Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số phương pháp tiếp cận truyện tấm cám thông qua vận dụng tinh thần phôncơlo trong giảng dạy văn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.21 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TRUYỆN “TẤM CÁM”
THÔNG QUA VẬN DỤNG TINH THẦN PHÔNCƠLO
TRONG GIẢNG DẠY VĂN BẢN
(NGỮ VĂN 10-TẬP I, CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN)

Người thực hiện: Phạm Thị Hà
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn

THANH HOÁ, NĂM 2019
0


MỤC LỤC
Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
2
2.1


2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6
2.4
2.4.1
2.4.2
2.4.3
2.5
3
3.1
3.2

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Khái niệm Văn học dân gian

Thuật ngữ phôncơlo
Khái niệm truyện cổ tích - truyện cổ tích Tấm cám
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Một số phương pháp tiếp cận truyện Tấm Cám thông qua
vận dụng tinh thần Phôncơlo trong giảng dạy văn bản.
Cách cấu tạo cốt truyện
Các môtip
Những câu văn vần xen kẽ
Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật
Không khí truyện
Sự vận động của truyện trong đời sống dân gian và diễn
xướng dân gian
Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm
Đối với hoạt động giáo dục
Đối với bản thân
Đối với học sinh
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

1

Trang
2
2
3
3
3

3
5
5
5
5
6
7
8
8
9
11
13
14
14
15
15
15
15
15
17
17
17
18


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài:
Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân
tộc. Kho tri thức này là phần lớn các kinh nghiệm lâu đời được nhân dân ta đúc
rút từ thực tế, thông qua sự mã hóa bằng ngôn từ và hình tượng nghệ thuật, tạo

ra sức hấp dẫn người đọc, người nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu và có sức lâu bền
cùng năm tháng.
Văn học dân gian có giá trị to lớn và vai trò quan trọng trong nền văn học
dân tộc. Nó có tác dụng giáo dưỡng và giáo dục tốt đối với thế hệ trẻ trong nhà
trường, nó góp phần bồi đắp tâm hồn học sinh, hướng học sinh tới những ước
mơ, suy nghĩ cao đẹp, niềm tin vào cái tốt, cái thiện, làm những việc xấu nhất
định sẽ bị trừng trị. Quan trọng hơn nữa nó còn giúp chúng ta giữ gìn và phát
huy những nét đẹp của truyền thống, của bản sắc dân tộc. Đó chính là cái hồn
dân tộc mà khi xa tổ quốc quê hương mọi người đều nhớ đến. Nó trở thành sức
mạnh tinh thần để chúng ta vươn tới. Nguyễn Khoa Điềm đã nói rất đúng:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước.
(Đất nước- trích Trường ca Mặt đường khát vọng)
Người Việt nào mà chẳng có trong tâm hồn mình một Hồ Hoàn kiếm, một
Đền Hùng, một giếng nước gốc đa, một bức tranh Đông Hồ, một làn dân ca
quan họ, và cả những mắt đen cô gái long lanh…Những cái đó làm nên hồn dân
tộc, giúp ta hiểu rõ bản sắc Việt Nam: Một dân tộc bất khuất hiền hòa, anh hùng
mà tình nghĩa “Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” (Nguyễn Đình Thi) và “
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa” (Huy Cận).
Tất cả những điều đó văn học dân gian đều ghi lại một cách đậm đà, từ một
lời ca tát nước đầu đình đến hình ảnh cô Tấm hóa kiếp, từ khúc hát Tiễn dặn
người yêu đến hình tượng Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt trời…đều in đậm bản sắc
đân tộc Việt Nam mà người học sinh – những thế hệ trẻ càng cần phải lĩnh hội
được.
Hơn nữa, cuộc sống ngày càng phát triển, hiện đại hơn, lối sống của con
người vì thế cũng có nhiều biến đổi, xấu có, tốt có. Chính vì vậy chúng ta cần
giáo dục cho thế hệ trẻ không nên quay lưng với quá khứ, sống buông thả, vô
trách nhiệm với chính bản thân mình. Chính vì vậy, VHDG với nghĩa tuyệt đối
của nó sẽ là dòng sữa mát lạnh giúp ta tìm về với chính con người mình. Cho
nên, chúng ta cũng không thể tìm hiểu tác phẩm VHDG một cách nửa vời, làm

mất đi vẻ đẹp của nó, thậm chí còn phản tác dụng. VHDG mãi là VHDG, nó là
nó và không thể lẫn lộn với bất cứ thể loại nào:
“Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
2


Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì gặp người tiên độ trì
Mang theo chuyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa…”
( Chuyện cổ nước mình – Lâm Thị Mỹ Dạ)
Đề tài Một số phương pháp tiếp cận truyện Tấm Cám thông qua vận dụng
tinh thần phôncơlo trong giảng dạy văn bản là cố gắng để đưa ra một cách tìm
hiểu nữa về tác phẩm Tám Cám, để học sinh hiểu hết được ý nghĩa và giá trị to
lớn của VHDG.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Sự đổi mới trong quá trình giáo dục và giảng dạy luôn là một yếu tố cần
thiết. Hơn nữa một tác phẩm văn học ở mọi góc độ tiếp cận luôn có những cái
hay, vẻ đẹp riêng. Giúp học sinh cảm thụ tốt một tác phẩm là nhiệm vụ của một
người giáo viên dạy văn. Tuy nhiên, Tấm Cám là một câu chuyện cổ tích đã
được đưa vào chương trình giáo dục từ rất lâu, và nó không còn xa lạ gì với bất
cứ học sinh nào. Hình ảnh cô Tấm hiền lành, Mụ dì ghẻ độc ác đã trở thành biểu
tượng trong văn học và trong cả cuộc sống. Vậy thì làm thế nào để một học sinh
lớp 10 tiếp cận văn bản ở một cái nhìn đa chiều hơn, để thoát khỏi sự rập khuân,
cách hiểu đơn điệu như trước? Đó chính là mục đích mà sáng kiến kinh nghiệm
xin được đề xuất một cách tiếp cận theo tinh thần phôncơlo học để học sinh thấy
được màu sắc dân gian qua một câu chuyện cổ tích.

Tiếp nhận Tấm Cám là tiếp nhận một truyện dân gian, một tác phẩm
phôncơlo mà phôncơlo thì có những quy luật cấu tạo riêng của nó khác với văn
học viết. Do vậy tác phẩm phôncơlo có những đặc trưng mà tác phẩm văn học
viết không có. Phải từ những đặc trưng đó của tác phẩm phôncơlo mà tìm ra
cách tiếp cận nó.
Như vậy chúng ta tìm hiểu một tác phẩm văn học dân gian theo đúng nghĩa
của nó sẽ tạo ra cho học sinh sự hứng thú, kích thích sự tò mò để học sinh tiếp
nhận tác phẩm với một tâm thế mới.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Truyện cổ tích Tấm Cám (Ngữ văn 10, chương trình cơ bản)
- Học sinh lớp 10 trường THPT Lang Chánh
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lí thuyết: Dựa trên việc đọc và tìm hiểu các tài liệu về Thi
pháp văn học dân gian, Phôncơlo học, Từ điển Tiếng Việt…

3


- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Điều tra khảo sát ban đầu, điều tra
khảo sát sau thực nghiệm. Kết quả điều tra khảo sát có phân tích, đánh giá và so
sánh.
- Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức thực thực nghiệm và đối chứng tại
hai lớp 10A7 và lớp 10A6
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Như đã trình bày ở trên, Tấm Cám là câu chuyện cổ tích quen thuộc. Vì vậy
làm lạ một tác phẩm quen là một điều không dễ. Nhưng sự phong phú đa dạng,
cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học dân gian nói chung và truyện cổ tích
nói riêng khiến chúng ta không thể không suy ngẫm. Không thể đi mãi trên một
con đường mòn, điều đó nó sẽ làm cho một tác phẩm trở nên nhàm chán, mà
quan trọng hơn học sinh sẽ không thấy được đặc trưng của một tác phẩm văn

học dân gian.
Không tìm hiểu Tấm Cám như một tác phẩm tự sự hiện đại hay một câu
chuyện cổ tích đơn thuần như trước kia mà tìm hiểu tiếp cận theo thi pháp văn
học dân gian, theo tinh thần phôncơlo học. Và nếu phải phân biệt một câu
chuyện cổ Tấm Cám với một câu chuyện ngắn Tấm Cám ở thời kỳ hiện đại đặt
cạnh nhau ai cũng có thể phân biệt được dễ dàng. Nhưng điều quan trọng ở đây
“Thi pháp” chính là những “chế định” trong sáng tác xảy ra ở từng thời kỳ, từng
thể loại tác phẩm, theo quan niệm sáng tác của con người ở thời kỳ ấy . Cho nên
chúng ta cần tìm hiểu một câu chuyện cổ tích theo đúng đặc trưng của mộ tác
phẩm văn học dân gian. Sẽ không tìm hiểu truyện cổ tích Tấm Cám theo hệ
thống nhân vật, theo xung đột, mâu thuẫn chính….như trước kia. Mà chúng ta sẽ
tiếp cận truyện Tấm Cám ở sáu bình diện sau:
- Cách cấu tạo cốt truyện:
Truyện Tấm Cám được cấu tạo theo đường thẳng,theo trình tự diễn biến
các hành động của nhân vật (cũng là trình tự thời gian) một cách chặt chẽ, không
thể khác được, khiến các chi tiết dính kết với nhau trên một trục thống nhất.
- Các môtip
Các môtíp quen thuộc: người mẹ ghẻ ác nghiệt, ông Bụt hiền từ nhân đức,
vật giúp người, vật xấu xí biến thành người đẹp đẽ…. đó là nét đẹp của văn học
dân gian, góp phần quan trọng tạo nên sắc thái dân gian của truyện.
- Những câu văn vần xen kẽ
Trong truyện có rất nhiều câu văn vần xen kẽ, nó góp phần làm nên nghệ
thuật diễn xướng dân gian, mang đậm chất phôncơlo.
- Thời gian và không gian nghệ thuật:
Thời gian và không gian nghệ thuật trong phần lớn các truyện cổ tích đều
mang tính phiếm chỉ không xác định. Sáng kiến kinh nghiệm sẽ làm rõ điều đó
và trong quá trình giảng dạy giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh tìm hiểu và lí giải
vì sao.
4



- Không khí truyện
Đó là cái không khí dân gian khi ta xem một bức tranh Đông Hồ, nghe một
bài hát dân ca quan họ. Cái không khí dân gian mơ màng vừa hư vừa thực góp
phần vun đắp tâm hồn cổ tích cho học sinh.
- Cuối cùng là sự vận động của truyện trong đời sống dân gian và diễn
xướng dân gian
Truyện Tấm Cám có nhiều dị bản ở cả Việt Nam và trên thế giới, vì thế cần
so sánh, đối chiếu để không làm mất đi màu sắc dân gian cổ tích Việt Nam.
Bốn mặt đầu sẽ được tiếp nhận qua ngôn từ của văn bản truyện, mặt thứ
năm có thể xem là sự giao thoa giữa thành tố chủ yếu ngôn từ với thành tố khác
trong tổng thể phôncơlo, còn mặt cuối cùng thì đã thoát li văn bản truyện để đi
vào đời sống phôncơlo như nó vốn có trong thực tế.
Hơn nữa qua bài dạy, giáo viên tích hợp kiến thức về Giáo dục đạo đức
cho học sinh, về truyền thống nhân nghĩa, về lòng yêu thương con người, ở hiền
gặp lành và ác giả ác báo. Góp phần bồi dưỡng nhân cách lối sống, những hành
động ứng xử của học sinh trong đời sống hàng ngày với những người xung
quanh. Biết giúp đỡ sẻ chia, biết yêu thương, biết phân biệt tốt xấu, đúng sai,
biết sống có trách nhiệm, không dựa dẫm ỷ lại, biết nỗ lực vươn lên trong cuộc
sống bằng chính sức lực của mình.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1. Khái niệm Văn học dân gian:
Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng được
tập thể sáng tạo, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho những sinh hoạt khác
nhau trong đời sống cộng đồng.
Ở bất kì thể loại dân gian nào, mỗi tác phẩm văn học cũng là một tác phẩm
nghệ thuật ngôn từ làm phương tiện xây dựng hình tượng nghệ thuật. Văn học
dân gian thường được truyền miệng theo không gian và theo thời gian.
Lúc đầu tác phẩm dân gian do một người khởi xướng, tác phẩm hình thành

và được tập thể tiếp nhận, sau đó những người khác tham gia sữa chữa, bổ sung
làm cho tác phẩm biến đổi dần, phong phú hoàn thiện hơn.
2.1.2.Thuật ngữ Phôncơlo:
Thuật ngữ folklore do nhà nhân chủng học người Anh, ông William Thoms
dùng trong bài báo đăng trên tờ Athenaeum, ngày 22/8/1846, với ý nghĩa là
những di tích của nền văn hóa vật chất và chủ yếu là di tích của nền văn hoá tinh
thần như phong tục, đạo đức, tín ngưỡng, những baì dân ca, những câu chuyện
kể của cộng đồng. Sau khi xuất hiện, thuật ngữ này được hiểu với ngiều nghĩa
rộng hẹp khác nhau, liên quan tới đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học.
5


Ở Việt Nam, thuật ngữ này được dịch là văn hóa dân gian với những ý
nghĩa sau :
* Nghĩa rộng: bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần do dân chúng
sáng tạo (folkculture). Theo cách hiểu này, văn hoá dân gian là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học, kể cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,
đồng thời nó cũng là đối tượng nghiên cứu của văn hoá học
* Nghĩa hẹp: Những sáng tạo của dân chúng mang tính nghệ thuật Theo
nghĩa hẹp, văn hóa dân gian gồm ba thành tố : Nghệ thuật ngữ văn dân gian (tức
văn học dân gian), nghệ thuật tạo hình dân gian, nghệ thuật diễn xướng dân
gian.
* Nghĩa chuyên biệt: folklore là văn học dân gian, theo đó tác phẩm
folklore là hình thức ngôn từ gắn với nhạc, vũ, kịch …do tập thể dân chúng sáng
tác. Cũng có thể dùng thuật ngữ folklore văn học để chỉ văn học dân gian đồng
thời phân biệt nó với các đối tượng khác cũng thuộc phạm trù folklore – văn hoá
văn dân gian .
2.1.3. Khái niệm truyện cổ tích - truyện cổ tích Tấm cám:
* Khái niệm:

Truyện cổ tích Việt Nam là những truyện truyền miệng dân gian kể lại
những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như
nhân vật tài giỏi, nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng,
người nghèo khổ, người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc
nghếch và cả những câu chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động như
người…
* Phân loại:
Truyện cổ tích gồm 3 loại: truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích sinh hoạt
và truyện cổ tích về loài vật. Truyện Tấm Cám thuộc loại cổ tích thần kì.
Truyện cổ tích thần kì: kể lại những sự việc xảy ra trong đời sống gia đình
và xã hội của con người. Đó có thể là mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia
đình phụ quyền, vấn đề tình yêu hôn nhân, những quan hệ xã hội( Tấm cám,
Cây khế, Sự tích con khỉ…)
Những truyện về các nhân vật tài giỏi, dũng sĩ, nhân vật lập chiến công,
diệt cái ác bảo vệ cái thiện, mưu cầu hạnh phúc cho con người ( Thạch sanh,
Người thợ săn và mụ chằn tinh…).
Những truyện về các nhân vật bất hạnh: về mặt xã hội họ bị ngược đãi, bị
thiệt thòi về quyền lợi; về mặt tính cách họ trọn vẹn về đạo đức nhưng thường
chịu đựng, trừ những nhân vật xấu xí mà có tài ( Sọ dừa, Lấy vợ cóc, Cây tre
trăm đốt…)
* Truyện cổ tích Tấm Cám:
Truyện cổ tích Tấm Cám kể về Tấm - một cô gái hiền lành, xinh đẹp, mồ
côi mẹ, sống với dì ghẻ và cô em cùng bố khác mẹ tên là Cám. Tấm bị mẹ con
6


Cám ghen ghét, ngược đãi. Đi hớt tép, tấm bị cám đánh lừa trút hết giỏ tép. Tấm
nuôi con cá bống, mẹ con Cám giết chết con cá bống. Ngày hội, dì ghẻ trộn gạo
lẫn thóc, bắt tấm ở nhà nhặt xong mới được di xem. Mỗi lần bị mẹ con Cám gây
chuyện ngược đãi, đau khổ như vậy, tấm đều được Bụt hiện lên an ủi, giúp đỡ.

Bụt bảo Tấm nuôi cá bống cho có bạn, Bụt sai chim sẻ nhặt giúp tấm mớ gạo
trộn lẫn thóc. Bụt chỉ cho Tấm cách chôn xương cá bống để đến ngày hội tấm có
quần áo, khăn, giày đẹp. Tấm đi xem hội, đến chỗ lội, đánh rơi một chiếc giày
xuống nước. Nhờ chiếc giày bị rơi ấy, tấm được vua biết đến và lấy làm vợ. Mẹ
con Cám lập mưu giết chết tấm rồi đưa Cám vào thế chân tấm. Tấm chết hóa
thành chim vàng anh. Chim vàng anh bị cám giết chết lại hóa thành cây xoan
đào. Cám chặt cây xoan đào, đóng khung cửi, khi ngồi vào dệt vải, con ác bằng
gỗ trên khung cửi kêu: "cót ca cót két, mày tranh chồng chị, chị khoét mắt ra".
Cám đốt khung cửi, đồ tro ở một nơi xa cung vua. Từ đống tro mọc lên một cây
thị lớn, chỉ có một quả thật to. Một bà cụ bán hàng nước được quả thị ấy, mang
về để ở nhà. Mỗi khi bà cụ vắng nhà, từ quả thị, một cô gái - tức Tấm chui ra
quét dọn, nấu ăn giúp bà cụ. Một hôm, vua đến uống nước, ăn trầu ở hàng bà cụ,
thấy có miếng trầu do Tấm têm, đã nhận ra vợ. Tấm trở lại cuộc sống hạnh phúc
bên vua, còn mẹ con Cám thì bị trừng phạt thích đáng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
- Về phía giáo viên: Có thể thấy rằng, hiện nay việc tiếp cận tác phẩm Tấm
Cám đã có nhiều đổi mới. Nếu như trước kia, trong các giờ giảng văn phân tích
truyện Tấm Cám giáo viên thường kẻ đôi bảng, một bên nhân vật Tấm, một bên
ghi nhân vật mụ dì ghẻ, rồi hướng dẫn học sinh phân tích hai nhân vật đó qua
các hành động để đi đến kết luận: Tấm là một cô gái hiền lành, nết na, chăm chỉ,
tượng trưng cho chính nghĩa; mụ dì ghẻ là người tham lam, gian ác tiêu biểu cho
cái tà; nhưng người chính nghĩa dù có gặp nhiều tai họa nhưng được Bụt giúp
nên cuối cùng đã thắng lợi và được hưởng hạnh phúc, còn kẻ gian bị trừng trị
thích đáng.
Trong thời gian gần đây, giáo viên tiếp cận và giảng dạy truyện Tám cám
theo thi pháp văn học dân gian và đặc trưng thể loại truyện cổ tích, nhưng lại
chủ yếu xoáy sâu vào các mâu thuẫn, xung đột, và đặc biệt hơn là dạy truyện cổ
tích như dạy truyện ngắn, phân tích đánh giá nhân vật truyện cổ tích như phân
tích nhân vật tự sự trong văn học viết; hoặc khai thác quá sâu, quá tỉ mỉ không
chú ý đến tính dị bản của VHDG, có khi đó chỉ là ngôn từ của người ghi chép

lại.
Qua đó chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng không hề có bóng dáng
phôncơlo, màu sắc phôncơlo và vẻ đẹp riêng của tác phẩm phôncơlo. Hiển nhiên
học sinh sẽ không hiểu hết bản chất, đặc trưng của một tác phẩm VHDG.
Vì sao có hiện tượng trên? Nguyên nhân có nhiều: do chúng ta chưa nắm
được bản chất và đặc trưng của tác phẩm phôncolo, do khả năng còn hạn chế, do
7


sức ỳ của thói quen nên ngại đổi mới cách phân tích… một phần do chúng ta
chủ quan khi nghĩ rằng việc tìm hiểu truyện cổ tích khá dễ dàng, không quá khó
khăn vì một học sinh tiểu học cũng có thể biết được nội dung câu chuyện.
- Về phía học sinh: Văn bản Tấm Cám không còn xa lạ với học sinh, các
em đã được tiếp nhận văn bản, thậm chí nhiều học sinh còn thuộc làu câu
chuyện này, vì vậy khi một lần nữa tiếp nhận câu chuyện sẽ khó tránh khỏi sự
nhàm chán, không thoát khỏi tâm lí “đã biết”. Nhưng các em chỉ mới tiếp nhận ở
góc độ của một câu chuyện cổ tích mà không nhận thức được đây là một tác
phẩm văn học dân gian – những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, do
tập thể sáng tác, được ra đời và truyền tụng và phục vụ trực tiếp cho các sinh
hoạt cộng đồng. Có nghĩa là học sinh được tìm hiểu như một tác phẩm văn học
tự sự chứ không phải là một tác phẩm văn học dân gian. Do đó các em sẽ không
cảm nhận được cái hay, cái đẹp và linh hồn của dân tộc trong mỗi tác phẩm đó.
Trong năm học 2018-2019, tôi đã tiến hành cho học sinh 2 lớp khối 10 tiếp
cận văn bản theo hướng truyền thống, đã tiến hành khảo sát về khả năng tiếp
nhận văn bản, kết quả ban đầu như sau:
2.2.3 Kết quả khảo sát ban đầu:

Đối tượng đối
chứng
10A5

10A7

Sĩ số
43
38

Giỏi
SL
0
0

Khá
%
0
0

SL
13
10

%
30,2
26,3

Trung bình
SL
%
29
67,5
25

65,8

Yếu
SL
1
3

%
2,3
7,9

Từ kết quả khảo sát ban đầu cho thấy rằng:
- Số lượng và tỉ lệ % học sinh đạt loại giỏi ở 2 lớp 10A5, 10A7 là không có.
- Số lượng học sinh đạt loại khá ở 2 lớp trên đang còn rất thấp : Lớp 10A5
là 13/43 học sinh chiếm 30,2%; Lớp 10A7 thì chỉ có 10/38 học sinh chiếm tỉ
26,3%.
- Số lượng và tỉ lệ học sinh trung bình ở 2 lớp trên đang còn rất cao chiếm
hơn 65%. Đặc biệt là tỉ lệ học sinh yếu đang còn, nhiều nhất là lớp 10A7 chiếm
7,9%.
Từ thực trạng dạy và học, kết quả khảo sát việc đọc hiểu văn bản Tấm
Cám của học sinh Trường THPT Lang Chánh như trên tôi nhận thấy cần việc
dạy một tác phẩm văn học dân gian như một tác phẩm văn học dân gian thực thụ
là điều cần thiết, chắc chắn sẽ tạo ra sự hứng thú mới cho học sinh.
2.3. Một số phương pháp tiếp cận truyện Tấm Cám thông qua vận
dụng tinh thần Phôncơlo:
2.3.1. Cách cấu tạo cốt truyện:
Điều lí thú hấp dẫn của truyện cổ tích là cốt truyện chứ không phải nhân
vật như trong truyện hiện đại. Nhưng thi pháp truyện cổ tích lại hướng sự chú ý
vào cách cấu tạo cốt truyện chứ không phải bản thân cốt truyện vì cốt truyện
8



thuộc nội dung còn cách cấu tạo cốt truyện thì lại là hình thức nghệ thuật của tác
phẩm phôncơlo, mà hình thức nghệ thuật thì mới là đối tượng nghiên cứu của
thi pháp. Trong truyện Tấm Cám, đã bộc lộ khá đậm chất phôncơlo.
Truyện Tấm Cám được cấu tạo theo đường thẳng,theo trình tự diễn biến
các hành động của nhân vật (cũng là trình tự thời gian) một cách chặt chẽ, không
thể khác được, khiến các chi tiết dính kết với nhau trên một trục thống nhất, làm
cho truyện không những rõ ràng, dễ nhớ mà còn lí thú, hấp dẫn. Đó chính là vẻ
đẹp riêng của cổ tích Việt Nam và thế giới.
Trong truyện Tấm Cám, ban đầu là hình ảnh cô Tấm xuất hiện trong tình
thế bị ức hiếp, chèn ép bởi mẹ con Cám. Những hành động của Tấm đơn thuần
là nghe lời và khóc lóc khi gặp bất công.
- Đi bắt tôm tép: Tấm chăm chỉ bắt được giỏ tép đầy, bị Cám lười biếng lừa
chị đổ tép sang giỏ mình, khi nhìn trong giỏ không còn gì Tấm chỉ biết bưng mặt
khóc.
- Đi chăn trâu: mẹ con Cám gạt Tấm đi chăn đồng xa, Cám ở nhà giết cá
bống làm thịt ăn. Về không thấy bống đâu Tấm lại cũng khóc.
- Đi xem hội: Mẹ con Cám trắng trợn trộn thóc với gạo bắt Tấm nhặt,
không cho Tấm đi xem hội. Dù rất khao khát được đi dự hội nhưng Tấm không
một chút tinh thần phản kháng nào chỉ biết khóc hu hu.
- Trèo cây cau: nhân ngày giỗ bố, nghe lời mụ dì ghẻ Tấm trèo cau hái cau
để cúng cha, mẹ con Cám chặt gốc cau giết Tấm.
Học sinh sẽ thấy được sự yếu đuối thụ động của Tấm, luôn bị mẹ con Cám
bắt nạt, Tấm phải nhờ đến sự giúp đỡ của Bụt
- Bốn lần hoá thân của Tấm:
Thành chim vàng anh:
Thành cây xoan đào
Thành khung cửi
Thành cây thị (quả vàng thơm)

Qua bốn lần hóa thân, học sinh sẽ nhận ra sức sống mãnh liệt không thể bị
tiêu diệt của Tấm. Dù cho có bị vùi dập và bị hãm hại hết lần này đến lần khác
Tấm vẫn vùng dậy mạnh mẽ, và hơn nữa Tấm đã không còn phải nhờ vào sự
giúp đỡ của Bụt. Không còn cô Tấm yếu đuối, khóc lóc, đáng thương và tội
nghiệp nữa. Thay vào đó là tinh thần đấu tranh mạnh mẽ để giữ lấy hạnh phúc
của mình. Điều đó thể hiện chận lí bất diệt của dân tộc Việt Nam: cái Thiện
không chịu chết oan ức trong im lặng, vùng dậy huỷ diệt cái Ác.
2.3.2. Các môtíp:
Đọc truyện cổ tích ta thường gặp các motif. Đó là những phần tử đơn vị
vừa mang tính đặc trưng vừa mang tính bền vững của truyện kể dân gian. Các
motif do vậy mang tính phôncơlo đậm đặc và góp phần qua trọng để tạo nên sắc
9


thái dân gian của truyện. Cho nên tiếp cận truyện Tấm cám không thể không tiếp
cận các motif của truyện.
Các môtíp quen thuộc: người mẹ ghẻ ác nghiệt, ông Bụt hiền từ nhân đức,
vật giúp người, vật xấu xí biến thành người đẹp đẽ, người biến thành vật rồi trở
lại làm người…
- Motif người mẹ ghẻ ác nghiệt cũng khá quen thuộc với chúng ta. Trong
câu chuyện, mụ dì ghẻ tham lam và độc ác, Tấm luôn bị mẹ con Cám ghen ghét
và ngược đãi: “Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha
Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Nhưng dì ghẻ của Tấm là
người rất cay nghiệt. Hàng ngày, Tấm phải làm lụng luôn canh, hết chăn trâu,
gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết
việc. Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều, được ăn trắng mặc trơn, suốt
ngày quanh quẩn ở nhà không phải làm việc nặng.”[5,65]
Motif người mẹ ghẻ ác nghiệt thể hiện xung đột, mâu thuẫn trong gia đình
phụ quyền thời cổ, giữa dì ghẻ và con chồng, nhưng đồng thời đó cũng là mâu
thuẫn giữa cái Thiện và cái Ác. Truyện cổ tích luôn giải quyết xung đột theo

hướng Thiện thắng Ác. Qua đó thể hiện ước mơ công lí của nhân dân lao động
xưa: người tốt sẽ được hưởng hạnh phúc, còn kẻ ác sẽ bị trừng trị thích đáng:
“Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám
xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết, mụ dì ghẻ thấy vậy
cũng lăn đùng ra chết.”[5,72]
- Motif ông Bụt hiền lành nhân hậu, luôn xuất hiện khi những người tôt
bụng gặp khó khăn, luôn bênh vực và đứng về phía Thiện, là lực lượng phù trợ
cho các nhân vật. Như anh Khoai trong truyện Cây tre trăm đốt, ôm mặt khóc hu
hu khi không tìm được cây tre có một trăm đốt. Và cô Tấm xinh đẹp khi bị trút
hết tôm tép sợ về dì mắng, hay khi cá bống chết, khi phải nhặt hết một đấu thóc
trộn với một đấu gạo, khi không có quần áo đi dự hội….Bụt lại hiện lên để giúp
Tấm: “Bấy giờ Bụt đang ngồi trên tòa sen. Bỗng nghe tiếng khóc của Tấm liền
hiện xuống hỏi – Con làm sao lại khóc?”[5,66].
Ông Bụt chính là ước mơ của nhân dân luôn mong muốn có thế lực che chở
và phù trợ cho mình, và người tốt thì luôn luôn được giúp đỡ.
- Motif vật xấu xí biến thành người đẹp đẽ: trong truyện Tấm cám đó là khi
Tấm muốn đi dự hội mà không có quần áo đẹp. Những chiếc xương cá mà Tấm
bỏ trong lọ chôn dưới bốn chân giường đã giúp cô biến thành quần áo, giày,
ngựa. Hay motif vật giúp người như để tìm xương cá bống, Tấm đã cho gà nắm
thóc để gà bới xương cho; rồi đàn chim sẻ xà xuống giúp Tấm nhặt thóc…
- Motif tái sinh có thể được xem là một motif khá quen thuộc trong kho
tàng văn học dân gian nước ta và nhiều nước trên thế giới. Motif này xuất hiện
nhiều trong thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích dân gian và trong những tác
phẩm truyện truyền kỳ của văn học thành văn… Trên cơ sở định nghĩa chung về
10


motif như là một tình tiết góp phần tạo nên đề tài cốt truyện, chúng tôi đã định
nghĩa motif tái sinh là những tình tiết dùng để miêu tả hiện tượng chết đi và
sống lại của nhân vật trong truyện kể, bao hàm hình thức sống lại thành người

và cả sống lại thành vật.
Có thể nhân vật sống lại thành người chỉ qua một lần tái sinh, cũng có thể
nhân vật sống lại thành người sau khi đã hóa thân thành nhiều hình dạng khác
nhau hoặc là nhân vật sống lại thành vật.
Chúng ta có thể thấy trong truyện Tấm cám, nhân vật Tấm trải qua nhiều
lần biến hóa:
+ Tấm hóa thành chim vàng anh
+ Thành hai cây xoan đào
+ Tấm hóa thành khung cửi
+ Thành quả thị
Ý nghĩa của motif tái sinh do hóa thân trong truyện cổ tích còn là sự phản
ánh quan niệm của dân gian về sức sống mãnh liệt của các nhân vật đại diện cho
cái thiện. Các nhân vật được tái sinh do hóa thân đều là những con người hiền
lành, nhân hậu và ngây thơ, cả tin vào người khác đến mức gây hại cho chính
bản thân mình. Họ là những cô gái ngoan hiền, chăm chỉ như cô Ba, như Gơliu,
như Tấm… một mình gánh vác công việc gia đình mặc cho người chị, người em
của họ suốt ngày nhàn rỗi vui chơi. Đã thế, những nhân vật ấy còn bị hắt hủi,
đánh đập, hành hạ mà không dám oán than, một chút niềm vui nhỏ nhoi bình dị
như nuôi một con cá bống cũng bị người ta cướp mất (Tấm Cám). Những nhân
vật ấy còn tốt bụng và nhân hậu, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, ngây thơ xuống
suối gội đầu để bị người ta cướp công bắt cá, hồn nhiên trèo lên cây thật cao hái
trái để rồi bị kẻ ác đẵn gốc cây hại chết… Tuy nhiên bên trong những con người
hiền lành ấy cũng tiềm ẩn một khả năng chịu đựng ghê gớm với một sức sống
dai dẳng, mãnh liệt mà không một thế lực gian ác nào có thể tiêu diệt được. Dù
có bị truy sát đến đường cùng, họ cũng tìm mọi cách đấu tranh để bảo vệ cho sự
tồn sinh của mình. Cuối cùng thì cái thiện cũng thắng, người thiện cho dù đã bị
hãm hại chỉ còn một chút tro tàn rồi cũng được tái sinh.
Bản thân các motif đều mang ý nghĩa sâu sắc, nhưng điều quan trọng hơn
cả là các motif này đã tạo nên cái không khí mơ màng vừa thực vừa ảo rất hấp
dẫn của truyện cổ tích, đưa ta vào thế giới huyền diệu của phôncơlo.

2.3.3. Những câu văn vần xen kẽ:
Văn vần là thể văn diễn ý bằng câu có vần. Khi đọc rất thuận miệng, dễ
đọc, dễ nhớ và dễ đi vào lòng người. Văn học dân gian thường sử dụng rất nhiều
những câu văn vần, điều đó cũng phù hợp với tính truyền miệng của văn học dân
gian.
Trong truyện Tấm Cám cũng vậy, có nhiều câu văn vần xen kẽ được sử
dụng, một dấu hiệu đặc trưng của truyện cổ tích Việt Nam. Những câu văn vần
11


xen kẽ này cũng cần được tiếp cận vì nó giữ một vai trò quan trọng trong truyện
cổ tích. Nó Thường xuất hiện những lúc mâu thuẫn xung đột, những tình huống
có vấn đề cần nhấn mạnh, khắc sâu cốt truyện, đồng thời tạo đà đẩy cốt truyện
diễn tiến một cách tự nhiên.
Bắt đầu những câu văn vần để các mâu thuẫn xung đột lần lượt xuất hiện là
lời dỗ ngon dỗ ngọt của Cám để lừa Tấm nhằm trút hết tôm tép trong giỏ:
“Chị Tấm ơi chị Tấm
Đầu chị lấm
Chị hụp cho sâu
Kẻo về mẹ mắng”[5,66]
Học sinh sẽ thấy được sự độc ác tham lam của Cám. Cám lười biếng,
không chịu lao động, không muốn bỏ công sức nhưng lại muốn hưởng thành
quả, cho nên sẵn sàng giở thủ đoạn lừa gạt Tấm: “Tin là thật, Tấm bèn xuống ao
lội ra chỗ sâu tắm rửa. Cám thừa dịp trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi
ba chân bốn cẳng về trước. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi
xuống bưng mặt khóc hu hu”[5,66].
Còn cô Tấm dù chăm chỉ nhưng lại hiền lành thật thà, tin vào lời Cám để cuối
cùng thành quả lao động của mình bị Cám cướp mất.
Tiếp đến là lời gọi êm ái của Tấm dành cho cá bống mỗi khi Tấm cho bống
ăn:

“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”[5,66]
Khi mụ dì ghẻ muốn lừa Tấm đi chăn trâu thật xa để ở nhà mụ giết hại cá
bống, cướp đi niềm vui duy nhất của Tấm, người bạn của Tấm, mụ đã ngọt nhạt:
“Con ơi, chăn trâu thì chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà làng bắt mất
trâu”[5,66]
Hay khi Tấm bước chân vào dự hội, nhìn thấy Tấm mẹ con Cám đã khinh
bỉ:
“Chuông khánh còn chẳng ăn ai
Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”[5,69]
Rồi khi bị mẹ con Cám lừa giết chết và thay Cám vào vị trí hoàng hậu, Tấm
biến thành con chim vàng anh, mỗi khi Cám giặt quần áo cho vua, vàng anh lại
hót:
“Phơi áo chồng tao
Phơi lao phơi sào
Chớ phơi bờ rào
Rách áo chồng tao”[5,70]
12


Tấm chết biến thành chim vàng anh. Vua thấy chim bay theo mình, nhớ
Tấm liền bảo chim rằng:
“ Vàng ảnh vàng anh
Có phải vợ anh
Chui vào tay áo”[5,70]
Khi Tấm biến thành khung cửi, mỗi lần Cám dệt vải, khung cửi lại kêu lên:
“Cót ca, cót két
Lấy tranh chồng chị
Chị khoét mắt ra”[5,70]

Hay khi Tấm ẩn mình trong quả thị, bà lão hàng nước đi qua đã thủ thỉ:
“Thị ơi thị, rụng vào bị bà
Bà để bà ngửi chứ bà không ăn”[5,71]
Cô Tấm biến thành quả thị và bước ra từ quả thị là một chi tiết nghệ thuật
mang tính thẩm mỹ cao. Thể hiện vẻ đẹp bình dị của Tấm, không cao sang
quyền quý cũng không lam lũ nhếch nhác; vẻ đẹp tươi mới tràn đầy sức sống; vẻ
đẹp nhân văn “ở hiền gặp lành” Tấm trở lại làm người, làm vợ vua và sống
hạnh phúc. Vẻ đẹp đậm đà bản sắc dân tộc với miếng trầu cánh phượng mà Tấm
têm; vẻ đẹp kì ảo với trí tưởng tượng bay bổng của dân gian: từ quả thị chui ra
một cô gái với thân hình bé nhỏ “Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình
bé nhỏ như ngón tay nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa
bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái
rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ
rồi chui vào vỏ quả thị”[5,71]
Như vậy ở những câu văn vần này, chất diễn cảm được bộc lộ dồi dào nhất
và chất phôncơlo đậm nét nhất. Đến mức, khi ta có thể quên những chi tiết nào
trong truyện nhưng những câu văn vần này lại mãi còn trong trí nhớ, thậm chí
nó đã trở thành lời ru ngọt ngào của người mẹ dành cho những đứa con thân yêu
của mình. Có lẽ cũng vì thế mà dấu ấn của cổ tích Tấm Cám càng sâu đậm trong
lòng người đọc, và đó cũng là cách để lưu lại dấu ấn trong trí nhớ của học trò.
2.3.4. Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật:
Trong văn học thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật được xem
như những yếu tố của nghệ thuật, vì vậy nó thuộc đối tượng nghiên cứu của thi
pháp học. Đối với tác phẩm phôn cơlo cũng vậy chỉ có điều thời gian nghệ thuật
và không gian nghệ thuật ở đây in rõ đặc điểm và sắc thái phôncơlo.Thời gian
nghệ thuật, không gian nghệ thuật đều mang tính chất phiếm chỉ để diễn đạt các
ý.
Ở truyện Tấm Cám dường như không có thời gian cụ thể qua sự diễn tiến
của câu chuyện, không hề có khái niệm sáng, trưa, chiều, tối mà chỉ có một hôm,
đến bữa cơm, đến ngày giỗ bố…

13


Thời gian nghệ thuật trong Tấm Cám là thời gian khép kín. Không thể xác
định được chuyện xảy ra vào thời kì nào. Chuyện có vua, nhưng không biết vua
đời nào, cung vua ở đâu. Đặc điểm này góp phần tạo ra tính chất hoang đường
của truyện. Mặt khác, thời gian luôn gắn liền với chuỗi sự kiện liên tục. Các
đoạn thời gian bắt đầu bằng “một hôm, ít lâu sau, từ đó, cứ mỗi lần…”Thời gian
kể rõ ràng trùng với thời gian một sự kiện nào đó diễn ra. Truyện Tấm cám
không có thời gian quá khứ, thời gian tương lai mà tất cả chỉ là thời gian hiện tại
kéo dài. Khi một sự kiện kết thúc thì thời gian cũng hết. Mỗi một sự kiện được
kể đều diễn ra trong khoảng thời gian một hôm.
Không gian trong Tấm cám cũng không được xác định cụ thể người đọc chỉ
hình dung thấy một cảnh làng quê quen thuộc, bình dị và gẫn gũi. Đó là cánh
đồng làng Tấm vẫn thường thả trâu, là giếng nước có chú cá bống tung tăng bơi
lội, là cảnh hội hè, quán hàng nước…Đó là không gian hiện thực không gian gắn
liền với đời sống hàng ngày của nhân dân lao động. Cuộc sống của người dân
hiện qua mỗi câu chuyện, nó giống như một thước phim giúp ta trải nghiệm
cuộc sống con người từ thuở xa xưa.
Không gian hiện thực là không gian của cuộc sống trần thế, biểu hiện cụ
thể trong truyện cổ tích người Việt là không gian làng quê. Đặc điểm này cho
thấy, truyện cổ tích người Việt là sản phẩm tinh thần đích thực của nhân dân lao
động, mang đậm thế giới quan, cách nhìn của người nông dân.
2.3.5. Không khí truyện:
Truyện Tấm Cám hấp dẫn bởi nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố không khí
truyện. Đó là cái không khí dân gian khi ta xem một bức tranh Đông Hồ, nghe
một bài hát dân ca quan họ. Cái không khí dân gian mơ màng vừa hư vừa thực
đó do cái gì tạo nên?
Do cốt truyện, các môtíp, câu văn vần, không gian, thời gian tượng trưng…
Phải chăng khi đọc những câu văn vần” Bống bống bang bang…, Vàng ảnh

vàng anh…, Kẽo cà kẽo kẹt….ta nghe thấy âm vang lên trong những dòng chữ
gợi nhớ những làn điệu dân ca quen thuộc của quê hương. Và hình ảnh của cái
yếm đỏ, con gà bới xương, con chim nhặt thóc, ngày hội với cảnh ướm giày, cây
xoan đào, quả thị thơm nở ra cô Tấm, miếng trầu têm cánh phượng…tất cả hiện
ra trước mắt người đọc như một bức tranh dân gian.
Thế là các yếu tố âm nhạc, hội họa, tạo hình đã in đậm dấu vết vào văn bản
văn học dân gian và cùng với các yếu tố nằm trong văn bản tạo nên cái không
khí dân gian của truyện. Do đó cái không khí dân gian đó là một không khí rất
dặc trưng của truyện cổ tích mà chúng ta không thể bỏ qua được.
2.3.6. Sự vận động của truyện trong đời sống dân gian và diễn xướng
dân gian:

14


Tác phẩm dân gian có đời sống riêng của nó. Phôncơlo học đòi hỏi chúng
ta phải tiếp cận với tác phẩm phôncơlo trong chính đời sống riêng của nó. Đối
với Tấm Cám, có hai vấn đề được đặt ra: Một là do sự vận động của truyện qua
không gian, thời gian, Tấm cám có nhiều dị bản cả ở Việt Nam( dân tộc Kinh và
các dân tộc ít người) và cả trên thế giới. Do vậy phải tiếp cận với một số truyện
tiêu biểu ở Việt Nam và thế giới để so sánh.
Hai là vấn đề kể truyện Tấm Cám với tư cách là diễn xướng dân gian thì
ngoài văn bản truyện, còn có các yếu tố khác như môi trường dân gian, nghệ
nhân dân gian, sự đồng cảm mang tính chất dân gian giữa người kể với nhân vật
truyện và người nghe. Tất cả tạo nên một không khí dân gian hỗ trợ cho văn bản
truyện và nâng cao văn bản truyện lên một chất lượng cao hơn.
2.4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm:
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục:
Chúng ta thấy rất rõ một điều rằng giáo dục nhân cách cho học sinh qua
mỗi môn học là rất quan trọng, đặc biệt là môn Ngữ văn. Một phần do đặc thù

môn học mà mỗi tác phẩm mang lại cho người đọc, những chân lí, những bài
học đều rất bổ ích và lí thú. Không thể phủ nhận truyện cổ tích nói chung và
truyện Tấm Cám nói riêng có vai trò giáo dục rất mạnh mẽ. Đó là bài học về Ở
hiền gặp lành, ác giả thì ác báo hay Gieo nhân nào thì gặt quả ấy…con người
sống phải biết đến thiện lương, đến báo ứng….Đó cũng là những thông điệp mà
người dạy muốn truyền tải đến cho học sinh
2.4.2. Đối với học sinh:
Được tiếp nhận một tác phẩm quen thuộc theo một phương pháp mới, học
sinh hào hứng hơn, tích cực, chủ động hơn. Nó không chỉ còn là câu chuyện về
một cô Tấm thảo hiền, một mụ dì ghẻ độc ác như từ trước đến nay mà còn có cả
một đời sống văn hóa dân gian ẩn mình trong đó. Điều đó tác động rất lớn đến
nhận thức của học sinh, góp phần giáo dục lòng tự hào dân tộc, tình yêu thương
giữa con người với con người…cho học sinh.
2.4.3. Đối với với bản thân:
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, sáng kiến kinh nghiệm giúp tôi
có được một tiết dạy bổ ích, người dạy hào hứng, người học thích thú, tò mò.
Việc đổi mới bài dạy luôn là một yếu tố cần thiết đặc biệt theo hướng phát huy
tính tích cực chủ động sáng tạo cho học sinh. Để có được điều đó thì trước hết
người giáo viên phải sáng tạo trước đã.
Trải qua một quá trình nghiên cứu tìm tòi từ tài liệu, từ đồng nghiệp, tôi đã
hình thành cho mình cũng như đồng nghiệp “ cẩm nang” mới về dạy một tác
phẩm văn học dân gian mang đậm chất Phôncơlo.
2.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
15


Vận dụng các phương pháp đã nghiên cứu vào thực tế giảng dạy tác phẩm,
tôi thấy kết quả khả quan hơn so với phương pháp trước đây. Cụ thể:
- Tiết học sinh động hơn, khơi gợi được hứng thú học tập của học sinh.
- Học sinh ghi nhớ nội dung bài học sâu sắc hơn.

- Học sinh đã cảm nhận được, hiểu được bài học cuộc sống, ý nghĩa giáo
dục những điều mà tác giả dân gian gửi gắm.
- Tác phẩm văn học dân gian đã thực sự sống trong lòng các em.
Khảo sát đối với lớp trực tiếp dạy: lớp 10A6. Sĩ số: 40 học sinh
Qua khảo sát, tôi nhận thấy 100% học sinh tiếp thu bài học tốt, những kiến
thức tích hợp từ các môn khác giúp học sinh khắc sâu, ghi nhớ nội dung thông
tin bài học. Kết quả cụ thể như sau:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số
Đối tượng lượng
SL
%
SL
%
SL
%
SL %
Lớp thực nghiệm
40
3
7,5
17 42,5 20
50
0
0
10A6
Lớp đối chứng

38
0
0
10 26,3 25
65,8
3 7,9
10A7
Căn cứ vào kết quả tổng hợp ở bảng trên, so sánh kết quả bài làm của HS
lớp thực nghiệm và lớp đối chứng chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
- Tỉ lệ HS hiểu sâu sắc các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, hiểu hình tượng
nhân vật Tấm của các lớp thực nghiệm (7,5%) cao hơn lớp đối chứng (0%).
- Tỉ lệ HS nắm bắt các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, hiểu hình tượng nhân
vật Tấm của các lớp thực nghiệm (42,5%) cao hơn lớp đối chứng (26 ,3%).
- So với lớp đối chứng, tỉ lệ HS hiểu chưa sâu sắc, mức độ trung bình ở lớp
thực nghiệm có giảm từ 7,9% xuống 0%..
Tuy kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng chênh lệch không nhiều,
nhưng nó giúp chúng tôi có cơ sở để có thể khẳng định hiệu quả của việc vận
dụng tinh thần phôn cơ lo trong giảng dạy chuyện cổ tích Tấm cám nói riêng và
Văn học dân gian Việt Nam nói chung. Tuy nhiên qua quá trình giảng dạy, thấy
được sự hào hứng tích cực tham gia xây dựng bài của học sinh, quá trình thảo
luận nhóm diễn ra sôi nổi, học sinh chủ động làm việc... phần nào cho thấy được
tính khả thi của sáng kiến, cho dù sáng kiến chỉ là một kiến giải nhỏ trong việc
tạo tính chủ động tích cực cho học sinh.

16


3. KẾ LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Dạy học và đổi mới dạy học là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng, việc tạo

ra một tiết học thu hút sự chú ý của học sinh là thành công của giáo viên giảng
dạy. Với việc dựa trên kiến thức về thi pháp văn học dân gian, bài dạy Tấm Cám
sẽ mang đến cho học sinh lương kiến thức được tiếp nhận từ một khía cạnh
khác. Trong quá trình dạy tuy còn gặp phải một số trở ngại như năng lực tiếp thu
của học sinh, ý thức tự học chưa cao…nhưng nhìn chung sáng kiến đã đem lại
những kết quả mong đợi.
3.2. Kiến nghị:
Đối với nhà trường có thể phối hợp với các tổ chuyên môn tổ chức các hoạt
động ngoại khóa theo chủ đề văn học, trong đó có chủ đề về văn học dân gian
trong nhà trường. Không chỉ giới hạn ở một vài thể loại mà còn với nhiều thể
loại khác nữa nhằm tạo cho học sinh một sân chơi bổ ích lí thú.
Hoặc cũng có thể tổ chức cho học sinh xem một số video về sinh hoạt văn
hóa dân gian hay diễn xướng dân gian, tham gia các trò chơi dân gian…
Đồng thời tạo mọi điều kiện để giáo viên có thể mạnh dạn đổi mới những
tiết dạy để làm cho mỗi tiết học trở nên phong phú hơn.
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

(Đã ký)

(Đã ký)

Phạm Thị Hà

Nguyễn Đình Bảy


17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Văn học dân gian Việt Nam trong nhà Trường – PTS.Nguyễn Xuân Lạc,
1998 NXB Giáo dục
2. Hình thái học truyện cổ tích - V. Ia. Prốp,1969 NXB Khoa học
3. Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian – Đinh Gia Khánh, 1989 NXB
Khoa học xã hội.
4. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam – Nguyễn Đổng Chi, 1975 NXB Khoa
học xã hội.
5. Sách giáo khoa Ngữ Văn 10, NXB GD, 2011.

18



×