phương pháp biên soạn để giúp học sinh học tập môn GDCD dễ dàng hơn. Song
bản thân sách giáo khoa còn nhiều nội dung khó và trừu tượng khi truyền tải tới
học sinh. Do vậy trong quá trình dạy học, giáo viên phải nắm chắc nội dung kiến
thức, biết chọn lọc kiến thức tích hợp vào từng bài, từng mục cụ thể để gây hứng
thú học tập môn GDCD cho học sinh thì sẽ góp phần năng cao chất lượng giáo dục
của bộ môn GDCD.
Điều quan trọng hơn đó là sử dụng tích hợp kiến thức KNS vào trong bài học
có hiệu quả, không chỉ giúp học sinh nắm vững kiến thức sâu sắc, mà còn phát triển
kĩ năng học tập và tình cảm, nhận thức của học sinh đối với bộ môn, tự bản thân
các em thấy đây là môn học thực sự bổ ích, giúp các em hiểu rõ cách đối nhan xử
thế, thaí độ khi thm gia hoạt động cộng đồng , biết sống có lí tưởng, có mục đích,
sống là để cống hiến. Đồng thời đã góp phần nâng cao được hiệu quả sử dụng kiến
thức tích hợp, phương tiện, kĩ thuật dạy học, công cụ, thiết bị đồ dùng dạy học,

CNTT trong trường Trung học phổ thông hiện nay
3.2. Đề xuất, kiến nghị
Từ kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số
kiến nghị sau:
Môt là. Đối với sách giáo khoa.
Nội dung sách giáo khoa đã có nhiều đổi mớ i xong một số nội dung sách
giáo khoa GDCD còn khô khan, nặng về trình bày kiến thức và lí luận, vì vậy theo
tôi cần bổ sung các tài liệu tham khảo có kiến thức tích hợp để sách giáo khoa thực
sự phong phú, hấp dẫn đối với cả người dạy và người học.
Hai là. Đối với giáo viên.
Giáo viên phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để hiểu biết về sử dụng
kiến thức tích hợp, ứng dụng công nghệ thông tin, biết khai thác thông tin, hình
ảnh, kiến thức liên quan với bài học trên mạng Internet để từ đó có kế hoạch sử
dụng phù hợp, có kĩ năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị dạy học hiện đại.
Đặc biệt phải biết phát huy các tính năng của trang thiết bị hiện đại trong việc thiết
kế bài dạy và phải tâm huyết với nghề mới có được những bài dạy hay, hấp dẫn,
gây đươc hứng thú học tập cho học sinh .
Ba là. Đối với các cấp quản lí.
19


Để nâng cao chất lượng dạy học và gây hứng thú học tập cho học sinh, các
cấp quản lí cần quan tâm hơn nữa về cơ sở vật chất như: Trang thiết bị máy tính có
nối mạng, máy chiếu Projector tại các phòng học. Cần có thêm những tài liệu
hướng dẫn giáo viên sử dụng kiến thức tích hợp trong dạy học môn GDCD, và
khuyến khích, động viên giáo viên áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
Với kết quả của đề tài này, tôi mong rằng các bạn đồng nghiệp quan tâm,
chia sẻ và đặc biệt là đối với giáo viên bộ môn GDCD và các môn học có thể ứng
dụng đề tài này vào việc dạy học bộ môn ở nhiều bài khác nhau để tạo hứng thú và
nâng cao kết quả học tập cho học sinh.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 30 tháng 05 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Mai Thị Quy

20



×