Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

ĐÁP ÁN CUỘC THI TÌM HIỂU PHÁP LUẬT GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỈNH ĐIỆN BIÊN NĂM 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.82 KB, 10 trang )

ĐÁP ÁN
CUỘC THI TÌM HIỂU LUẬT GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRONG ĐOÀN
VIÊN THANH NIÊN TỈNH ĐIỆN BIÊN, NĂM 2019
Câu 1:
* Hoạt động giao thông đường bộ phải đảm bảo những nguyên tắc
Theo quy định tại Điều 4 Luật giao thông đường bộ năm 2008, những
nguyên tắc trong hoạt động giao thông đường bộ bao gồm:
Thứ nhất: Hoạt động giao thông đường bộ phải bảo đảm thông suốt, trật tự,
an toàn, hiệu quả; góp phần phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh và bảo vệ môi trường.
Thứ hai: Phát triển giao thông đường bộ phải gắn với quy hoạch, từng bước
hiện đại và đồng bộ; gắn kết phương thức vận tải đường bộ với các phương thức
vận tải khác như vận tải đường thủy, đường sắt…
Thứ ba: Quản lý hoạt động giao thông đường bộ được thực hiện thống nhất
trên cơ sở phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn cụ thể, đồng thời có sự phối
hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp.
Thứ tư: Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ là trách nhiệm không
chỉ của các cơ quan mà còn là của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Thứ năm: Người tham gia giao thông đường bộ phải có ý thức tự giác,
nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông, giữ gìn an toàn cho mình và cho người
khác. Chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc bảo đảm an toàn của phương tiện tham gia giao thông
đường bộ./.
Thứ sáu: Mọi hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ phải được phát
hiện, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Theo đó, tuỳ theo tính
chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra, chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật giao
thông đường bộ có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
và nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật./.
* Căn cứ theo quy định tại Điều 8, Luật Giao thông đường bộ năm 2008, các
hành vi bị nghiêm cấm bao gồm:
1. Phá hoại đường, cầu, hầm, bến phà đường bộ, đèn tín hiệu, cọc tiêu, biển báo


hiệu, gương cầu, dải phân cách, hệ thống thoát nước và các công trình, thiết bị khác
thuộc kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.


2. Đào, khoan, xẻ đường trái phép; đặt, để chướng ngại vật trái phép trên đường;
đặt, rải vật nhọn, đổ chất gây trơn trên đường; để trái phép vật liệu, phế thải, thải
rác ra đường; mở đường, đấu nối trái phép vào đường chính; lấn, chiếm hoặc sử
dụng trái phép đất của đường bộ, hành lang an toàn đường bộ; tự ý tháo mở nắp
cống, tháo dỡ, di chuyển trái phép hoặc làm sai lệch công trình đường bộ.
3. Sử dụng lòng đường, lề đường, hè phố trái phép.
4. Đưa xe cơ giới, xe máy chuyên dùng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật
và bảo vệ môi trường tham gia giao thông đường bộ.
5. Thay đổi tổng thành, linh kiện, phụ kiện xe cơ giới để tạm thời đạt tiêu chuẩn kỹ
thuật của xe khi đi kiểm định.
6. Đua xe, cổ vũ đua xe, tổ chức đua xe trái phép, lạng lách, đánh võng.
7. Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy.
8. Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu
hoặc hơi thở có nồng độ cồn.
Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50
miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.
9. Điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định.
Điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ không có chứng chỉ
bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ, bằng hoặc chứng chỉ điều
khiển xe máy chuyên dùng.
10. Giao xe cơ giới, xe máy chuyên dùng cho người không đủ điều kiện để điều
khiển xe tham gia giao thông đường bộ.
11. Điều khiển xe cơ giới chạy quá tốc độ quy định, giành đường, vượt ẩu.
12. Bấm còi, rú ga liên tục; bấm còi trong thời gian từ 22 giờ đến 5 giờ, bấm còi
hơi, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị và khu đông dân cư, trừ các xe được quyền
ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định của Luật này.

13. Lắp đặt, sử dụng còi, đèn không đúng thiết kế của nhà sản xuất đối với từng
loại xe cơ giới; sử dụng thiết bị âm thanh gây mất trật tự an toàn giao thông, trật tự
công cộng.
14. Vận chuyển hàng cấm lưu thông, vận chuyển trái phép hoặc không thực hiện
đầy đủ các quy định về vận chuyển hàng nguy hiểm, động vật hoang dã.
15. Đe dọa, xúc phạm, tranh giành, lôi kéo hành khách; bắt ép hành khách sử dụng
dịch vụ ngoài ý muốn; chuyển tải, xuống khách hoặc các hành vi khác nhằm trốn
tránh phát hiện xe chở quá tải, quá số người quy định.
16. Kinh doanh vận tải bằng xe ô tô khi không đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh
theo quy định.
17. Bỏ trốn sau khi gây tai nạn để trốn tránh trách nhiệm.
18. Khi có điều kiện mà cố ý không cứu giúp người bị tai nạn giao thông.
19. Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người bị nạn và người gây tai nạn.
20. Lợi dụng việc xảy ra tai nạn giao thông để hành hung, đe dọa, xúi giục, gây sức
ép, làm mất trật tự, cản trở việc xử lý tai nạn giao thông.


21. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp của bản thân hoặc người khác để vi
phạm pháp luật về giao thông đường bộ.
22. Sản xuất, sử dụng trái phép hoặc mua, bán biển số xe cơ giới, xe máy chuyên
dùng.
23. Hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác gây nguy hiểm cho
người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ".
Câu 2: Các quy định của pháp luật hiện nay đối với hành vi sử dụng rượu bia khi
tham gia giao thông được quy định trong nhưng văn bản: (hỏi thêm cảnh sát giao
thông)
- Căn cứ quy định của luật giao thông đường bộ năm 2008
- Căn cứ theo Nghị định 46/2016/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính giao
thông đường bộ đường sắt, các mức phạt liên quan đến hành vi vi phạm nồng độ
cồn "lái xe khi đã uống rượu, bia" như sau:

1. Mức phạt nồng độ cồn với xe máy
- Phạt tiền từ 1.000.000 - 2.000.000 đồng với người điều khiển, người ngồi trên xe
mô tô, xe gắn máy (kể cả phương tiện là xe máy điện), các loại xe tương tự như xe
môtô, xe gắn máy trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá
50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4
miligam/1 lít khí thở. Tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 1-3 tháng.
- Phạt tiền 3.000.000-4.000.000 đồng với người điều khiển xe không chấp hành yêu
cầu kiểm tra của người thi hành công vụ về ma túy, nồng độ cồn; hoặc điều khiển
xe ô tô tham gia giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80
miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở. Ngoài ra, người
điều khiển xe còn bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe 3-5 tháng.
2. Mức phạt nồng độ cồn đối với ô tô và các phương tiện giống ô tô
- Phạt tiền từ 2.000.000 - 3.000.000 đồng đối với người điều khiển xe ô tô trên
đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50
miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở. Bị tước
quyền sử dụng Giấy phép lái xe 1-3 tháng.
- Phạt tiền từ 7.000.000 - 8.000.000 đồng đối với người điều khiển ô tô trên đường
mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80
miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở.
Bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe 3-5 tháng.
- Phạt tiền từ 16.000.000 - 18.000.000 đồng đối với người điều khiển ô tô trên
đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít
máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở; hoặc không chấp hành yêu cầu kiểm
tra của người thi hành công vụ về nồng độ cồn. Và bị tước quyền sử dụng Giấy
phép lái xe 4-6 tháng.


* Nêu quan điểm cá nhân của bạn về mức xử phạt đối với hành vi sử dụng rượu bia
khi tham gia giao thông hiện nay
Câu 3:

* Những quy tắc khi dừng đỗ xe
Theo quy định tại khoản 1 điều 18 luật giao thông đường bộ 2008 có quy
định về dừng, đỗ xe như sau:
Dừng xe là trạng thái đứng yên tạm thời của phương tiện giao thông trong
một khoảng thời gian cần thiết đủ để cho người lên, xuống phương tiện, xếp dỡ
hàng hóa hoặc thực hiện công việc khác.
Mặt khác khi dừng xe người điều khiển phương tiện giao thông phải tuân thủ quy
định tại khoản 3, 4 điều 18 Luật giao thông đường bộ như sau như:
- Có tín hiệu báo cho người điều khiển phương tiện khác biết.
- Cho xe dừng, đỗ ở nơi có lề đường rộng hoặc khu đất ở bên ngoài phần đường xe
chạy; trường hợp lề đường hẹp hoặc không có lề đường thì phải cho xe dừng, đỗ sát
mép đường phía bên phải theo chiều đi của mình.
Trường hợp trên đường đã xây dựng nơi dừng xe, đỗ xe hoặc quy định các điểm
dừng xe, đỗ xe thì phải dừng, đỗ xe tại các vị trí đó.
- Sau khi đỗ xe, chỉ được rời khỏi xe khi đã thực hiện các biện pháp an toàn; nếu xe
đỗ chiếm một phần đường xe chạy phải đặt ngay biển báo hiệu nguy hiểm ở phía
trước và phía sau xe để người điều khiển phương tiện khác biết;
- Không mở cửa xe, để cửa xe mở hoặc bước xuống xe khi chưa bảo đảm điều kiện
an toàn;
- Khi dừng xe, không được tắt máy và không được rời khỏi vị trí lái.
- Xe đỗ trên đoạn đường dốc phải được chèn bánh.
Người điều khiển phương tiện không được dừng xe, đỗ xe tại các vị trí sau đây:
- Bên trái đường một chiều.
- Trên các đoạn đường cong và gần đầu dốc tầm nhìn bị che khuất.
- Trên cầu, gầm cầu vượt.


- Song song với một xe khác đang dừng, đỗ.
- Trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường.
- Nơi đường giao nhau và trong phạm vi 5 mét tính từ mép đường giao nhau.

- Nơi dừng của xe buýt.
- Trước cổng và trong phạm vi 5 mét hai bên cổng trụ sở cơ quan, tổ chức.
- Tại nơi phần đường có bề rộng chỉ đủ cho một làn xe.
- Trong phạm vi an toàn của đường sắt.
- Che khuất biển báo hiệu đường bộ.
Ngoài ra, người điều khiển phương tiện giao thông còn phải tuân thủ quy định tại
điều 19 Luật giao thông đường bộ khi dừng, đỗ xe trên đường bộ như sau:
- Phải cho xe dừng, đỗ sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi của
mình; bánh xe gần nhất không được cách xa lề đường, hè phố quá 0,25 mét và
không gây cản trở, nguy hiểm cho giao thông. Trường hợp đường phố hẹp, phải
dừng xe, đỗ xe ở vị trí cách ôtô đang đỗ bên kia đường tối thiểu 20 mét.
- Không được dừng xe, đỗ xe trên đường xe điện, trên miệng cống thoát nước,
miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy
lấy nước. Không được để phương tiện giao thông ở lòng đường, hè phố trái quy
định.
Như vậy, nếu người điều khiển phương tiện giao thông vi phạm một trong các quy
định giao thông đường bộ nêu trên thì bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định
tại Nghị định 46/2016/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ và đường sắt.
* Các mức xử phạt theo nghị định 46/2016
Theo Nghị định 46/2016/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ (có hiệu lực từ ngày 1/8/2016) , nếu vi phạm các lỗi dừng , đỗ
xe sai quy định , lái xe sẽ bị xử phạt mức cao nhất lên tới 1 ,2 triệu đồng và bị tước
giấy phép lái xe nếu gây ra tai nạn giao thông.
Khung phạt từ 300.000 – 400.000 đồng
- Dừng, đỗ ngược với chiều lưu thông của làn đường.


- Dừng đỗ xe trên miệng cống thoát nước.
- Dững đỗ xe trên làn ưu tiên cho người đi bộ.

- Dừng ở nơi có biển báo cấm đỗ dừng.
- Dừng trên đường dành riêng cho xe buyt.
- Dừng không sát lề đường, hè phố theo chiều đi
- Sử dụng thiết bị phát tín hiệu ưu tiên không giấy phép.
- Đỗ trên dốc nhưng không chèn bánh.
Khung phạt từ 600 000 đến 800000 đồng.
- Dừng đỗ trong phạm vi an toàn của đường sắt.
- Dừng đỗ trên cầu gầm cầu vượt.
- Dừng đỗ che khuất biển báo.
- Dừng đỗ bên trái đường một chiều hoặc đoạn đường cong.
- Dừng đón tại điểm dừng đón trả khách của xe buyt.
- Dừng đỗ song song với xe khác.
Khung phạt từ 800000 – 1200000 đồng
- Dừng đỗ xe trái quy định gây ùn tắc giao thông.
- Quay đầu xe trái gây ùn tắc giao thông.
Hình phạt bổ sung tước giấy phép lái xe từ 2 -4 tháng với tất cả các lỗi vi
phạm trên gây tai nạn giao thông.
Câu 4:
* Để điều khiển chiếc xe MÔ TÔ DUNG TÍCH XI LANH 49 cm3 tham gia
giao thông đường bộ đúng luật Sơn cần đảm bảo những điều kiện:
- Đủ tuổi theo quy định (bạn Sơn trong trường hợp này đã vào lớp 10 đồng
nghĩa với việc bạn đã đủ 16 tuổi để điều khiển chiếc xe có dung tích xi lanh 49
cm3)
- Có đủ sức khỏe.
- Có đủ giấy phép lái xe, giấy đăng kí xe, đội mũ bảo hiểm khi tham ra giao
thông.
* Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định về điều kiện của người lái xe
tham gia giao thông đường bộ



Điều 58. Điều kiện của người lái xe tham gia giao thông
1. Người lái xe tham gia giao thông phải đủ độ tuổi, sức khoẻ quy định tại Điều 60
của Luật này và có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp.
Người tập lái xe ô tô khi tham gia giao thông phải thực hành trên xe tập lái và có
giáo viên bảo trợ tay lái.
2. Người lái xe khi điều khiển phương tiện phải mang theo các giấy tờ sau:
a) Đăng ký xe;
b) Giấy phép lái xe đối với người điều khiển xe cơ giới quy định tại Điều 59 của
Luật này;
c) Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ
giới quy định tại Điều 55 của Luật này;
d) Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Điều 60. Tuổi, sức khỏe của người lái xe
1. Độ tuổi của người lái xe quy định như sau:
a) Người đủ 16 tuổi trở lên được lái xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50 cm3;
b) Người đủ 18 tuổi trở lên được lái xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung
tích xi-lanh từ 50 cm3 trở lên và các loại xe có kết cấu tương tự; xe ô tô tải, máy
kéo có trọng tải dưới 3.500 kg; xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi;
c) Người đủ 21 tuổi trở lên được lái xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải từ 3.500 kg trở
lên; lái xe hạng B2 kéo rơ moóc (FB2);
d) Người đủ 24 tuổi trở lên được lái xe ô tô chở người từ 10 đến 30 chỗ ngồi; lái xe
hạng C kéo rơ moóc, sơ mi rơ moóc (FC);
đ) Người đủ 27 tuổi trở lên được lái xe ô tô chở người trên 30 chỗ ngồi; lái xe hạng
D kéo rơ moóc (FD);
e) Tuổi tối đa của người lái xe ô tô chở người trên 30 chỗ ngồi là 50 tuổi đối với nữ
và 55 tuổi đối với nam.
2. Người lái xe phải có sức khỏe phù hợp với loại xe, công dụng của xe. Bộ trưởng
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về tiêu
chuẩn sức khỏe của người lái xe, việc khám sức khỏe định kỳ đối với người lái xe ô

tô và quy định về cơ sở y tế khám sức khoẻ của người lái xe.
Câu 5: Hành vi sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông là hành vi xấu, gây ảnh
hưởng tới họat động giao thông và an toàn của người tham gia giao thông
- Tình hình sử dụng rượu, bia ở Việt Nam


Về mặt khoa học rượu là một dung dịch gồm nước và cồn (trong đó cồn chiếm từ
1% đến 50% tính theo thể tích), ngoài các thành phần chính trên rượu còn chứa một
lượng nhỏ các chất riêng biệt của mỗi nhà sản xuất nhằm tạo nên mỗi loại rượu một
màu sắc, một hương vị đặc thù riêng. Như vậy, thành phần chính và cũng là tác
nhân chính gây ra hậu quả tai hại của rượu là cồn Ethylic. Trong vòng một giờ uống
vào cơ thể, rượu được hấp thu toàn bộ với 80% tại ruột non và số còn lại ở dạ dày.
Có 75% cồn ở trong máu đến não, làm giãn mạch máu não và tăng khối lượng não
tạo ra giai đoạn đầu là kích thích khiến người sử dụng nói nhiều và tất cả suy
nghĩ, hành vi trở nên hỗn loạn, mất kiểm soát.
Những người thường xuyên uống rượu còn gây tai nạn lao động, tai nạn giao
thông nhiều gấp 3 lần so với những người không nghiện rượu do “trung ương thần
kinh đi lạc đường”. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 1/3 tổng số các tai nạn chết
người xảy ra trong lúc say rượu. Một tạp chí y học ở Pháp còn cho rằng rượu là
nguyên nhân của vô số vụ phạm pháp (90% hỏa hoạn cố ý, 35% tội phạm, 95% vi
phạm pháp luật, 85% trường hợp bị thương và đánh nhau, 53% vụ vi phạm đạo đức
xã hội…). Trong bệnh viện, 30% bệnh nhân nhập viện vì rối loạn tâm thần là người
nghiện rượu.
Báo cáo toàn cầu của WHO về thực trạng sử dụng rượu bia và sức khỏe năm
2011 còn cho rằng Việt Nam là một trong số ít các quốc gia có xu hướng gia tăng
nhanh về mức độ tiêu thụ bình quân rượu bia/người/năm. Sản xuất rượu bia ở Việt
Nam ước tính tăng 15%/năm. Sản lượng bia năm 2010 đạt 2,3 tỷ lít/năm, dự kiến
đạt 4 tỷ lít/năm vào năm 2015. Còn rượu mỗi năm khoảng 350 triệu lít. Năm 2006,
tỷ lệ bình quân uống bia là 18 lít/người. Đến năm 2010, đã tăng nhanh lên 29
lít/người. Không những vậy, theo Tổ chức nghiên cứu thị trường Eurowatch, năm

2012 Việt Nam đã tiêu thụ 3 tỉ lít bia, gấp 3,5 lần so với năm 2004: "lượng bia sử
dụng trung bình/người/năm là 32 lít, xếp thứ nhất khu vực ASEAN và thứ ba châu
Á và Việt Nam được xếp là 1 trong số 25 quốc gia đứng đầu trong danh sách có
mức tiêu thụ bia gia tăng nhiều nhất". Nếu chỉ tính trung bình 22.000 đồng/ lít bia
lấy theo giá bia Hà Nội, thì người Việt Nam đã tiêu 3 tỉ USD/năm. Trong khi thu
nhập bình quân của người Việt chỉ đứng 8/11 nước trong khu vực Đông Nam Á, thì
lại đang nắm giữ vị trí quán quân về kỷ lục tiêu thụ bia, vượt xa so với hai nước
đứng ở vị trí tiếp theo là Thái Lan và Philippines. Hiện Việt Nam được xếp là 1
trong số 25 quốc gia đứng đầu trong danh sách có mức tiêu thụ bia gia tăng nhiều
nhất (Nigeria tăng 17,2%, Ấn Độ tăng 17%, Brazil tăng 16% và VN tăng 15%).
- Ảnh hưởng của rượu, bia với an toàn giao thông
Đã có rất nhiều các vụ tai nạn giao thông hiện nay ở Việt Nam có liên quan
đến rượu bia. Như trên đã phân tích, rượu, bia tác động tới hệ thần kinh trung
ương, kích thích tâm lý và gây cảm giác buồn ngủ, mệt mỏi. Nó làm cho thời gian
phản ứng của lái xe chậm lại, quá trình suy nghĩ của họ thiếu sáng suốt, giảm khả
năng tập trung khi lái xe và còn gây tác dụng phụ như mờ mắt và nặng tai... làm gia
tăng nguy cơ mất an toàn giao thông.


Một khái niệm được dùng thống nhất tại tất cả quốc gia trên thế giới là chỉ số
BAC (blood alcohol concentration - nồng độ rượu trong máu). Nồng độ rượu trong
máu là một cách đo lượng rượu trong cơ thể, nghĩa là bao nhiêu gram rượu nguyên
chất trong mỗi 100ml máu. Ngoài ra, lượng rượu trong máu của người điều khiển
phương tiện còn được đo bằng một thủ tục đơn giản là kiểm tra hơi thở. Con số
trung bình của mọi nơi trên thế giới cho phép là 0,05gm và kể từ đó trở lên là có thể
bị phạt nặng. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại quy định hình thức và mức độ xử phạt
khác nhau.
Luật giao thông đường bộ Việt Nam năm 2008 nghiêm cấm: “Điều khiển xe ô
tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng
độ cồn. Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá

50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở”. Nghị định
46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 quy định mức xử phạt vi phạm hành chính đối với
người điều khiển ô tô (Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có
nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá
0,25 miligam/1 lít khí thở; Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có
nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá
0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở; Điều khiển xe trên đường mà trong
máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt
quá 0,4 miligam/1 lít khí thở) và người điều khiển xe mô tô (Điều khiển xe trên
đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80
miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở;
Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80
miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở).
Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy ngay cả khi nồng độ công trong máu
(BAC) của người điều khiển phương tiện giao thông chỉ có từ 0,2 đến 0,4 mg/ml
cũng có khả năng bị sảy ra tai nạn gấp 1,4 lần những người hoàn toàn không uống.
Những người điều khiển phương tiện giao thông với BAC trên 0,5 mg / ml có khả
năng bị tai nạn gây tử vong nhiều hơn so với những người lái xe không uống rượu.
Nếu độ rượu trong máu 0.02 - 0.05 BAC, khả năng để xem hoặc xác định vị trí
ánh sáng di chuyển một cách chính xác cũng như khả năng để đánh giá khoảng
cách bị giảm. Xu hướng gặp rủi ro tăng lên, và khả năng đối phó với nhiều tác nhân
kích thích giảm; nếu độ rượu trong máu 0.05, người lái xe có nguy cơ xảy ra TNGT
gấp hai lần trước khi uống rượu; độ rượu trong máu 0.05 – 0.08, khả năng đánh giá
khoảng cách tiếp tục giảm, sự nhạy cảm với ánh sáng màu đỏ bị suy giảm, phản
ứng chậm hơn, và khả năng tập trung ngắn hơn; độ rượu trong máu 0.08, người lái
xe có nguy cơ xảy ra TNGT gấp năm lần trước khi uống rượu. Khi độ rượu trong
máu 0.08 – 0.12 tạo cảm giác "hưng phấn" làm đánh giá quá cao khả năng lái xe,
làm cho họ chủ quan. Lúc này, tầm nhìn ngoại vi và nhận thức về những trở ngại bị
suy yếu, có nguy cơ xảy ra TNGT gấp mười lần.
*Một số giải pháp (các bạn học sinh tham khảo để viết thêm)



Một là, tăng cường quản lý nhà nước về sử dụng rượu, bia. Giải pháp này tập
trung vào việc kiểm soát nhu cầu sử dụng, kiểm soát việc cung cấp, giảm tác hại
của việc lạm dụng rượu bia… Đó là các biện pháp kiểm soát sử dụng; kiểm soát
chặt quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi; áp dụng chính sách thuế phù hợp để giảm sử
dụng, hạn chế buôn lậu. Các cơ quan nhà nước tăng cường thực hiện và kiểm tra,
xử lý vi phạm quy định cấm sử dụng rượu bia trước và trong giờ làm việc, tại nơi
làm việc, trong bữa ăn trưa và ngày trực. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
có trách nhiệm đưa quy định về cấm sử dụng rượu bia vào nội quy, quy chế của cơ
quan, tổ chức, đơn vị, đồng thời tổ chức và giám sát việc thực hiện. Về việc kiểm
soát việc cung cấp, đó là quy hoạch đồng bộ về sản xuất, kinh doanh rượu bia trong
cả nước và từng địa phương. Song song đó là việc kiểm soát kinh doanh rượu thủ
công (như quản lý chặt việc cấp phép; xây dựng cơ chế để tổ chức, cá nhân tham
gia làng nghề ở các địa phận có làng nghề); kiểm soát việc ghi nhãn rượu bia; kiểm
soát hoạt động sản xuất, kinh doanh rượu bia…
Hai là, chú trọng công tác tuyên truyền nhằm từng bước thay đổi nhận thức
của xã hội về sử dụng rượu, bia.
Tổ chức tuyên truyền sâu rộng để người dân hiểu được tác hại, ảnh hưởng của
rượu, bia khi điều khiển phương tiện giao thông; hiểu rõ được tính nguy hiểm của
việc điều khiển phương tiện giao thông trong khi nồng độ cồn trong máu vượt quá
mức cho phép. Đồng thời, cơ quan chức năng cũng nên tuyên truyền mức xử phạt
đối với những vi phạm nhằm tạo ra sự chuyển biến về nhận thức trong cộng đồng.
Ðối với những người ngồi trên xe có trách nhiệm nhắc nhở cũng như phản đối
những người điều khiển phương tiện đã sử dụng rượu, bia.
Ðặc biệt ở các huyện miền núi, miền biển thường có tỷ lệ người trẻ nghiện
rượu, bia cao cần có sự phối hợp giữa chính quyền, dòng họ và gia đình hạn chế sử
dụng rượu, bia khi tham gia giao thông. Để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả cao
nhất cần phải chú trọng cả nội dung và hình thức. Hình thức tuyên truyền cần phải
đa dạng, hấp dẫn, phong phú.

ba là, nâng cao hiệu quả công tác TTKS, phát hiện, xử lý nghiêm hành vi vi
phạm nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông.
Hiện nay, việc xử phạt người lái xe uống rượu, bia say đã được các lực lượng
chức năng quan tâm thực hiện. Song, vẫn chưa đủ sức răn đe và việc đưa thêm các
chế tài tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, tạm giữ phương tiện là cần
thiết. Ngoài ra, cơ quan công an cần thông báo vi phạm về nơi cư trú, nơi công tác
của họ để kiểm điểm. Đối với cán bộ công chức, không chỉ xử lý hành chính mà
còn xem xét kỷ luật khi lái xe uống rượu bia.



×