Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Liên hệ với thực tiễn tại trường Đại học Ngoại thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.37 KB, 99 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị anh hùng dân tộc lớn nhất trong lịch sử dân
tộc Việt Nam - Người đã để lại một di sản lý luận quý báu cho chúng ta học
tập và noi theo. Đối với Đảng và cách mạng nước ta, việc vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính
nguyên tắc số một. Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được quán
triệt trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1991) đã trân trọng ghi vào cương lĩnh “Lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [6, tr.21]
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định:
“Đảng và nhân dân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh” [7, tr.83]
Đại hội IX còn nêu rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta…” [7, tr.84]
Quả thật, cách mạng Việt Nam có được thắng lợi như ngày hôm nay là
nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn lối. Vì vậy trong
công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta càng cần phải vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Sau gần 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có những biến đổi sâu sắc về
nhiều mặt. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế và đang có những bước
phát triển mạnh mẽ. Văn hoá xã hội cũng có những tiến bộ đáng kể, đời sống
nhân dân tiếp tục được nâng cao, niềm vui đang đến với mọi nhà. Có thể nói,
kinh tế thị trường đã kích thích được tư duy sáng tạo của mọi người, khắc
phục tình trạng ỷ nại, bảo thủ trước đây…Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
1
cực đó, kinh tế thị trường cũng tạo ra một số mặt không tốt đối với đời sống
xã hội như: lối sống thực dụng, lãng phí, xa hoa, nhiều tệ nạn xã hội cũng theo


đó mà nảy sinh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng đã khẳng định:
Tham nhũng là một trong 4 nguy cơ đối với đất nước ta hiện nay. Trên thực
tế, thời gian qua chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ án tham nhũng lớn. Có
thể nói tham ô, lãng phí, xa hoa…đã trở thành căn bệnh nguy hiểm đối với xã
hội Việt Nam hiện nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, một
trong những nguyên nhân quan trọng đó là sự sa sút về đạo đức. Đáng nói
hơn, sự sa sút về đạo đức đã xuất hiện ở một bộ phận thanh thiếu niên, thế hệ
trẻ của chúng ta. Bên cạnh những sinh viên, học sinh có hoài bão, lý tưởng
vẫn còn không ít những thanh thiếu niên, sinh viên tỏ ra thờ ơ với lý tưởng
đạo đức cách mạng, chạy theo lối sống thực dụng, xa hoa…Vì vậy, vấn đề đặt
ra là phải giáo dục đạo đức cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ - những chủ
nhân tương lai của đất nước - học tập theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng lỗi lạc mà cả cuộc đời
Người còn toát lên một tấm gương đạo đức cao cả cho chúng ta học tập và noi
theo. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của thanh niên, của
thế hệ trẻ đối với sự phát triển của đất nước. Người luôn quan tâm đến việc
giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Vì lẽ đó chúng tôi đã chọn vấn đề: “Giáo dục
đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Liên hệ với thực tiễn tại
trường Đại học Ngoại thương” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng.
Đề tài này không chỉ thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học Việt Nam
mà còn thu hút không ít sự quan tâm của các nhà khoa học nước ngoài.
Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
2
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh – truyền thống dân tộc và nhân loại.
Giáo sư Vũ Khiêu chủ biên. NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1993.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Thành Duy chủ biên. NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội 1996.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong hệ chuẩn mực của thời đại mang
tên Người. Đỗ Huy. Tạp chí Triết học, số 2, 1992
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, giáo dục thanh niên. Tạp chí Tư
tưởng văn hoá, số 10, 2003
Cán bộ, đảng viên học tập và rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đặng Sỹ Lộc. Tạp chí Tư tưởng văn hoá, số 3, 2004
Đặc biệt, 3 tập: Tư tưởng Hồ Chí Minh của nhiều tác giả thuộc chương
trình nghiên cứu KX02. Viện Hồ Chí Minh xuất bản 1993.
Những công trình kể trên của các tác giả đã đề cập đến những phạm trù
đạo đức cơ bản mà Hồ Chí Minh đã sử dụng cũng như đã nêu lên nguồn gốc
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là những thuận lợi cho tác giả. Tuy nhiên
những công trình đó chưa đi sâu vào việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh để giáo dục cho thế hệ trẻ. Đó là những khó khăn cho tác giả.
Với thời gian nghiên cứu có hạn, vấn đề lại rộng, phức tạp, do đó đề tài
không thể tránh được những khiếm khuyết, rất mong sự quan tâm, đóng góp
của độc giả.
3. Mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: Trên cơ sở làm rõ những nội dung cụ
thể của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, công trình nghiên cứu góp phần luận
giải sự cần thiết và những giải pháp chủ yếu nhằm giáo dục đạo đức cho thế
hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và
việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu: Việc giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho tất cả
mọi người là rất quan trọng và cần thiết. Song ở đây công trình nghiên cứu
3
giới hạn trong phạm vi giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, cho thanh niên, sinh
viên - những chủ nhân tương lai của đất nước học tập và tu dưỡng đạo đức
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên những quan điểm, tư tưởng
của Đảng, lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, những tác phẩm của Hồ Chí
Minh, các văn kiện, nghị quyết của Đảng.
Toàn bộ những vấn đề của đề tài được tác giả nghiên cứu bằng phương
pháp phân tích, chứng minh, đối chiếu, so sánh, phương pháp kết hợp giữa
lôgic và lịch sử.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đạo đức.
Chương 2: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Chương 3: giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
và vận dụng vào thực tiễn tại trường Đại học Ngoại thương.
4
NỘI DUNG
Chương 1: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. Lý luận chung về đạo đức
1.1.1. Khái niệm, nguồn gốc và bản chất của đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một phạm trù rất rộng nhưng lại rất cụ thể. Trong cuộc sống
hàng ngày, chúng ta thường nhắc đến cụm từ đạo đức trên mọi lĩnh vực: đạo
đức gia đình, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp, v.v
nói rộng ra là đạo đức của cả một dân tộc. Tuy nhiên khi sử dụng cụm từ này,
ít ai quan tâm đến nội hàm của khái niệm. Vậy đạo đức là gì?
Với tư cách là bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
học đã xuất hiện cách đây hơn 20 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ,
Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La Tinh là mos (moris) - lề thói
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Trong tiếng Hy Lạp,
đạo đức được xem như đồng nhất với “luân lý học” và được bắt nguồn từ chữ

Êthicos, nghĩa là lề thói, tập tục. Như vậy, khi ta nói đến đạo đức tức là nói
đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và
người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo của họ. Đạo là một trong những phạm trù
quan trọng của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường,
5
đường đi. Về sau, đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự
nhiên. Đạo còn là con đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm Đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu và từ
đó trở đi nó được người Trung quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói
đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa,
là nguyên tắc luân lý. Như vậy, có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi
người phải tuân theo.
Trước C. Mác và Ph. Ăngghen, các nhà triết học (kể cả duy tâm lẫn duy
vật) đều rơi vào quan điểm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ
không thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã
hội nói chung và đạo đức nói riêng. Khác với các quan điểm trên, C. Mác và
Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng, trước khi sáng lập các quan điểm tư tưởng,
lý luận, con người đã hoạt động thực tiễn, tức là đã sản xuất ra các tư liệu vật
chất cần thiết cho đời sống. Toàn bộ tư tưởng thể hiện trong các hình thái ý
thức xã hội của một thời đại đều bắt nguồn từ điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội đó. Ý thức xã hội của con người là sự phản ánh tồn tại xã hội của họ.
Các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh những mặt khác nhau của đời
sống xã hội. Đạo đức cũng vậy, nó là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn
tại xã hội dưới dạng các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực nhằm điều chỉnh
hành vi của con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta có thể hiểu khái
niệm đạo đức như sau:

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc,
quy tắc chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá cách ứng xử
của con người trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân và xã hội.
Như vậy, đạo đức không phải là cái có sẵn ở đâu đó, nó được hình
thành từ khi có xã hội loài người và tồn tại vĩnh viễn cùng loài người. Tuy
6
nhiên, hệ thống các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức lại có tính lịch
sử vì với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại
xã hội, mà tồn tại xã hội lại không bất biến. Hình thái ý thức xã hội đạo đức
giúp con người điều chỉnh hành vi của mình, hướng con người tới cái tốt, cái
thiện.
1.1.1.2. Nguồn gốc và bản chất của đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện từ rất sớm trong lịch
sử, nó được mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi thời đại quan tâm. Trong lịch sử, đã
có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc và bản chất của đạo đức.
Tiêu biểu là một số quan điểm cơ bản sau đây:
• Quan điểm của tôn giáo:
Trong giáo lý của các tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo
đều đề cập đến tính thiện. Điều đó khiến một số nhà tôn giáo hoặc ngộ nhận,
hoặc cố tình kết luận đạo đức có nguồn gốc từ tôn giáo và đạo đức mang bản
chất tôn giáo. Họ cho rằng mọi ân đức đều do trời, do chúa, do thần thánh
đem đến và ban phát cho loài người. Thiên chúa giáo cho rằng, Thượng đế là
đấng tối cao có trách nhiệm ban phát phước lành và cứu rỗi cho loài người và
mỗi người phải có bổn phận chấp hành mọi nghĩa vụ trước Thượng đế. Hạnh
phúc của loài người là do chúa đem lại. Phật giáo thì cho rằng, có một thế giới
thần tiên đối với con người, đó là cõi “niết bàn”.
Sai lầm của các quan điểm tôn giáo là đã đồng nhất đạo đức với tôn
giáo. Thực ra, đạo đức và tôn giáo tuy cùng đề cập đến tính thiện, nhưng đạo
đức khác về bản chất so với tôn giáo. Mỗi quan niệm đạo đức đều xuất phát từ

đời sống hiện thực, đều có giá trị thực tiễn đối với đời sống con người. Còn
tôn giáo là một thế giới do con người tưởng tượng ra, là thế giới của hư ảo.
• Quan điểm tự nhiên
Những người theo quan điểm tự nhiên cho rằng nguồn gốc của đạo đức
có từ bản năng động vật. Động vật cũng có hoạt động sinh con, nuôi con, cho
con ăn, bảo vệ con. Loài vật sinh sống và quan hệ với nhau một cách tự nhiên.
7
Xu hướng của loài vật là loài mạnh thắng loài yếu, vì chúng hành động theo
tính bản năng của nó. Do vậy có người cho rằng loài người cũng là một sinh
vật nên không tránh khỏi xu hướng tự nhiên vốn có này. Từ đó họ kết luận,
chủ nghĩa cá nhân, đạo đức vị kỷ là bản chất vĩnh viễn của con người. Con
người trước hết phải sống vì cái tôi, cho cái tôi.
Quan niệm trên đây là sai lầm, các loại sinh vật chưa bao giờ ý thức
được về nó. Mọi hoạt động của loài vật hoàn toàn chỉ dựa vào tính bản năng.
Điều này được C. Mác chỉ rõ: một người kiến trúc sư dù tồi nhất, vẫn hành
động khác về chất so với những con ong khéo léo nhất. Do đó không thể lấy
loài vật ra so sánh với loài người. Bản chất nổi bật nhất của con người không
phải ở bản chất tự nhiên. Cái tạo nên con người, làm cho con người khác loài
vật, chính là từ bản chất xã hội: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội ”
• Quan điểm xã hội
Những người theo quan điểm xã hội cho rằng; cơ sở, nguồn gốc đạo
đức là từ đời sống xã hội, nhưng khi giải thích về bản chất đạo đức họ lại gắn
những suy nghĩ chủ quan, vụ lợi nào đó. Họ coi đạo đức như những quy ước
chung, có tính chất chủ quan xã hội. Những chuẩn mực đạo đức hiện tồn tại
trong xã hội là do chủ quan của con người đặt ra, thành những tôn ti trật tự xã
hội. Mỗi người phải có nghĩa vụ, suy nghĩ và hành động theo những khuôn
mẫu đó, nếu làm trái sẽ bị đánh giá là vô đạo đức.
• Quan điểm của các học giả tư sản
Các học giả tư sản cho rằng, bản chất của đạo đức mang tính vĩnh viễn,

không thay đổi, đứng trên mọi giai cấp, có một thứ đạo đức chung cho tất cả
loài người đó là đạo đức tư sản.
Có thể nói, tất cả các quan điểm trên đều chưa giải thích một cách đầy
đủ và khoa học về nguồn gốc và bản chất của đạo đức. Họ không thấy được
cơ sở cho đạo đức ra đời đó chính là hiện thực xã hội, họ xoá nhoà bản chất
8
giai cấp của đạo đức. Những học thuyết đó đều nhằm bảo vệ cho lợi ích của
giai cấp thống trị trong xã hội.
• Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Khác với những quan điểm trên, chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải thích
một cách khoa học về nguồn gốc và bản chất của đạo đức. Chủ nghĩa Mác –
Lênin cho rằng đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện từ rất sớm
trong lịch sử, nó mang tính lịch sử. Chính con người bằng hoạt động thực
tiễn(mà trước hết là lao động sản xuất) và hoạt động xã hội, đồng thời qua
kinh nghiệm lịch sử của mình đã xây dựng nên những chuẩn mực đạo đức
nhằm điều chỉnh hành vi trong mối quan hệ giữa người và người, giữa cá nhân
và cộng đồng xã hội
Ngay từ xã hội nguyên thuỷ, ý thức đạo đức của con người mông muội
đã được hình thành, từ đó hoàn thiện dần qua quá trình phát triển của xã hội,
trên cơ sở phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp lên cao. Giống
như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức chịu sự quy định bởi điều kiện
kinh tế - xã hội, luôn đấu tranh, kế thừa và phát triển để tiến bộ không ngừng.
Bản chất của đạo đức không phải là một cái gì có sẵn, hoặc tiên định.
Nếu không có con người và xã hội loài người thì chẳng có đạo đức nào cả.
Đạo đức phản ánh mối quan hệ giữa người và người, về cái thiện và cái ác;
tuy nhiên quan niệm về thiện, ác cũng có tính lịch sử. Đạo đức là hiện tượng
xã hội có tính người sâu sắc nhất. Nó có tính phổ biến và đa dạng vì nó có mặt
trong tất cả các quan hệ xã hội và trong các lĩnh vực hoạt động của con người.
Đạo đức bị chi phối bởi điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử. Mặt khác, đạo đức
còn bao hàm cảm xúc, trách nhiệm của con người trước hoàn cảnh sống, trước

đồng loại. Do đó, đạo đức là sản phẩm tổng hợp của những yếu tố khách quan
và những nhân tố chủ quan. Mặt khách quan là những hiện thực được phản
ánh vào ý thức đạo đức. Mặt chủ quan là những nỗ lực vươn tới của của con
người nhằm đạt tới những giá trị đạo đức đích thực.
9
Nói cách khác, bản chất của đạo đức không phải là bất biến, đạo đức
luôn luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Trong xã hội có
giai cấp, bản chất của đạo đức luôn mang tính giai cấp. Trong tác phẩm
Chống Đuyrinh, Ph. Ăngghen khẳng định: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết
về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của
xã hội lúc bấy giờ”[]
Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều có một hình thái ý thức đạo đức tương
ứng. Từ đạo đức của xã hội nguyên thuỷ đến đạo đức của xã hội chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, tư bản và cộng sản chủ nghĩa, đó là những nấc thang đánh dấu
sự tiến bộ về mặt đạo đức của lịch sử loài người. Quá trình phát triển đạo đức
là một quá trình phủ định biện chứng, một mặt, các hình thái sau kế thừa các
hình thái trước, mặt khác bản thân nó tự biến đổi để phù hợp với tồn tại xã hội
tương ứng. Quy luật của sự biến đổi bao giờ cũng theo xu hướng tiến bộ và
sáng tạo ra những giá trị mới. Nguyên nhân sâu xa là do lực lượng sản xuất xã
hội ngày phát triển và hoàn thiện, nên đạo đức tất yếu cũng phải được phát
triển và hoàn thiện trên cái nền tảng ấy. Nhưng cũng phải thấy rằng nếu con
người không tự cố gắng biến đổi mình cho phù hợp với yêu cầu cuộc sống, thì
ý thức và quan niệm cũ về đạo đức sẽ trở thành vật cản đối với sự phát triển
xã hội.
1.1.2.Chức năng và vai trò của đạo đức đối với sự phát triển của xã
hội
1.1.2.1. Chức năng của đạo đức
a. Chức năng giáo dục
Con người muốn làm được điều thiện, tránh được điều ác, muốn cho
những hành vi của mình được xã hội chấp nhận, không bị dư luận xã hội lên

án thì họ phải nắm được những quan điểm, những chuẩn mực đạo đức cơ bản.
Chẳng hạn, nguyên tắc sống của con người phải trung thực, thật thà. Nhìn vào
nguyên tắc này, mỗi con người phải tự giác tuân theo, hoặc ai vi phạm, như ăn
cắp, nói dối sẽ bị dư luận phê phán. Vì vậy, chức năng giáo dục của đạo đức
10
đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách con người. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
Cùng với quá trình giáo dục thì quá trình tự giáo dục sẽ giúp con người
con người càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, nghĩa vụ, danh dự và
những phẩm chất đạo đức cần thiết của cá nhân mình đối với đời sống của
cộng đồng. Nhờ có chức năng giáo dục và tự giáo dục, con người học tập
được ở những tấm gương đạo đức cao cả xả thân làm việc nghĩa, hy sinh quên
mình cho đất nước, kiên cường đấu tranh cho chân lý…Chính vì vậy làm cho
xã hội ngày càng công bằng, văn minh, tiến bộ.
b. Chức năng điều chỉnh hành vi
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức có tác dụng làm cho hoạt
động của con người phù hợp với các chuẩn mực của cộng đồng với lợi ích của
xã hội. Nếu như pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh
cưỡng bức của nhà nước thông qua các đạo luật, thì đạo đức điều chỉnh hành
vi của con người qua đó điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh của dư
luận xã hội, phong tục tập quán, truyền thống và sự kiểm soát của lương tâm.
Trong cuộc sống hiện thực, con người có rất nhiều mối quan hệ rất đa
dạng, phức tạp đòi hỏi phải giải quyết, nhất là các mối quan hệ có liên quan
đến lợi ích, chúng luôn có những mâu thuẫn giằng xé nhau buộc chủ thể đạo
đức phải đấu tranh với chính bản thân, nhiều lúc vô cùng quyết liệt. Những
mối quan hệ này lại nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Vì thế nếu
không dựa vào hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức của
xã hội thì cá nhân không thể lựa chọn, cân nhắc, điều chỉnh hành vi của mình

cho phù hợp. Bản chất của sự điều chỉnh hành vi là quá trình đấu tranh chiến
thắng của cái thiện với cái ác, của cái tốt với cái xấu, của cái lương tâm với
cái vô lương tâm…Như vậy, chức năng giáo dục và chức năng điều chỉnh
hành vi của đạo đức luôn gắn liền với nhau trong đời sống đạo đức.
11
c. Chức năng nhận thức
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận
thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Các quan điểm, chuẩn mực đạo đức
chính là những tiêu chuẩn giá trị đạo đức phù hợp yêu cầu phát triển của xã
hội. Vì vậy, nó được con người đánh giá, thừa nhận và khái quát thành những
khuôn mẫu về mặt đạo đức để con người căn cứ vào đó mà tự xem xét, tự
đánh giá, tự điều chỉnh bản thân.
1.1.2.2. Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển xã hội
Cách đây hàng nghìn năm, vai trò của đạo đức đối với xã hội đã được
các nhà xã hội học xem xét và bàn luận tới.
Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (thế kỷ VI tr CN) đã khuyên
học trò “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ông mong muốn xã hội phát triển bình ổn,
gia đình sống hạnh phúc, con người giữ được đạo lý. Mạnh Tử rất đề cao đạo
đức đến mức ông đề xuất quản lý xã hội bằng đức trị.
Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, học thuyết của đạo Phật do Thích Ca Mâu
ni sáng lập đã đề cập đến nhiều vấn đề đạo đức. Cái cốt lõi nhất trong hệ
thống đạo đức Phật giáo là khuyên con người sống thiện, biết yêu thương
nhau, giúp đỡ nhau, tránh điều ác.
Trong xã hội Hy Lạp – La Mã cổ đại, đặc trưng cơ bản nhất về giáo dục
con người được thông qua những truyền thuyết, các sử thi…nhằm đề cao
những giá trị đạo đức của con người. Đó là nữ thần Atina đẹp như mặt trăng,
đầy tình nhân ái đối với con người. Hình tượng thần Dớt có tài - đức vẹn toàn.
Ôđixê là bản trường ca bất hủ, một biểu tượng cao đẹp về tính trung thực,
lòng dũng cảm, sự trong sáng trong tình bạn, tình yêu…Tất cả những hình
tượng đó đều là những phẩm giá đạo đức tốt đẹp của con người.

Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức được các nhà nghiên cứu xã hội đặt ra rất
sớm. Đặc biệt trong các truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, nhân dân ta đã đề cao
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức giúp con người hướng tới
12
những điều tốt đẹp. Truyện Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Trạng Quỳnh…đều
giáo dục con người hướng thiện và có nhân cách cao đẹp trong cuộc sống.
Vấn đề đặt ra là tại sao con người lại sớm quan tâm đến đạo đức? Bởi
vì đạo đức có một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
Thứ nhất, đạo đức là nhu cầu khách quan của đời sống xã hội. Trong
đời sống của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải
quyết nhằm đảm bảo cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát triển. Sống
trong xã hội, ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra những
con đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của
mình và cộng đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của chính mình
và cộng đồng.
Thứ hai, đạo đức có vai trò trong việc duy trì trật tự, bình ổn và phát
triển xã hội, xã hội phát triển nhanh hay chậm, tiến bộ hay trì trệ, suy cho
cùng là do tính tự nguyện tự giác của con người, đồng thời do mức độ con
người nhận thức được quy luật và hành động phù hợp theo quy luật. Chính
đạo đức đã đóng vai trò quan trọng để tạo dựng nên cuộc sống tốt đẹp cho xã
hội và giúp con người hoàn thiện nhân cách. Từ khi con người và xã hội loài
người xuất hiện, đạo đức cũng hình thành và tham gia vào quá trình điều
chỉnh ý thức và hành vi của con người. Cùng với pháp luật, đạo đức góp phần
quan trọng vào việc điều chỉnh thái độ, hành vi con người, qua đó điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Mặc dù pháp luật thì chặt chẽ, chính xác, ghi thành văn có
tính bắt buộc và khung hình phạt có nhiều nấc, nhưng lại không trừng phạt
được từ trong ý nghĩ (ý nghĩ phạm tội). Trong khi đó, đạo đức mang nặng tính
khuyên nhủ, khung hình phạt không có các nấc trung gian, chỉ có thiện và ác,
tốt và xấu, nhưng nó lại có thể trừng phạt người ta ngay từ trong ý nghĩ (ý
nghĩ xấu) nhờ sự phán xử của lương tâm. Đó chính là một nét đặc thù của đạo

đức, tạo nên sức mạnh to lớn của đạo đức trong đời sống xã hội.
Thứ ba, đạo đức có tác dụng cảm hoá con người, giúp con người nhận
thức và hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người và
13
nguời. Đồng thời đạo đức giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc, gìn giữ phẩm
giá, làm thức dậy trong con người những tình cảm tốt đẹp, những phẩm chất
cao quý, đó là lòng nhân ái, vị tha, tính trung thực, thẳng thắn… Đạo đức như
một động cơ có sức mạnh thôi thúc con người đấu tranh chống lại những cái
ác, cái xấu, giữ gìn và phát huy những cái tốt, cái thiện. Nói cách khác, đạo
đức luôn hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ.
Như vậy, đạo đức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
Xã hội loài người càng tiến lên thì vai trò của đạo đức cũng tăng lên, có thể
đạo đức sẽ nắm vai trò điều khiển xã hội, thay thế chức năng quản lý con
người bằng pháp luật. Khi xã hội phát triển đạt đến văn minh thì một số hình
thái ý thức xã hội sẽ mất đi, nhưng đạo đức vẫn tồn tại và phát triển cùng với
loài người.
Tuy nhiên, cần thấy rằng sự tác động của đạo đức đến đời sống xã hội
có tính hai mặt. Nếu hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức
tiến bộ, phù hợp với đời sống xã hội, với xu thế vận động của xã hội thì nó sẽ
có tác động tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển; nếu ngược lại, nó sẽ gây nên
những tác động tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội. Vì vậy, trong quá trình
xây dựng xã hội mới, chúng ta phải biết kế thừa và phát triển những giá trị
đạo đức truyền thống phù hợp với xã hội ngày nay, loại bỏ những chuẩn mực
đạo đức cũ, không còn phù hợp, đồng thời xây dựng những chuẩn mực đạo
đức mới nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
1.2. Nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, nhà cách mạng bàn
nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. Mặc dù không phải là người chuyên nghiên
cứu về vấn đề đạo đức, cũng không có những tác phẩm lớn về đạo đức, nhưng
tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh được thể hiện sinh động trong những bài

nói, bài viết ngắn gọn của Người, quan trọng hơn chính cuộc đời Người là
một tấm gương sáng về đạo đức cho chúng ta học tập và noi theo.
1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
14
Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức
ở Việt Nam. Nhờ đó, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất mới và được
Người gọi là đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Gọi là đạo đức mới vì nó chưa hề xuất hiện trong lịch sử, nó chỉ hình
thành và phát triển cùng với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta. Gọi là đạo đức cách mạng vì nó là đạo đức phục vụ cách mạng, là
đạo đức được nảy sinh và phát triển trong cách mạng.
Vậy, đạo đức cách mạng là gì?
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là “đạo đức mới, đạo đức vĩ
đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng,
của dân tộc, của loài người”, “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với
Đảng, với nhân dân"
Trong đạo đức của xã hội phong kiến, nhân dân là kẻ thấp hèn chỉ đáng
cho người “quân tử ” dạy bảo và sai khiến. Đạo đức tư sản được xây dựng
trên cơ sở của chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác của giai
cấp tư sản là những kẻ cướp của chung do xã hội sản xuất ra làm của riêng để
chúng “ngồi mát ăn bát vàng” nhưng miệng chúng vẫn luôn huênh hoang
những danh từ “đạo đức “, “tự do”, “dân chủ”.
Hồ Chí Minh đã lật ngược lại các kiểu đạo đức cũ của các giai cấp
thống trị, áp bức nhân dân lao động. Theo Người đạo đức mới xoá bỏ các
chuẩn mực đạo đức phong kiến trói buộc con người vào những lễ giáo hủ bại,
phục vụ cho chế độ đẳng cấp, tôn ti trật tự hết sức hà khắc của giai cấp phong
kiến. Đạo đức mới hoàn toàn trái ngược với đạo đức cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ
cực đoan của giai cấp tư sản. Nó cũng xa lạ với đạo đức của giai cấp tiểu tư
sản kìm hãm con người trong những lợi ích riêng tư, cục bộ, hẹp hòi…Nó
cũng không giống với đạo đức tôn giáo luôn khuyên con người khắc kỷ, cam

chịu, chấp nhận số phận trong chốn trần tục để hướng tới cuộc sống tốt đẹp ở
thế giới bên kia…Sức mạnh của đạo đức cách mạng là ở chỗ nó phải tự xoá đi
những gì đã lỗi thời, lạc hậu, đạo đức cách mạng phá tan sự ràng buộc, nô
15
dịch về tinh thần mà chế độ phong kiến và thực dân đã đem lại cho nhân dân
ta. Cách mạng giải phóng cho con người về mặt kinh tế, chính trị, đồng thời
giải phóng cho con người về mặt đạo đức. Không có lý do gì khi con người
sống trong điều kiện kinh tế mới lại phải thực hiện những chuẩn mực đạo đức
của xã hội cũ.
Cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức của Hồ Chí Minh là một sự biến
đổi về chất của truyền thống đạo đức, là sự phủ định biện chứng đối với đạo
đức cũ, kiên quyết xoá đi những cái đã lỗi thời của đạo đức phong kiến. Cái
mà đạo đức phong kiến tôn thờ chính là cái Hồ Chí Minh đã lật đổ một cách
triệt để. Đó là xoá bỏ vị trí độc tôn của vua chúa phong kiến, đặt vào đó vị trí
của người dân lao động, tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân lao động từ
chỗ bị áp bức và thống trị trở thành người chủ đất nước. Hồ Chí Minh đã từng
nói rõ: “Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói
như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ
như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”
Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của đạo đức đối với người cách mạng.
Người khẳng đinh: Đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cách
mạng
Hồ Chí Minh coi đạo đức như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông
suối: “Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”.
Vì sao người cách mạng trước hết phải có đạo đức?
Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng bởi vì muốn làm cách mạng thì

trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai
cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả dân tộc. Cái tâm, cái đức ấy lại phải
được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày với dân, với nước, với
16
đồng chí, đồng nghiệp, với những người xung quanh mình. Người khẳng định:
“Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc
to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá,
xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”
Năm 1958, khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành một xã
hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang; nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [19,tr.283].
Đạo đức cách mạng có vai trò rất lớn trong sự nghiệp xây dựng đất
nước. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…khi gặp thuận lợi hoặc thành công vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn…” Người kết luận: “Mọi việc
thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là
không”
Hồ Chí Minh đề cập đến đạo đức cách mạng ở mọi đối tượng, nhưng
lĩnh vực Người quan tâm nhất là đạo đức cách mạng ở cán bộ, đảng viên.
Đối với người cán bộ, đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: “Nhận
rõ phải trái, giữ vững lập trường. Tận trung với nước, tận hiếu với dân”
Người cán bộ phải: “Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách
mạng thì mới hy sinh tận tuỵ với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng
đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn… ”
Đối với người đảng viên, “Đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời
đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng…giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện
tốt đưòng lối, chính sách của Đảng…”, “Đạo đức cách mạng là ra sức phấn

đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng”
“Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin
quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng…”[19,tr.290]
17
Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Người đảng viên, người cán bộ tốt
muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó
hoàn toàn do lòng mình mà ra…Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ
ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt
ấy có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” [15,tr.251]
Đối với thanh niên, Đạo đức cách mạng là: “Bất kỳ ở cương vị nào, bất
kỳ làm một công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một
dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây
dựng chủ nghĩa xã hội ” [20, tr.306]
“Thanh niên phải luôn rèn luyện đạo đức cách mạng. Đạo đức cách
mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:
Trung thành: trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ
quốc, với Đảng, với giai cấp
Dũng cảm: không sợ khổ, không sợ khó thực hiện. “Đâu cần thanh niên
có, việc gì khó có thanh niên làm”, “gian khổ đi trước, hưởng thụ sau mọi
người”
Khiêm tốn: không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không
tự phụ” [20,tr.621]
Thanh niên “Phải giữ vững đạo đức cách mạng, phải khiêm tốn, cần cù,
hăng hái, dũng cảm. Phải tránh tư tưởng kiêu ngạo, công thần, tự tư, tự lợi”
[18,tr.263] Thanh niên “Phải cố gắng học hỏi, để không ngừng nâng cao trình
độ chính trị, văn hoá và kỹ thuật để phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân”
[20,tr.106]
Đối với cán bộ quân sự, muốn có đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí
Minh phải có năm điều: Trí, Tín, Nhân, Dũng, Liêm. Phát biểu tại buổi lễ
phong quân hàm cấp tướng cho cán bộ cao cấp trong quân đội, Người yêu

cầu: “Để lãnh đạo quân đội tiến bộ không ngừng, các đồng chí phải trau dồi
đạo đức cách mạng …Dù ở cương vị nào chúng ta cũng phải cố gắng để xứng
đáng là người đầy tớ trung thành và tận tụy của nhân dân” [19,tr.496]
18
Đối với công nhân, đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân là đạo
đức chân chính, là đạo đức tiến bộ của loài người bởi vì nó phục vụ lợi ích của
nhân dân, nó được hình thành trong đấu tranh cách mạng.
Đối với nhi đồng, “Đạo đức cộng sản chủ nghĩa đối với các cháu không
giống với người lớn. Ví dụ như đối với người nông dân tập thể thì là sản xuất
cho nhiều, cho tốt…Thầy giáo thì dạy cho tốt, cho dễ hiểu. Đạo đức cộng sản
chủ nghĩa đối với các cháu là chăm học, giúp người lớn, đoàn kết, có kỷ luật
tốt...” [20,tr.680]
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức cách mạng, đồng thời Hồ Chí Minh
cũng chỉ ra những căn bệnh trái với nó, những căn bệnh mà cán bộ, đảng viên
dễ mắc phải như: bè phái, nể nang, ham chuộng hình thức, chủ nghĩa cá
nhân…Trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh đến căn bệnh cá nhân chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách
mạng, “chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các
thứ bệnh rất nguy hiểm, thí dụ như những bệnh sau đây: bệnh tham lam…
bệnh lười biếng…bệnh kiêu ngạo…bệnh hiếu danh… thiếu kỷ luật”
[15,tr.255,256]
Vì mắc phải chủ nghĩa cá nhân mà “có đảng viên còn “kể công” với
Đảng. Có ít nhiều thành tích thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ, họ đòi ưu đãi,
danh dự và địa vị…Nếu không thoả mãn nhu cầu của họ thì họ oán trách
Đảng…dần dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật
Đảng”… [19,tr.289]
Đối với quân đội thì chỉ vì chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra thiếu kiên
quyết chấp hành mệnh lệnh, do đó mà: “đáng lẽ thắng to thì chỉ giành được
thắng nhỏ, và thắng rồi không phát triển được”[16,tr.318]
Đối với công an, chủ nghĩa cá nhân là: “so bì đãi ngộ, lương thấp cao,

quần áo xấu, đẹp, là uể oải, muốn hưởng thụ, an nhàn…”[19,tr.31]
Đối với sinh viên: “chủ nghĩa cá nhân đẻ ra tư tưởng danh lợi, chỉ muốn
làm ông này, ông khác, bà này, bà khác” [19,tr.172]
19
Cùng với chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh ba căn
bệnh nguy hiểm trong cán bộ, đảng viên là: tham ô, lãng phí và quan liêu.
Người giải thích: “Bệnh quan liêu tỏ ra ở chỗ thích giấy tờ, xa quần
chúng, không điều tra nghiên cứu, không kiểm tra theo dõi việc thi hành,
không học tập kinh nghiệm của quần chúng”[16,tr.167]. Người cũng nêu ra
những nguyên nhân của căn bệnh ấy là: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân
dân, không tin cậy nhân dân, không yêu thương nhân dân…Từ đó chúng ta
phải mau chữa căn bệnh nguy hiểm ấy bằng cách: “Đặt lợi ích của nhân dân
lên trên hết. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Việc gì cũng phải bàn với nhân
dân, giải thích cho dân dân hiểu rõ…Có khuyết điểm thì thật thà phê bình
trước nhân dân…Sẵn sàng học hỏi nhân dân. Tự mình phải gương mẫu…để
nhân dân noi theo” [16,tr.293]
Hồ Chí Minh cho rằng tham ô, lãng phí đều do bệnh quan liêu mà ra;
“Vì cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành quan liêu không đi sát công việc, cán
bộ, quần chúng nhân dân. Có thể nói bênh quan liêu là chỗ gieo hạt vun trồng
cho tham ô lãng phí nảy nở” [16,tr.436] “Vì những người và những cơ quan
lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà
không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm
vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng
phí” [16, tr.489]
Vì thế, để chống đựoc tham ô, lãng phí, phải chống bệnh quan liêu.
người khẳng định: “Bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham
ô, lãng phí. Vì vậy muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy
sạch bệnh quan liêu” [16, tr.489]
Hồ Chí Minh cho rằng, tham ô, lãng phí, quan liêu như ba thứ giặc “nội
xâm” ở trong lòng, nó cũng nguy hiểm như giặc ngoại xâm. Vì vậy để xây

dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cần phải tẩy sạch những căn bệnh này.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh luôn mang tính biện chứng. Khi nói tới
đạo đức là gốc, là nền tảng của con người, không có nghĩa là Hồ Chí Minh
20
tuyệt đối hoá mặt đạo đức. Ngược lại, Người luôn khẳng định con người cần
phải có cả đức và tài. Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó.
Đạo đức cách mạng luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu của
Đảng, nên một người cách mạng vừa phải có đức, vừa phải có tài, có tài lại
phải có đức. Đức là gốc, là nền tảng, nhưng người cách mạng cũng phải có
năng lực. Đặc biệt khi cách mạng phát triển, xã hội đi lên, chúng ta muốn bớt
đi sự mò mẫm, sai lầm thì càng cần phải có tài. Cán bộ, đảng viên, nếu không
được học tập, nâng cao trình độ lý luận, không hiểu biết về khoa học kỹ thuật,
không có một trình độ văn hoá nhất định thì không thể nói tới xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã ví có đức mà không có tài thì
như ông bụt ngồi trên chùa, không làm hại ai nhưng cũng không giúp ích gì.
Trong một buổi nói chuyện với giáo viên, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “có tài
mà không có đức thì hỏng, có đức mà chỉ i, tờ thì dạy thế nào?” [19, tr.492]
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, tài và đức thống nhất biện chứng
với nhau nhưng trong đó đức là gốc, là nền cho tài năng nảy nở và phát triển.
Với quan niệm nhất quán đó về tài và đức, khi nói về công tác lựa chọn và sử
dụng nhân tài, Hồ Chí Minh cho rằng việc đề ra tiêu chuẩn cán bộ không phải
dựa trên ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ thực tiễn. Tiêu chuẩn chung
nhất mà người cán bộ phải có là phẩm chất chính trị và năng lực, tức là đức và
tài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, về mối quan hệ giữa
đức và tài không chỉ có ý nghĩa cơ bản, lâu dài mà còn có ý nghĩa thời sự đối
với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Đánh giá đúng đức và tài của cán
bộ, sử dụng đúng nhân tài là vấn đề hệ trọng của chúng ta trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

1.2.3.. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam
trong thời đại mới
21
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được
nêu ra là phù hợp với từng đối tượng; Người nhấn mạnh phẩm chất này hay
phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng
thời kỳ nhất định. Từ đó, Người đã khái quát thành những phẩm chất chung,
cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Nói cách khác, đó là
những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt
Nam. Sau đây là bốn phẩm chất chung, cơ bản nhất:
a. Trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền
thống Việt Nam và phương Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào
những nội dung mới.
Trong quan niệm của Nho giáo, trung là trung quân, trung với vua. Cá
nhân nào thể hiện tinh thần yêu nước thì phải trung với vua. Trung với vua
cũng có nghĩa là trung thành với nước, vì vua với nước là một.
Với truyền thống yêu nước sẵn có, dân tộc Việt Nam cũng đã tiếp nhận
tư tưởng trung, hiếu của đạo đức Nho giáo một cách có chọn lọc. Trung, hiếu
đã trở thành một phần tài sản của văn hoá dân tộc, góp phần củng cố và xây
dựng nền độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh không gạt bỏ từ trung, hiếu đã ăn sâu bám rễ trong con
người Việt Nam với ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, con người.
Với khái niệm cũ, Người đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức cao
rộng hơn, không phải chỉ trung với vua và hiếu với cha mẹ mà là: “trung với
nước, hiếu với dân”.
Theo Hồ Chí Minh, trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ đất nước.
Bằng việc chuyển khái niệm trung với vua thành trung với nước, Hồ Chí
Minh đã loại bỏ công cụ thống trị đắc lực của bon vua chúa phong kiến. Đây

là một sự độc đáo của Hồ Chí Minh trong việc sử dụng khái niệm đạo đức cũ
để nói lên đạo đức mới.
22
Khái niệm hiếu cũng được bắt nguồn từ đạo đức Nho giáo. Theo Nho
giáo, chữ hiếu áp dụng trong quan hệ gia đình, theo đó con cái phải tôn kính,
thờ phụng cha mẹ, mới là làm tròn đạo hiếu.
Hồ Chí Minh nói: “Đạo đức ngày nay cao rộng hơn, không phải chỉ có
hiếu với cha mẹ, mà trung với nước, hiếu với dân” [22,tr.558] “Người kiên
quyết cách mạng nhất lại là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu không
làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng chục triệu bố mẹ người
khác cũng bị đế quốc phong kiến giày vò. Mình không những cứu bố mẹ mình
mà còn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa. Phải hiểu chữ hiếu của
cách mạng rộng rãi như vậy” [17, tr.60]
Muốn trung với nước phải hiếu với dân, trung và hiếu gắn bó hữu cơ
với nhau. Vì thương dân, thông cảm với nỗi đau mất nước của dân, Hồ Chí
Minh đã phải xa những người thân của mình để ra đi tìm đường cứu nước.
Điều này nói lên rằng, ngay từ đầu Hồ Chí Minh đã có quan niệm mới về đạo
hiếu.
Theo Hồ Chí Minh, hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện
dân chủ cho người dân. Người đã đặt vấn đề: “bao nhiêu quyền hạn đều của
dân” “bao nhiêu lợi ích đều vì dân” “Đảng, Chính phủ là “đầy tớ” của dân”.
Tuỳ theo từng đối tượng mà Hồ Chí Minh xác định nội dung trung, hiếu
cho phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh yêu cầu người đảng viên truớc
hết phải có lòng trung thành với Tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân: “Chính
phủ là công bộc của dân, chính phủ bao giờ cũng phải đặt quyền lợi của dân
lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân
thì hết sức tránh”[14, tr.22]
Đối với lực lượng quân đội, Hồ Chí Minh cho rằng, “Quân đội ta trung
với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ

nghĩa xã hội” [21, tr.350]. Theo Người, quân đội ta là của nhân dân, bộ đội ta
là con em của nhân dân, từ nhân dân mà ra, cho nên phải chiến đấu hy sinh
23
quên mình vì nhân dân. Trung với nước, hiếu với dân đã tạo nên sức mạnh vô
địch của quân đội ta nên khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng.
Đối với công an nhân dân, Hồ Chí Minh đã khẳng định : “Phải nâng
cao lòng yêu nước, yêu CNXH, luôn cảnh giác, dũng cảm chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ CNXH. Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với
nhân dân” [22, tr.145]. Trong sáu điều dạy công an nhân dân, có hai điều rất
quan trọng đó là: “Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Với với
nhân dân, phải kính trọng lễ phép” [15, tr.406].
Đối với thanh niên, Hồ Chí Minh yêu cầu: Điều gì phải thì làm cho kỳ
được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ.
Trong thư gửi thanh niên ngày 2-9-1965, Bác căn dặn: “Phải luôn nâng cao
chí khí cách mạng, trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[21, tr.504].
Đối với các thầy cô giáo, “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn
đức. Đức là đạo đức cách mạng …Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài
cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một
lòng phục vụ nhân dân”[21, tr.329] “Thầy và trò luôn phải nâng cao tinh thần
yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội…tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách
mạng… sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ nào mà mà Đảng và nhân dân giao
cho…”[22, tr.403]
Như vậy, với luận điểm: trung với nước, hiếu với dân, Hồ Chí Minh đã
làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức. Người đã gạt bỏ cái cốt lõi
nhất trong Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với ông vua phong kiến. Hồ
Chí Minh đã lật ngược triết lý đạo đức Nho giáo như C. Mác đã làm với học
thuyết của Hêghen.
b. Yêu thương con người

Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ,
24
cùng với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động thực tiễn,
Hồ Chí Minh xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương là tình cảm rộng lớn ở Hồ Chí Minh. Tình yêu thương
đó trước hết giành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp
bức bóc lột. Tình yêu thương đó đã được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng ham
muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập, dân được tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Nếu không có tình yêu thương con
người như vậy thì không thể nói đến cách mạng, không thể nói đến chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình yêu thương đó không dừng lại ở trong nước mà Hồ Chí Minh còn
dành cho cả những người cùng khổ trên thế giới. Người thông cảm và đau xót
trước cảnh nhân dân các nước thuộc địa bị bóc lột và đàn áp dã man. Trong
tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Hồ Chí Minh đã lên án những tội
ác của chủ nghĩa thực dân đối với các nước thuộc địa. Từ đó, Người kêu gọi
tất cả những ngưòi cùng khổ trên thế giới đoàn kết lại để chống kẻ thù chung
là chủ nghĩa đế quốc.
Tình yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh còn phải được thể hiện
trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với mọi ngưòi xung quanh. Nó đòi hỏi
phải tôn trọng con người, phải biết nâng con người lên chứ không phải hạ
thấp, càng không phải vùi dập con người. Điều này đặc biệt quan trọng đối
với những người ở cương vị lãnh đạo, ở bất cứ cấp nào.
Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: Đối với người cán bộ, đảng viên cần phải
có năm điều: nhân, nghĩa trí, dũng, liêm. Trong đó chữ nhân được Người đặt
lên hàng đầu và được Người giải thích: “Nhân là thật thà yêu thương, hết lòng
giúp đỡ đồng chí và đồng bào”[15,tr.251]. Trong Di chúc Người căn dặn
Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đối với cán bộ quân đội

Người yêu cầu phải yêu thương các chiến sĩ như anh em ruột thịt…
25

×