BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
PHẠM THỊ KIM ĐỨC
NHU CẦU SỬ DỤNG VÀ MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN
ĐÁP ỨNG DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH TẠI NHÀ
CỦA BỆNH VIỆN MẮT TRUNG ƯƠNG NĂM 2016
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
BỘ Y TẾ
PHẠM THỊ KIM ĐỨC
NHU CẦU SỬ DỤNG VÀ MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN
ĐÁP ỨNG DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH TẠI NHÀ
CỦA BỆNH VIỆN MẮT TRUNG ƯƠNG NĂM 2016
Chuyên ngành : Quản lý Bệnh viện
Mã số
: 60720701
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Trần Như Nguyên
TS. BS. Nguyễn Xuân Hiệp
HÀ NỘI – 2017
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn:
- Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau Đại học, Bộ môn Quản lý Bệnh
viện, Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công Cộng, Trường Đại học Y
Hà Nội.
- Ban Giám đốc, các Khoa, Phòng của Bệnh viện Mắt Trung ương.
Đã tận tình giảng dạy, truyền thụ những kiến thức quý báu, thêm nhiều
kỹ năng tốt hơn trong công việc và nghiên cứu khoa học, giúp đỡ, tạo điều
kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, rèn luyện và tu dưỡng tại trường,
bệnh viện.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn
tới PGS. TS. Trần Như Nguyên và BS. TS. Nguyễn Xuân Hiệp, người đã
giúp tôi phát triển ý tưởng, định hướng nghiên cứu ngay từ những ngày đầu
làm luận văn và tận tình hướng dẫn, động viên tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Quý Thầy, Cô trong Hội đồng đã đóng góp
những ý kiến khoa học quý báu để tôi hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các anh, chị, bạn bè đồng nghiệp của tôi,
những người đã giúp đỡ, chia sẻ cùng tôi những kiến thức, kinh nghiệm cũng
như những khó khăn trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin dành trọn tình yêu thương và lòng biết ơn sâu sắc tới
bố, mẹ, anh, chị, em, chồng và các con của tôi, những người thân yêu trong
gia đình đã luôn là chỗ dựa tình thần, luôn bên cạnh cổ vũ, động viên, tạo điều
kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2017
Học viên
Phạm Thị Kim Đức
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là Phạm Thị Kim Đức, học viên cao học khoá 24, Trường Đại
học Y Hà Nội, chuyên ngành Quản lý Bệnh viện, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.
TS. Trần Như Nguyên – Trường Đại học Y Hà Nội và BS. TS. Nguyễn
Xuân Hiệp – Bệnh viện Mắt Trung ương.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2017
Học viên
Phạm Thị Kim Đức
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BS
BSGĐ
BV
BVMTW
BYT
CBYT
CS
CSM
CSSK
CSVC
Bác sỹ
Bác sỹ gia đình
Bệnh viện
Bệnh viện Mắt Trung ương
Bộ Y tế
Cán bộ y tế
Chăm sóc
Chăm sóc mắt
Chăm sóc sức khỏe
Cơ sở vật chất
CSYT
DVYT
ĐD
GDSK
KCB
NB
NVYT
PK
SK
VN
YHGĐ
Cơ sở y tế
Dịch vụ y tế
Điều dưỡng
Giáo dục sức khỏe
Khám chữa bệnh
Người bệnh
Nhân viên y tế
Phòng khám
Sức khỏe
Việt Nam
Y học gia đình
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Danh mục các chữ viết tắt
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH.
ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................3
1.1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ..............................3
1.2. CÁC
VĂN BẢN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC
KHỎE......................................................................................................8
1.3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ NHU
CẦU
CSSK
TẠI NHÀ TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở
VN.......................................................................................................10
1.4. QUÁ TẢI BV VÀ THỰC TRẠNG CUNG CẤP DỊCH VỤ KCB NGOÀI GIỜ, TẠI NHÀ
Ở VN....................................................................................................14
1.5. THÔNG TIN VỀ CƠ SỞ NGHIÊN CỨU.......................................................20
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.........23
2.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU.........................................................................23
2.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU........................................................................23
2.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU......................................................................23
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................................................24
2.5. BIẾN SỐ, CHỈ SỐ VÀ PHƯƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU.........................25
2.6. XỬ LÝ VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU..............................................................33
2.7. ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU.........................................................................34
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU....................................................35
3.1. ĐÁNH GIÁ NHU CẦU KHÁM CHỮA, CS MỘT SỐ BỆNH MẮT TẠI NHÀ CỦA
NB TẠI BVMTW NĂM 2016...............................................................35
3.2. MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN ĐÁP ỨNG DỊCH VỤ KHÁM CHỮA, CSM TẠI NHÀ CỦA
BVMTW NĂM 2016............................................................................44
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN............................................................................52
KẾT LUẬN....................................................................................................69
KHUYẾN NGHỊ............................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1:
Các biến số, chỉ số sử dụng trong nghiên cứu.............................26
Bảng 3.1:
Thông tin về NB/NNNB.............................................................36
Bảng 3.2:
Thời gian từ nhà đến BV của NB/NNNB...................................37
Bảng 3.3:
Thời gian làm việc của NB/NNNB.............................................37
Bảng 3.4:
Tỷ lệ có bảo hiểm y tế của NB/NNNB.......................................38
Bảng 3.5:
Thu nhập bình quân/tháng của NB/NNNB.................................38
Bảng 3.6:
Lý do NB/NNNB lựa chọn BV...................................................39
Bảng 3.7:
Phân bố NVYT theo vị trí công tác, chức danh chuyên môn.....45
Bảng 3.8:
Tỷ lệ số lượng và thâm niên công tác của nhân lực dự kiến.......48
Bảng 4.1:
Phân bố NB/NNNB theo tuổi trong các nghiên cứu...................52
Bảng 4.2:
Phân bố NB/NNNB theo giới tính trong các nghiên cứu............53
Bảng 4.3:
Phân bố NB/NNNB theo nơi sống trong các nghiên cứu...........53
Bảng 4.4:
Phân bố NB/NNNB theo trình độ học vấn trong các nghiên cứu.....54
Bảng 4.5:
Phân bố NB/NNNB theo nghề nghiệp trong các nghiên cứu......55
Bảng 4.6:
Phân bố NB/NNNB theo thời gian từ nhà đến BV trong các
nghiên cứu...................................................................................56
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1:
Phân bố NB/NNNB theo tuổi...............................................35
Biểu đồ 3.2:
Phân bố NB/NNNB theo giới...............................................35
Biểu đồ 3.3:
Tỷ lệ khả năng nghỉ làm đi khám của NB/NNNB................39
Biểu đồ 3.4:
Mức độ triển khai một số dịch vụ khám chữa, CSM tại nhà
theo ý kiến NB/NNNB..........................................................40
Biểu đồ 3.5:
Mức độ nhu cầu của NB/NNNB đối với một số dịch vụ khám
chữa, CSM tại nhà dự kiến....................................................41
Biểu đồ 3.6:
Nhu cầu sử dụng của NB/NNNB đối với một số dịch vụ
khám chữa, CSM tại nhà dự kiến..........................................42
Biểu đồ 3.7:
Khả năng chi trả của NB/NNNB đối với một số dịch vụ khám
chữa, CSM tại nhà dự kiến....................................................43
Biểu đồ 3.8:
Phân bố NVYT theo tuổi, giới..............................................44
Biểu đồ 3.9:
Phân bố NVYT theo trình độ học vấn...................................45
Biểu đồ 3.10:
Mức độ triển khai một số dịch vụ khám chữa, CSM tại nhà
theo ý kiến của NVYT..........................................................46
Biểu đồ 3.11:
Mức độ lựa chọn cung cấp một số dịch vụ khám chữa, CSM
tại nhà dự kiến.......................................................................47
Biểu đồ 3.12:
Tỷ lệ NVYT lựa chọn nguồn nhân lực cho dịch vụ dự kiến.48
Biểu đồ 3.13:
Tỷ lệ trình độ chuyên môn cần có của nhân lực...................49
Biểu đồ 3.14:
Tỷ lệ trang thiết bị cần thiết để triển khai dịch vụ dự kiến...50
Biểu đồ 3.15:
Mức thu dự kiến đối với một số dịch vụ khám chữa, CSM tại
nhà theo ý kiến của NVYT...................................................50
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Các kỹ năng chính và đặc điểm của Y học gia đình..........................6
Hình 2.1. Bản đồ địa điểm nghiên cứu............................................................23
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, nhu cầu CS y tế của
nhân dân ngày càng tăng, đòi hỏi ngành y tế phải không ngừng đổi mới và
nâng cao chất lượng KCB nhằm đáp ứng nhu cầu cần được CS y tế của người
dân.
Chất lượng KCB không chỉ thể hiện ở kết quả khám, phương pháp điều
trị, can thiệp của NVYT đối với NB mà còn hướng đến sự thuận tiện trong
việc tiếp cận sử dụng dịch vụ, sự thỏa mãn và đáp ứng các nhu cầu CSSK cả
về thể chất và tinh thần của NB. Quá trình khám bệnh và cung cấp các DVYT
tới người dân cần được đánh giá thường xuyên để tìm hiểu rõ hơn về nhu cầu
của NB, đồng thời nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, nhằm đáp ứng tốt,
kịp thời những mong muốn của NB khi sử dụng dịch vụ KCB của BV.
CSSK hiện nay chủ yếu là xây dựng các cơ sở DVYT để người dân tới
sử dụng. Phương thức này có nhược điểm lớn là thụ động, ngồi chờ người dân
tới và thường thì người dân mắc bệnh rồi, đôi khi mắc bệnh đã nặng mới tới
CSYT. Do đó, tính chủ động chưa cao kể cả về phía người cung cấp dịch vụ
và người sử dụng dịch vụ nên hiệu quả CSSK cũng chưa cao, thể hiện ở công
tác dự phòng hạn chế, việc phát hiện bệnh sớm, điều trị sớm và triệt để còn
nhiều bất cập [1]. Bên cạnh đó, tình trạng quá tải thường xuyên xảy ra đối với
nhiều BV, đặc biệt là các BV tuyến trung ương đã ít nhiều ảnh hưởng lớn tới
chất lượng KCB và thái độ phục vụ NB của NVYT [2]. Theo nghiên cứu của
Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế (2008 – 2009) cho thấy tỷ lệ sử dụng
giường bệnh thường xuyên trên 100% và dao động từ 120% đến 150%, thậm
chí tới 200% ở một số BV lớn như BV Bạch Mai, Bệnh viện K và BV Ung
bướu TP. Hồ Chí Minh. Tình trạng quá đông NB xuất hiện cả ở khu vực PK
lẫn khu vực điều trị nội trú [3]. Nhiều giải pháp giảm tải đã được các BV đưa
2
ra như mở rộng thêm cơ sở hạ tầng, tăng số giờ KCB, tăng thêm số lượng PK,
…tuy nhiên tình trạng này vẫn chưa được cải thiện rõ rệt.
BVMTW là BV hạng I, đầu ngành của cả nước chuyên ngành nhãn khoa,
từ lâu đã luôn là địa chỉ tin cậy của người dân cả nước trong công tác khám
chữa, CSM. BV đã có nhiều giải pháp để khắc phục tình trạng quá tải tại BV
như: cải cách thủ tục hành chính, cải tiến quy trình làm việc, tăng số lượng
PK,…..nhưng tình trạng quá tải vẫn thường xảy ra vào các buổi sáng trong
ngày, cụ thể là trước 9h30 hàng ngày, đặc biệt là vào các ngày đầu tuần.
Trên thế giới và tại VN đã có một số nghiên cứu đề cập đến nhu cầu
KCB tại nhà [1],[2],[4],[5],[6],[7],[8],[9],...Tại BVMTW đến nay chưa có
nghiên cứu nào đề cập một cách đầy đủ và có hệ thống về vấn đề này. Với
mục đích, cung cấp những thông tin, bằng chứng có cơ sở khoa học, có độ tin
cậy cao cho Ban lãnh đạo BVMTW trong việc lập kế hoạch và triển khai cung
cấp đa dạng các loại hình DVYT góp phần giảm tình trạng quá tải tại BV, đáp
ứng nhu cầu, mong muốn của người dân, nâng cao tỷ lệ hài lòng của NB,
cũng như góp phần tăng thêm nguồn thu cho BV. Do vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Nhu cầu sử dụng và một số điều kiện đáp ứng dịch vụ
khám chữa bệnh tại nhà của Bệnh viện Mắt Trung ương năm 2016” với
mục tiêu:
1.
Đánh giá nhu cầu khám chữa, chăm sóc một số bệnh mắt tại nhà
2.
của người bệnh tại Bệnh viện Mắt Trung ương năm 2016.
Mô tả một số điều kiện đáp ứng dịch vụ khám chữa, chăm sóc
một số bệnh mắt tại nhà của Bệnh viện Mắt Trung ương năm 2016.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát một số khái niệm cơ bản liên quan
1.1.1. Khái niệm về nhu cầu chăm sóc sức khỏe
Nhu cầu CSSK của cộng đồng được xác định qua gánh nặng bệnh tật và
các nguy cơ tới SK [4].
Gánh nặng bệnh tật được đo lường bằng các chỉ số mắc bệnh
(Morbidity) và tử vong (Mortality) cũng như bằng các chỉ số hỗn hợp như số
năm sống mất đi vì bệnh tật, tàn phế và chết non (Dalys) [4],[10].
Nguy cơ mắc bệnh được đo lường bằng các chỉ số ô nhiễm môi trường;
Tỉ lệ được tiếp cận với nước sạch và công trình vệ sinh; Tỉ lệ người có các
hành vi xấu ảnh hưởng tới SK (lối sống không lành mạnh, nghiện hút….).
Như vậy việc đo lường nhu cầu CSSK (KCB khi ốm đau, phòng bệnh
khi chưa bị ốm và truyền thông tư vấn SK) là rất khó. Thông thường phải dựa
vào rất nhiều nguồn số liệu: Điều tra y tế hộ gia đình, khám sàng lọc, kiểm tra
sức khỏe cộng đồng. Đây là những phương pháp có giá trị khoa học song lại
rất tốn kém và cũng chứa đựng nhiều tồn tại về phương pháp. Nguồn số liệu
từ cơ sở KCB của nhà nước, nhất là ở BV được thu thập định kỳ và báo cáo 3
tháng/lần nên tính sẵn có cao. Số liệu từ báo cáo của các BV về các bệnh,
nhóm bệnh theo phân loại quốc tế ICD10 và thống nhất sử dụng trong hệ
thống báo cáo hàng chục năm, cùng với việc tăng cường năng lực chẩn đoán
của các BV. Nguồn số liệu từ báo cáo BV cho phép phân tích khá chính xác
cơ cấu bệnh tật trong cộng đồng. Thêm vào đó nguồn số liệu này được lưu trữ
khá tốt và không tốn kém cho các điều tra hồi cứu. Số trường hợp mắc bệnh,
tỉ lệ người ốm ở mọi mức độ đến các CSYT, BV để khám bệnh, chữa bệnh
4
ngoại trú, nội trú chỉ chiếm khoảng 10%. Như vậy chỉ là "phần nổi của tảng
băng" [4],[10].
Tuy nhiên, đây chính là nhu cầu KCB của người dân cần được các CSYT
quan tâm, đáp ứng. Dù chưa phản ánh được toàn bộ gánh nặng về bệnh tật
cũng như nhu cầu được KCB của người dân nhưng nguồn số liệu từ báo cáo y
tế của các CSYT hoàn toàn có thể sử dụng làm các chỉ điểm (index), mấu
chốt để xác định về nhu cầu KCB của người dân.
1.1.2. Khái niệm về dịch vụ khám chữa bệnh
Dịch vụ KCB tại các CSYT là một hoạt động xã hội mà hoạt động này đã
xảy ra trong mối quan hệ trực tiếp giữa NB và đại diện của các CSYT.
CSYT cũng là một ngành dịch vụ do đó nó cũng mang trong mình đầy đủ
những đặc điểm chung của dịch vụ đó là: tính vô hình (hay phi vật chất), tính
không đồng nhất, tính không thể chia cắt được và tính không lưu giữ được.
Bên cạnh những đặc điểm chung đấy, dịch vụ KCB còn mang những đặc điểm
riêng biệt mà không có dịch vụ nào có đó là: tính không thể đoán trước được;
DVYT là “hàng hóa công cộng” và mang tính ngoại lai; DVYT là loại hàng
hóa mà người sử dụng (NB) thường không thể hoàn toàn tự mình chủ động
lựa chọn loại dịch vụ theo ý muốn mà phụ thuộc rất nhiều vào bên cung cấp
(CSYT). Có nhiều loại dịch vụ nên có thể phân loại dịch vụ theo các tiêu thức
chủ yếu như: phân loại theo chủ thể thực hiện dịch vụ, phân loại theo mục
đích, phân loại theo nội dung loại dịch vụ [11],[12].
1.1.3. Khái niệm về y học gia đình trên thế giới và ở Việt Nam
Theo lý thuyết, BSGĐ là BS thực hành y khoa theo nguyên lý YHGĐ.
Tuy nhiên, trong thực hành có rất nhiều thuật ngữ khác nhau dùng để miêu tả
chuyên môn này như: family medicine, general practice, general medicine,
hoặc general practitioner, family physician, general internist,…Tại VN, thuật
ngữ “BSGĐ” dùng để đề cập đến hai nhóm chính: Nhóm thứ nhất liên quan
5
đến dịch vụ khám bệnh theo yêu cầu, khám bệnh tại nhà; nhóm thứ hai liên
quan đến tư vấn - tham vấn về y khoa, y học thường thức. Điều này cho thấy
có một sự không thống nhất trong quan niệm về hình ảnh người BSGĐ. Vậy,
câu hỏi đặt ra: BSGĐ là gì?; YHGĐ là gì?; dịch vụ KCB tại nhà là như thế
nào? vai trò và nhiệm vụ của họ ra sao?[13].
Y học gia đình trên thế giới
Sự ra đời của chuyên khoa YHGĐ trong những năm 1960 là một đáp
ứng kịp thời của hệ thống y tế toàn cầu với sự thay đổi của mô hình bệnh tật
và nhu cầu CSSK của người dân. Về thực chất YHGĐ là sự kết hợp giữa y
học lâm sàng, y học dự phòng, tâm lý học và khoa học hành vi. Với sáu
nguyên lý là CS liên tục, CS toàn diện, CS phối hợp, quan tâm đến dự phòng,
gia đình và cộng đồng. Mô hình YHGĐ đã chứng tỏ hiệu quả trong việc cung
cấp các dịch vụ CSSK có chất lượng cao với mức chi phí hợp lý và khả năng
dễ tiếp cận. Với những lợi thế đó mô hình YHGĐ đã từng bước phát triển và
nhân rộng ra ở nhiều nước tại các khu vực khác nhau trên thế giới [4],[14].
Từ những năm 1960, tại Anh, Hoa Kỳ và Canada đã bắt đầu triển khai
chương trình đào tạo thầy thuốc đa khoa thực hành, sau này là BS chuyên
khoa YHGĐ. Năm 1972, Hội BSGĐ toàn cầu (WONCA) được thành lập với
sự tham gia của 18 quốc gia. WONCA có nhiệm vụ nâng cao chất lượng
CSSK của người dân bằng nguyên lý CS liên tục, toàn diện và phối hợp trong
khung cảnh gia đình và cộng đồng, giúp người dân dễ dàng tiếp cận với các
DVYT [14].
WONCA (1991) định nghĩa: “Thầy thuốc đa khoa thực hành hay BSGĐ
là những thầy thuốc chịu trách nhiệm chủ yếu cho việc cung cấp dịch vụ
CSSK toàn diện và liên tục cho tất cả các cá nhân tìm kiếm DVYT và hỗ trợ
cho họ tiếp cận với các dịch vụ CSYT khác khi cần. Các BSGĐ đóng vai trò
như một thầy thuốc đa khoa CSSK cho tất cả các cá nhân trong bối cảnh gia
6
đình, và các hộ gia đình trong bối cảnh cộng đồng không giới hạn về độ tuổi,
giới, chủng tộc, văn hóa cũng như điều kiện bệnh tật” [5],[14]. Đến năm
2011, vai trò và chức trách của BSGĐ/BS tổng quát lại một lần nữa được mô
tả thông qua định nghĩa của tổ chức WONCA (hiệp hội BSGĐ/BS tổng quát)
[15].
Hình 1.1. Các kỹ năng chính và đặc điểm của Y học gia đình
(Nguồn: www.kollegium.ch)
Học viện BSGĐ Hoa Kỳ (AAFP) định nghĩa: “YHGĐ là chuyên ngành
Y khoa cung cấp CSSK liên tục, toàn diện cho các cá nhân và gia đình. Đó là
một chuyên ngành bao quát cả khoa học sinh học, lâm sàng và hành vi.
YHGĐ CS mọi đối tượng ở mọi lứa tuổi, cả hai giới, tất cả các hệ cơ quan
trong cơ thể và mọi loại bệnh tật” [16].
Một số khái niệm trong YHGĐ còn có thể mới mẻ trong đa số BS lâm
sàng và có thể bị hiểu không đúng. Khái niệm “CS liên tục” dễ bị hiểu nhầm
với “chữa bệnh thường xuyên cho NB” người BSGĐ không chỉ biết về bệnh
của NB do thường xuyên phải điều trị mà còn phải nắm vững các hoàn cảnh
7
gia đình, tạo dựng được sự tin cậy với NB và giúp NB hiểu được tầm quan
trọng của sự theo dõi SK liên tục [17].
Y học gia đình tại Việt Nam
Có thể nói, lịch sử phát triển chuyên ngành YHGĐ tại VN được bắt đầu
rất sớm (1995), bằng việc BYT tiến hành khảo sát đánh giá nhu cầu CSSK
ban đầu tại VN. Tiếp theo đó, BYT đã phát triển dự thảo nhằm kiện toàn
mạng lưới CS tuyến ban đầu trên cơ sở phát triển chuyên ngành YHGĐ củng
cố cho trạm y tế [18],[19].
Cụm từ “CSSK hộ gia đình hay CSSK tại nhà” mới du nhập vào nước ta
nhưng phương thức thực hành thì không mới. Vì thực tế, nước ta vẫn có một
mạng lưới CSSK tự phát, do nhu cầu CSSK của người dân quyết định sự tồn
tại và phát triển của nó. Các ông lang, bà mế, bà đỡ, các phòng chẩn trị y học
cổ truyền, thầy thuốc tư nhân..… đã tạo ra mạng lưới CSSK tại nhà sát với
người dân và cộng đồng nhất tuy nhiên nó vẫn chưa thực sự phát triển và hoạt
động có hiệu quả [4].
Năm 2000 dự án phát triển BSGĐ ở VN đã được chính phủ phê duyệt
với sự tham gia của ba trường: Trường Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Y Dược Thái Nguyên với mục tiêu chính
là đào tạo BS chuyên khoa I, chuyên ngành YHGĐ và xây dựng các phòng
khám ngoại trú hoạt động theo nguyên lý YHGĐ [20],[21].
Tháng 03 năm 2002, chuyên khoa YHGĐ được BYT cho phép đào tạo
BS chuyên khoa I với mã số chuyên ngành 62729801. Tính đến thời điểm
năm 2013, cả nước đã có 6 trường tham gia đào tạo hệ sau đại học về YHGĐ
(chủ yếu là chuyên khoa cấp I) với đa phần giảng viên được đào tạo tại Mỹ và
Philipine theo dự án tài trợ bởi các đối tác của Mỹ [19].
VN đã thành lập Hội BSGĐ với quyết định số 43/2005/QĐ-BNV của
Bộ trưởng Bộ Nội vụ ký ban hành ngày 26 tháng 4 năm 2005 [22]. Những
8
quy định về chuyên ngành YHGĐ cũng như phạm vi hoạt động của BSGĐ
đã bắt đầu được xây dựng và đưa vào trong những văn bản pháp quy. Theo
đó phòng khám BSGĐ có những chức năng như một phòng khám nội tổng
hợp, ngoài ra được thực hiện CSSK và khám bệnh, chữa bệnh tại nhà NB
[23]. Các dịch vụ CSSK bao gồm: Tư vấn, GDSK, phát hiện bệnh, CS điều
dưỡng, điều trị bệnh đơn giản,… Có ba loại thăm khám bệnh của thầy thuốc
cho NB tại nhà: Thăm khám để đánh giá, thăm khám để tiếp tục CS và thăm
khám bệnh cấp tính.
Năm 2010, Trường Đại học Y Hà Nội đã được BYT và Bộ Giáo dục đào
tạo phê duyệt mã số cho phép đào tạo Thạc sỹ YHGĐ theo hệ tín chỉ 18
tháng. Từ tháng 01 năm 2012 đến nay, chuyên khoa YHGĐ đã được đưa vào
chương trình khung của đối tượng sinh viên y khoa do Bộ Giáo dục và đào
tạo phê duyệt, cho phép đào tạo.
1.2. Các văn bản pháp luật liên quan đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe
Nhằm quản lý và củng cố hệ thống y tế tại VN, trong những năm gần
đây ngày càng có nhiều tài liệu pháp lý được ban hành [2].
Thông tư số 30/TT-BYT của BYT ban hành ngày 23 tháng 12 năm 1987
quy định tạm thời về tổ chức khám bệnh ngoài giờ có quản lý đã kịp thời đáp
ứng nhu cầu mong mỏi được KCB của người dân, giảm bớt số NB nằm viện,
mở rộng việc chữa bệnh ngoại trú, giảm số NB phải chờ đợi ở PK, tạo điều
kiện thuận lợi cho những NB có khả năng về tài chính chủ động trong việc
CSSK của bản thân và cải thiện một cách chính đáng, hợp lý về thu nhập cho
CBYT. Nội dung và phạm vi KCB ngoài giờ có quản lý trong Thông tư số
30/TT-BYT quy định: Khám và chữa tất cả các chuyên khoa; Phẫu thuật thì
hạn chế trong mức độ tiểu phẫu thuật; Các dịch vụ kỹ thuật khác (như nạo
thai, hút điều hoà kinh nguyệt, đặt vòng, truyền dịch) hoặc các phẫu thuật
khác như nạo V.A, cắt A – Mi - Đan kể cả các phẫu thuật cao hơn cũng có thể
9
làm nhưng phải có giấy phép đặc biệt của Sở Y tế và ý kiến chủ nhiệm khoa
BV tỉnh thuộc chuyên khoa đó của địa phương đồng ý, mục đích là để phát
triển chữa ngoại trú nhưng phải bảo đảm điều kiện chất lượng về cán bộ cũng
như CSVC; Các dịch vụ thuộc chức năng y tá, kỹ thuật viên được khuyến
khích thực hiện tại nhà và ngay cả trong BV nhưng đều có quản lý và có quy
định theo hợp đồng cụ thể với nhân dân. Ví dụ: Đo huyết áp tại nhà, tiêm tại
nhà, xoa bóp bấm huyệt tại nhà, thay băng, săn sóc bổ sung tại BV ngoài giờ,
hướng dẫn tập luyện tại nhà v.v...; Các hợp đồng quản lý SK có thù lao theo
chế độ thầy thuốc riêng, y tá riêng cũng được khuyến khích; Không được
phép làm các dịch vụ ngoài 5 điều quy định trên đây [4],[24].
Luật Khám bệnh, chữa bệnh (Luật số 40/2009/QH12) đã được Quốc hội
khoá XII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 23 tháng 11 năm 2009 gồm 9 chương
và 91 điều. Đây là đạo luật đầu tiên về Khám bệnh, chữa bệnh nhằm bảo đảm,
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của NB; Nâng cao chất lượng khám
bệnh, chữa bệnh; Giảm phiền hà cho NB; Xác định nền tảng cho sự phát triển
y học thực chứng vì quyền lợi của NB, và là cơ sở pháp lý điều chỉnh mối
quan hệ giữa NB với người hành nghề và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Luật
thể chế hoá quan điểm của Đảng và Nhà nước về Khám bệnh, chữa bệnh, tạo
hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động khám bệnh, chữa bệnh trong giai
đoạn đổi mới hệ thống y tế hiện nay, góp phần tích cực vào việc thực hiện
thành công sự nghiệp bảo vệ, CS và nâng cao SK nhân dân. Điều 43 của Luật
Khám bệnh, chữa bệnh về điều kiện cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh đối với PK chuyên khoa hoặc BSGĐ thì phải đủ các
điều kiện sau: Đáp ứng các quy định của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh do Bộ trưởng BYT ban hành; Có đủ người hành
nghề phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn; Người chịu trách nhiệm
chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có thời gian hành
10
nghề khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 36 tháng; Và có chuyên môn phù hợp
với loại hình hành nghề [4],[25]. Theo điều 67 của Luật Khám bệnh, chữa
bệnh khuyến khích các cơ sở KCB tổ chức KCB 24h/ngày [2],[25].
Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 16 tháng 01
năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu đã giúp
các CSYT tự chủ trong hoạt động tài chính. Với việc áp dụng Nghị định 10,
quá trình phân quyền đã được thúc đẩy BV được giao trách nhiệm lớn hơn
trong việc đưa ra quyết định của mình [26].
Trong khi đó, Chính phủ vẫn tiếp tục mở rộng phạm vi các hoạt động tự
chủ với việc điều chỉnh lại Nghị định 10 bằng Nghị định số 43/2006/NĐ-CP
ban hành ngày 25 tháng 4 năm 2006 về quy định quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập [27]. Đây là những văn bản pháp luật cho phép tạo
cơ chế mới, cho chép khai thác nguồn lực của xã hội cho công tác KCB tại
các CSYT công lập. Cùng với việc sửa đổi này, các BV có quyền tự chủ nhiều
hơn trong vấn đề nhân sự (cán bộ hợp đồng, đào tạo cán bộ, thành lập hay
chấm dứt cơ sở cung cấp dịch vụ), lập ngân sách (do đó ngân sách cố định
được cấp bởi chính phủ và ngân sách còn lại được đảm bảo bởi BV), quyết
định cung cấp loại hình dịch vụ gì và quản lý dịch vụ như thế nào (tăng lương
và thưởng, quy chế thu và chi) [26],[27]. Nghị định số 10/2002/NĐ-CP hay
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP đều chủ yếu áp dụng cho các CSYT công giúp
tạo ra nguồn thu ổn định từ việc thu viện phí (NB trả tiền trực tiếp) [2].
1.3. Một số nghiên cứu về nhu cầu chăm sóc sức khỏe tại nhà trên thế giới
và ở Việt Nam
1.3.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
Theo nghiên cứu khám của Klimm H. D. (1997) cho thấy phần lớn các
hoạt động BS đa khoa hiện đại là ở các lĩnh vực SK gia đình và cộng đồng.
11
Đa số NB tiếp tục coi BS đa khoa của họ là BSGĐ, là nơi CSSK đáng tin cậy
và là người tư vấn SK cho toàn gia đình [28].
Shipman C. & Dale J. (1999) nghiên cứu về sự đánh giá của BS đối với
nhu cầu KCB ngoài giờ theo các nhu cầu về thể chất, tâm sinh lý
(psychological/emotional) và xã hội ở một vùng của Vương quốc Anh cho
thấy 66% các yêu cầu khám bệnh ngoài giờ có liên quan đến các yêu cầu về
thể chất, tâm sinh lý (psychological/emotional) và xã hội, 10,7% các trường
hợp là không xác định được mối liên quan [2],[4],[29].
Salisbury (2002) xem xét các nghiên cứu nhu cầu về dịch vụ khám bệnh
ngoài giờ của BS ở nước Anh cho biết, tất cả các dịch vụ khám bệnh ngoài
giờ đều tính chi phí gia tăng. Chi phí này khác nhau giữa các vùng, trình độ
và các BS khác nhau [2],[30].
Kajal L. & Guibo Xing (2003) tiến hành nghiên cứu phân tích nhu cầu
dịch vụ CSSK ngoại viện của các cựu chiến binh được hỗ trợ bởi Medicare
phát hiện rằng số tiền chênh sau khi được Medicare hỗ trợ và khoảng cách từ
nhà đến BV làm giảm khả năng lựa chọn dịch vụ CS ngoại viện. Một số yếu
tố khác như thu nhập, tình trạng bảo hiểm, phương tiện đi lại, công việc, SK
và tình trạng các chẩn đoán cũng ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn dịch vụ
CSSK ngoại viện [31].
Glynna L.G, Byrnea M, Newellb J và Murphya A.W (2004) nghiên cứu
về sự ảnh hưởng của tình trạng SK đối với sự hài lòng của NB khi sử dụng
dịch vụ ngoài giờ được BSGĐ cung cấp ở Cộng hòa Ireland cho thấy NB có
tình trạng SK yếu hơn có mức độ hài lòng cao hơn với dịch vụ này. Đồng
thời họ cũng khuyến nghị đây là một trong các chỉ số để triển khai dịch vụ
ngoài giờ [4],[32].
Eric P và cộng sự (2007) tiến hành nghiên cứu về nhu cầu khám, CS và
điều trị ngoài giờ trong dịch vụ khám bệnh và cấp cứu ở Hà Lan thấy rằng BS
12
tiếp nhận 88% thăm khám ngoài giờ, trong khi đó bộ phận cấp cứu chỉ phải
tiếp nhận 12% các dịch vụ này [2],[4],[33].
Huber C.A và cộng sự (2011) đã khảo sát nhu cầu CSSK ở Thụy Sỹ cho
thấy rằng hầu hết mọi người đều có nhu cầu CSSK tại nhà cao hơn rất nhiều
so với CS tại BV và qua điện thoại tư vấn. Tỉ lệ NB sốt có nhu cầu cao nhất
và sự thanh toán không phù hợp cùng với ảnh hưởng tới công việc hàng ngày
của họ là lý do dẫn tới nhu cầu này [7].
Philips H và cộng sự (2012) nghiên cứu trên 350 NB trong một thành
phố ở Châu Âu cho thấy, trong các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn dịch
vụ ngoài giờ của NB: Quan trọng nhất là “sự giải thích của BS” và “thời gian
chờ đợi” trong khi những yếu tố khác như “sự sẵn có của thiết bị kỹ thuật”,
“truy cập dễ dàng”, “loại tư vấn” và “phương thức thanh toán” ít quan trọng
hơn [8].
1.3.2. Một số nghiên cứu ở Việt Nam
Trần Thị Hạnh (2008) nghiên cứu về thực trạng CSSK tại nhà cho người
cao tuổi ở Quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ trên đối tượng người cao tuổi từ
60 – 98 tuổi, trong đó hầu hết từ 60 – 79 tuổi có 91% người cao tuổi hoàn
toàn tự lực trong sinh hoạt hàng ngày, 51% tự CS khi họ bị bệnh, vai trò của
CBYT cơ sở mờ nhạt trong CSSK tại nhà cho người cao tuổi. Điều này cho
thấy nhu cầu kiểm tra SK cho người cao tuổi trong địa phương hết sức bức
thiết [9].
Đặng Thị Lan Phương (2009) nghiên cứu về thực trạng và nhu cầu
CSSK hộ gia đình tại tỉnh KonTum cho thấy phần lớn mọi người đều muốn có
BS, CBYT khám và CSSK tại nhà, khám, CS, tư vấn hướng dẫn NB mãn tính
tại nhà đạt tỷ lệ cao có 53,8%, được tư vấn huấn luyện điều trị là 15,4%, số
người không được tư vấn huấn luyện điều trị là 69,2%, có thể nhận thấy
người dân có nhu cầu CS nhưng sự đáp ứng các DVYT còn chưa đầy đủ [34].
13
Nguyễn Văn Sỹ (2009) nghiên cứu về thực trạng và nhu cầu CSSK hộ
gia đình tại tỉnh Yên Bái cho thấy tại đây người dân chỉ đi khám SK khi có
vấn đề về bệnh tật chiếm 42,7%, khi có ốm đau họ tự chữa ở nhà với tỉ lệ
21,9% sau đó mới đến các CSYT khác của nhà nước vì họ cho rằng đến
CSYT nhất là không phải tuyến y tế cơ sở thì rất phiền hà và tốn kém. Khi CS
người nhà mắc bệnh mãn tính họ tự tìm hiểu cách CS cho người nhà mình vì
do thiếu nhân lực CBYT đến tư vấn hỗ trợ chỉ có ở mức 35,7% [35].
Bùi Thùy Dương (2011) đã tiến hành nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu CSSK
ngoài giờ và tại nhà của NB và NNNB tại BV Đại học Y Hà Nội năm 2010
cho thấy có 51,1% đến 70,9% khách hàng cho rằng BV nên triển khai các
dịch vụ CSSK ngoài giờ và tại nhà. NB và NNNB đều có nhu cầu cao sử
dụng dịch vụ CSSK ngoài giờ và tại nhà (53,3% - 90,3%), nhất là dịch vụ
khám vào ngày thứ 7 và chủ nhật [2].
Trong nghiên cứu của Trần Thanh Long (2011) khi khảo sát nhu cầu
dịch vụ CSSK ngoài giờ và tại nhà của người sử dụng dịch vụ tại BV Đại học
Y Hà Nội năm 2010 đã cho kết quả là hầu hết các đối tượng đến khám bệnh
đều có nhu cầu với các dịch vụ khám buổi chiều ngày thường, khám ngoài giờ
ngày thường, khám ngày thứ 7 và chủ nhật và khám tại nhà với tỉ lệ lần lượt
là 55,3%; 62,5%; 64,3% và 64,3%. Ngoài ra khi BV dự kiến mở thêm dịch vụ
đăng ký khám qua internet và đăng ký khám qua điện thoại thì có tới 37,4%
và 49,6% tỉ lệ NB nội trú có nhu cầu đối với hai dịch vụ này. Nghiên cứu này
cũng đã chỉ ra rằng, hầu hết người sử dụng dịch vụ đều có khả năng chi trả
các DVYT CSSK ngoài giờ và tại nhà, đặc biệt là khám ngoài giờ ngày
thường. Đối với dịch vụ khám ngoài giờ ngày thường, tỷ lệ người sử dụng có
nhu cầu về dịch vụ này đều đạt trên 70% [5].
Hoàng Trung Kiên và cộng sự (2013) với nghiên cứu khảo sát SK và nhu
cầu CSSK của người cao tuổi tại bốn xã huyện Đông Anh, Hà Nội cho thấy
14
nguyện vọng chủ yếu của người cao tuổi là được KCB tại nhà với chi phí phải
chăng là 87,8% và cung cấp thông tin phòng bệnh, CSSK là 82,7% [36].
Hoàng Hữu Toản (2014) khi tiến hành nghiên cứu khảo sát nhu cầu
CSSK ngoài giờ và tại nhà của người đến khám, điều trị bệnh tại BV Phổi
Trung ương năm 2014 cho thấy khi BV dự định mở thêm dịch vụ đăng ký
khám qua internet và đăng ký khám qua điện thoại thì tỷ lệ người có nhu cầu,
nguyện vọng được sử dụng dịch vụ là rất cao [4].
Phạm Thị Yến (2016) khi nghiên cứu thực trạng tổ chức, hoạt động KCB
và nhu cầu sử dụng dịch vụ ngoài giờ của NB tại khoa phục hồi chức năng,
BV Nhi Trung ương năm 2015 cho thấy đối với dịch vụ phục hồi chức năng
ngoài giờ, thứ 7 và chủ nhật thì tỷ lệ người đến khám có nhu cầu khá cao
(70,38%), tỷ lệ người có khả năng chi trả đối với mức tăng dự kiến của dịch
vụ trên cũng rất cao (98,86%) [37].
1.4. Quá tải bệnh viện và thực trạng cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh
ngoài giờ, tại nhà ở Việt Nam
1.4.1. Thực trạng quá tải bệnh viện ở Việt Nam.
Thực trạng quá tải bệnh viện
Ở các BV tuyến trung ương tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh thường xuyên xảy ra tình trạng quá tải, đã ít nhiều ảnh hưởng lớn tới
chất lượng KCB và thái độ phục vụ NB của NVYT [2]. Theo nghiên cứu của
Cục Quản lý KCB, BYT (2008 – 2009) cho thấy tỷ lệ sử dụng giường bệnh
thường xuyên trên 100% và dao động từ 120% đến 150%, thậm chí tới 200%
ở một số BV lớn như BV Bạch Mai, BV K và BV Ung bướu TP. Hồ Chí
Minh. Tình trạng quá đông NB xuất hiện cả ở khu vực PK lẫn khu vực điều trị
nội trú [3].
Tình trạng NB vượt tuyến chiếm một tỉ lệ khá cao, khoảng 83% NB
ngoại trú và 76% NB nội trú đến KCB không có giấy giới thiệu. Lượng NB
15
đến KCB tại các BV tuyến trung ương ngày càng tăng, chủ yếu là ở nhóm NB
điều trị ngoại trú và một tỉ lệ khá cao NB mắc những bệnh có thể chẩn đoán
và điều trị ở tuyến trước (17% - 81%). Tình trạng quá tải xảy ra không đồng
đều ở các khoa/phòng mà chủ yếu ở khu vực PK và một số khoa/phòng điều
trị đặc thù. Quá tải thường xảy ra nghiêm trọng hơn vào 2 – 3 ngày đầu tuần
và vào buổi sáng. Nhiều giải pháp giảm tải đã được các BV đưa ra tuy nhiên
tình trạng này vẫn chưa được cải thiện rõ rệt [3],[38].
Nguyên nhân gây quá tải bệnh viện
Nguyên nhân ngoại viện: Tình trạng KCB vượt tuyến do NB tin tưởng
vào chất lượng KCB của các CSYT tuyến trên, chưa hoặc không tin tưởng
vào chất lượng điều trị của y tế tuyến dưới, trong khi NB được quyền tự do
lựa CSYT cung cấp dịch vụ mà mình tin tưởng xảy ra ngày càng tăng.
Có lẽ do chất lượng y tế của tuyến dưới chưa đáp ứng được nhu cầu
KCB của người dân. Các cơ sở KCB của tuyến dưới chưa đủ khả năng
chuyên môn để đảm bảo được chất lượng KCB như theo quy định phân tuyến
kỹ thuật, nên để xảy ra tình trạng có một tỉ lệ khá lớn người mắc bệnh nhẹ,
trung bình đã lên tuyến trên KCB. Bên cạnh đó, giá viện phí chưa hợp lí giữa
các tuyến, trong đó giá một số dịch vụ ở tuyến trên thấp hơn hay tương đương
tuyến tỉnh và huyện nên NB càng muốn vượt lên tuyến trên để được KCB.
Nguyên nhân trong bệnh viện: Thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP
ban hành ngày 25 tháng 4 năm 2006 về quy định quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập [27] đã giúp các BV phải tăng thu, phát triển kỹ
thuật và sự phát triển về chuyên môn, loại hình và chất lượng dịch vụ, gắn
liền với thương hiệu thu hút NB nhiều hơn mặc dù bị quá tải. Giường bệnh
được phân theo kế hoạch như hiện nay cho các BV vẫn không đủ đáp ứng nhu
cầu mong muốn được điều trị nội trú của NB. Nhân lực hạn chế, trong khi số
16
lượt NB đến KCB luôn có xu hướng tăng, công suất sử dụng giường bệnh cao
nhưng định mức biên chế trên đầu giường bệnh vẫn thấp hơn so với quy định,
không thay đổi. Thời gian điều trị nội trú còn kéo dài ở một số BV và một số
khoa, phòng đặc thù. Quy trình đón tiếp, vận hành và trình độ quản lý BV còn
hạn chế, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý chưa hoàn chỉnh
cũng là nguyên nhân góp phần kéo dài thời gian chờ đợi, gây ùn tắc, quá tải
trong BV.
Thực trạng quá tải tại BVMTW
Ngân Tuyền (2007) trong bài viết “Bệnh viện Mắt Trung ương: Quá tải”
đăng trên báo Báo điện tử An Ninh Thủ Đô ngày 18 tháng 7 đã cho thấy tình
trạng quá tải trong dịp hè (2007) tại BVMTW bởi số NB đến khám quá đông,
người dân chen lấn, xô đẩy nhau để giành chỗ xếp hàng, kẻ đứng người ngồi
la liệt. Đặc biệt, trong đợt dịch viêm kết mạc (đau mắt đỏ) đang bùng phát
khiến lượng NB tăng lên từng ngày, trung bình mỗi ngày, tại khoa KCB theo
yêu cầu (gồm tất cả các phòng khám) của BV tiếp nhận khám và điều trị cho
khoảng 1.000 NB, trong đó có tới 50% là NB mắc viêm kết mạc [39].
Lê Phương (2014) với bài viết “Bệnh nhân chen nhau xếp hàng khám
đau mắt đỏ” trên trang Báo điện tử Gia đình Việt Nam ngày 18 tháng 9 đã đưa
tin: mặc dù thời tiết mưa rất to, nhưng số lượng NB đến khám không hề giảm.
Thậm chí, tại BVMTW còn xảy ra tình trạng quá tải trong những ngày này.
Theo đó, số lượng NB quá đông, xếp thành hàng dài tại các phòng đăng ký
khám bệnh, gây nên tình trạng quá tải cục bộ. Trong số đó, có từ 60% đến
70% số NB đến để đăng ký khám bệnh đau mắt đỏ. Chính tâm lý lo lắng
trước dịch đau mắt đỏ đang hành hoành, nên nhiều người cho rằng: “Dù là
bệnh lành tính, nhưng cứ phải đến viện kiểm tra cho chắc” [40].
Thu Trang (2016) trên trang Báo điện tử Hà Nội Mới ngày 21 tháng 9 có
bài viết “Quá tải bệnh viện: căn bệnh nan y” phỏng vấn một cán bộ của