Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ x XV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (774.72 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử là khoa học nghiên cứu, tái hiện lại một cách chân thực quá khứ
của xã hội loài người. Trong phạm vi nhà trường, lịch sử là môn học tốt nhất có
tác dụng giáo dục đạo đức, truyền thống yêu nước của dân tộc cho học sinh, hơn
thế nữa là sự biết ơn, kính trọng không chỉ đối với cha ông, các vị anh hùng dân
tộc mà còn biết ơn, kính trọng đối với những người có cống hiến lớn cho nhân
loại.
Học tốt lịch sử giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về quá khứ, rút ra
được những kinh nghiệm quý báu cho hiện tại, từ đó đưa ra những dự báo cho
tương lai.
Thế nhưng một nghịch lý, thực tế đáng buồn là hiện nay, thế hệ trẻ những
chủ nhân tương lai của đất nước lại khá thờ ơ đối với môn học lịch sử. Có rất
nhiều lý do như quan niệm lịch sử chỉ là những sự kiện, con số khô khan, rất
khó hình dung. Ngoài ra một bộ phận không nhỏ phụ huynh và học sinh cho
rằng học lịch sử sẽ không có nhiều cơ hội lựa chọn ngành nghề cho tương lai, vì
vậy học sinh không mặn mà với môn học. Hậu quả là một bộ phận lớn học sinh,
thậm chí là cả sinh viên đại học cũng khá mơ hồ về lịch sử dân tộc. Thực tế đó
thể hiện rất rõ trong kết quả của kỳ thi tốt nghiệp THPT, đại học, cao đẳng gần
đây.
Nguyên nhân của hệ quả đó theo tôi, ngoài những lý do đã nêu trên, còn
có lý do không nhỏ xuất phát từ phía những thầy cô dạy môn học này. đó là việc
dạy chay, dạy theo phương pháp truyền thống “ thầy đọc, trò chép”… đã biến
tiết học lịch sử trở nên nhàm chán và vô cảm đối với học sinh ở độ tuổi hiếu kỳ,
ham thích những yếu tố mới lạ. Nhưng với những lý do nói trên chúng ta hoàn
toàn có thể khắc phục được bằng cách đổi mới phương pháp dạy học.
Dạy – học như thế nào để đưa lại kết quả học tập tốt nhất là điều mong
mỏi của tất cả các thầy cô giáo. Muốn vậy chúng ta phải không ngừng đổi mới
trong phương pháp dạy học. Bản thân mỗi chúng ta phải tổ chức một cách linh
hoạt các khâu lên lớp, từ khâu ổn định cho đến khâu cuối cùng là củng cố và dặn
dò. Tất cả những hoạt động đó giúp cho học sinh lĩnh hội tri thức môn học một


cách chủ động và sáng tạo.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát huy tính tích cực và chủ động của
học sinh trong tiết học lịch sử? Có rất nhiều biện pháp khác nhau như: Ứng dụng
công nghệ thông tin, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan, phương pháp liên
môn …. Ngoài việc xây dựng hệ thống câu hỏi tích cực trong dạy học nói chung
và trong bộ môn lịch sử nói riêng thì phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan
bằng tranh ảnh(tranh vẽ mang nội dung lịch sử và tranh ảnh tư liệu trong sách
giáo khoa) là một trong những phương pháp đem lại hiệu quả bài học cao nhất,
sinh phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh. Quá trình hoạt động thống
nhất giữa thầy và trò nhịp nhàng sẽ giúp cho học sinh nắm vững kiến thức, hình
thành kỹ năng, kĩ xảo và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách
cho các em.
1


Mặt khác nhằm giảm bớt tỷ lệ học sinh yếu, kém, nâng tỷ lệ học sinh khá
giỏi, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục.
Tranh ảnh là một nguồn tư liệu quí, có giá trị tả lại những sự kiện, hiện
tượng lịch sử, minh họa cụ thể tri thức lịch sử, giúp cho học sinh dễ ghi nhớ sự
kiện lịch sử, vận dụng tri thức lịch sử vào giải quyết tình huống thực tiễn, gắn
“học đi đôi với hành”, “ từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng”. Tranh
ảnh có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ, sâu sắc, giáo dục những tư tưởng, quan
điểm, óc thẫm mĩ, năng khiếu hội họa, lòng yêu nước, có trách nhiệm, nghĩa vụ
đối với đất nước cho học sinh một cách đúng đắn, lành mạnh.
Vì vậy, sử dụng kênh hình vào dạy-học trong bài “ Công cuộc xây dựng
và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV” Sách giáo khoa Lịch sử 10chương trình cơ bản là đường đi ngắn nhất đưa tri thức lịch sử “xích lại” gần với
nhận thức của học sinh, tạo sự hứng thú, đam mê học tập cho học sinh, phát huy
được tính cực của học sinh, giúp cho học sinh biết đúng, hiểu đúng, biết phân
tích, đánh giá, so sánh, biết liên hệ, nhớ lâu kiến thức lịch sử, phát triển ở học
sinh năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, các kĩ năng

xã hội, đáp ứng theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Mặc dù là giáo viên trẻ, chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong giảng
dạy nhưng tôi cũng xin mạnh dạn trình bày một số vấn đề về sử dụng kênh hình
( tranh ảnh) để phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh trong dạy học
lịch sử ở trường THPT áp dụng cho bài “ Công cuộc xây dựng và phát triển
kinh tế trong các thế kỉ X-XV” Sách giáo khoa Lịch sử 10- chương trình cơ bản.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ giúp cho giáo viên tiến
hành một giờ học có hiệu quả hơn, học sinh tích cực, hứng thú và yêu thích môn
học hơn.
Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu dạy và học tập thông qua việc sử dụng
kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà tôi nghiên cứu là học sinh lớp 10B2 và học sinh lớp 10B3
trường THPT Như Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng giáo án thực nghiệm cho bài “ Công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV” Sách giáo khoa Lịch sử 10- chương trình
cơ bản.
- Trao đổi với học sinh: bằng phiếu học tập, sưu tập kênh hình có liên
quan đến bài học.
- Sử dụng sơ đồ tư duy
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của đề tài:
Năng lực được hiểu là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm
các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp,
xã hội, hay cá nhân trong những tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kĩ
2



năng, kĩ xảo, kinh nghiệm, cũng như sự sẵn sàng hành động có hiệu quả, có
trách nhiệm đạo đức. Năng lực là một thuộc tính của nhân cách, đó là khả năng
của cá nhân phù hợp với từng ngành nghề trong lĩnh vực hoạt động cụ thể. Nhờ
vào khả năng này con người thực hiện có hiệu quả các hoạt động đạt được mục
đích mong muốn.
Năng lực của học sinh là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ
năng, thái độ, niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội, vận hành (kết nối) chúng một
cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ học tập và thể hiện ở tính sẵn
sàng hành động của các em trong môi trường học tập phổ thông và những điều
kiện thực tế đang xảy ra của xã hội.
Cũng như các bộ môn khoa học khác, trong dạy học Lịch sử, quá trình
nhận thức Lịch sử của học sinh cũng tuân theo qui luật nhận thức con người.
Nhận thức Mác-xít đã khẳng định: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của
nhận thức chân lí, nhận thức hiện thực khánh quan”. Do đó để giúp học sinh tái
tạo về bức tranh quá khứ, mà những hình ảnh đó học sinh không được quan sát
trực tiếp, xa lạ với đời sống hiện nay. Sử dụng tranh ảnh là rất cần thiết trong
quá trình tạo hình ảnh, biểu tượng lịch sử, làm cụ thể hóa một sự kiện, hiện
tượng lịch sử để học sinh dễ hình dung về sự kiện ấy, nó không chỉ phát huy tính
tích cực của học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện phát triển năng
lực bộ môn, hợp tác, tư duy sáng tạo, tìm tòi, khám phá, năng lực giải quyết vấn
đề gắn với những tình huống cụ thể của cuộc sống và nghề nghiệp cho học sinh.
2.2. Thực trạng của vấn đề:
Trên thực tế, việc sử dụng tranh ảnh trong dạy- học lịch sử còn nhiều bất
cập, một số giáo viên cho học sinh tìm hiểu kiến thức trong sách giáo khoa
xong, sau đó khái quát, tổng hợp kiến thức cho học sinh cần nắm và đưa tranh
ảnh ra cho học sinh xem, hay có trường hợp giáo viên đưa ồ ạt hàng loạt tranh
ảnh cho học sinh xem một lượt rồi quay lại đọc chép cho học sinh ghi kiến thức
lịch sử, chưa biết lựa chọn tranh ảnh tiêu biểu để khai thác kênh kiến thức từ
tranh ảnh mà sử dụng tranh ảnh với mục đích “minh họa” cho bài học được

phong phú hơn, chưa biết gắn kết kênh hình với kênh chữ, chưa biết kết hợp trực
quan với lời nói nên dẫn đến tình trạng, phần đông học sinh không quen, không
biết đặt câu hỏi, không biết nhận xét, rút ra kết luận sau khi sử dụng tranh ảnh.
Từ đó dẫn đến giáo dục theo định hướng năng lực học sinh cũng bị giáo viên
làm “lu mờ” hoặc lãng quên trong dạy- học lịch sử và không nâng cao được hiệu
quả bài học.
Bên cạnh đó nhiều giáo viên dạy Lịch sử chỉ chú trọng đến nội dung lịch
sử đấu tranh giải phóng dân tộc mà xem nhẹ nội dung lịch sử kinh tế, vì cho
rằng: Lịch sử Việt Nam chiến tranh viết bằng máu nhiều hơn lịch sử phát triển
kinh tế. Nội dung dạy- học lịch sử kinh tế chỉ qua loa, thậm chí cho học sinh đọc
sách giáo khoa, sau đó giáo viên đọc chép cho học sinh ghi, không tạo sự đam
3


mê học tập lịch sử và không góp phần phát triển theo năng lực học sinh. Mặt
khác chỉ chú trọng đến cung cấp kiến thức lịch sử chuyên sâu mang tính hàn lâm
khoa học, xem nhẹ sự vận dụng kiến thức lịch sử cho người học vào giải quyết
tình huống thực tiễn.
2.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Phương pháp sử dụng kênh hình nhằm phát triển năng lực học sinh.
2.3.1. Sử dụng tranh ảnh để tạo tình huống cho bài học:
Giáo viên đưa tranh ảnh: Lễ cày tịch điền; Hình rồng và hoa dây(chùa
Phật Tích-Bắc Ninh); Bức tranh phác họa được cho là bến Cái Làng thuộc Vân
Đồn- Quảng Ninh.

Hình rồng và hoa dây
Lễ tịch điền
(Chùa Phật Tích –Bắc Ninh)
Với tranh ảnh này GV chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh:
- Những hình ảnh trên phản ánh nước ta ở thời kỳ nào?

- Bối cảnh nước ta từ thế kỷ X- XV như thế nào?
- Bối cảnh đó đã tác động đến sự phát triển kinh tế ra sao?
- Thời kì này có những ngành kinh tế nào phát triển? Các ngành kinh tế đó
phát triển ra sao? Nguyên nhân phát triển các ngành kinh tế đó? Em thích nghề
gì trong các ngành kinh tế của bài học này?
Sử dụng tranh ảnh để tạo tình huống (mở bài) cho bài học, học sinh phải
quan sát tranh ảnh kết hợp kiến thức trong sách giáo khoa, tạo biểu tượng ngay
từ đầu về sự phát triển kinh tế Đại Việt từ thế kỷ X-XV, tạo sự chú ý, gây hướng
thú học tập, phát huy tính tích cực cho học sinh, làm cho tư duy lôgic được hình
thành, buộc học sinh phải động não và phát huy sở thích nghề nghiệp. Qua tranh
ảnh những kiến thức cơ bản, trọng tâm, tư duy tri thức bài học mà học sinh cần
phải tìm hiểu, ghi nhớ một cách cụ thể, lâu bền hơn là chỉ đọc sách giáo khoa.
4


Đồng thời góp phần phát triển vận dụng thuyết nhận thức, rèn luyện năng lực tư
duy lô gíc đến phát triển năng lực chuyên môn.
2.3.2. Sử dụng kênh hình trong nội dung bài học:
Bài “Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV”,
Sách giáo khoa Lịch sử 10- chương trình cơ bản gồm có 4 mục, trong đó mục 4
đã giảm tải(không dạy). Vì vậy, tôi chỉ áp dụng phương pháp của đề tài này
trong mục 1, mục 2 và mục 3.
* Sử dụng kênh hình kết hợp với kĩ thuật dạy- học đặt câu hỏi trong
mục 1 “Mở rộng, phát triển nông nghiệp”.

Đê “quai vạc” thời nhà Trần năm 1248
Lễ tịch điền
Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ:
- Nhìn vào kênh hình trên hãy cho cô biết:
Những biểu hiện mở rộng và phát triển nông nghiệp Đại Việt từ thế kỷ XXV?

Nguyên nhân phát triển kinh tế nông nghiệp từ thế kỷ X-XV? Tại sao bấy
giờ giai cấp thống trị lại quan tâm nhiều đến sản xuất nông nghiệp?
Tác dụng sự phát triển kinh tế nông nghiệp từ thế kỷ X-XV?
Với câu hỏi này học sinh không chỉ nêu được biểu hiện phát triển nông
nghiệp, mà còn đưa ra những nguyên nhân phát triển kinh tế, giải thích được vì
sao giai cấp thống trị thời bấy giờ lại quan tâm nhiều đến sự phát triển nông
nghiệp là do: Đất nước mới trở lại độc lập, còn lạc hậu, cần phải củng cố quyền
thống trị. Đồng thời các em sẽ nêu được tác dụng phát triển nông nghiệp là làm
cho đời sống nhân dân ấm no hạnh phúc, trật tự xã hội ổn định, độc lập được
củng cố.
Giáo viên giải thích chính sách quân điền là: thực hiện việc lấy đất công
và ruộng bỏ hoang đem chia cho nông dân. Nội dung chính của chế độ quân
điền:
- Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lý chia cho nông dân
cày cấy.
5


- Các quan lại, tuỳ theo chức vụ cao thấp, được cấp ruộng đất làm bổng
lộc.
- Ruộng trồng lúa, người làm thuê đến 60 tuổi phải trả lại cho nhà nước;
ruộng trồng dâu được cha truyền con nối.
Sau khi giải thích xong chế độ quân điền, giáo viên đặt câu hỏi mở rộng :
Chính sách quân điền có tác dụng gì?
Khi học sinh xây dựng bài, đưa ra nhiều ý kiến khác nhau, làm cho không
khí lớp học sôi nổi, giáo viên đi đến chốt ý: Chính sách này cho phép giải quyết
khá ổn thoả mối quan hệ sở hữu ruộng đất giữa nhà nước với quý tộc quan lại và
giữa nhà nước với nhân dân, còn có tác dụng làm giảm bớt bất công trong xã
hội, góp phần động viên những người đã và đang có công đóng góp xây dựng
quân đội, đánh giặc giữ nước, như Lê Lợi (Lê Thái Tổ) đã nói: "Người đi đánh

giặc thì nghèo, người đi rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một
thước, một tấc đất để ở, mà những kẻ du thủ du thực không có ích gì cho nước
lại có ruộng đất quá nhiều... Nay sắc cho các đại thần bàn định số ruộng cấp cho
quan, quân và dân, trong từ đại thần trở xuống đến các người già yếu, mồ côi,
goá chồng, đàn ông, đàn bà trở lên"
Ngoài ra, giáo viên giúp học sinh vận dụng, liên hệ thực tế thông qua câu
hỏi mở: Hiện nay,kinh tế nông nghiệp của nước ta phát triển như thế nào? Em sẽ
làm gì để góp phần đưa nền sản xuất nông nghiệp của nước ta ngày càng hiện
đại hóa?.
Với câu hỏi này đã tạo ra sự hiểu biết, liên hệ thực tế cho các em rất đa
dạng. Sau khi học sinh tranh luận xong, giáo viên nhấn mạnh:
Nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo nên nó đóng vai trò chủ đạo trong
chiến lược phát triển kinh tế của nhà nước. Nông nghiệp cung cấp đầu vào cho
công nghiệp chế biến thực phẩm, chế biến xuất khẩu; đồng thời, sử dụng sản
phẩm của các ngành công nghiệp và dịch vụ, như: nhiên liệu, phân bón, hóa
chất, máy móc cơ khí, năng lượng, tín dụng, bảo hiểm...Nông nghiệp Việt Nam
đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, tạo
việc làm và thu nhập cho trước hết là khoảng 80 % dân cư, là nhân tố quyết định
xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế đất nước và ổn định chính trị xã hội của đất nước. Gần đây, tình hình kinh tế có khó khăn do bị tác động của
khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, nông nghiệp Việt Nam ngày càng rõ
vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, tiếp tục ổn định và có mức tăng trưởng. Năm
2011 nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP và chiếm 30% giá trị kim ngạch
xuất khẩu quốc gia. Việt Nam là một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên
thế giới cùng với Ấn Độ, Thái Lan. Sự phát triển nông nghiệp Việt Nam có các
ngành nghề, đó là: Ngành chăn nuôi, ngành trồng trọt.
Bản thân các em đều xuất thân từ thành phần nông dân. Nên phương pháp
trên đã khơi dậy những hiểu biết trong đời sống thực tiễn của bản thân và gia
đình làm cho học sinh tham gia học bài thảo luận với không khí học tập thoải
mái, làm chủ kiến thức, hào hứng học tập, thể hiện sự hiểu biết, nắm vững tri
thức lịch sử của bài học, các em có điều kiện thể hiện năng lực khai thác kiến

6


thức từ sách giáo khoa, từ tranh ảnh, năng lực phân tích, đánh giá, rút ra các
nhận xét về sự phát triển kinh tế nông nghiệp từ thế kỷ X-XV. Từ đó học sinh dễ
dàng chiếm lĩnh tri thức lịch sử mà không cần phải học vẹt, tạo sự ghi nhớ sâu
sắc, khó quên. Đồng thời giúp cho học sinh không chỉ có kiến thức thực tế sâu
rộng mà còn tạo ra sự yêu thích, ham tìm hiểu để lựa chọn nghề nghiệp bản thân.
Qua đó các em xác định được động cơ học tập và học tập suốt đời, có ý thức
trách nhiệm bản thân trong cuộc sống, xác định được bản thân luôn sống vì mọi
người, nêu được trách nhiệm của người học sinh trong công cuộc xây dựng, phát
triển kinh tế hiện nay của đất nước.
Như vậy, giáo viên đã hình thành phát triển năng lực tái hiện sự kiện, hiện
tượng lịch sử đến năng lực thực hành bộ môn, năng lực xác định, giải quyết mối
liên hệ, ảnh hưởng, tác động giữa các sự kiện lịch sử, phân tích, so sánh và năng
lực vận dụng kiến thức vào giải quyết tình huống thực tiễn.
* Sử dụng kênh hình kết hợp với kĩ thuật dạy- học mảnh ghép trong
mục 2 “Phát triển thủ công nghiệp”.

Bát men ngọc thời Lý

Chuông qui điên
7

Tháp Báo Thiên

Hình rồng và hoa dây thời Lý
(Chùa Phật Tích – Bắc Ninh)

Vạc Phổ Minh


Chùa Quỳnh Lâm


Đồng tiền đời Trần
Súng thần cơ- nhà Hồ
Mục này giáo viên chiếu kênh hình lên cho học sinh xem, khái quát nội
dung cơ bản các bức tranh, sau đó chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh thông qua
hoạt động nhóm.
Chia hoạt động học làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 chia làm 4 nhóm. Giai
đoạn 2 trộn học sinh các nhóm trong giai đoạn một, tạo lập nhóm mới cùng
chung một nhiệm vụ.
Nhiệm vụ cho các nhóm trong giai đoạn 1:
Nhóm 1: Nêu sự phát triển thủ công nghiệp trong nhân dân? Kể tên các
làng nghề thủ công tiêu biểu nước ta thời kì đó?
Nhóm 2: Tình hình phát triển thủ công nghiệp nhà nước thời kì này như
thế nào?
Nhóm 3: Kể tên tứ đại khí của An Nam? Nêu khái quát hiểu biết của em
về tứ đại khí?
Nhóm 4: Nguyên nhân phát triển thủ công nghiệp?
Nhiệm vụ cho giai đoạn 2:
Em có nhận xét gì về sự phát triển thủ công nghiệp đương thời? Kể tên
các làng nghề truyền thống ở tỉnh Thanh Hóa mà em biết? Em thích làng nghề
nào nhất? Nếu trở thành sứ giả truyền thông, em sẽ đem đén thông điệp gì về sự
phát triển làng nghề ở Việt Nam ra thế giới?
Qua tranh ảnh, học sinh trình bày rất rõ ràng về sự phát triển của thủ công
nghiệp từ thế kỉ X-XV, bởi vì nhìn vào tranh ảnh đã thể hiện rõ nét từng sản
phẩm thủ công, các em phân biệt đâu là thủ công làng nghề, đâu là thủ công nhà
nước (Quan xưởng). Bên canh đó qua sách giáo khoa, ca dao tục ngữ, qua thông
tin đại chúng học sinh dễ dàng nêu được các làng nghề thủ công truyền thống

của Việt Nam, nêu khái quát được tứ đại khí An Nam và cũng như lí giải được vì
sao thủ công nghiệp thời kì này phát triển.
8


Thông qua đó, học sinh cũng nêu lên sự hiểu biết, tự hào của mình về các
làng nghề truyền thống của quê hương, giáo dục ý thức giữ gìn, phát triển, nối
nghiệp các nghề truyền thống của cha ông để lại. Sự yêu thích nghề nghiệp của
học sinh cũng được hình thành.
Trong phần này, giáo viên còn chọn lựa bức ảnh“Hình rồng và hoa dây”
(Chùa Phật Tích – Bắc Ninh), Hình 36 sách giáo khoa Lịch sử, chương trình cơ
bản. Giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh và nêu câu hỏi: Hình tượng rồng
thời Lý được các nhà điêu khắc chạm trổ như thế nào? Có ý nghĩa gì? Hình rồng
thời Lý còn thể hiện sự phát triển của ngành nào nước ta thời bấy giờ? Các
ngành này ở nước ta hiện nay phát triển như thế nào?
Khi học sinh nhìn vào bức ảnh, các em sẽ có nhiều phát hiện và nêu lên
kiến đúng đắn, mạch lạc, biết liên hệ kiến thức thực tế và giáo viên đi đến chốt
ý:
Đây là hình ảnh chụp, quan sát hình ảnh ta thấy, hình tượng điêu khắc
trung tâm là hình rồng, thân dài, tròn lẵn, đều đặn, không vẩy, uốn mềm mại
nhiều khúc trên một đường thẳng, lông gáy và tua rồng bay về phía trước, đuôi
giống như đuôi rắn, chân thường có ba ngón giống như chân bò sát.
Rồng được chạm khắc với những đường nét mềm mại, uyển chuyển,
không thô cứng trên chất liệu đá. Hình rồng nổi bật lên trên nền của những họa
tiết hoa văn trang trí. Đó là những hình vân mây, sóng lượn và các họa tiết hoa,
lá. Vòng tròn ngoài là lớp hoa văn hoa lá dây xoắn hình tròn nối nhau tạo hình
chữ S, tượng trưng cho mây, mưa, sấm chớp. Có thể nói hình tượng con rồng
gắn liền với nguồn gốc lịch sử dân tộc “Con Rồng cháu Tiên”, đồng thời cũng
nói lên mong muốn mưa, gió thuận hòa của cư dân trồng lúa nước Việt Nam.
Hình rồng thể hiện sự phát triển của ngành kiến trúc và điêu khắc với

trình độ chạm trổ tinh vi lúc bấy giờ. Hiện nay ngành kiến trúc và điêu khắc ở
nước ta rất phát triển, có nhiều thành tựu không chỉ ứng dụng trong thực tiễn
như kiến trúc nhà ở, trạm trổ đền chùa... mà còn đạt nhiều giải thưởng trong
nước, khu vực và trên thế giới.
Sử dụng kênh hình và kĩ thuật dạy học mảnh ghép ở mục 2 “Phát triển
thủ công nghiệp”, giúp học sinh phát triển năng lực sáng tạo như xác định, làm
rõ thông tin, phân tích các kiến thức lịch sử độc lập, phát hiện các hạn chế trong
kiến học sinh đưa ra còn sai lệch, hoặc thiếu thông tin so với bạn, từ đó tạo năng
lực tiếp nhận tri thức lịch sử nhanh hơn, nhớ kĩ hơn, sâu sắc hơn, đồng thời thể
hiện năng lực nhận xét, đánh giá của học sinh từ bài học, năng lực liên hệ kiến
thức bài học đến kiến thức đời sống hằng ngày, phát hiện năng lực nghề nghiệp
tương lai cho học sinh. Những kiến thức từ làng nghề đến liên hệ thực tế đã gửi
cho học sinh một thông điệp về trách nhiệm, về vai trò người học sinh trong quá
trình xây dựng phát triển kinh tế- xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia dân
tộc ngày nay, hiểu được giá trị công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của cha
ông, hiểu được những giá trị kinh tế làng nghề mang đậm bản sắc văn hóa dân
tộc, đạo đức con người Việt Nam.
9


* Sử dụng kênh hình kết hợp với sơ đồ tư duy trong mục 3 “Mở rộng
thương nghiệp”.

Chợ làng xưa

Hà Nội 36 phố phường

Bức tranh phác họa được cho là bến
Cái Làng thuộc Vân Đồn Quảng Ninh. Ảnh: TL
Hãy nhìn vào hình ảnh và cho cô biết: Nội thương và ngoại thương thời kì

này phát triển như thế nào? Các em điền sự phát triển nội thương và ngoại
10


thương theo mẫu sơ đồ tư duy sau( sơ đồ tư duy sử dụng dưới dạng phiếu học
tập phát cho học sinh).
Nhìn vào bức tranh “Chợ làng xưa” và “Hà Nội 36 phố phường”, em có
nhận xét gì về sự phát triển nội thương từ thế kỉ X-XV?
Qua tranh ảnh và sơ đồ tư duy, nêu nguyên nhân phát triển thương nghiệp
từ thế kỷ X-XV? Tại sao thời kì nhà Lê sơ hạn chế phát triển ngoại thương?
Kể tên các chợ họp theo phiên hiện nay còn tồn tại ở địa phương em và
các tỉnh thành khác trong cả nước mà em biết? Theo em để ngoại thương ngày
nay (kinh tế đối ngoại) phát triển, nhà nước ta cần có những chính sách và giải
pháp gì?
Kể tên các
loại hình
chợ:

Sản
phẩm
trao
đổi:

Nội
thươn
g

Đô thị
hình
thành:


Kể tên các
cảng buôn
bán:

THƯƠNG
NGHIỆP

Ngoại
thươn
g

Sản
phẩm
trao
đổi:

Buôn
bán với
các
nước:

Phương pháp này, học sinh dễ dàng điền đầy đủ thông tin kiến thức lịch
sử vào sơ đồ tư duy, trả lời được câu hỏi, đưa ra nhiều ý kiến khác nhau về giải
pháp phát triển kinh tế đối ngoại. Sau khi học sinh thảo luận xong, giáo viên đi
đến kết luận:
Kinh tế đối ngoại và đối nội là hai mặt của một nền kinh tế, kinh tế đối
ngoại, thay đổi đòi hỏi kinh tế đối nội phải thay đổi theo. Chính sự tiến triển
không kịp của kinh tế đối nội sẽ cản trở kinh tế đối ngoại phát triển và ngược lại.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta năm 2001 đạt tới 31,2 tỷ USD,

xấp xỉ với tổng giá trị GDP, trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 15 tỷ. Trước thập
kỷ 1990, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của nước ta chỉ vào
khoảng 30%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung Quốc hiện
nay chỉ vào khoảng trên 30%. Các nước Xingapo, Malaixia, Thái Lan đã có tỷ
11


trọng so sánh giữa giá trị xuất nhập khẩu và GDP cao hơn ta. Vì vậy để ngoại
thương phát triển cần:
- Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng.
- Khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại.
- Các ngành dịch vụ phải được phát triển và hội nhập quốc tế.
- Cơ cấu nhập khẩu phù hợp với xuất khẩu và có hiệu quả của nền kinh tế
đất nước.
- Tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại.
- Sửa đổi và ban hành các luật pháp cho kinh tế đối ngoại phù hợp với các
thông lệ quốc tế. Nhà nước tham gia vào điều tiết nền kinh tế đất nước.
Tranh ảnh và sơ đồ tư duy sử dụng ở mục 3 “Mở rộng thương nghiệp”,
đã thực sự tạo cho học sinh cọ sát tình huống thực tiễn, phát huy hết sở trường,
sở đoạn, phát triển các kĩ năng, đưa ra cách thức câu trả lời cho câu hỏi, biết lựa
chọn vấn đề để giải quyết tình huống thực tiễn trong cuộc sống một cách tối ưu,
phát triển tư duy tái tạo, sáng tạo, đánh giá, rút ra bài học cho thực tiễn. Biết sử
dụng ngôn ngữ lịch sử ở thời kỳ này để liên hệ đến thực tế, thể hiện được chứng
kiến của người học về các vấn đề lịch sử.
2.3.3. Sử dụng tranh ảnh trong phần sơ kết bài học:
Giáo viên cho học sinh soạn bài ở nhà theo hoạt động nhóm với 4 nhóm
(nhóm cùng sở thích) từ tiết trước : Siêu tầm tranh ảnh các làng nghề trong cả
nước hoặc quay clip, chụp ảnh làng nghề ở địa phương em. Qua tranh ảnh hãy
thuyết trình; hùng biện giới thiệu sản phầm các làng nghề thủ công đó?

Bài viết giới thiệu không quá 1 trang giấy A4, thời gian trình bày bài viết
không quá 2 phút. Mỗi nhóm cử một đại diện lên thuyết trình; hùng biện. Bài
viết phải giới thiệu được tên làng nghề ở đâu, tên sản phẩm, thành phần làm nên
sản phẩm, họa tiết hoa văn, cách trang trí sản phẩm, tác dụng sản phẩm, hạn sử
dụng của sản phẩm(nếu có), giá trị kinh tế, giá trị tinh thần của sản phẩm, nêu
một vài giải pháp gìn giữ, phát triển sản phẩm thủ công và làng nghề. Bài viết
được quyền sử dụng ngôn ngữ các môn học khác để viết.
Do có sự chuẩn bị bài từ trước nên học sinh tham gia xây dựng bài cả lớp
học, em nào cũng muốn thử sức mình là người dẫn chương trình, người hướng
dẫn viên du lịch, giới thiệu với khách về sản phẩm thủ công, làng nghề thủ công
truyền thống, có em thể hiện mình là một nhà ma két tinh tài ba, quảng cáo, giới
thiệu sản phẩm rất tốt. Lúc này giáo viên và học sinh khác trở thành những
người tham quan du lịch hoặc trở thành đối tượng khách hàng của các làng nghề
thủ công.
Phần sơ kết bài học, không khí lớp học không chỉ sôi động, hào hứng cho
học sinh như toàn bộ quá trình bài học mà không khí lớp học còn rất vui vẻ, tiếp
tục gây sự chú ý, hứng thú học tập cho học sinh. Quả thực với cách này đã phát
huy năng lực thực hành, năng lực sử dụng phương pháp liên môn như môn Văn
học, Sử học, Địa lí, Hóa học...cho học sinh, trong đó năng lực vận dụng kiến
thức vào giải quyết tình huống thực tiễn có hiệu quả cao nhất. Bởi vì, “nó đã gắn
12


học đi đôi với hành”, biết vận dụng kiến thức bài học dạng lý thuyết thành dạng
thực hành có hiệu quả cao. Ngoài ra còn phát triển năng lực giao tiếp, sự tự tin
nơi đông người, thể hiện năng lực thuyết trình, năng lực thu hút người nghe,
năng lực nghề nghiệp cho học sinh.
2.4. Hiệu quả của phương pháp sử dụng tranh ảnh nhằm phát triển
năng lực cho học sinh THPT.
2.4.1. Khi chưa sử dụng(Thực hiện giáo án đối chứng).

Tiến hành tại lớp 10 B2 Trường THPT Như Xuân.
Phương pháp dạy-học này không tạo không khí học tập sôi nổi, không
phát hiện và không bồi dưỡng được năng lực cho học sinh, nhiều lúc tạo áp lực
kiến thức chuyên sâu, mang tính hàn lâm khoa học cho học sinh, làm cho giờ
học trở nên căng thẳng, nặng nề. Do đó dẫn đến hiện tượng “chán” học lịch sử
hoặc nếu chỉ đưa tranh ảnh cho học sinh xem theo kiểu minh họa thì gây không
khí ồn ào lớp học, các em nhìn vào tranh chỉ kết luận một câu: tranh đẹp thật,
toàn đồ cổ, nếu có, bán rất nhiều tiền. Do đó phương pháp dạy-học này gây nên
sự phẫn cảm trong giáo dục tri thức lịch sử và giáo dục đạo đức, nhân cách sống
cho học sinh. Thậm chí với kiểu dạy học này, học sinh “mơ màng” về một nền
kinh tế phong kiến không phát triển bằng ngày nay, không tự hào về thành quả
lao động của cha ông xây dựng nên, phủ nhận thành tựu kinh tế và bài học về sự
phát triển kinh tế của cha ông để lại, dẫn đến lãng quên lịch sử, lãng quên trách
nhiệm của người học sinh trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
2.4.2. Khi sử dụng(Thực hiện giáo án thực nghiệm).
Tiến hành tại lớp 10B3, Trường THPT Như Xuân.
Phương pháp sử dụng kênh hình nhằm phát triển năng lực cho học sinh
trong bài “Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV”,
Sách giáo khoa Lịch sử 10- chương trình cơ bản không chỉ nâng cao hiệu quả
bài học, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri
thức lịch sử, phát triển năng lực cho học sinh vận dụng kiến thức từ bài học vào
giải quyết các tình huống cụ thể trong đời sống hằng ngày mà còn bồi dưỡng
lòng yêu nước sâu sắc, biết trân trọng gìn giữ thành quả lao động của cha ông để
lại, biết tự hào về thành quả lao động và từ đó rút ra những bài học quí báu kinh
nghiệm về xây dựng và phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Sử dụng tranh ảnh trong bài“Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế
trong các thế kỉ X-XV”, có tác dụng giáo dục học sinh nhận thức về công lao
của người dân, của nhà nước, bài học về đoàn kết đồng lòng, đồng sức đắp đê,
trị thủy trong điều kiện khoa học kĩ thuật chưa phát triển mà cha ông ta, nhân
dân ta vẫn vượt qua mọi khó khăn để làm nên những con đê lớn, trị thủy ngăn

dòng nước lũ, đó cũng chính là bài học phát triển năng lực cho học sinh biết giải
quyết tình huống thực tiễn, trong khó khăn cần phải vượt qua gian khổ để đạt
được thành quả lao động vinh quang nhất, tự hào nhất.
2.4.3. Kết quả thực nghiệm:
Sau khi dạy - học đối chứng và thực nghiệm, tôi có kết quả sau.
Bảng phân loại theo chất lượng dạy-học, kết quả học sinh đạt được:
13


Lớp 10B2(Đối chứng)
Lớp 10B3(Thực
40 học sinh
nghiệm) 40 học sinh
Phân loại
Số lượng
%
Số lượng
%
Giỏi
1
2.5
10
25
Khá
6
15
25
62.5
Trung bình
23

57.5
5
12,5
Yếu
10
25
0
0
Bảng phân loại đánh giá theo tiêu chí năng lực học sinh đạt được:
Tiêu chí phân loại năng lực
Lớp 10B2(Đối
Lớp 10B3(Thực
chứng)
nghiệm)40 học sinh
40 học sinh
Số lượng
%
Số lượng
%
Năng lực tái hiện sự kiện,
15
37.5
40
100
hiện tượng lịch sử.
Năng lực thực hành bộ môn5
12.5
40
100
khai thác nội dung tranh ảnh,

biết kết hợp kênh hình với
kênh chữ.
Năng lực so sánh, phân tích.
8
25
35
88
Năng lực nhận xét, đánh giá
7
17.5
35
88
rút ra bài học lịch sử
Năng lực vận dụng, liên hệ
0
0
35
88
kiến thức lịch sử đã học để
giải quyết những vấn đề thực
tiễn đặt ra.
Năng lực sử dụng ngôn ngữ.
8
25%
35
88%
Nhìn vào phân loại theo chất lượng dạy-học, kết quả học sinh đạt được;
bảng phân loại theo tiêu chí năng lực, ta thấy ở lớp 10B2(lớp đối chứng) học
sinh giỏi đạt 1 em, chỉ chiếm 2.5%, các tiêu chí năng lực thực hành bộ môn, so
sánh, phân tích, nhận xét, đánh giá rút ra bài học lịch sử và năng lực sử dụng

ngôn ngữ chỉ chiếm 7 học sinh với 17.5%, thậm chí năng lực vận dụng, liên hệ
kiến thức lịch sử đã học để giải quyết những vấn đề thực tiễn không có học sinh
nào đạt được, chiếm 0%. Bên cạnh đó ở lớp 10 B3( lớp thực nghiệm), số lượng
học sinh khá, giỏi chiếm số lượng lớn là 88%, gấp hơn 4 lần so với 10B2( lớp
đối chứng). Theo bảng phân loại năng lực lớp 10 B3( lớp thực nghiệm) đều đạt
từ 88% trở lên, trong khi đó năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng lịch sử, năng
lực thực hành bộ môn- khai thác nội dung tranh ảnh, biết kết hợp kênh hình với
kênh chữ đều đạt 100%, thì lớp 10 B2 chỉ chiếm 25%. Học sinh yếu, kém lớp
10A2 không có học sinh nào trong khi đó lớp 10B2 có 10 học sinh, chiếm 25%
và không đạt năng lực nào.
14


Với bảng kết quả thực nghiệm cho ta thấy: Nếu sử dụng kênh hình vào
dạy-học kết hợp với phương pháp dạy học tích cực khác nhằm phát triển năng
lực cho học sinh đem lại hiệu quả bài học rất cao, phát huy tối đa các năng lực
cần thiết cho học sinh, đáp ứng được yêu cầu của bộ môn Lịch sử, yêu cầu của
sản phẩm giáo dục là đầu ra có năng lực tri thức, năng lực giao tiếp, năng lực xã
hội, năng lực tay nghề, năng lực giải quyết tình huống trong thực tiễn gắn liền
với đức, trí, dũng, chân, thiện, mĩ.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trong cuộc sống xã hội hiện tại, với sự phát triển chóng mặt của công
nghệ thông tin hiện đại. Sự phát triển không chỉ đo bằng mức sống, công nghệ,
đạo đức, phẩm chất, nhân cách, thẫm mĩ, môi trường… mà còn được đánh giá
bằng năng lực lao động, năng lực tay nghề, năng lực giải quyết công việc cụ thể
trong đời sống đặt ra. Vì vậy sử dụng kênh hình trong dạy- học bài “Công cuộc
xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV”, Sách giáo khoa Lịch sử
10- chương trình cơ bản là phương pháp thiết thực nhất, tối ưu nhất để phát triển
năng lực cho học sinh và nâng cao hiệu quả bài học, tạo ra sản phẩm con người

khi vào đời là con người tự chủ, năng động, sáng tạo, biết vận dụng tri thức đã
học vào giải quyết tình huống thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của kinh tế-xã hội.
Sử dụng tranh ảnh vào dạy-học lịch sử đáp ứng được yêu cầu trong dạyhọc lịch sử hiện nay, gắn “học đi đôi với hành”, là phương pháp dễ triển khai,
tính thực tiễn cao, nó ứng dụng giảng dạy trong tất cả các trường, lớp THPT có
sự khác biệt về cơ sở vật chất, có điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin hoặc
không có công nghệ thông tin( nếu không có công nghệ thông tin, giáo viên in
tranh ảnh treo lên bảng đen) đều phát triển được năng lực học sinh, thu hút được
sự chú ý, tò mò và tập trung của học sinh.
Mặt khác với phương pháp sử dụng ở trên đã đáp ứng được đánh giá,
kiểm tra phát triển năng lực của học sinh theo yêu cầu Bộ giáo dục-đào tạo và
đáp ứng được dạng đề mở, câu hỏi mang tính liên hệ thực tế trong đề thi Lịch sử
vào trong các bài thi, bài kiểm tra ở các kỳ thi hiện nay. Phương pháp này cũng
rất phù hợp với việc thay đổi hình thức thi từ tự luận sang trắc nghiệm của Bộ
giáo dục và đào tao. Giúp học sinh khắc sâu kiến thức cơ bản, đi vào bản chất
của sự vật hiện tượng để lý giải nó bằng hình ảnh và liên hệ thực tiễn. Sẽ là vô
cùng nguy hiểm cho các em với phưng pháo học vẹt, học tủ, học lệnh. Vậy nên,
áp dụng phương phapsuwr dụng kênh hình là một trong những biện pháp tối ưu
để phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo và ghi nhớ lâu dài nhất.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa đã đưa các quốc gia, các dân tộc trên thế
giới xích lại gần nhau. Thông qua việc hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, giáo
dục nước ta cũng không ngừng được đổi mới để bắt kịp với các nước phát triển
trên thế giới. Một trong những nhân tố góp phần quyết định nâng cao chất lượng
giáo duc đào tạo là phải thay đổi phương pháp dạy – học. biến mỗi tiết học khô
khan trở thành một giờ hoạt động trao đổi thú vị. Thay vì đọc, chép và làm việc
15


nhiều của giáo viên, hãy để những hình ảnh, những sơ đồ mở ra cho các em
những suy nghĩ mới lạ, những hiểu biết mà các em nhận ra được. Từ đó, giáo
viên hãy hướng các em đi đúng quỹ đạo, hiểu đúng vắn đề để đạt mục tiêu đặt

ra.
Bộ môn Lịch sử không chỉ có nghĩa là truyền đạt lại quá khứ dân tộc, loài
người... hơn hết, Lịch sử phải là sự nuôi dưỡng tâm hồn, ý chí vượt khó, tấm
lòng lương thiện và biết tri ân cội nguồn.Bản lĩnh và sống có mục tiêu vì một
quốc gia hùng mạnh và văn minh. Tôi mong rằng, những kinh nghiệm nhỏ trong
bài viết sẽ có ích cho đồng nghiệp để mỗi tiết học đạt kết quả cao nhất.
3.2. Đề xuất
Về công tác chỉ đạo:
- Đối với Sở giáo dục đặc biệt là cán bộ chuyên môn cần tăng cường các
chuyên đề dạy thực nghiệm để giáo viên được học hỏi, đánh giá, rút kinh
nghiệm nhiều hơn cho các chương trình cụ thể của từng khối lớp. Cần có chính
sách khuyến khích, khen thưởng phù hợp xứng đáng với các giáo viên có giờ
dạy giỏi.
- Người giáo viên trực tiếp đứng lớp, người giáo viên của thế kỉ XXI phải
có trình độ tin học vững vàng, có khả năng khai thác kiến thức trên mạng, sử
dụng thành thạo các chương trình thiết kế giáo án trau dồi kiến thức và đặc biệt
phải có tâm với học trò.
- Việc triển khai nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm là một việc làm hữu
ích nên khuyến khích giáo viên tìm tòi nghiên cứu, cần coi trọng những đề tài
những sáng kiến có giá trị mà phổ biến kinh nghiệm đó trên phạm vi rộng vào
quá trình giảng dạy.
- Các nhà trường cần tham mưu với các cấp lãnh đạo địa phương để xây
dựng những điều kiện vật chất cần thiết cho việc dạy học gắn liền với ứng dụng
công nghệ thông tin.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 24 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm do mình viết không sao chép của

người khác

Nguyễn Thị Hằng.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Ngọc Liên(chủ biên), Sách giáo viên Lịch sử 10-chương trình
cơ bản, NXB Giáo dục, 2006.
2. Phan Ngọc Liên-Phạm Kì Tá, Đồ dùng trực quan trong dạy học ở
trường phổ thông, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1975.
3. Trịnh Tiến Thuận-Nguyễn Xuân Trường-Nguyễn Nam Phóng-Lê Hiến
Chương-Phan Ngọc Huyền, Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo
khoa Lịch sử 10, NXB Hà Nội, 2007.
4. Tài liệu tập huấn Bộ GD-ĐT, dự án Việt- Bỉ, Dạy và học tích cực, Một
số phương pháp và kĩ thuật dạy học, NXB Đại học sư phạm, 2010.
5. Nguyễn Thị Côi, Kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường trung học
phổ thông, tập 1, NXB ĐHQG, 2000.

17


MỤC LỤC
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.

2.1. Cơ sở lí luận của đề tài
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.3. Một số giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1.Kết luận.
3.2. Kiến nghị.

18

1
1
2
2
2
2
2
3
4
13
15
15
16


19




×