Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tìm hiểu về lực ma sát trượt để vận dụng vào việc dạy học và một số ứng dụng của lực ma sát trong đời sống hàng ngày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.03 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
ĐỀ MỤC
Mục lục
1.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Lực ma sát xuất hiện như thế nào?
2.1.2. Phân loại lực ma sát
2.1.3. Nguyên nhân sinh ra lực ma sát
2.1.4. Hệ số ma sát
2.1.5. Một số kiến thức cơ bản về lực ma sát trượt
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Gợi ý cách dạy học chuyên đề “ Lực ma sát ” theo hướng tăng
cường phát huy các năng lực của học sinh
2.3.2. Giải thích một số hiện tượng liên quan đến lực ma sát trong thực
tế
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3.
Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

TRANG
1
2


2
2
2
2
3
3
3
3
3
4
4
4
5
5
8
11
13
13
13
15

1


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Vật lí là một môn khoa học liên quan đến rất nhiều hiện tượng trong đời sống
hàng ngày. Trong đó, cơ học là nền móng cơ bản của vật lí, là một mảng rộng lớn
rất gần gũi với đời sống thực tế.
Các hiện tượng trong vật lí nói chung và các hiện tượng thuộc lĩnh vực cơ học

nói riêng luôn diễn ra xung quanh chúng ta hằng ngày, hằng giờ. Có những hiện
tượng tưởng chừng dễ hiểu, hiển nhiên, ai cũng biết, nhưng khi đi sâu nghiên cứu
thì ta lại gặp muôn vàn khó khăn. Tìm hiểu bản chất các hiện tượng vật lí là một
việc làm hết sức quan trọng và cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu khám phá thế giới
của nhân loại trong mọi thời đại, từ đó, phát huy những mặt tích cực của nó đồng
thời hạn chế những tác hại để vận dụng vào đời sống và kĩ thuật sao cho đem lại
hiệu quả cao nhất.
Lực ma sát trượt là một trong những hiện tượng rất đỗi quen thuộc với chúng ta
nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một bức tranh đầy đủ về sự xuất hiện lực ma
sát và bản chất lực ma sát vẫn chưa được làm sáng tỏ. Ở SGK phổ thông, loại lực
này mới chỉ được xem xét ở mức độ đơn giản. Để phục vụ tốt cho việc giảng dạy
sau này về phần lực ma sát, tôi đã chọn đề tài “Tìm hiểu về lực ma sát trượt để
vận dụng vào việc dạy học và một số ứng dụng của lực ma sát trong đời sống
hàng ngày”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về bản chất , cơ chế xuất hiện của lực ma sát
trượt từ đó vận dụng tốt cho việc dạy và học phần lực ma sát, đồng thời giải thích
được một số hiện tượng thực tế hằng ngày liên quan đến lực ma sát.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
+ Kiến thức về lực ma sát nói chung và lực ma sát trượt nói riêng.
+ Những ứng dụng về lực ma sát trong thực tế đời sống hằng ngày.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
+ Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2.1.1. Lực ma sát xuất hiện như thế nào?
Lực ma sát là lực cản xuất hiện giữa hai mặt tiếp xúc giữa hai vật đang chuyển
động tương đối hoặc có xu hướng chuyển động tương đối với nhau.
Lực ma sát làm chuyển hóa động năng của chuyển động tương đối của các bề
mặt thành năng lượng ở dạng khác. Việc chuyển hóa năng lượng thường do va
chạm phân tử của hai bề mặt gây ra chuyển động nhiệt hoặc thế năng dự trữ trong
biến dạng của bề mặt hay chuyển động của các electron, được tích lũy một phần
thành điện năng hay quang năng. Trong đa số trường hợp thực tế, động năng của
các bề mặt chủ yếu chuyển hóa thành nhiệt năng.
Về bản chất vật lí, lực ma sát xuất hiện giữa các vật thể trong cuộc sống là lực
điện từ, một trong các lực cơ bản tự nhiên giữa các nguyên tử, phân tử.
Theo quan điểm hiện đại, ma sát là kết quả tương tác của nhiều dạng tương tác
phức tạp khác nhau khi có sự tiếp xúc và dịch chuyển hoặc có xu hướng dịch
chuyển giữa hai vật thể, trong đó diễn ra các quá trình cơ, lí, hóa, điện… Quan hệ
giữa các quá trình đó rất phức tạp, phụ thuộc vào tính chất tải, vận tốc trượt, vật
liệu và môi trường.
2.1.2. Phân loại lực ma sát
Căn cứ vào chuyển động tương đối của hai vật trên bề mặt của nhau, ta có thể chia
lực ma sát thành các loại sau:
+ Ma sát khô: Ma sát trượt và ma sát nghỉ.
+ Ma sát ướt.
+ Ma sát lăn.
2.1.3. Nguyên nhân sinh ra lực ma sát
Chúng ta biết rằng hai mặt tiếp xúc với nhau luôn có những chỗ gồ ghề, mấp
mô nên diện tích tiếp xúc thực sự giữa hai mặt rất bé so với diện tích toàn phần
giữa hai mặt. Những nguyên tử, phân tử vật rắn tại phần tiếp xúc thực sự này sẽ
tương tác với nhau bằng lực tương tác phân tử (lực điện từ). Muốn cho vật chuyển
động được trên mặt vật rắn khác thì cần phải đặt một lực tiếp tuyến với mặt tiếp
xúc để thắng lực cản sinh ra do tương tác giữa các phân tử. Lực cản này chính là
một trong những nguyên nhân sinh ra ma sát.

Ma sát động thường nhỏ hơn ma sát nghỉ cực đại.
Tóm lại, nguyên nhân sinh ra lực ma sát là do sự tương tác giữa các phân tử,
nguyên tử ở những vùng tiếp xúc thực sự giữa các vật.
3


2.1.4. Hệ số ma sát
Hệ số ma sát không phải là một đại lượng có đơn vị, nó biểu thị tỉ số lực ma sát
nằm giữa hai vật trên lực tác dụng đồng thời lên chúng. Hệ số ma sát này phụ thuộc
vào chất liệu làm nên vật.
Hệ số ma sát là một đại lượng mang tính thực nghiệm, nó được xác định ra trong
quá trình thực nghiệm chứ không phải trong quá trình tính toán.
2.1.5. Một số kiến thức cơ bản về lực ma sát trượt
Trong quá trình nghiên cứu lực ma sát trượt luôn có những khó khăn và
không tránh khỏi mắc sai lầm.
Thực chất, lực ma sát trượt là một loại lực cơ bản trong tự nhiên. Khi hai
vật chuyển động trên bề mặt của nhau, năng lượng bị mất mát do lực ma sát.
Khi độ nhám của hai bề mặt tiếp xúc còn đáng kể thì lực ma sát sinh ra do sự
móc ngoặc cơ học giữa các đồi chỗ lồi lên của hai mặt tiếp xúc. Khi ấy lực ma
sát phụ thuộc vào độ nhám. Độ nhám của hai bề mặt tiếp xúc giảm thì lực ma
sát giảm. Tuy nhiên khi độ nhám giảm đến một mức nào đó thì lực ma sát lại
tăng lên. Khi ấy, lực ma sát xuất hiện là do lực tương tác phân tử giữa các phân
tử của cả hai mặt ở chỗ tiếp xúc thực sự với nhau. Các phép tính toán đều cho
thấy cả lực tương tác phân tử này lẫn độ nhám cũng chỉ chịu trách nhiệm một
phần về sự xuất hiện của lực ma sát.
Trong thực tế, lực ma sát trượt phụ thuộc vào vận tốc mà không phụ thuộc
vào nhiệt độ như một số quan niệm trước đây từng nhầm tưởng.
Các thí nghiệm về chuyển động của đạn trong nòng súng chứng tỏ rằng khi
tốc độ đạn tăng lên, giá trị của lực ma sát bắt đầu giảm nhanh, sau đó giảm chậm
dần, và khi tốc độ lớn hơn 100m/s thì lại bắt đầu tăng lên. Nguyên nhân là do ở chỗ

tiếp xúc tỏa ra một nhiệt lượng lớn. Với tốc độ đạn bằng 100m/s, nhiệt độ ở chỗ
tiếp xúc có thể lên tới vài ngàn độ C, lúc đó giữa các bề mặt sẽ tạo thành một lớp
kim loại nóng chảy. Ma sát khô ban đầu trở thành ma sát ướt. Người ta đã chứng
minh được với những tốc độ lớn thì lực ma sát ướt tỉ lệ thuận với bình phương tốc
độ. Từ đó có thể khẳng định lực ma sát phụ thuộc vào tốc độ của vật.
Lực ma sát trượt phụ thuộc vào áp lực tác dụng lên bề mặt tiếp xúc, bản chất bề
mặt tiếp xúc.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua thực tế giảng dạy ở trường THPT Như Xuân tôi thấy rằng học sinh rất
có định kiến với môn vật lý. Đa số các em đều cho rằng môn vật lý rất khó nên
ngay từ đầu đã không để ý đến môn này. Thấy vậy , trong một số tiết dạy của mình
tôi có lồng ghép các hiện tượng thực tế , dễ hiểu và gần gũi với học sinh thì có một
4


số em có chuyển biến tích cực . Các em đã bắt đầu thay đổi quan niệm của mình.
Tuy nhiên, học sinh chỉ thích những câu hỏi dễ , không phải giải thích dài dòng, kết
hợp nhiều kiến thức và đặc biệt không thích tính toán, nhất là những bài mang tính
hàn lâm dạng nghiên cứu sâu sa. Có em còn nói rằng : Những bài khó đó để cho
các nhà bác học làm thôi cô ơi, bọn em sao mà làm được.
Tôi nhận thấy học sinh của mình đang hiểu sai mục đích của việc lồng ghép
một số hiện tượng thực tế vào dạy học. Đó không chỉ là học trên lớp , học để lấy
điểm rồi thôi mà mục đích chính là giúp các em vận dụng vào thực tế để tránh điều
có hại và tận dụng những điều có lợi. Chính vì vậy, tôi đã viết ra sáng kiến của
mình để sưu tập những tình huống, những hiện tượng thực tế nhằm giải thích một
cách ngắn gọn và dễ hiểu để lồng ghép vào bài học .
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Gợi ý cách dạy học chuyên đề “ LỰC MA SÁT ” theo hướng tăng cường
phát huy các năng lực của học sinh.
I- Mục tiêu :

1.Kiến thức :
- Nêu được nguyên nhân của lực ma sát.
- Nêu được đặc điểm của lực ma sát nghỉ, ma sát trượt và ma sát lăn.
- Viết được công thức tính độ lớn của lực ma sát trượt.
- Kể ra được một số tác dụng có lợi và có hại của lực ma sát.
2.Kĩ năng :
- Vận dụng được công thức tính lực ma sát trượt để giải được các bài tập đơn giản.
- Thiết kế, lắp ráp và tiến hành được các thí nghiệm để khảo sát sự phụ thuộc của
lực ma sát nghỉ và ma sát trượt vào các yếu tố.
- Xác định được hệ số ma sát trượt bằng thí nghiệm.
- Xác định được hệ số ma sát nghỉ cực đại bằng thí nghiệm.
- Giải thích được các hiện tượng thực tế trong đời sống liên quan đến lực ma sát.
3.Thái độ :
- Biết cách tăng cường tác dụng có lợi và hạn chế tác dụng có hại của lực ma sát.
- Hào hứng thực hiện các nhiệm vụ tìm hiểu về lực ma sát và các ứng dụng của nó.
4. Năng lực định hướng hình thành và phát triển cho học sinh:
- Năng lực tự học .
- Giải quyết vấn đề, sáng tạo.
- Học hợp tác nhóm.
- Thực nghiệm.
- Trình bày và trao đổi thông tin.
II- Chuẩn bị :
1.Giáo viên :

5


- Thí nghiệm, tranh ảnh.
- Các lực kế hoặc quả nặng để hỗ trợ các nhóm xây dựng thí nghiệm.
- Phiếu hướng dẫn học sinh tự đánh giá hoặc đánh giá lẫn nhau.

2. Học sinh :
- SGK, vở ghi bài, giấy nháp.
- Có thể tìm các vật dụng đơn giản để thực hiện thí nghiệm ở nhà (khúc gỗ, tấm
kim loại, dây cao su…)
- Mỗi nhóm hoặc nhiều nhóm 01 bộ thí nghiệm (tùy theo điều kiện của nhà trường).
III- Tổ chức các hoạt động của học sinh :
1.Hướng dẫn chung:
Chủ đề gồm có chuỗi hoạt động học thiết kế theo phương pháp dạy học giải quyết
vấn đề:
-Từ những tình huống thực tiễn được lựa chọn, qua việc mô tả, trình chiếu video
hay làm thí nghiệm, giáo viên tổ chức cho học sinh phát biểu vấn đề nghiên cứu về
lực ma sát.
-Tiếp đến, thông qua các nhiệm vụ học tập để định hướng các hoạt động nghiên cứu
của học sinh( các hoạt động theo phương pháp thực nghiệm: đề xuất, dự đoán, thiết
kế phương án thí nghiệm, thực hiện thí nghiệm và ghi nhận các kết quả để rút ra
nhận xét về đặc điểm của lực ma sát nghỉ và ma sát trượt).
-Sau đó tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả thể chế hóa kiến thức.
-Cuối cùng, yêu cầu học sinh tìm hiểu vai trò của lực ma sát trong đời sống, kĩ
thuật để đưa ra các khuyến cáo cho các hoạt động hợp lí liên quan đến lực ma sát.
2. Hướng dẫn cụ thể từng hoạt động :
2.1.Khởi động : Nhắc lại các kiến thức đã học về lực ma sát ở lớp 8.
a) Mục tiêu hoạt động :
Từ các tình huống được thực hiện để tạo cho học sinh sự quan tâm đến vấn đề về
lực ma sát và đặt được các câu hỏi để tìm hiểu về đặc điểm của các lực ma sát.
Nội dung hoạt động : Tạo tình huống xuất phát.
-Giáo viên mô tả một tình huống trong đời sống liên quan đến lực ma sát: Kể
chuyện, mô tả tình huống, xem một video….Ví dụ : Giáo viên mô tả : Một ôtô bị
chết máy giữa đường nằm ngang, cần đẩy ôtô vào ven đường để sửa. Một hoặc hai
người cố gắng đẩy nhưng ôtô không dịch chuyển. Sau đó nhiều người đẩy thì ôtô
mới dịch chuyển được, khi thôi đẩy ôtô lăn thêm được một đoạn rồi mới dừng lại.

- Hướng dẫn học sinh nhớ lại kiến thức đã học về lực ma sát ở vật lí lớp 8.
b) Gợi ý tổ chức dạy học : Dùng kĩ thuật dạy học khăn trải bàn
- Có mấy loại lực ma sát? Hãy cho ví dụ về mỗi loại trong đời sống và trong kĩ
thuật?
- Lực ma sát có lợi hay có hại ? Cho ví dụ.
2.2.Hình thành kiến thức: Tìm hiểu đặc điểm của lực ma sát , các yếu tố ảnh hưởng
đến độ lớn của lực ma sát
a) Mục tiêu hoạt động :

6


Học sinh thực hiện được các nhiệm vụ nghiên cứu để xác định được đặc điểm về
lực ma sát : điểm đặt, phương, chiều của lực ma sát; đưa ra được các dự đoán về độ
lớn của lực ma sát, xây dựng được phương án thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm
để rút ra được các nhận xét.
Nội dung hoạt động :
-Học sinh làm việc theo nhóm, đọc sách giáo khoa để xác định các đặc điểm về
điểm đặt, phương, chiều của lực ma sát nghỉ và lực ma sát trượt.
-Học sinh làm việc theo nhóm để xây dựng phương án thực hành và thực hiện thí
nghiệm để tìm hiểu về độ lớn lực ma sát trượt và ma sát nghỉ.
Nhóm thảo luận để thực hiện kiểm tra dự đoán và hoàn thành nhiệm vụ học tập
theo các bước sau :
Bước 1 : Nội dung giả thiết cần kiểm tra.
Bước 2: Hệ quả được rút ra để kiểm tra.
Bước 3: Thiết kế các dụng cụ và vẽ hình cách bố trí thí nghiệm.
Bước 4: Kế hoạch thực hiện thí nghiệm.
Bước 5: Tiến hành thí nghiệm và ghi lại các kết quả quan sát được.
Bước 6: Nhận xét.
-Các nhóm báo cáo kết quả làm việc , trao đổi để rút ra nhận xét chung về đặc điểm

của lực ma sát nghỉ và lực ma sát trượt.
b) Gợi ý tổ chức hoạt động :
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa, thảo luận nhóm để tìm ra đặc
điểm về điểm đặt , phương ,chiều của lực ma sát nghỉ và trượt.
- Yêu cầu các nhóm thực hiện nhiệm vụ học tập để xây dựng phương án thí
nghiệm.
- Giáo viên phát dụng cụ cho các nhóm và hỗ trợ các nhóm lắp ráp và thực hiện thí
nghiệm khảo sát bằng phương pháp kéo đều trên mặt phẳng nằm ngang.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi chép số liệu thí nghiệm và thảo luận nhóm để
rút ra các nhận xét.
- Tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả và thảo luận về các đặc điểm của lực ma
sát .
- Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm để hoàn thành nhiệm vụ học tập.
- Giáo viên đánh giá kết quả hoạt động để làm cơ sở đánh giá học sinh.
- Giáo viên tổng kết, chuẩn hóa kiến thức về đặc điểm lực ma sát.
2.3. Luyện tập : Hệ thống hóa kiến thức và giải bài tập.
a) Mục tiêu hoạt động :
Hệ thống hóa kiến thức và vận dụng bài tập cơ bản về lực ma sát.
Nội dung hoạt động.
Học sinh làm việc nhóm, tóm tắt kiến thức về lực ma sát : có thể dùng bản đồ tư
duy hoặc dùng bảng để trình bày.
Vận dụng kiến thức để giải thích một số hiện tượng và giải bài tập số 8 SGK
b) Gợi ý tổ chức hoạt động :

7


- Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc nhóm, tóm tắt các kiến thức về lực ma sát để
trình bày. Gợi ý học sinh dùng bản đồ tư duy hoặc bảng để trình bày nhưng không
bắt buộc.

- Nhóm học sinh thực hiện nhiệm vụ tổng kết kiến thức.
- Học sinh giới thiệu sản phẩm của nhóm trước lớp và thảo luận.
- Yêu cầu cả lớp giải nhanh bài tập 8 sách giáo khoa.
3. Vận dụng, tìm tòi, mở rộng : Tìm hiểu vai trò của lực ma sát đối với đời sống.
a) Mục tiêu :
- Học sinh tìm hiểu được vai trò của lực ma sát đối với từng lĩnh vực của đời sống ;
xây dựng các khuyến cáo cho việc ứng dụng kiến thức về ma sát trong những lĩnh
vực nhất định (sinh hoạt , kĩ thuật, giao thông…)
Nội dung hoạt động :
-Tìm hiểu vai trò của lực ma sát trong đời sống. Lấy ví dụ về sự có lợi và có hại
của lực ma sát.
-Tìm hiểu về ứng dụng những kiến thức về lực ma sát trong đời sống, trong kĩ
thuật, trong giao thông.
-Xây dựng các khuyến cáo cho việc sử dụng hợp lí các phương tiện , thiết bị có sử
dụng ma sát.
-Báo cáo kết quả trước lớp.
2.3.2.Giải thích một số hiện tượng liên quan đến lực ma sát trong thực tế
Câu 1 : Lực ma sát góp phần giúp các đội chiến thắng trong thi kéo co.
Thi kéo co là thi cái gì ? Rất nhiều người sẽ nói là : Tất nhiên là thi xem sức lực
đội nào lớn hơn đấy thôi. Trên thực tế thì không đơn giản như vậy.
Xét từ nguyên lý cơ học , hai đội tham gia kéo co, lực kéo giữa hai đội không
hơn kém là bao nhiêu. Theo định luật 3 Niutơn thì khi A tác dụng lên B một lực thì
ngược lại B cũng tác dụng lên A một lực , hai lực này cùng phương, ngược chiều và
cùng độ lớn. Có thể thấy là lực kéo giữa hai bên không phải là nhân tố quyết định
thắng thua. Vậy cái gì mới là nhân tố quyết định chiến thắng ?
+ Một là, tay nhất định phải giữ chặt dây thừng, dựa vào lực ma sát giữa tay và
dây thừng để ngăn không cho dây tuột khỏi tay.
+ Hai là, phải làm tăng sự ma sát giữa mặt đất và chân của những người kéo co
để chống lại lực kéo của đối phương.
Có thể nói, chỉ cần tay nắm chặt dây thừng, lực thực sự khi kéo co đến từ chân

của người, tức là lực ma sát giữa bàn chân và mặt đất. Làm sao để tăng lực ma sát
đó lên? Trước hết, đi loại giày dưới đế có hoa văn lồi lõm có thể làm gia tăng ma
sát. Thêm nữa , trọng lượng cơ thể người kéo co càng nặng thì áp lực lên mặt đất
càng lớn, lực ma sát cũng sẽ tăng lên. Người lớn và trẻ con kéo co, người lớn thắng
dễ dàng, mấu chốt là ở chỗ người lớn có trọng lượng lớn hơn trẻ con.

8


Tuy nhiên, trong cuộc thi kéo co thực tế, việc thắng thua phụ thuộc rất lớn vào
mức độ kĩ xảo của người tham gia.Ví dụ như : Chân cố sức giẫm xuống đất thì
trong thời gian ngắn có thể sinh ra áp lực đối với mặt đất vượt quá trọng lượng cơ
thể mình. Hoặc ngửa người ra phía sau, dựa vào lực kéo của đối phương để tăng áp
lực đối với mặt đất…Mục đích đều là tìm mọi cách làm tăng lực ma sát của mặt đất
đối với bàn chân để giành thắng lợi của cuộc thi.
Câu 2 : Vì sao màu sắc của hai mặt vợt bóng bàn lại khác nhau?
Trong bóng bàn, ngoài kĩ thuật cầm vợt của vận động viên có tính quyết định ra
thì tác dụng của cái vợt cũng rất quan trọng. Đối với vận động viên bóng bàn, cái
vợt cũng giống như vũ khí của người chiến sĩ.
Theo đà phát triển không ngừng của phong trào bóng bàn thế giới, các lối đánh
và kĩ thuật cũng đang được sáng tạo không ngừng, các chủng loại vợt bóng bàn
cũng ngày một nhiều lên.
Thuở ban đầu, đánh bóng bàn đều dùng vợt gỗ. Vợt làm bằng gỗ thiếu lực đàn
hồi và lực ma sát, tốc độ đánh bóng rất chậm, chỉ là đẩy qua đẩy lại, khi ngẫu nhiên
thấy bóng lên cao thì vụt mạnh một cái.
Về sau xuất hiện vợt cao su. Trên mặt cao su phân bổ đầy những hạt nhỏ nhỏ,
mềm mềm. Khi vợt tiếp xúc với bóng, không phải chỉ có một điểm tiếp xúc như vợt
gỗ, mà là một mặt cong. Điều đó mở rộng diện tích tiếp xúc giữa vợt và bóng, làm
tăng lực ma sát đối với bóng. Khi vụt bóng, có thể làm cho bóng bị xoáy, bay theo
đường cánh cung, nâng cao kĩ thuật đánh bóng.

Năm 1952, sự xuất hiện của vợt xốp đã làm cho kĩ thuật đánh bóng phát triển
thêm một bước. Vì bọt xốp rất mềm mại, bên trong chứa đầy lỗ khí nhỏ xíu nên có
tính đàn hồi rất cao. Khi vụt bóng, quả bóng tiếp xúc với bọt xốp, dưới tác dụng
của lực đàn hồi, tốc độ ra bóng nhanh hơn, lực mạnh hơn. Song, vợt đơn thuần
dùng bọt xốp, do lực ma sát không đủ, khó khống chế tính chuẩn xác của bóng và
khó sinh ra bóng xoáy. Thế là có người nghĩ ra một cách làm hay : dán một màng
cao su có hạt rải đều không dày quá 2mm lên trên lớp bọt xốp, lại vừa có tính bám
dính điều khiển bóng của cao su.
Việc dán cao su lên mặt xốp cũng đáng được chú ý. Có cái dán thuận (hạt cao
su ở ngoài), có cái dán nghịch (hạt cao su ở trong). Điều đó liên quan tới đặc tính
vật lý của hai loại vợt khác nhau, cùng với yêu cầu khác nhau của vận động viên về
vợt.
Ví dụ như : Vận động viên chơi kiểu tấn công nhanh thì chọn loại vợt dán
thuận kết hợp với bọt xốp. Vì lực phản đàn hồi của vợt dán thuận mạnh hơn vợt dán
ngược, hạt của nó nằm ở ngoài, mặt tiếp xúc của cao su với bóng nhỏ, thời gian
dừng lại ngắn, tốc độ ra bóng nhanh, có lợi cho việc tăng nhanh tốc độ tấn công và
sức mạnh của vận động viên.

9


Còn vợt cao su dán ngược kết hợp với bọt xốp thì càng thích hợp cho việc
đánh bóng theo đường vòng cung và cắt bóng của vận động viên. Bóng đường vòng
cung xoáy lên trên, cắt bóng xoáy xuống dưới. Hai lối đánh này đều nhấn mạnh vào
việc phát huy bóng xoáy. Cao su dán ngược thì các hạt ở bên trong, bề mặt của nó
rất có tính bám dính. Khi đánh bóng, diện tích tiếp xúc giữa mặt vợt và bóng lớn,
lực ma sát sinh ra đối với bóng cũng khá lớn, càng có lợi cho đặc điểm phát huy
bóng xoáy. Đồng thời, vì giữa mặt cao su và lớp bọt xốp có thêm một lớp hạt cao
su, giữa các hạt này có nhiều khe trống, khi vợt tiếp xúc với bóng thì vợt bị lõm vào
trong càng nhiều, diện tích tiếp xúc giữa vợt và bóng càng lớn, lực ma sát tăng lên

và vận động viên có điều kiện để tạo bóng xoáy nhiều hơn.
Trên chiếc vợt bóng bàn nho nhỏ mà có bao điều để khám phá, học hỏi. Tuy
nhiên tại sao hai mặt vợt lại có hai màu khác nhau? Đó là do có vận động viên sử
dụng loại vợt một phía dán thuận, một phía dán ngược, khi thi đấu liên tục thay đổi
mặt vợt thuận nghịch làm cho đối phương rất khó quan sát đường bóng của mình.
Để cho thi đấu bóng bàn ngày càng có tính thưởng thức hơn, Hội liên hiệp
bóng bàn quốc tế, trong qui tắc mới có nêu ra một loạt các qui định có tính chất hạn
chế về độ dày của bọt xốp và hạt cao su trên mặt vợt, về độ dày của cao su…, trong
đó có một qui định là cao su dán thuận và dán ngược ở hai mặt vợt phải có màu sắc
khác nhau.

10


Câu 3 : Tại sao công nhân làm việc ở kho xăng không được mặc quần áo sợi
nilong hoặc sợi tổng hợp ?
Chúng ta mặc áo len suốt ngày không ngừng vận động , làm cho giữa áo len
với áo sơ mi, giữa sơ mi với lớp da không ngừng ma sát. Ma sát lại làm cho quần
áo và thân thể chúng ta mang điện tích. Đến khi cới áo len thì một số điện tích
dương và điện tích âm lại trung hòa sinh ra hiện tượng phóng điện. Thế là chúng ta
nghe tiếng “rẹt, rẹt” và nhìn thấy hoa lửa điện chớp chớp. Như vậy đã có hiện
tượng ma sát sinh điện và ở đây là tĩnh điện. Tuy dòng điện sinh ra khi tĩnh điện
trên cơ thể phóng điện không tổn hại gì đối với cơ thể chúng ta, song nó lại có thể
gây nên hậu quả nghiêm trọng khác. Tia lửa điện do phóng điện sinh ra có thể làm
xăng bốc cháy dẫn tới nổ. Vì vậy, nhân viên công tác ở kho xăng không được mặc
quần áo sợi nilông hoặc sợi terylen ( sợi tổng hợp của Anh) . Ngoài ra, các xe xitec
vận chuyển xăng đều phải kéo lê một “cái đuôi” dây xích sắt dài phía sau. “Cái
đuôi” đó dùng để truyền kịp thời tĩnh điện tích lũy trên xe xuống mặt đất.
Câu 4 : Khi đi trên sàn gỗ, sàn đá hoa mới lau dễ bị ngã
Khi đi trên sàn gỗ chúng ta sẽ khó bị ngã vì mặt sàn gỗ khá gồ ghề nên giày,

dép có rãnh đang đi trên mặt sàn gỗ lực ma sát trượt sẽ xuất hiện và giúp cho giày,
dép bám vào các chỗ gồ ghề đó.
Khi đi trên sàn đá hoa cương thì sẽ rất dễ ngã vì mặt sàn đá hoa cương không
gồ ghề nên khi mới lau, ma sát trượt giữa mặt sàn đá hoa cương và giày dép sẽ bị
giảm đi vì thế nên di chuyển trên sàn đá hoa cương mới lau xong là một trong
những cách khiến ta bị ngã và rất dễ bị đập đầu xuống đất, nhất là khi giày dép đã
bị mòn.
Câu 5 : Khía rãnh ở mặt lốp xe ôtô vận tải phải có độ sâu trên 1,6cm
Các khía cạnh ở lốp xe ôtô vận tải phải có độ sâu trên 1,6cm để khi ôtô chạy trên
đường, ma sát lăn sẽ xuất hiện giúp cho lốp bánh xe bám vào mặt đường và di
chuyển dễ dàng hơn.
Câu 6 : Giày đi lâu ngày thì bị mòn đế
Khi chúng ta bước đi thì ma sát trượt sẽ xuất hiện và lâu lâu các bạn cũng vừa đi
vừa trượt giày thì tất nhiên là nó sẽ làm mòn đế giày.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục của bản
thân :
Tôi đã áp dụng sáng kiến để giảng dạy lớp 10C4 và so sánh với lớp không
11


áp dụng sáng kiến là lớp 10C5 ở học kì 1 năm học 2018-2019 và kết quả đạt
được như sau :

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém

Lớp 10C4: Sĩ số 43 học sinh
( Lớp áp dụng sáng kiến kinh

nghiệm)
Số học sinh
Tỷ lệ %
28
65,12%
13
30,23%
02
4,65%
0
0

Lớp 10C5 : Sĩ số 40 học sinh
( Lớp không áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm)
Số học sinh
Tỷ lệ %
03
7,5%
28
70%
09
22,5%
0
0

Nhận thấy , lớp 10C4 có kết quả điểm trội hơn lớp 10C5 và có nhiều em được điểm
giỏi hơn.
Như vậy bước đầu thì sáng kiến kinh nghiệm đã phát huy tác dụng ở khối lớp 10.
Trong thực tế lực ma sát tồn tại trong rất nhiều các hiện tượng từ vi mô đến vĩ

mô, từ cấp độ phân tử đến các vật chất to lớn và trong tất cả các phần kiến thức từ
lớp 10 đến lớp 12. Chính vì vậy để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm một cách có
hiệu quả tôi sẽ cố gắng phát huy tác dụng của sáng kiến trong giảng dạy ở lớp 11
và 12 .

12


3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu, đề tài của tôi đã đạt được một số kết quả sau :
- Đã nêu được những hiểu biết chung về lực ma sát.
- Đã làm sáng tỏ được bản chất lực ma sát trượt.
- Qua hoạt động sư phạm thực tế tại các lớp được phân công giảng dạy đã
kiểm tra được khả năng tiếp thu của học sinh sau khi được cung cấp thêm
kiến thức mở rộng về lực ma sát trượt mà ở chương trình phổ thông các em
chưa được làm quen.
2.Đề xuất, kiến nghị
Trong quá trình học tập môn vật lý, biết và hiểu được bản chất của các hiện
tượng là vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết nên tôi mạnh dạn đưa ra một số đề
xuất sau :
- Trong quá trình giảng dạy, tùy thuộc vào trình độ của người học ở các cấp
học khác nhau mà giáo viên tìm cách để giúp người học tránh mắc phải một
số cách hiểu sai lầm trong thực tế.
- Tăng cường đưa vào chương trình phổ thông nhiều bài tập định tính thực tế
và nhiều bài toán ngược hơn nữa.
- Mở rộng mô hình thực hiện các sáng kiến ở cấp trường để nâng cao chất
lượng dạy học và tích lũy kinh nghiệm để mở rộng thêm đề tài nếu thấy có
hiệu quả cao.


13


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 20 tháng 4 năm 2019
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của mình,
không sao chép nội dung của người khác.
Tác giả

Hà Thị Oanh

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tô Xuân Giáp, Phương tiện dạy học, Nhà xuất bản giáo dục 1998
2. Lê Phước Lộc và nhiều tác giả, lý luận dạy học, Trường Đại học Cần Thơ,
2002.
3. Lê Phước Lộc và nhiều tác giả, Lý luận dạy học vật lý, Trường Đại học Cần
Thơ , 2004.
4. Phạm Thị Năm và nhiều tác giả, Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm,
Trường Đại học Cần Thơ, 2001.
5. Nguyễn Đức Thâm, Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh trong dạy học
vật lý ở trường phổ thông, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 1999.
6. Bộ câu hỏi “ Mười vạn câu hỏi vì sao – Vật lý” , Mạng Internet.

15




×