Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

MÔN tư tưởng hồ chí minh (ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐỜI SỐNG. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN VĂN HÓA ĐỜI SỐNG HIỆN NAY)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.29 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: Tư tưởng Hồ Chí Minh

ĐỀ TÀI:
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐỜI SỐNG.
LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN VĂN HÓA ĐỜI SỐNG HIỆN NAY

1


MỤC LỤC

2


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Văn hóa, một định nghĩa luôn gắn liền cùng một quốc gia, dân tộc. Là đặc điểm biểu
trưng, là cái riêng có được đúc kết bằng cả máu và hoa song hành cùng tiến trình tồn
tại của quốc gia, dân tộc ấy. Và, 4000 năm tồn tại của đất nước, con người Việt Nam,
lịch sử đã, đang ghi nhận sự hiện diện của một kho tàng văn hóa được đắp xây từ
thuở Hồng hoang mở cỏi đến thời đại Hồ Chí Minh. Trong kho tàng ấy, văn hóa đời
sống dường như là mảng sống động nhất vì chính nó là cái hồn của văn hóa Việt
Nam, hiện hiện trong cái cốt cách đã tạo nên hai tiếng Việt Nam. Nhưng, trước một
thế giới phẳng, khi xu hướng hòa bình, hữu nghị, giao lưu hợp tác được đề cao hơn
cả thì những con người tạo và giữ cái hồn của văn hóa Việt đứng trước một thách
thức lớn khi làn sống lớn từ bên ngoài lãnh thổ tràng vào một cách tự do buộc chúng
ta là những người chọn lọc. Tốt và xấu, giữ hay trừ, bài toán đặc ra phải làm sao tiếp
thu nền văn hóa tiên tiến của loài người tiến bộ mà vẫn giữ gìn, phát huy được giá trị
tinh hoa của văn hóa dân tộc, đồng thời bài trừ những mầm mống độc hại, tàn tích, hủ
tục còn tồn động. Để giải quyết bài toán đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên


cứu Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa đời sống và thực tiển văn hóa đời sống
ở nước ta hiện nay trong quá trình học tập và nghiên cứu môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
tại trường đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
2 Cách thức tiếp cận
Tiếp xúc với thực tiển qua mọi góc nhìn từ trực tiếp, khác quan đến các góc nhìn
truyền thông gián tiếp, kết hợp với nghiên cứu lý luận về Tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa đời sống. Đối chiếu bằng thống kê và so sánh đề tìm lý do trong các thực
trạng và đề ra giải pháp giải quyết.
3 Mục đích của đề tài
Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết các vấn đề phát sinh của cuộc
sống, từ nền kinh tế thị trường, từ thời kỳ quá độ. Rèn luyện và cải tạo chính bản thân
quan tư duy và hành động phù hợp với xu hướng của thời đại. Kế đó, đề tài còn được
nghiên cứu với mục đích tìm ra nguyên nhân và giải pháp cho các vấn đề còn tồn
động trong cách cư xử, hành động của một đại bộ phận quần chúng hiện nay, góp một
tiếng nói nhỏ nhầm xây dựng một hình ảnh lớn. Hình ảnh con người Việt Nam, hình
ảnh văn hóa Việt Nam.
1

3


PHẦN 2. NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa đời sống
1.1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Định nghĩa về văn hóa
- Khái niệm “văn hóa” có nội hàm phong phú và ngoại diện rất rộng. Chính vì vậy đã
có hàng trăm định nghĩa về văn hóa.
- Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn.

1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
- Tháng 8-1943, khi còn ở trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh đưa ra
định nghĩa về văn hoá: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.
Như
vậy:
+ Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất, bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh
thần
do
con
người
sáng
tạo
ra.
+Văn
hóa

động
lực
giúp
con
người
sinh
tồn.
+ Văn hóa là mục đích cuộc sống loài người.
1.1.3. Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
- Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra bốn điểm lớn định hướng

cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
+ Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
+ Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
+ Xây dựng chính trị: dân quyền.
+ Xây dựng kinh tế.
1.1.4. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa
- Nền văn hóa mới được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn bao hàm ba tính
chất: tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng.
+ Tính dân tộc của nền văn hóa được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều khái niệm như
đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, nhằm nhấn mạnh đến chiều sâu bản chất rất đặc
trưng của văn hóa dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm lẫn với các dân tộc khác.
Người cho rằng để được như vậy, phải “ trau dồi cho văn hóa, văn nghệ có tinh thần
thuần túy Việt Nam”, phải “lột tả cho hết tinh thần dân tộc”, đó là chủ nghĩa yêu nước,
khát vọng độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường,.. của dân tộc.
Tính dân tộc của nền văn hóa không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống tốt
đẹp ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử của đất nước.
+ Tính khoa học của nền văn hóa mới thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào
lưu tiến hóa của thời đại.
Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa
4


học, phản tiến bộ, phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít, đấu tranh chống lại chủ
nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín dị đoan, phải biết gạn đục, khơi trong, kế thừa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
+ Tính đại chúng của nền văn hóa thể hiện ở chỗ nền văn hóa ấy phải phục vụ nhân
dân và do nhân dân xây dựng nên.
Hồ Chí Minh nói, “ văn hóa phục vụ ai? Cố nhiên chúng ta phải nói là phục vụ công
nông binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân”, “ Quần chúng là những người sáng

tạo…”
1.1.5. Quan điểm về chức năng của văn hóa
- Chức năng của văn hóa rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa có
ba chức năng sau:
+ Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.
Tư tưởng và tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của con
người.
Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc. Đối với
nhân dân Việt Nam, đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Một
khi lý tưởng này phai nhạt thì không thể nói đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng đầu của văn hóa là phải làm thế
nào để ai ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do; phải làm thế nào để cho ai cũng “
có tinh thần vì nước quên thân, vì lợi ích chung và quên lợi ích riêng”.
Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con
người; yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét những thói hư, tật xấu, sự sa
đọa, …Tình cảm đó được thể hiện trong nhiều mối quan hệ: với gia đình, quê hương;
với bạn bè, anh em, đồng chí… Thông qua các mối quan hệ tốt đẹp, văn hóa phải góp
phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản thân, tin vào lý tưởng, tin vào nhân
dân và tin vào tiền đồ của cách mạng.
+ Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.
Nói đến văn hóa là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức của
người dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có thể hiểu biết
các lĩnh vực khác của đời sống, xã hội, như kinh tế, chính trị, lịch sử, khoa học – kỹ,
thực tiễn Việt Nam và thế giới…
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng
cao dân trí là để nhân dân có thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, góp phần
cùng Đảng xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
+ Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh;
hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.

Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói quen của cá
nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Các phẩm chất thường được thể hiện
qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc, lối ứng xử trong đời sống,…
Những phẩm chất và phong cách đẹp làm nên giá trị con người. Văn hóa giúp con
người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh thông
qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng; cái tiến bộ với cái lạc hậu,
bảo thủ. Từ đó giúp con người ngày càng tốt hơn và vươn tới cái chân, thiện mỹ để
hoàn thiện bản thân.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân,
nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ; văn
5


hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
1.2. Quan điểm của HCM về văn hóa đời sống
1.2.1. Định nghĩa về văn hóa đời sống
- Xây dựng đời sống văn hóa mới được Hồ Chí Minh chỉ ra ngay sau khi mới giành
được chính quyền, rồi nhanh chóng trở thành một phong trào quần chúng sôi nổi, tạo
động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
- Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới, được Hồ Chí Minh nêu ra với ba nội
dung: đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Ba nội dung này có quan hệ mật
thiết với nhau, trong đó đạo đức giữ vai trò chủ yếu.
+ Đạo đức mới: Để xây dựng đời sống mới trước hết phải xây dựng đạo đức mới.
Đạo đức mới theo chủ tịch Hồ Chí Minh là trung với nước , hiếu với dân; cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; yêu thương con người và tinh thần quốc tế trong sáng. Đó
là bốn phẩm chất chung và cơ bản nhất.
Ngay trong buổi họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị “ mở một chiến
dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM,
CHÍNH”. Sau này, Người đã nhiều lần khẳng định: “ Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm,
Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”, “ Nêu cao và thực

hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới”.
Ví dụ như trong công cuộc đổi mới đất nước, nhất là kì hội nhập quốc tế , phần lớn
HSSV đã ý thức được vai trò của mình đối với xã hội, có lý tưởng rõ ràng, thể hiện
nhiều ưu điểm như thông minh, cần cù, chịu khó, ham học hỏi, sống khiêm tốn, biết
tôn trọng kỉ cương, luật pháp, không ngại khó gian khổ, có khát vọng hoài bão làm
giàu,…Thực tế chứng mình có rất nhiều tấm gương vượt khó học giỏi, sinh viên vừa
học vừa làm kinh tế giỏi,…
HSSV luôn có sự quan tâm nhất định tới cộng đồng bằng việc thể hiện tình yêu
thương con người sâu sắc đối với những người có hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta dễ
dàng bắt gặp những hoạt động quyên góp ủng hộ đồng bào lũ lụt , thiên tai… hay tham
gia hiến máu nhân đạo…
HSSV Việt Nam hiện nay cũng là những người tích cực ủng hộ cho việc chống phân
biệt chủng tộc, chống phân biệt giàu nghèo, đối với bạn bè thế giới luôn thân thiện,
chân thành, cởi mở và tinh thần quốc tế trong sáng.
+ Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức. Đó còn là lối sống
văn minh tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn
hóa nhân loại.
Để xây dựng lối sống mới, Hồ Chí Minh yêu cầu phải sửa đổi “ cách ăn, cách mặc,
cách ở, cách đi lại”, đây chính là phong cách sống và phong cách làm việc gọi chung
là lối sống mới.
* Phong cách sống, theo Hồ Chí Minh, là phải khiêm tốn, giản dị, chừng mực, ngăn
nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít long ham muốn về vật chất, về
chức – quyền – danh – lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em thì
cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu yêu thương, quý mến, trân trọng con người; với
mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc, với người thì độ lượng, khoan dung.
* Phong cách làm việc, theo Hồ Chí Minh, phải có tác phong quần chúng, tác phong
6


tập thể – dân chủ, tác phong khoa học.

Tiêu biểu là những con người trẻ hiện nay dễ tiếp thu những cái mới, thích cái mới,
thích sự tìm tòi và sáng tạo. Sinh viên hiện nay từng bước khẳng định mình trong việc
lựa chọn ngành nghề hướng đến lựa chọn những kiến thức sao cho đáp ứng nhu cầu
thực tế, chuẩn bị kinh nghiệm làm việc cho tương lai, định hướng công việc sau khi ra
trường…trong HSSV có nhiều tấm gương người tốt việc tốt như giúp bạn trong học
tập, dung cảm cứu người, vượt khó học giỏi,…
+ Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới – nếp sống văn minh, là quá trình làm cho
lối sống mới dần dần thành thói quen, thành phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và
phát triển những thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Xây dựng nếp sống mới rất khó khăn, phức tạp, vì thói quen rất khó sửa đổi, nó có sức
ỳ cản trở ta. Thực tế cho thấy, cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu; cái xấu mà
quen, người ta có thể cho là thường. Vì vậy, quá trình đổi mới nếp sống phải rất cẩn
thận, chịu khó, lâu dài, không thể dùng cách trấn áp thô bạo đối với cái cũ, lạc hậu.
Phải tuyên truyền, giải thích một cách hăng hái, bền gan, chịu khó, cẩn thận, khôn
khéo, mềm mỏng,... Phải dùng biện pháp nêu gương: người nêu gương, nhà làm
gương, làng làm gương. Nói đi đôi với làm, nếu không, tuyên truyền giáo dục, xây
dựng nếp sống mới khó đạt kết quả.
Ví dụ như trong bộ phận HSSV hiện nay phần lớn đã xây dựng cho mình một nếp sống
văn hóa, vừa kế thừa và phát huy truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc
như: kính trên nhường dưới, tôn sự trọng đạo, yêu thương gia đình, bạn bè…đồng thời
cũng góp phần xóa bỏ những quan điểm lạc hậu như: trọng nam khinh nữ, phô trương
hình thức, chống các tệ nạn như cờ bạc, rượu chè, hủ tục, mê tín dị đoan. HSSV cũng
xây dựng cho mình một nếp sống khoa học, biết sắp xếp thời gian học tập, vui chơi
hợp lí, gần gũi với gia đình và bạn bè, ăn ở sạch sẽ, gọn gang. Nhiều tấm gương trong
học tập và rèn luyện đã được ghi nhận và tuyên dương, khen thưởng, là tấm gương
sáng cho bạn bè.
- Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải
cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì bỏ. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền
phức thì sửa đổi. cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm. Cái gì mới mà hay thì phải làm,
phải bổ sung.

- Xây dựng văn hóa đời sống mới nhằm biến Việt Nam từ một quốc gia nghèo nàn, lạc
hậu trở thành một quốc gia văn minh và phú cường là một công việc lâu dài và có
phương pháp tốt. Đòi hỏi sự quyết tâm của cả cộng đồng, nhưng bắt đầu từ mỗi con
người, mỗi gia đình với tư cách là một tế bào của xã hội.
1.2.2. Quan điểm của HCM về vai trò, vị trí của văn hóa đời sống
- Một là, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
Đây là quan điểm của Hồ Chí Minh từ sau Cách mạng Tháng Tám. Ở đây, Hồ Chí
Minh đã đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề
chủ yếu của đời sống xã hội và có mối quan hệ mật thiết với nhau.
+ Trong quan hệ với chính trị, xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng , chính trị, xã hội có được
giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng.
Chính trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hóa phát triển. Ở Việt Nam, tiến hành cách
mạng chính trị thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giải phóng
chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội từ đó giải phóng văn hóa, mở
7


đường cho văn hóa phát triển.
+ Trong quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là
nền tảng của việc xây dựng văn hóa.
Từ đó, Người đưa ra luận điểm: Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ
tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa.
- Hai là, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục
vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Người cho rằng văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động
lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, chính trị. Người nói: “ Trình độ văn hóa của
nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát
triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để
xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh”.

+ Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là văn hóa phải tham gia thực
hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
Trong kháng chiến chống Pháp, quan điểm “ Văn hóa cũng là một mặt trận”, “
Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”,… mà Người đưa ra đã tạo ra
phong trào văn hóa văn nghệ chưa từng thấy. Văn hóa ở trong cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc. Và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến có tính văn hóa.
Chính điều này đã tạo ra sức mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh thắng cuộc
chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
+ Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị
cũng phải có tính văn hóa, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại đang đòi hỏi.
Ngày nay, theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương gắn văn hóa với phát
triển, chủ đưa những giá trị văn hóa thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa
thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước.
Chương 2. Thực tiễn văn hóa đời sống ở nước ta hiện nay
2.1. Sự chuyển biến của văn hóa đời sống từ xưa đến nay
Về đạo đức:
Thang giá trị đạo đức Việt Nam hôm nay dù chưa được xác định một cách rõ ràng,
song
vẫn

thể
thấy
được
sự
biến
động
chung
đó:
- Từ chỗ coi trọng những giá trị chính trị - xã hội chuyển sang sự chú ý các giá trị lợi

ích vật chất. Từ chỗ lấy con người tập thể làm mẫu mực chuyển sang đề cao con người

nhân.
- Từ chỗ lấy đạo đức làm thước đo nhân cách trong quan hệ xã hội, chuyển sang coi
nhẹ đức dục, lấy đồng tiền làm vật chuẩn trong đối nhân xử thế. Trong tương lai nếu
không có sự định hướng thì sự bùng nổ những xung đột nhân sinh quan xoay quanh
những giá trị đạo đức như việc làm, gia đình, giới tính, giáo dục… sẽ khó kiểm soát.
- Từ chỗ sống vì lý tưởng chuyển sang lối sống thực dụng, chạy theo sự cám dỗ vật
chất, buông thả trụy lạc. Nhiều giá trị truyền thống, thuần phong mỹ tục bị coi thường,
xâm phạm.
8


Về lối sống:
- Lối sống tiêu thụ phương Tây đã từng dẫn xã hội đó đến sự què quặt, nhiều yếu tố
phi nhân văn vẫn đang ảnh hướng mạnh tới ý thức và hành vi nhiều người Việt Nam
hiện nay.
- Tâm lý tiêu thụ ở đây không chỉ nằm trong hoạt động bề ngoài, mà còn trở thành ý
thức, tư tưởng, thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội: từ vật chất đến tinh thần, từ
kinh tế đến văn hoá, thậm chí cả trí tuệ lẫn tình cảm. Tư tưởng tiêu dùng đã biến cả
nghệ thuật - một loại giá trị tinh thần không thể trao đổi theo quan hệ kinh tế thành
hàng hoá đơn thuần; giáo dục thành quan hệ đổi chác, mua bán; đời sống tâm linh, sự
thờ cúng vốn thiêng liêng nhiều khi cũng trở thành nơi thu lợi nhuận.
- Chạy theo “mốt” cũng là sự lây nhiễm lối sống tiêu dùng của xã hội phương Tây.
Nguyên tắc kinh tế tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận. Để có lợi nhuận cao thì phải tạo
vòng quay tư bản nhanh. Điều đó tất phải khuyến khích tiêu thụ nhanh. Nghệ thuật
kinh doanh đó là làm cho cái vửa ra đời phải trở thành cái không còn giá trị. Cái không
còn giá trị chỉ là cái hết “mốt". Khi đã hết "mốt” thì sản phẩm không còn ý nghĩa thực
dụng, nó chỉ còn là những tín hiệu giao lưu và thường xuyên bị đào thải. Đây là một
quá trình lãng phí vô nhân đạo.

- Từ lối sống tiêu thụ dẫn đến phân biệt giàu - nghèo qua cách chơi trội trong ý thức đề
cao tiện nghi. Tiện nghi ở đây được quan niệm là sự biểu hiện giá trị con người. Một
số người đua nhau xây nhà cao tầng không phải để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt. mà để
khoa trương sự giàu có. Có người sắm xe hơi loại sang, dùng hàng ngoại cao cấp, đắt
tiền... không cần tính tới kinh tế, mà chỉ nhằm mục đích là phân biệt địa vi kinh tế và
từ đó, phân biệt địa vị xã hội khinh miệt người nghèo! Có người còn hợm đời rằng, sự
giàu có về kinh tế sẽ quyết định sự giàu có về trí tuệ!
- Lối chơi thời thượng, sống trên tiền, tuyệt đối hoá đồng tiền, sùng bái hàng ngoại trở
thành một cách nghĩ, cách sống của một số nhà kinh doanh đang gặp thời, hãnh tiến,
tạo lối sống xa lạ với truyền thống dân tộc. Nhu cầu hưởng thụ theo kiểu trên tiền ở
một số người có tác động lớn tới việc chạy theo dịch vụ dưới nhiều dạng khác nhau, kể
cả các loại dịch vụ không lành mạnh, phi pháp. Đây chính là một trong những nguyên
nhân dẫn tới những tệ nạn xã hội: buôn bán trái phép, ma tuý, mại dâm, ăn chơi trác
táng.
- Lối sống lạnh lùng kiểu tiền trao cháo múc của xã hội tư sản tràn vào xả hội ta dẫn
đến tư tưởng xem thường thuần phong mỹ tục, thậm chí xem rẻ nhân phẩm con người,
xem phụ nữ là thứ đồ chơi. Lối ăn chơi sa đoạ, lười lao đông, kiếm lời trên người khác
gây nên những vết thương nhức nhối ngày càng khó cắt bỏ trên cơ thể lành mạnh của
lối sống xã hội chủ nghĩa mà hơn nửa thế kỷ nay, nhân dân ta đã xây dựng.
9


Về nếp sống:
Trước sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư bản, sự khó khăn trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, một số người mất niềm tin và chạy theo lối sống tư bản chủ nghĩa. Nhiều
giá trị truyền thống trong các nếp sống phong tục tập quán, lễ nghi của người Việt
Nam bị mai một.
- Lối sống tiêu thụ phương Tây, những biểu hiện lai căng trong hành vi và ngôn
ngữ giao tiếp, kiểu mẫu thời trang và nếp sinh hoạt đang trở thành thời thượng. Lối
sống ngoại lai có chiều hướng lấn át lối sống truyền thống. Quan hệ người - người,

tình làng nghĩa xóm, lòng bao dung độ lượng dường như mờ nhạt đi rất nhiều trong
giao tiếp hàng ngày. Hoạt động giao tiếp hiện nay chủ yếu diễn ra ở cơ quan. đoàn thể,
xí nghiệp, trường học, nơi công việc kiếm sống, hối hả làm giàu. Sự đùm bọc cưu
mang cần đến sự kêu gọi, ít diễn ra một cách tự nguyện tử đáy lòng! Quan hệ mật thiết
của truyền thống xã hội nông nghiệp xưa kia không còn đậm nét. Có thế nói nếp sống
công nghiệp và hiện đại đã làm xơ cứng lối sống tình cảm, mất đi những cảnh sinh
hoạt thanh bình của làng quê. tình cảm gắn con người với thiên nhiên. Thế giới tinh
thần, tình cảm không những ít được quan tâm, mà ngày còn bị nghèo đi, thậm chí còn
bị què quặt.
- Tư tưởng tuyệt đối hoá điều kiện vật chất và kỹ thuật, lấy phương tiện sống làm
thước đo sự phát triển con người và xã hội hết sức sai lầm của không ít người do
không phân biệt được đúng sau tốt xấu của các giá trị đích thực, làm sai lạc đi nhiều
giá trị của lối sống theo lý tưởng nhân văn cao đẹp mà ông cha ta đa hàng nghìn năm
vun đắp.
2.2. Thực trạng của văn hóa đời sống ở nước ta hiện nay
2.2.1. Mặt tích cực
Địa vị các thành viên trong gia đình trở nên bình đẳng, dân chủ cũng là một thay
đổi lớn trong mối quan hệ gia đình Việt Nam hiện nay. Sự bình đẳng, dân chủ biểu
hiện rõ nhất trong mối quan hệ vợ chồng.
Ngày nay, trong những gia đình tiến bộ, cha mẹ và con cái là những “người bạn
vong niên”. Cha mẹ có thể lắng nghe, chia sẻ với con cái mọi niềm vui nỗi buồn, đặc
biệt các bậc phụ huynh luôn tôn trọng ý kiến, lập trường, ước mơ, hoài bão chính đáng
của con cái…không còn đặt lợi ích gia đình lên trên lợi ích cá nhân, đề cao lòng hiếu
thảo, đòi hỏi sự phục tùng tuyệt đối của con cái đối với bố mẹ. Con cái một lòng nghe
theo ý cha mẹ mới làm tròn đạo hiếu, ngay cả lĩnh vực đáng được quyền tự do nhất là
tình yêu, hôn nhân cũng phải “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”.
Lối sống:
Phần lớn HS-SV đã xây dựng cho mình một nếp sống văn hóa, vừa kế thừa và
phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp như: Kính trên nhường dưới, tôn sư trọng đạo,
cư xử đúng mực,...

10


HS-SV cũng xây dựng cho mình một nếp sống khoa học, biết sắp xếp thời gian học tập
vui chơi.
Bên cạnh phát huy những truyền thống tốt đẹp lối sống HS-SV hình thành những đặc
điểm như: tính chủ động, thực tế,năng động.
2.2.2. Mặt hạn chế
Về lối sống:
Bữa cơm chung, đầm ấm, thân mật trong gia đình Việt một thời còn thiếu thốn giờ
đang dần biến mất vì thừa kinh tế nhưng thiếu thời gian. Trong những ngôi nhà rộng
rãi, xây dựng theo kiểu hiện đại, không ít gia đình mỗi người một tô, ngồi một góc, kẻ
ăn trước, người ăn sau,dần thành nếp quen và coi đó là chuyện thường.
Sự thay đổi bữa cơm gia đình theo thời gian:
Nhiều bậc cha ông đến giờ vẫn còn nhớ như in cái thời đói kém, ngày chỉ ăn hai
bữa là bữa trưa và bữa tối. Chỉ gia đình nào con quan, con địa chủ khá giả mới có tiền
ăn quà sáng. Thậm chí, vào giai đoạn bao cấp, kinh tế ách tắc, nhiều lúc thiếu lương
thực trầm trọng nên một thời gian dài, nhiều người chuyển sang chỉ ăn một bữa. Ấy là
còn chưa kể có những lúc phải ăn độn, ăn cháo, ăn bo bo, khoai, sắn thay cơm. Nhưng
trong những bữa ăn đạm bạc ấy, tất cả các thành viên trong gia đình đều góp mặt đông
đủ để san sẻ từng miếng khoai, miếng sắn.
Xã hội phát triển mang đến cuộc sống ngày càng hiện đại, đầy đủ và cũng kéo theo
sự chuyển dịch lớn lao đến từng nhà. Nhịp sống gấp gáp ấy khiến nhiều gia đình chỉ
họp mặt đầy đủ vào bữa cơm cuối ngày. Đến 7, 8 giờ tối, khi cơm canh đã bày biện
xong xuôi trên bàn, cả nhà mới ngồi xuống dùng bữa cơm chung đầu tiên và cũng là
duy nhất trong ngày. Ấy là còn chưa kể, có những ngày việc ở cơ quan bận rộn, bố mẹ
phải làm thêm giờ, không kịp về dùng bữa tối, hay con cái đi học thêm phụ đạo, năng
khiếu lớp buổi tối nên phải ăn sau. Đó là những ngày mà mâm cơm của cả nhà vô cùng
trống vắng, nhưng rồi ai cũng quen dần…
Nhiều cặp vợ chồng trẻ không sống cùng bố mẹ lựa chọn cơm hàng thay cho bữa

cơm gia đình ở nhà.
Một số bà mẹ trẻ bận rộn bây giờ còn ngại cơm nước, vừa mệt, vừa mất thời gian
nên có khi gọi điện đặt luôn dịch vụ “cơm lười” trên mạng internet. Chỉ nhà nào còn
sống chung với ông bà thì may ra còn giữ được cái nếp sinh hoạt từ thời các cụ để lại.
Cái thời mà cứ bữa cơm nào cũng phải đông đủ cả nhà thì mọi người mới bắt đầu động
đũa mà xung quanh bữa cơm cũng có bao điều đáng bàn.
Tuy nhiên ở đâu đó vẫn còn một số gia đình còn giữ bữa cơm gia đình.
2.2.3. Đối với học sinh – sinh viên
2.2.3.1. Đạo đức:
Tích cực.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước nhất là thời kì hội nhập kinh tế thế giới,
phần lớn HS-SV đã và đang ngày càng ý thức được vai trò của mình đối với XH có lý
tưởng sống rõ ràng, thể hiện rất nhiều ưu diểm như thông minh cần cù, chịu khó, ham
học hỏi, khiêm tốn, biết tôn trọng kĩ cương, luật pháp,có khát vọng hoài bão làm giàu
cho gia đình, cho quê hương đát nước.
11


-

-

-

-

-

HS-SV hiện nay tích cực góp phần thực hiện tuyên truyền và hành động để thực
hiện khẩu hiệu “Ba không” trong giáo dục, Trong học tập ngiên cứu họ cũng có tinh

thần tự giác rèn luyện và vững vàng trước những cám dỗ.
Đối với cộng đồng HS-SV cũng có sự quan tâm nhất định, đặc biệt là những người có
hoàn cảnh khó khăn thể hiện tình yêu thương con người sâu sắc. Điều này được thể
hiện qua hành động như tham gia hiến máu nhân đạo, quyên góp ủng hộ đồng bào lũ
lụt,… Họ cũng có tinh thần giúp đở nhau trong học tập, giúp đở bạn bè có hoàn cảnh
khó khăn, hoạn nạn,..
Hạn chế:
Thực tế cho thấy có một bộ phận nhỏ HS-SV phai nhạt lý tưởng sống, không có
định hướng rõ ràng trong học tập, có tư tưởng tiêu cực về cuộc sống, xã hội, sống hờ
hững với những gì xảy ra, sống theo quan niệm “được đến đâu hay đến đó”, “ nước
đến chân mới nhảy”, theo chủ nghĩa cá nhân, dễ bị cám dỗ bởi vật chất,…
Rất nhiều HS-SV bị sa vào tệ nạn xã hội ( hút xách, nghiện game, trộm cướp,..), ăn
chơi, thờ ơ khi thấy người khác gặp nạn,…
Nguyên nhân:
Giới trẻ thiếu sự tự tu dưỡng rèn luyện bản thân, không vững vàng tư tưởng chính trị.
Thiếu sự giáo dục và tuyên truyền sâu rộng về tư tưởng đạo đức trong nhà trường.
Tình trạng giáo dục trong gia đình bị buông lỏng. Hiện nay có một bộ phận giới trẻ từ
khi được sinh ra đã được nuông chiều quá mức, sống trong môi trường không hoàn
thiện của gia đình.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường làm đảo lộn các giá trị đạo đức tạo nên các vấn đề
nhức nhối cho xã hội: tăng khoảng cách giàu nghèo, tệ nạn xã hội tăng,…
Giải pháp:
Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ từ gia đình,
nhà trường đến xã hội.
Mỗi HS-SV phải tự rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và phẩm chất để
không chỉ tiếp thu mà còn phát huy những giá trị đạo đức.
2.2.3.2. Lối sống mới:
Tích cực:
Bên cạnh phát huy những lối sống tốt đẹp trong lối sống của HS-SV hình thành
những đặc điểm như : tính chủ động, thực tế, năng động, lối sống tự do theo pháp luật,

tự lo toan, tự làm giàu,…
SV hiện nay đã từng bước định hướng cho mình trong việc tìm ngành nghề từ đó
lựa chọn kiến thức để đáp ứng được nhu cầu, tích lũy kinh nghiệm cho tương lai.
Hạn chế:
Một bộ phận thanh niên thực hiện lối sống thực dụng tôn thờ đồng tiền, chỉ biết hưởng
thụ đua đòi, chạy theo giá trị ảo, sống gấp,…dẫn đến thói ích kĩ, ủy lại, dựa dẫm, thụ
động,..
Sự bùng nổ công nghệ thông tin đã hình thành một môi trường ảo, hình thành một lối
sống ảo trong nhiều HS-SV gây ra nhiều hậu quả như: SV chơi game thâu đêm suốt
sáng, biến mình thành những nhân vật ảo, thích xem những văn hóa phẩm đồi trụy,…
Trong xã hội còn tồn tại nhiều vấn đề như: ăn chơi, đua đòi, đặc biệt là bạo lực học
đường, sống thử, nạn nạo phá thai ngày càng tăng.
Hình ảnh nữ sinh ăn mặc hở hang, phảm cảm dễ dàng bắt gặp trên phố, hay trường
học.
Nguyên nhân:
Do chưa được nhà trường, gia đình quan tâm, giáo dục, quản lý đúng mức, mặt
12


khác HS-SV được tiếp xúc với nhiều thông tin trên mạng nhất là game online mang
tính bạo lực. Có quá nhiều dịch vụ như: karaoke, nhà nghỉ, cầm đồ,..mọc lên gần các
trường học,...
Giải pháp:
Tạo môi trường sống lành mạnh, văn minh tiến bộ ( cha mẹ làm gương cho con
cái, thầy cô làm gương cho HS-SV, phải có sự quản lý chặt chẽ của cơ quan quản lý
nhà nước,..)
HS-SV cần xây dựng cho mình một ý thức học tập tốt, lối sống lành mạnh.
Tăng cường quản lý giáo dục ở gia đình. Các bậc cha mẹ phải quan tâm đến đời
sống tâm tư tình cảm của con để có sự can thiệp đúng lúc, tăng sự gắn bó giữa các
thành viên,..

Giáo dục giới tính thường xuyên trang bị kiến thức về giới tính cho HS-SV thông
qua các buổi trao đổi, giao lưu,..
2.2.3.3. Nếp sống mới:
Tích cực
Phần lớn HS-SV đã xây dựng cho mình một nếp sống văn hóa, vừa kế thừa và
phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp như: Kính trên nhường dưới, tôn sư trọng đạo,
cư xử đúng mực,...đồng thời xóa bỏ những quan niệm lạc hậu như: trọng nam khinh
nữ, phô trương hình thức,..
HS-SV cũng xây dựng cho mình một nếp sống khoa học, biết sắp xếp thời gian
học tập vui chơi.
Bên cạnh phát huy những truyền thống tốt đẹp lối sống HS-SV hình thành những
đặc điểm như: tính chủ động, thực tế,năng động.
Hạn chế:
Nếp sống mới ở một số bộ phận HS-SV đang bị biến dạng. Nhiều HS-SV chạy
theo lối sống phương tây, xuất hiện những biểu hiện lai căng trong hành vi, ngôn ngữ
giao tiếp,… Lối sống ngoại lai có chiều hướng lấn át lối sống truyền thống.
Trong gia đình nhiều HS-SV sống khép mình, ít hoặc không có sự chia sẽ giữa các
thành viên, khoảng cách giữa các thành viên trong gia đình tăng lên.
Nhiều HS-SV thiếu tự giác trong học tập, con không tôn trọng bố, mẹ, ông ,bà,
không tôn trọng thầy cô, “lừa thầy dối bạn”,
Nguyên nhân
Nền giáo dục chưa chú trọng đến việc xây dựng lối sống lành mạnh cho HS-SV
chỉ biết chú trọng đến tin học, ngoại ngữ coi nhẹ lịch sử, đạo đức,..
Nền kinh tế mở của cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm cho
nhiều luồng văn hóa, thông tin khác nhau ảnh hưởng đến tư tưởng nếp sống của HSSV.
Giải pháp:
Giáo dục cho HS-SV nhận biết được giá trị sống , cách ứng xử giữa con người với
con người.
Gia đình cần xây dựng nếp sống văn minh , giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống
để xây dựng cho con em mình một nếp sống đẹp, vừa giữ được thuần phong mĩ tục

vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa hiện đại.
2.2.4. Về đời sống tinh thần:
1 Từ ngày đổi mối đến nay đời sống văn hóa tinh thần ở nưốc ta rõ ràng đã
được cải thiện thêm một bưốc. Điều này không chỉ được thể hiện ở sự phục hưng các
giá trị truyền thống, ở các hình thức hưởng thụ văn hóa đa dạng và phong phú, mà còn
13


ở sự tham gia ngày càng đông của người dân vào quá trình vận hành của văn hóa từ
khâu sản xuất, sáng tạo đến các khâu lưu truyền, phân phối và tiêu thụ. Như vậy, sau
hơn 10 năm đổi mối, chúng ta không chỉ "được mùa" về kinh tế, mà "được mùa" cả về
văn hóa.
2 Chúng ta đã khắc phục được những sai lầm một thời về văn hóa, trả lại dòng
chảy liên tục của văn hóa dân tộc từ truyền thống đến hiện tại và tương lai. Đây là một
thành tựu, đồng thời cũng là một nguồn lực vô tận đã được khai mở cho sự phát triển
bền vững. Bởi vì lịch sử đã chứng minh rằng không phải khoa học hay công nghệ, mà
văn hóa mối là cơ sở vững chắc nhất cho mọi sự phát triển. Và triết lý phát triển của
chúng ta là phải luôn đứng vững trên nền tảng của các giá trị tinh thần truyền thống
của dân tộc và đất nưốc.
3 Ccí nhiên là đời sông văn hóa được cải thiện cũng đã tác động trực tiếp trở
lại đôi vối sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Ve kinh tế, đó là các hoạt động tương
thân tương ái, hợp tác, hỗ trợ nhau trong sản xuất, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo. Ve
xã hội, các quan hệ tốt đẹp trong gia đình, làng bản đã được khơi dậy, trật tự xã hội
được đảm bảo. Ve mặt tinh thần, nhiều loại hình văn hóa đang cùng tồn tại, sản phẩm
văn hóa có sô^ lượng nhiều hơn và chất lượng tốt hơn đã mở ra nhiều khả năng lựa
chọn trong việc vui chơi, giải trí của mỗi thành viên xã hội.
4 Tuy nhiên, trong đời sông văn hóa ở ta cũng còn nhiều bất cập. Khi phục
hưng các giá trị truyền thông, đôi khi người ta cũng làm sông lại các hủ tục của một
thời xưa cũ như mê tín dị đoan hay phô trương, lãng phí. Trong việc hưởng thụ vẫn
còn sự khác biệt giữa người giầu và người nghèo, nông thôn và đô thị, giữa phương

thức cổ truyền và phương thức mối, giữa nhu cầu ngày càng cao và các cơ sở dịch vụ
còn thấp kém. Đấy là chưa kể một bộ phận công chúng, nhất là lốp trẻ, còn chịu sự tác
động của các thứ văn hóa ngoại nhập, lai căng, đồi trụy. Đây là vấn đề cần được quan
tâm từ góc độ quản lý văn hóa trong thời gian trưốc mắt.
2.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng, phát triển văn hoá và trong
giai đoạn mới
Mục tiêu phấn đấu của Đảng và nhân dân ta hiện nay là vì sự nghiệp “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là đã chú trọng giải quyết các mối
quan hệ cơ bản giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá. xã hội; giữa lợi ích của
cá nhân và lợi ích của cộng đồng; giữa lợi ích của hiện tại và lợi ích của tương lai;
giữa lợi ích của con người và lợi ích của môi trường trên cơ sở quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở đây, chúng ta không nhắc lại toàn
bộ Nghị quyết của Đảng ta về vấn đề văn hoá và con người mà chỉ đề cập đến một số
vấn đề trọng tâm cần chú ý hiện nay.
Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà chúng
ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết “Xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” mà Hội nghị Trung
ương 5 khóa VIII (1998) đưa ra đến nay vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ
đạo quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa,
14


bổ sung và phát huy trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh:
“Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”1.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định: “Xây dựng nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong
đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”2.
Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là
phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự
chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đâm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất
nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ
đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. xã
hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”3.
- Về phương hướng xây dựng và phát triển văn hóa hiện nay, chúng ta cần nhấn
mạnh hai điểm sau:
Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta phải phát huy chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ tự cường để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đây là thời kỳ hoà bình và xây dựng đất
nước nhưng không phải là thời kỳ nghỉ ngơi, hưởng lạc mà là thời kỳ mở ra một cuộc
chiến đấu mới chống lại nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước phát triển giàu mạnh.
Trong cuộc chiến đấu quyết liệt này, chủ nghĩa yêu nước, sự thông minh và giàu
năng lực sáng tạo của nhân dân, truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập, tự
chủ, tự cường là cơ sở tạo nên sự thống nhất về ý chí, bản lĩnh của dân tộc trong quá
trình đấu tranh gian khổ, vất vả, đầy thách thức để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì
vậy, giáo dục truyền thống yêu nước, bổ sung những nội dung mới vào khái niệm yêu
nước, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với tư tưởng cách mạng và tiến bộ của thời đại; giáo
dục tinh thần tự hào, tự tin dân tộc, tin vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ,
Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn; bồi dưỡng quyết tâm chính trị, xây dựng ý chí và
1
2

3
15


bản lĩnh của cả dân tộc trong cuộc chiến đấu mới này là nhiệm vụ chung của toàn
Đảng, toàn dân ta.
Thứ hai, về hành động, chúng ta phải chủ động, tích cực, sáng tạo hơn nữa
trong việc nâng cao chất lượng xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, tạo điều kiện và cơ hội nhiều hơn nữa để nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực và khoa học công nghệ, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ở đây, cần phát huy tính tích cực chính
trị của công dân, chú trọng tới các phong trào quần chúng trong tổ chức và xây
dựng sự nghiệp phát triển văn hoá, làm cho văn hóa gắn kết chặt và đồng bộ hơn với
phát triển kinh tế, xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị và thấm sâu vào toàn bộ
đời sống xã hội.
Năm quan điểm chỉ đạo cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp
phát triển văn hoá nước ta là:
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
- Nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Năm quan điểm này đều mang tầm chiến lược lâu dài cần quán triệt nhất quán
và xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá ở nước ta trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Để thực hiện phương hướng về quan điểm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn
hóa, Đảng ta đã đề ra 10 nhiệm vụ và 4 giải pháp lớn. Những nhiệm vụ đó là:
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
2. Xây dựng môi trường văn hóa.
3. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật.
4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa.
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo và khoa học công nghệ.
6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số.
16


8. Chính sách văn hóa đối với tôn giáo.
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.
10. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thiết chế văn hóa.
Những giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hóa là
1. Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
2. Xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa.
3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa.
4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa.
Nghị quyết Trung ương năm khóa VIII đã xác định: để đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước như
Bác Hồ đã dạy: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Phải đẩy mạnh việc giáo dục tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Gương mẫu là một
nội dung, một phương thức trọng yếu trong công việc lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khóa VIII đã bao quát được
tổng thể những nội dung cơ bản và trọng yếu để xây dựng và phát triển văn hóa
trong thời kỳ đổi mới. Vì vậy, khi tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ mười khóa IX đã khẳng

định Nghị quyết này ra đời đã “đáp ứng đúng yêu cầu phát triển của đất nước và
nguyện vọng của nhân dân, đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được xã hội nhiệt
tình hưởng ứng thực hiện, gắn kết chặt chẽ hơn văn hóa với các lĩnh vực của đời
sống xã hội, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị và tạo nên
những thành tự về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… của đất nước” 4.
Và đây là “Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược về văn hóa của cách mạng nước ta
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết là một nhân tố quyết định để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân ta,
làm cho nền tảng tinh thần của chế độ ta, của xã hội nước ta ngày càng vững chắc,
tiến bộ, phong phú, góp phần giữ vững độc lập, thống nhất, định hướng xã hội chủ
nghĩa và thúc đẩy nhanh quá trình phát triển đất nước” 5.
Trên cơ sở khẳng định những thành tựu và chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm
trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và các Nghị quyết của
Đảng về văn hóa, Kết luận của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ mười khóa
IX đã nhấn mạnh mục tiêu sau:
Thông qua việc triển khai các nhiệm vụ văn hóa cụ thể, mục tiêu cần phải đạt
4
5
17


tới là tạo ra được sự phát triển đồng bộ về chất lượng văn hóa trên các mặt:
a. Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng,
chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa- nền tảng tinh thần xã
hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định
bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.
b. Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng
với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần
tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền
thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự

phát triển của thời đại.
c. Vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc
anh em, làm phong phú nền văn hóa chung của cả nước, vừa kiên trì củng cố và nâng
cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, đấu tranh chống các khuynh
hướng lợi dụng văn hóa để chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
d. Nghiên cứu, nắm bắt kịp thời những thành tựu của văn hóa- thông tin hiện
đại, huy động mọi tiềm lực xã hội cho sự nghiệp phát triển văn hóa, chăm lo các tài
năng, chủ động có kế hoạch, chính sách, cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho văn hóa
nước nhà phát triển vững chắc và đúng hướng trong thời kỳ mới.
Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khóa IX đã xác định nhiệm vụ trọng tâm
là tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống và đời sống
văn hóa lành mạnh trong xã hội; nâng cao chất lượng và hiệu quả nhiệm vụ xây dựng
con người Việt Nam theo 5 đức tính được xác định trong Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII); chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú.
Đại hội X của Đảng (2006) đã tiếp tục khẳng định những quan điểm cơ bản của
Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa được nêu lên trong các văn kiện trước đây và
nhấn mạnh tư tưởng phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội. Đảng ta khẳng
định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế- xã hội, làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”6. Đồng thời, Đảng ta cũng
chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng
yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa- nền tảng tinh
thần của xã hội”7.
6
7
18



Như vậy, vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa được đặt trong mối quan hệ
biện chứng giữa ba lĩnh vực cơ bản là kinh tế, chính trị và văn hóa. Sự phát triển
toàn diện và bền vững của đất nước trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi phải phát triển đồng
bộ cả ba lĩnh vực này và mỗi lĩnh vực đều có quan hệ hữu cơ với các lĩnh vực khác,
tạo nên sự hợp lực bền vững của phát triển, trong đó văn hóa là nền tảng tinh thần cho
sự phát triển kinh tế và là cơ sở của công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính
trị. Khẳng định tư tưởng quan trọng này trong đường lối văn hóa của Đảng, chúng ta
cần phải phê phán quan điểm “duy kinh tế” hoặc “duy chính trị” hoặc “duy văn
hóa” trong phát triển. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế, chính trị và văn hóa
ngày càng chiếm vị trí đặc biệt trong đường lối xây dựng và phát triển đất nước, thể
hiện tầm nhìn sáng suốt của Đảng về quá trình phát triển bền vững của đất nước. Đây
cũng là tư tưởng mới thể hiện sự sáng tạo của Đảng ta trong quá trình vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở kế thừa các quan điểm của Đảng ta về phát triển văn hóa trong thời
kỳ đổi mới vừa qua, Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh một số chủ trương cần thực
hiện là:
- Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị
tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa
kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
- Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, coi
trọng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong ứng
xử. Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ - đạo đức,
lối sống, thể chất, lòng tự tin dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật,
nhất là trong thế hệ trẻ.
- Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Thực hiện tốt bình đẳng giới, sự
tiến bộ của phụ nữ; chăm sóc, giáo dục, bảo vệ quyền trẻ em.
- Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân theo quy định của

pháp luật.
- Khuyến khích tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật.
- Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao.
- Coi trọng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc.
- Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin, báo chí, internet, xuất bản. Đảm bảo
quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…
- Đấu tranh phòng, chống các biểu hiện phản văn hóa, các tiêu cực và tệ nạn xã
19


hội.
- Nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây đựng dời sống văn hóa.
Nhìn lại các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta thấy Đảng ta luôn luôn xuất phát từ thực tế khách
quan, nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đề xuất một cách chủ động sáng tạo các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, xây dựng những
nhiệm vụ, nội dung và giải pháp cụ thể cho từng giai đoạn cách mạng, vừa đảm bảo tính kế
thừa, vừa đảm bảo sự phát triển để từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chính nhờ sự
sáng tạo và năng động đó, đường lối văn hóa của Đảng đã đáp ứng đúng nhu cầu và đòi hỏi
của nhân dân, được nhân dân hưởng ứng và nhiệt tình thực hiện, tạo thành một sức mạnh
mới để làm động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, góp phần giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, củng cố hệ thống chính trị, giữ vững an ninh quốc phòng, góp phần to lớn
vào sự phát triển bền vững của đất nước.
2.4. Vận dụng tư tưởng HCM về định hướng phát triển văn hóa đời sống
Xây dựng lối sống mới có lý tưởng, có đạo đức theo hướng văn minh, tiên tiến,
kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Cùng với việc bồi dưỡng, nâng cao đạo đức, việc xây dựng Đời sống mới đòi hỏi phải
“sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong Đời sống của mọi người, tức là

sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”. Theo Hồ Chí Minh, đó
là năm cách phải sửa đổi đối với mỗi người cũng như đối với một tập thể, một cộng
đồng. Cách ăn, mặc, ở không phụ thuộc vào những thứ dùng để ăn, mặc, ở nhiều hay
ít, sang trọng hay đơn giản, mà lại phụ thuộc vào lối sống có hay không có văn hóa của
mỗi con người(4).
Theo Hồ Chí Minh, phải xây dựng một phong cách khiêm tốn, giản dị, chừng
mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham
muốn về vật chất, về chức - quyền - danh - lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè,
đồng chí, anh em thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu lòng yêu thương quý mến
con người, trân trọng con người; đối với mình thì chặt chẽ, đối với người khác thì
khoan dung, độ lượng. Người cho rằng: “Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất
phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, lòe lẹt”. Không phải Người phủ nhận nhu cầu chính đáng
của mỗi người trong việc cải thiện và nâng cao điều kiện sinh hoạt của mình ngày càng
tốt hơn, ai mà chẳng muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng muốn phải đúng thời, đúng hoàn
cảnh. Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn
ngon mặc đẹp, như vậy không có đạo đức(5).
Xây dựng nếp sống mới. Theo Người, quá trình xây dựng lối sống mới cũng là quá
trình làm cho lối sống mới dần dần trở thành thói quen ở mỗi người, thành phong tục
20


tập quán của cả một cộng đồng, trong phạm vi một địa phương hay mở rộng ra cả
nước và gọi là nếp sống mới hay nếp sống văn minh. Nếp sống mới mà chúng ta xây
dựng phải kế thừa những truyền thống tinh thần tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục lâu
đời của dân tộc ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta chẳng những phải biết kế thừa mà còn phải
phát triển cải tạo những phong tục tập quán cũ lạc hậu, bổ sung những cái mới tiến bộ
mà trước đó chưa có. “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái
gì mới cũng làm hết. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ, ví dụ: Ta phải bỏ hết những tính
lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại

cho hợp lý, thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ ta phải giảm bớt đi. Cái gì mới mà
hay thì ta phải làm, thí dụ: Ăn ở hợp vệ sinh, làm việc ngăn nắp”.
Việc xây dựng Đời sống mới phải bắt đầu từ từng người, từng gia đình, vì mỗi
người là một cá thể để tạo nên gia đình, mỗi gia đình là một tế bào để tạo nên xã hội.
Mỗi người, mỗi gia đình đều thực hiện Đời sống mới thì mới có thể xây dựng được
Đời sống mới ở các tập thể, các đơn vị, ở làng xã, phố phường cho đến cả nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt nhấn mạnh và đòi hỏi mỗi người, mỗi gia đình phải thực
hiện Đời sống mới. “Do nhiều người nhóm lại thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà
thành nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước
hèn. Nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh... Nếu mọi người đều cố
gắng làm đúng Đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường”, “Ai cũng làm như
thế, thì tự nhiên nước Việt Nam ta trở nên một nước mới, một nước văn minh”. Ý
nghĩa đó được thể hiện trong những câu nói của Người đã trở thành rất quen thuộc với
chúng ta: “Văn minh thắng bạo tàn”, “Đảng là đạo đức, là văn minh”... Ngày nay, việc
mở rộng Cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa cũng là theo
tinh thần đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, là tấm gương rèn luyện đạo đức cách mạng, trung với
Đảng, với nước, hiếu với dân; Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư; lòng nhân ái
bao la, trong sáng, thủy chung. Tấm gương rèn luyện hàng ngày như một nếp tự nhiên,
không gượng ép để có lối sống của một nhà văn hóa kiệt xuất, một hình ảnh nhà văn
hóa lớn Việt Nam vừa làm thơ, vừa đánh giặc “giữa dòng bàn bạc việc quân”, “chống
gậy lên non xem trận địa”, và ung dung tự tại lái con thuyền Việt Nam vượt qua mọi
thác ghềnh. Đồng thời, đó là lối sống giản dị, thiết thực, hòa đồng, chân thành, trung
thực trong ứng xử với mọi người và làm chủ bản thân trong mọi hoàn cảnh.
21


Vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về Đời sống văn hóa mới là điều cần thiết,
cấp bách trong thời đại hiện nay - thời đại kinh tế thị trường kéo theo nguy cơ biến đổi
các giá trị văn hóa truyền thống. Sự thực đó đòi hỏi chúng ta càng phải nghiêm túc học

tập và làm tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
về xây dựng Đời sống văn hóa mới, sẽ đáp ứng được yêu cầu chung của công cuộc đổi
mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng được sự mong đợi của đông
đảo cán bộ, Đảng viên và toàn thể nhân dân.
2.5. Trách nhiệm của sinh viên đối với vấn đề văn hóa đời sống
Trước những thách thức và khó khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên
phải tự đặt ra cho bản thân mình câu hỏi: Là những trí thức tương lai của đất nước,
mình đã, đang và sẽ làm gì để góp phần đưa đất nước phát triển, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc?
Để trả lời được câu hỏi nêu trên, mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện,
tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự
phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn
sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh.
Với trách nhiệm của mình, Hội Sinh viên Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh việc
giáo dục tư tưởng, đạo đức, tác phong sống trong sinh viên và coi đây là nhiệm vụ
quan trọng, cấp bách, cần thường xuyên thực hiện tốt. Đẩy mạnh tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu liên quan lịch sử hào hùng, truyền thống văn hóa của đất nước, của quê
hương. Hơn nữa, phải chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động
định hướng cho sinh viên tiếp thu những mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại;
đồng thời khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của
dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với những biểu hiện vô cảm; khơi dậy tinh thần
tương thân, tương ái trong tuổi trẻ.
Hội Sinh viên Việt Nam các cấp cần trở thành mái nhà chung ấm áp để sinh viên
đóng góp, cống hiến trong các phong trào Hội.
Hội Sinh viên cần tạo nhiều hơn nữa các sân chơi lành mạnh để đáp ứng nhu cầu
học tập, vui chơi và giải trí của hội viên, sinh viên. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện
để sinh viên đăng ký và tham gia nghiên cứu, thực hiện các đề tài khoa học, trong đó
chú trọng các đề tài liên quan bảo vệ, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
22



Những hội viên và quan trọng hơn là những cán bộ nòng cốt của Hội phải là
những người tiên phong đi đầu, làm gương trong công tác này, chủ động xây dựng tác
phong, lối sống đẹp, sống có ích... và động viên, khuyến khích các bạn trẻ hưởng ứng.
Được như vậy, vai trò của Hội Sinh viên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc sẽ nhanh chóng được khẳng định.

23


PHẦN 3: KẾT LUẬN
Như vậy, văn hóa là toàn bộ những công cụ được con người sản sinh ra vì chính
lẽ sinh tồn của chính con người, nó gắng liền với tiến trình tồn tại và phát triển của con
người. Trong quá trình hình thành và phát triển ấy đôi khi còn tồn tại những mặt hạn chế,
đó là điều khách quan, khó tránh khỏi, nhưng quan trọng ở đây là phải làm sau để phát
hiện, phân tích, bày trừ và cùng nhau bày trừ mới là cái chúng ta cần quan tâm nhất. Áp
dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đời sống chúng ta hiểu cần phải xây dựng nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, kế thừa tinh hoa văn hóa loài người tiến bộ, loại bỏ
những hủ tục, những điểm đen còn tồn tại ở đâu đó. Mỗi cá nhân phải tự thay đổi chính
bản thân mình làm khuôn mẫu cho chính ngôi nhà nhỏ, xây dựng những ngôi nhà, những
gia đình văn hóa từ những hành động đơn giản nhất, thường ngày nhất. Đó chính là nồng
cốt cho một xã hội văn hóa. Bên cạnh đó, các cấp, ban, ngành lãnh đạo cần tiến hành
nghiêm túc các tiêu chí văn hóa, tránh bệnh quan liêu, thành tích trong xây dựng nếp
sống văn hóa các cấp, hoàn thiện các tiêu chí văn hóa nông thôn mới,… Đồng thời, văn
hóa đời sống cần được nhà trường tạo nền tảng từ những ngày còn thực học của học sinh,
sinh viên, bằng các hoạt động cuốn hút mang đậm tính chất nhân văn xâu sắc, đưa các
bạn trở về với chính “ngôi nhà” của mình, hiểu được nó và làm chủ nó.

24



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhà Xuất Bản Chính trị Quốc Gia 2011– PGS-TS
Phạm Ngọc Anh (chủ biên)
2. Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đời sống, vận dụng tư tưởng này vào việc
giáo dục đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới cho học sinh, sinh viên hiện nay
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá
4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa, xây dựng con người trong
giai đoạn mới – PGS, TS Phạm Duy Đức
5. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
6. Tiểu luận Tư tưởng hồ chí minh Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đời sống. Vận
dụng tư tưởng này vào việc giáo dục đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới cho học
sinh - sinh viên hiện nay

25


×