Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

10 vị tướng giỏi nhất mọi thời đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.73 KB, 9 trang )

10 VỊ TƯỚNG GIỎI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI
1 .Alexandros Đại Đế :
( Megas Alexandros; tháng 7 năm 356 TCN – 11 tháng 6 năm 323 TCN), cũng được biết
đến như là Alexandros III, là vua của xứ Macedon (336–323 TCN) và được xem là một
trong những nhà chỉ huy quân sự thành công nhất trong lịch sử, người đã chinh phục gần
như toàn bộ thế giới mà ông biết trước khi chết; ông thường được đứng trong cùng một
danh sách với Napoléon Bonaparte, Julius Caesar và Thành Cát Tư Hãn như là một
trong những nhà chiến lược quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Tiếp sau sự thống nhất các
thành bang Hy Lạp cổ đại dưới sự cai trị của cha ông, Philip II xứ Macedon, (một việc
Alexandros phải lặp lại hai lần vì các miền phía nam Hy Lạp nổi loạn sau khi Philip
chết), Alexandros chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Anatolia, Syria, Phoenicia,
Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến xa tận
Punjab. Alexandros thực hiện một chính sách hòa hợp: ông đưa cả những người ngoại
quốc (không phải người Hy Lạp hay người Macedon) vào chính quyền và quân đội của
mình, ông khuyến khích hôn nhân giữa quân của mình với người nước ngoài và chính
ông cũng lấy vợ ngoại quốc.
Sau mười hai năm liên tục tổ chức các chiến dịch quân sự, Alexandros chết, có lẽ là do
sốt rét, thương hàn, hay viêm não do virút. Những cuộc chinh phạt của ông mở đầu cho
nhiều thế kỉ định cư và thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng đất xa xôi, một giai
đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa. Bản thân Alexander sống trong lịch sử và trong
các truyền thuyết của các nền văn hóa Hy Lạp và không Hy Lạp. Ngay khi ông còn
sống, và đặc biệt sau khi ông chết, những cuộc chinh phạt của ông đã là nguồn cảm
hứng của một truyền thống văn học mà trong đó ông xuất hiện như là một anh hùng
huyền thoại theo truyền thống của Achilles.
2 . Julius Ceasar :
Sự nghiệp quân sự rất thành công của Caesar khiến ông đuợc xếp vào ngang hàng với
Alexander Đại đế, Hannibal, Thành Cát Tư Hãn và Napoléon Bonaparte. Mặc dù ông
cũng đã từng thất bại lớn trong nhiều trận đánh, như trận Gergovia (trong cuộc chinh
phạt xứ Gaul), Trận Dyrrhachium (trong cuộc Nội chiến), thế nhưng khả năng, mưu lược
tài tình của ông vẫn ngời sáng qua sự xây đắp thành lũy ở Alesia trong cuộc chiến xứ
Gaul, chiến thắng đội quân đông đảo hơn rất nhiều của Pompey ở Pharsalus, và sự tận


diệt đội quân của vua Pharnaces ở Trận Zela.
Caesar chiến thắng dưới bất kỳ địa hình, thời tiết nào có thể phần lớn là nhờ vào tính kỷ
luật cao của binh lính ông, khả năng điều khiển tuyệt vời, và sự trung thành của binh
lính dành cho ông. Kỵ binh và bộ binh của ông là tốt nhất (của La Mã thời đó), và ông
sử dụng rất nhiều các thiết bị chiến tranh của La Mã như máy bắn đá, máy bắn tên và
nhiều mặt khác nữa, điều mà khiến cho lực lượng của ông trở nên cực kỳ thiện chiến, kỷ
luật và di chuyển rất nhanh (một vài tài liệu chép rằng lực lượng của Caesar có thể di
chuyển tới hơn 40 dặm trong vòng một ngày). Lực lượng của ông ước có khoảng hơn
40.000 bộ binh và rất nhiều kỵ binh, cùng với một số đơn vị chuyên dụng khác như là
các máy móc chiến tranh, phu phục vụ. Caesar kể trong bản hối ký của ông rằng một số
làng của người Gaul được xây dựng trên dốc thẳng đứng và rất vững chắc, sẽ thiệt hại
rất lớn nếu muốn tấn công những khu làng kiểu này, nhưng các máy móc và kỹ sư của
ông có thể đào qua các lớp đá cứng và tìm ra nguồn cung cấp nước cho các làng đó, và
ông ngắt nó đi. Ngôi làng thiếu nước cung cấp, đầu hàng hầu như ngay lập tức.
3. Hannibal :
Hannibal, 1 tướng trẻ 25 tuổi trở thành tổng chỉ huy quân Carthage ở TBN. Lúc đầu,
Hannibal cho phép người Saguntum sử dụng các bến cảng rộng lớn để tránh xung đột
với La Mã. Nhưng Saguntum với giúp đỡ của người đồng minh La Mã, bắt đầu chơi trò
chính trị với các thành phố TBN khác. Bỏ qua những đe dọa trực tiếp từ La Mã,
Hannibal tấn công và chiếm giữ Saguntum. La Mã cố gắng thu xếp vấn đề này bằng con
đường ngoại giao. Họ yêu cầu Carthage cách chức Hannibal và đưa ông này đến Rome.
Chiến tranh Punic lần 2 nổ ra năm 218 trước cn khi Carrthage khước từ yêu cầu này.
Nhưng lần này, La Mã phải đối mặt với 1 địch thủ đáng sợ. Trong thời gian sau cuộc
chiến lần 1, Carthage đã tạo ra 1 đội quân hùng mạnh. Hannibal đã đưa đội quân này đi
dọc Châu Âu và tháng 9 năm 218, ông đưa quân Carthage vượt dãy Alpes bắt đầu cuộc
xâm lược Italy. Dù mệt mỏi vì quãng đường vận động chiến, Hannibal vẫn ngay lập tức
đập tan quân La Mã ở phía bắc Italy. Chiến thắng ngoạn mục này đã khiến nhiều chiến
binh du mục Gaul gia nhập đoàn quân của Hannibal nâng tổng số quân của ông lên trên
50000. Chiến thắng của Hannibal trước người La Mã được đảm bảo bằng việc thuyết
phục các đồng minh của La Mã và sát nhập nhiều thành phố vào Carthage.

Người La Mã hiểu rằng họ không thể đánh bại Hannibal. Tuyệt vọng, La Mã trao quyền
cho nhà độc tài Quintus Fabius Maximuss. Fabius ra lệnh tránh chiến tranh trực diện
bằng mọi giá, chỉ đánh du kích cho tới khi quân Carthage suy yếu đủ để tấn công trực
diện. Nhưng khi Hannibal hành quân tới Cannae (trận Can) năm 216 trước cn, Fabius
đưa 1 đội quân 80000 người ra chống lại. Đội quân này ngay lập tức bị Hannibal tiêu
diệt hoàn toàn, đây là thất bại lớn nhất Rome từng trải qua. Các đồng minh phía Nam
Italy của La Mã chạy sang phía Hannibal, toàn bộ Sicily trở thành đồng minh của
Carthage. Thêm vào đó, vua Philip V xứ Macedon, người kiểm soát hầu hết lãnh địa Hy
Lạp cũng ngả theo Hannibal và bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại La Mã năm 215 trước
cn. Tình hình gần như tuyệt vọng đối với La Mã. Fabius không còn dũng khí đối đầu với
Hannibal. Hannibal đưa quân đội vòng quanh Italy mà không còn bất cứ sự chống cự
nào. Tuy nhiên, Hannibal không có đủ lực lượng và trang bị để bao vây hay tấn công ồ
ạt các thành phố như Rome. Tất cả những gì ông có thể làm là đi khắp các miền nông
thôn Italy và tàn phá nó.
La Mã quyết định tấn công hậu phương của Hannibal. Biết rằng Hannibal phụ thuộc vào
nguồn cung cấp nhân lực và vật lực từ TBN, La Mã trao cho Publius Cornelius Scipio
(237-183 trước cn), 1 thiên tài về chiến lược chức Thống đốc Tây Ban Nha, 1 hành động
không hợp hiến vì vị tướng trẻ này chưa bao giờ là quan chấp chính. Scipio, sau này
được gọi bằng cái tên Scipio Africanus vì chiến thắng của ông trước người Carthage trên
đất Châu Phi, đã nhanh chóng chinh phục toàn bộ TBN. Đến lúc này, Hannibal bị mắc
cạn trên đất Italy. Sau đó, Scipio đưa quân vào Châu Phi và buộc người Carthage phải
đề nghị Rome 1 hiệp ước hòa bình. Một phần của hiệp ước này là Hannibal phải rời khỏi
bán đảo Italy. Hannibal là 1 trong những danh tướng vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới.
Trong suốt cuộc chiến tranh với La Mã, ông không hề thua 1 trận nào. Dù vậy ông vẫn
buộc phải rút lui. Và dù thắng trong tất cả các trận đánh, Hannibal đã thua trong cuộc
chiến tranh này. Khi Hannibal quay trở lại, người Carthage lấy lại tinh thần và thêm 1
lần nữa nổi dậy chống lại La Mã. Năm 202 trước cn, Hannibal và Scipio giao chiến ở At
Zama phía bắc Châu Phi và tại đây Hannibal nếm chiến bại đầu tiên. Carthage bị đưa
xuống thành 1 bang độc lập. La Mã lúc này kiểm soát toàn bộ miền tây Địa Trung Hải
bao gồm cả khu vực Bắc Phi.

Cuộc chiến này mang đến cho La Mã những kinh nghiệm lịch sử. Họ đã phải đối mặt
với những thất bại hiển nhiên trước một địch thủ hùng mạnh và cuối cùng đã chiến thắng
những kẻ thù vượt trội này. Tính cách La Mã được nhìn nhận từ cuộc chiến tuyệt vọng
này đã xuyên suốt phần còn lại của lịch sử đế chế. Chiến tranh Punic lần 2 đưa La Mã từ
1 quyền lực có tính khu vực trở thành 1 đế chế trên toàn thế giới. Với việc Philip V của
Macedon bắt tay với Hannibal tiến hành chiến tranh chống lại Rome, La Mã chuyển
hướng chiến tranh về phía đông trước tiên xâm chiếm Macedon và sau đó là các vương
quốc Hi Lạp khác. Kết quả cuối cùng của chiến tranh Punic lần 2 là sự thống trị thế giới
của La Mã.
4 . Thành Cát Tư Hãn :
Ðoàn quân Mông Cổ
Thời Trung cổ, nước Mông Cổ, xét về dân số, chỉ là một nước nhỏ, nhưng họ đã làm
rung chuyển thế giới
thời đó vì họ có những thủ lãnh xuất chúng với một đạo kị binh thiện chiến giỏi cỡi
ngựa, giỏi cung tên và vô cùng tàn ác, " nơi nào ngựa Mông Cổ đi qua, cây cỏ cũng hết
sống ".
Thành Cát Tư hãn
Bão táp bắt đầu nổi lên cùng với sự xuất hiện của Thiết Mộc Chân (Temujin 1162-
1227), sau này lấy danh hiệu là Thành Cát Tư Hãn, tức Genghis Khan. Vừa nắm được
quyền hành, Thành Cát Tư Hãn đã khởi sự chiến tranh, theo đuổi mộng bá chủ:
- 1205-1209: chinh phục nước Tây Hạ (Hsi-Hsia), tức vùng đất Tây Thục sau nàỵ
- 1211-1215: chinh phục nước Kim (Chin), vượt Vạn Lý Trường Thành, chiếm thủ đô
Bắc Kinh của người Kim. Sau
này, nước Kim sát nhập vào nước Tầụ
- 1218-1219: chinh phục đế quốc Ba Tư (thời đó là Khwarezmian empire của
Mohammed Shah), gồm đất Ba Tư,
Khorassan, Transoxonia, Samarkand và Afghanistan.
- 1222: Tuân lệnh của Thành Cát Tư Hãn quân Mông tiến sang Âu châu, chiếm toàn
vùng Caucasus, vượt sông Don, tràn vào Crimea rồi Ukraine, hạ trại bên bờ sông
Dnieper. Ông hoàng thành Kiev đưa 80 ngàn quân đánh quân Mông, nhưng đã bị

Subotai và danh tướng Chepe nghiền nát. Năm 1224 danh tướng Chepe bị bệnh chết,
Subotai triệt thoái trên con đường dài 4000 dặm để bắt tay với đoàn quân trung ương.
- 1226: Thành Cát Tư Hãn chọn con trai là Ogedei làm người nối nghiệp, rồi chuẩn bị
đưa 180 ngàn quân đi trừng
phạt quân Hạ và Kim là hai nước đã bị quân Mông Cổ đánh bại, nay liên kết với nhau
chống lại quân Mông Cổ.
- 1227: Thành Cát Tư Hãn chết. Ogedei đại hãn và Kuyuk đại hãn Ogedei và con là
Kuyuk tiếp tục mộng bá chủ của cha.
- 1231: Xâm lăng Cao Ly (Korea).
- 1235-1239: Con Ogedei Khan là Godan đánh chiếm Tây Tạng.
- 1237-1238: Subotai xua 150 ngàn quân trở lại Âu châu, gieo tàn phá, chết chóc khắp
vùng phía Bắc nước Nga .
- 1240: Chiếm Kiev, rồi Lithuania và Ba lan.
- Tháng 4, 1240: Subotai hạ thành Pest, tiêu diệt đạo quân của vua Bela IV nước Hung.
- Tháng 9, 1240: Ðánh tan liên minh quân Ðức, Ba lan, và dòng tu Hiệp sĩ Ðức
(Teutonic Knights). Thủ lãnh của liên
minh là hoàng tử xứ Silesia bị giết cùng với hầu hết hiệp sĩ của ông.
- Cuối năm 1241, quân Mông tiến vào nước Ý, vượt qua thành Venice và Treviso, đồng
thời ngược lên sông Danube, áp sát thành Vienne Giữa lúc ấy, Ogedei chết. Theo luật,
các anh em của vị đại hãn quá cố phải trở về Mông Cổ để bầu chọn vị đại hãn mớị. Nhờ
thế mà Âu châu thoát được họa diệt vong. Vậy mà trên đường triệt thoái, quân Mông Cổ
còn đủ thì giờ để làm cỏ hai nước Bulgaria và Serbia.
- Năm 1246, con của Ogatai là Kuyuk được chọn làm đại hãn. Dưới thời ông, Ðức giáo
chủ Innocent IV gửi đặc phái viên là thầy John di Piano Carpini, dòng Phanxicô, tới các
thủ lãnh Mông Cổ để tìm hiểu ý đồ của họ ở Âu
châu. Mới nắm quyền được ít lâu, còn đang lưỡng lự nên trở lại chinh phục Âu châu
trước hay tiến xuống phía Nam để chiếm trọn nước Trung hoa trước, thì Kuyukchết vào
năm 1248. Mangu, tức Mông Kha đại hãn và em là Kublai, tức Hôt Tât Liệt đại hãn
- 1251: Một người cháu nội khác của Thành Cát Tư Hãn là Mangu (còn viết là Mengke,
ta gọi là Mông Kha) lên ngôi đại hãn. Mông Kha quyết định thôn tính Á châu, đặc biệt

là nước Trung Hoa trước. Nước Trung Hoa thời đó chia làm Bắc Tống và Nam Tống.
Mông Kha nắm quyền thống soái nhưng lại giao trọng trách cho người em kiệt xuất đó
là Hốt Tất Liệt (Kublai).
- Mông Kha sai một người em khác là Hulagu trở lại thôn tính Ba Tư bao trùm khắp
miền Ðông Nam Á châụ Ðồng thời khuyến khích người em họ là Batu khống chế khắp
vùng Ðông Âu, toả lên Ba lan, Lithuania và Esthonia, rồi xuống Serbia và Bulgaria một
lần nữa.
- 1252-1253: Hốt Tất Liệt chinh phục Vân Nam, từ đó phái một đạo quân mở cuộc xâm
lăng bờ cõi nước ta lần
thứ nhất vào năm 1257.
- 1259: Mông Kha chết, Hốt Tất Liệt (Kublai) lên ngôi đại hãn vào năm 1260. Lúc ấy đế
quốc Mông Cổ trải rộng từ toàn vùng Hoa Bắc sang vùng Tiểu Á, từ vùng thủ đô
Moscow của nước Nga xuống biển Ðen, xuống Baghdad (Iraq) và Iran ngày naỵ
- Nhận được tin Mông Kha chết, người em là Mangu đang chiếm đóng vùng
Mesopotamia và Syria phải về Mông Cổ để bầu đại hãn mới. Trong khi ông vắng mặt
thì, năm 1260, đạo quân của ông đã bị tướng Baibars (thuộc triều đại Mameluk cai trị Ai
Cập và Syria) đánh bại trong trận Aint Jalut, gần thành Nazareth. Chiến công của
Baibars có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chứng minh đoàn quân bách chiến bách thắng
Mông cổ suốt 70 năm không phải là không thể đánh bại,dấu hiệu suy thoái đã biểu hiện
và toàn Âu châu sẽ thoát nạn Mông Cổ.
- 1268-1279: Hốt Tất Liệt không nuôi ý chí chinh phục thế giới như các đại hãn tiền
nhiệm, ông dốc hết khả
năng để chinh phục toàn cõi Trung Hoa trong một chiến dịch dài ngót mười năm. Năm
1263, ông rời kinh đô từ
Karakorum về Bắc Kinh. Trong trận hải chiến cuối cùng vào năm 1279 tại vịnh Quảng
Ðông, Hốt Tất Liệt đã đánh bại nhà Nam Tống. Thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu
phải cõng vua nhảy xuống biển để cùng tử tiết, từ đó Hốt Tất Liệt cai trị toàn cõi Trung
Hoa, xưng là hoàng đế, lập ra nhà Nguyên (Yuan Dynasty). Từ đây ta gọi họ là quân
Nguyên Mông.
-Dòm ngó Nhật Bản:

Hai lần vào các năm 1274 và 1281 quân. Nguyên Mông sang đánh nước Nhật. Nhưng "

×