Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN giáo dục học sinh cá biệt trong lớp chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.26 KB, 14 trang )

SỞ GD&ĐT THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:

“CÔNG TÁC GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
TRONG LỚP CHỦ NHIỆM ”

Họ và tên: Lê Thế Phương
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực : Công tác chủ nhiệm

0


THANH HÓA, NĂM 2019

1


MỤC LỤC

TT
1
2
3
4
5
6


7

Mục
A. Đặt vấn đề
B. Giải quyết vấn đề
I. Đối tượng - thời gian
II. Cơ sở thực tiễn
III. Thực trạng vấn đề
IV. Biện pháp thực hiện
C. Kết luận

Trang
2
3
3
3
3
4
9

2


“KINH NGHIỆM: CÔNG TÁC GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
TRONG LỚP CHỦ NHIỆM ”

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Đối với một trường THPT bên cạnh công tác chuyên môn thì công tác chủ
nhiệm luôn được sự quan tâm đặc biệt của ban giám hiệu và hội đồng nhà
trường, bởi vì một tập thể lớp có đạt được thành tích học tập tốt hay không ,có

nhiều học sinh có thành tích tốt hay không trước hết đó phải là một tập thể có nề
nếp tốt,có tinh thần tập thể và tính đoàn kết cao. Tất cả những điều đó sẽ có thể
đạt được nếu như người giáo viên chủ nhiệm( GVCN ) của lớp đó thực sự quan
tâm tới tập thể lớp ,có những kĩ năng khéo léo dẫn dắt học sinh,được học sinh
thực sự tin tưởng,kính trọng. Trong công tác chủ nhiệm lớp GVCN là người
quản lí, giáo dục toàn diện học sinh trong đó đặc biệt là các học sinh cá biệt.
Học sinh các biệt hầu như lớp nào cũng có tuy chỉ là một vài học sinh song lại là
những “ lực cản ” rất lớn tới công tác chủ nhiệm của giáo viên; những học sinh
đó là những “ con sâu bỏ rầu nồi canh ”, làm ảnh hưởng đến cả tập thể của lớp,
thậm chí những học sinh đó còn đe dọa , khống chế những nhân tố tích cực đấu
tranh , bảo vệ lẽ phải của lớp, trường. Trường học là nơi gieo mầm, có chức
năng là dạy dỗ, giáo dục học sinh nên người kể cả các học sinh cá biệt. Giáo dục
học sinh các biệt đòi hỏi sự tận tâm, kiên trì, lòng vị tha, tâm huyết của người
thầy, người cô.
Tuy nhiên đa phần việc giáo dục học sinh cá biệt hiện tại vẫn là vấn đề rất khó
đối với nhiều GVCN vì có thể nhiều thầy cô chưa có biện pháp phù hợp, hoặc vì
thành tích của lớp suy giảm nên đã tác động không nhỏ tới công tác giáo dục của
giáo viên.
Với mỗi một học sinh cá biệt GVCN phải có các cách xử lí riêng cho từng
trường hợp cụ thể, không thể áp dụng dập khuôn các phương pháp xử lí chung
cho tất cả các học sinh. Trong quá trình giáo dục tôi luôn đặt ra câu hỏi: đối với
học sinh cá biệt có nên xử phạt hay không, có la mắng trước tập thể lớp hay
không có nên kì thị , phân biệt đối xử học sinh cá biệt và các học sinh khác hay
không. Khi bàn về vấn đề giáo dục học sinh cá biệt nhiều người nói cần xử lí
thật nghiêm, thật nặng để cho “xứng đáng” với lỗi của học sinh gây ra, có thể
cho học sinh cá biệt ngồi tách riêng một bàn để thầy cô giáo bộ môn tiện quản lí
cũng như học sinh phải xấu hổ để thay đổi.
Với tôi việc học sinh vi phạm thì phải xử lí, không thể nhắm mắt làm ngơ
trước những sai phạm của học sinh, song phải xử lí thế nào cho thỏa đáng, công
bằng và cho có tính giáo dục cao nhất để học sinh cá biệt nói riêng cũng như cả

lớp nói chung phải “ tâm phục khẩu phục” vì như ông cha ta thường nói “ Lạt
mềm buộc chặt”. Thông qua việc giáo dục học sinh cá biệt phần nào giúp cho
các thầy cô quan tâm hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối với nghề nghiệp,
đặc biệt là trong công tác chủ nhiệm. Qua việc xử lí hợp lí trong vấn đề chủ
nhiệm tôi thấy các em đều trở nên mạnh dạn, tự tin trong cuộc sống, hòa đồng,

3


cởi mở với bạn bè và thầy cô giáo; các em đã trở nên yêu thích giờ lên lớp chứ
không còn cảm thấy bị bắt buộc,gò bó như trước nữa. Và cũng từ đó GVCN
cũng được các em tin tưởng hơn, các em đã trao đổi cả những điều mà các em
gặp trong cuộc sống mà có thể với người thân các em cũng không tâm sự; và
càng ngày nề nếp học tập của tập thể lớp càng được nâng cao.

B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.ĐỐI TƯỢNG – THỜI GIAN.
Các học sinh cá biệt ở các lớp đã và đang chủ nhiệm ở trường THPT Nguyễn
Thị Lợi từ năm 2003-2019
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
Đạo đức là nguồn cội gốc rễ của mỗi người như người xưa đã nói “ Tiên học
lễ - hậu học văn . Tuy nhiên hiện nay vấn đề đạo đức trong một bộ phận học sinh
ở trường học đang ngày càng xuống cấp trầm trọng nổi lên đó là tình trạng học
sinh bị đánh hội đồng, quay clip tung lên mạng xã hội ; học sinh đánh giáo
viên...tất cả đều đang là những hồi chuông báo động về tình trạng suy thoái đạo
đức của một bộ phận học sinh hiện nay. Đối với lứa tuổi THPT là lứa tuổi mới
lớn, tâm sinh lí dễ bị tác động từ các yếu tố bên ngoài, các em đang muốn khẳng
định mình, cảm thấy mình là người lớn chứ không còn là thiếu niên nên học sinh
muốn khẳng định quyền người lớn của mình. Nhiều học sinh cảm thấy rằng các
thầy cô giáo sẽ không làm gì được mình khi mình vi phạm mà có chăng chỉ

dừng lại ở mức độ dọa nạt, hạ hạnh kiểm, mời phụ huynh …và từ đó mà các
biểu hiện cá biệt dần dần hình thành, một số gia đình do việc nuông chiều con
cái quá mức bên cạnh đó ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài khi học sinh tiếp
cận với các trang mạng xã hội, internet...từ đó làm cho học sinh có tâm lí, thói
quen thụ hưởng coi mình là trên hết.
Chính vì vậy là giáo viên và đặc biệt GVCN các thầy cô phải nắm bắt được
tâm lí lứa tuổi học sinh, từ đó có biện pháp khéo léo để có thể uốn nắn các học
sinh chưa ngoan, học sinh cá biệt trở thành học trò tốt, người công dân tốt và có
ích cho xã hội, giảm thiểu nạn bỏ học trong học sinh, dần đưa các em từ người
“ xấu” , một học sinh “bỏ đi” trở về là một học sinh tốt. Việc giáo dục học sinh
cá biệt đòi hỏi sự tận tâm, tỉ mỉ và hơn hết là cần có phương pháp đúng đắn của
người GVCN vì như người xưa từ nói “ Nhân chi sơ, tính bản thiện ”.
III.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ.
Thực tế nhà trường trong những năm qua, nhiều giáo viên còn gặp khó khăn
trong công tác chủ nhiệm. Do đặc thù của địa phương nhiều hộ dân đi biển, thiếu
sự bám sát, quan tâm của bố mẹ với học sinh, mặt khác Sầm Sơn là địa bàn thị
xã du lịch nên học sinh tiếp xúc với nhiều đối tượng, nhiều cách ăn nói, ứng xử,
các luồng văn hóa khác nhau tốt và xấu đều có nhưng những ảnh hưởng tiêu cực
mặt trái của xã hội thì lại dễ lôi kéo những học sinh không đủ bản lĩnh. Bản thân
tuyển sinh đầu vào chất lượng học sinh của trường còn thấp, học sinh học yếu

4


thì thường gắn liền với chán học, hay quấy phá. Việc xếp lớp ở đầu khóa của
mỗi lớp đều có học sinh khá; trung bình và yếu theo ngẫu nhiên ; nên sau một
thời gian học từ một đến hai tháng mới nổi trội lên những học sinh yếu, kém về
học lực , hạnh kiểm dẫn đến tình trạng như thường xuyên không thuộc bài,
không làm bài tập, bỏ học, bỏ giờ, mải chơi game, mạng internet không chấp
hành nội quy nề nếp trường lớp, và “được” các giáo viên gọi chung là học sinh

cá biệt… từ đó dẫn đến các tiêu cực khác…Những đối tượng nêu trên mặt dù số
lượng không nhiều trong một lớp. Nhưng đối với vai trò của GVCN đây là vấn
đề không ít khó khăn, vì nếu quản lí, xử lí lớp không khéo sẽ làm ảnh hưởng rất
lớn đến những học sinh khác, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chung
của lớp và toàn trường. Do vậy đối với mỗi giáo viên ngoài kiến thức chuyên
môn giỏi đòi hỏi phải có kỹ năng trong công tác chủ nhiệm, khả năng nắm bắt
tâm sinh lí lứa tuổi nhằm kịp thời giáo dục những học sinh cá biệt trở thành
những học sinh ngoan. Giúp các em có được nhận thức đúng đắn về vai trò,
trách nhiệm của một người học sinh, đồng thời giúp cho người thầy có được
niềm tin đam mê nghề nghiệp, tạo một môi trường giáo dục thân thiện, tích cực
đầy ý nghĩa.
IV. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
Để có thể giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm nói chung và học sinh cá biệt nói
riêng thì GVCN phải có các bước đi, phương pháp thích hợp; đối với những học
sinh cá biệt thì không thể áp dụng xử phạt hay răn đe các em ngay từ đầu, hay
lại càng không thể có thái độ kì thị, phân biệt đối xử với các em; trước hết để
làm tốt công tác chủ nhiệm thì GVCN phải làm tốt công tác tổ chức lớp học,
thực hiện một số công việc sau:
* Xếp chố ngồi:
Việc sắp xếp chỗ ngồi hết sức quan trọng , nếu để các em tự do lựa chọn chỗ
ngồi thì thường các em sẽ có xu hướng nhứng em hay chơi với nhau sẽ ngồi với
nhau, các em hay nói chuyện ngồi riêng với nhau, GVCN phải xem trước học bạ
cấp hai của các em để nắm bắt được các đặc điểm của học sinh, từ đó sắp xếp
học sinh khá , giỏi ngồi đan xen với học sinh yếu kém để các em có thể giúp đỡ ,
kèm cặp các em học yếu trong quá trình học tập; các học sinh có thị lực yếu,
thấp nhỏ thì ưu tiên ngồi các bàn phía trước; đối với các học sinh chưa ngoan thì
không được xếp ngồi dồn một nơi mà phả ngồi tách ra, và nếu có thể thì cho các
em ngồi lên các bàn phía trên để có thể tiện quan sát, giáo dục học sinh; sau đó
phải lập sơ đồ chỗ ngồi để các giáo viên cũng như học sinh trong lớp theo dõi
việc thực hiện.

* Bầu ban cán sự lớp:
Giáo viên sau khi nắm bắt được học lực, hạnh kiểm, năng lực của học sinh
qua các kênh thông tin sẽ cử ra được lớp trưởng, lớp phó, các tổ trưởng…. việc
này hết sức quan trọng vì đội ngũ ban cán sự chính là những người thay mặt
GVCN quản lí lớp do đó trong quá trình hoạt động GVCN phải thường xuyên có
sự trao đổi với ban cán sự từ đó nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của học sinh

5


và có biện pháp giải quyết phù hợp; đối với các cá nhân trong ban cán sự có thể
thay đổi nếu các em không có năng lực hoạt động, khuyến khích các em tự bộc
lộ , ứng cử trong công tác cán bộ lớp, thường xuyên theo dõi để phát hiện ra các
cá nhân có khả năng quản lí trong lớp, được sự tín nhiệm của lớp để có thể có
được đội ngũ cán sự lớp nhiệt tình, năng nổ, có trách nhiệm, có tiếng nói; tránh
trường hợp ép buộc các em không đủ năng lực quản lí lớp sẽ làm ảnh hưởng tới
lớp học cũng như sự bất phục đối với các học sinh trong lớp, là mầm mống cho
các học sinh cá biệt xuất hiện.
* Xây dựng nội qui lớp:
Ngoài việc yêu cầu học sinh học thuộc nội qui của trường thì mỗi lớp cần có
nội qui riêng được tập thể xây dựng phù hợp với điều kiện của lớp. Sau khi xây
dựng và thống nhất nội qui trong toàn lớp GVCN cần phổ biến rộng rãi trong
lớp để làm căn cứ xử lí vi phạm sau này, bên cạnh đó cũng cần có tiêu chí ,thang
điểm thi đua giữa các tổ trong lớp để các em có tinh thần phấn đấu trong học tập
nếu tổ nào thực hiện tốt có thành tích cao nhất thì cuối tháng hoặc cuối kì sẽ có
phần thưởng động viên phù hợp, còn nếu tổ nào thực hiện không tốt sẽ phê bình
nhắc nhở hoặc có các hình thức phạt khi vi phạm ( hình thức phạt được tập thể
lớp lựa chọn và thống nhất từ đầu năm khi thảo luận về nội qui lớp, sau đó thông
báo rộng rãi để phụ huynh và học sinh đều được biết) , sau khi ban hành nội qui
cần thực hiện dứt điểm nội qui tránh trường hợp xử lí qua loa, lúc cứng lúc mềm

tạo tâm lí bất phục trong học sinh.
* Khảo sát học sinh
Việc khảo sát học sinh giúp GVCN nắm bắt được hoàn cảnh gia đình, sở
trường của từng học sinh từ đó có biện pháp phối kết hợp giữa gia đình và nhà
trường giúp đỡ uốn nắn các học sinh chưa ngoan cũng như giúp đỡ các học sinh
có hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ bỏ học .
Sầm Sơn, Ngày…Tháng … năm …
PHIẾU KHẢO SÁT HỌC SINH
Họ và tên : …………………………………………….
Ngày sinh………/……/……….
Nam/Nữ: ……..
Nơi sinh……………………………………………...
Quê quán…………………………………………….
Chỗ ở hiện nay( Số nhà, đường( thôn ),Phường (xã ) )
………………………………………………………
Họ và tên bố:………………..số điện thoại…………Nghề nghiệp………
Họ và tên mẹ:………………..số điện thoại…………Nghề nghiệp………
Hoàn cảnh gia đình hiện tại:…………………………
Năng lực , sở trường……………………………………
Trong học tập và cuộc sống em gặp phải khó khăn gì…………………….
……………………………………………………………………………..
Theo em cần có biện pháp gì để nâng cao chất lượng giờ học, giảm vi phạm.

6


…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Người viết
(Kí, ghi rõ họ tên)

Sau khi khảo sát học sinh theo hình thức tự kê khai đồng thời thông qua tìm
hiểu qua các kênh trong lớp GVCN sẽ phân loại học sinh từ đó có hình thức,
biện pháp thúc đẩy , phát triển các năng lực sở trường từng học sinh, giáo dục
với các học sinh chưa ngoan và có thể nói là học sinh cá biệt. đối với những học
sinh cá biệt GVCN cần có các bước sau:
*Bước 1: Phân loại học sinh cá biệt.
Đối với học sinh cá biệt thường có các biểu hiện sau:
-Hay bỏ học, bỏ tiết, thường đi học muộn.
-Không đồng phục, phù hiệu, vi phạm qui định đầu tóc, tác phong.
-Mất trật tự giờ học, không chú ý nghe giảng, không giữ vệ sinh lớp học; không
tham gia hoặc tham gia không tích cực các hoạt động của lớp.
- Thiếu văn hóa( văng tục, chửi thề ), đùa giỡn, chọc ghẹo các bạn quá mức.
- Thiếu tôn trọng hoặc vô lễ với giáo viên và các công nhân viên của trường.
- Mê chơi game, internet, lôi kéo, rủ rê bạn bè vi phạm.
- Đi học về nhà không đúng giờ, hay nói dối.
-Hút thuốc, đánh nhau, chơi bài trong trường.
-Giao du với các bạn bè xấu, không tốt....
* Bước 2: Tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới học sinh cá biệt.
Từ thực tiễn của nhà trường hiện nay học sinh cá biệt, chưa ngoan không phải
là phổ biến nhưng ở trường nào, lớp nào cũng tồn tại và cũng chịu ảnh hưởng
bởi đối tượng học sinh này đối với phong trào thi đua của toàn lớp ; bên cạnh
môi trường là một thị xã du lịch chịu tác động từ nhiều luồng văn hóa, ứng xử
cũng như các tác động không tốt đã phần nào ảnh hưởng tới sự phát triển nhân
cách, nhận thức của học sinh thì còn có thể do một số tác động sau đã tạo nên
các học sinh chưa ngoan và có thể nói là học sinh cá biệt :
- Các em đi học do gia đình ép buộc chứ chưa phải do yêu thích của các em.
- Do tác động của các yếu tố xã hội , bị bàn bè không tốt lôi kéo, dụ dỗ.
- Sự tác động không tốt từ internet, các trang mạng xã hội, phim ảnh, các trò
chơi bạo lực của game.
- Một số gia đình chưa có sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái trong học tập.

- Gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên thường xuyên phải giúp đỡ gia đình nên
dẫn tới kết quả học tập sa sút , tâm lí chán nản.
- Bố mẹ thường xuyên cãi vã mâu thuẫn, bố mẹ li hôn dẫn tới tâm lí buồn chán,
bực tức với bố mẹ , học hành chểnh mảng, sa sút và dễ bị lôi kéo vào những thói
hư tật xấu, sa vào các cám dỗ của đời sống xã hội.
- Gia đình khá giả, bố mẹ mải lo kiếm tiền, chỉ biết cung cấp tiền cho con cái,
tâm lí “ khoán trắng ” cho nhà trường, không có sự quản lí học tập của con cái
dẫn tới tính ỷ lại, thói quen hưởng thụ trong học sinh.

7


- Trong lớp có quá nhiều học sinh yếu kém dẫn tới phong trào học tập của lớp sa
sút, chán nản và tạo thành học sinh cá biệt trong lớp.
Bên cạnh các yếu tố gia đình, xã hội thì một số trường hợp học sinh cá biệt còn
xuất phát từ nguyên nhân là giáo viên như:
* Đối với GVCN
- Không xây dựng được nội qui, qui định riêng cho lớp.
- Xử lí học sinh không dứt điểm, chỉ nói mà không thực hiện, đối xử với các học
sinh trong lớp không công bằng, có sự ưu ái, thiên vị cho một số học sinh mà lại
quá nặng đối với một số học sinh khác.
- Có sự phân biệt, kì thị đối với các học sinh cá biệt.
- Học sinh vi phạm các lỗi nhẹ cũng mời phụ huynh hay phạt học sinh quá nặng
gây tâm lí ức chế cho học sinh và dẫn tới sự phản kháng, chống đối trong học
sinh.
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường, không có sự thông
báo kịp thời các sai phạm của học sinh; trong quá trình xử lí còn chưa linh hoạt ,
chưa có phương pháp hoặc sử dụng phương pháp chưa phù hợp.
- Thiếu sự quan tâm đến lớp, phó mặc cho ban cán sự lớp, ban chấp hành chi
đoàn, Bầu ban cán sự, ban chấp hành chi đoàn không đủ năng lực, dẫn tới sự

không phục trong học sinh đối với những người chỉ đạo và từ đó sẽ phát sinh ra
sự quấy phá.
- Chưa động viên, khuyến khích kịp thời đối với học sinh cá biệt khi các em có
sự tiến bộ mà chỉ biết nhìn vào các vi phạm của các em để trừng phạt.
* Đối với giáo viên bộ môn:
- Phân biệt đối xử đối với các học sinh cá biệt, hay gọi lên trả bài và cho điểm
kém, không cho học sinh cơ hội sửa chữa.
- Luôn so sánh học sinh trong lớp, học sinh lớp này với lớp khác, than trách lớp
học yếu, thiếu ý thức hay dọa cho điểm yếu dẫn tới tâm lí chán học bộ môn
trong học sinh.
Trong thực tế các nguyên nhân thường đi chung , có mối liên hệ với nhau, vì lẽ
đó GVCN phải khéo léo tìm hiểu xem trong các nguyên nhân kể trên thì đâu là
nguyên nhân cơ bản, từ đó có thể đưa ra các biện pháp giáo dục thích hợp nhằm
thay đổi những suy nghĩ lệch lạc của học sinh cá biệt. Bên cạnh đó GVCN phải
cùng trao đổi với các giáo viên bộ môn khác để có các biện pháp giáo dục phù
hợp. Để làm được điều đó GVCN phải tìm hiểu thông qua hồ sơ lưu, qua bạn bè
của học sinh, các giáo viên các năm trước ; đặc biệt phải tìm hiểu thật kĩ lưỡng
hoàn cảnh hiện tại của gia đình học sinh vì đa phần nguyên nhân dẫn tới các
biểu hiện cá biệt đều xuất phát từ phía gia đình.
Từ việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới các biểu hiện cá biệt của học sinh GVCN
sẽ đưa ra được các biện pháp thích hợp phù hợp với từng đối tượng học sinh
giúp các em ngày càng tiến bộ.
*Bước 3: Tiếp xúc với cha mẹ học sinh, tìm hiểu các mối quan hệ bạn bè
của học sinh.

8


- Việc thông tin hai chiều giữa gia đình và GVCN là hết sức quan trọng, thông
qua việc nắm bắt địa chỉ gia đình , số điện thoại của bố mẹ GVCN có thể trao

đổi phản ánh , nhận biết tâm tư, tình cảm của học sinh, cùng với gia đình các em
tạo một cầu nối giúp các em trong các hoạt động, trao đổi với gia đình về sự sa
sút các mặt hay động viên những sự tiến bộ của học sinh.
- Bạn bè xấu hay tốt đều ảnh hưởng tới việc hình thành nhân cách của học
sinh.Qua việc tìm hiểu bạn bè của học sinh nắm bắt các bạn tốt, nêu gương,
khuyến khích học sinh học tập, hay nắm bắt được các đối tượng xấu dễ lôi kéo
học sinh sa ngã từ đó khuyên bảo học sinh không a dua, bắt chước học theo các
đối tượng không tốt. Thầy cô phải can thiệp tế nhị , đúng lúc và kịp thời và đôi
khi phải thật quyết liệt, và nếu như thầy cố có thể trở thành người bạn của học
sinh là tốt nhất, khi đó học sinh có thể thoải mãi bộc lộ những tâm tư, tình cảm
của mình từ đó giúp giáo viên nắm được chính xác nhất những chuyển biến tâm
lí của học sinh.
*Bước 4 :Tạo sự gần gũi, quan tâm học sinh.
Các học sinh cá biệt thường có các điểm mạnh: khả năng thể thao, văn
nghệ, khả năng tổ chức các hoạt động trong lớp...do đó GVCN phải nắm bắt
được các điểm mạnh của các em, sử dụng khéo léo, đúng hướng, kịp thời động
viên, khuyến khích các em trong các lĩnh vực đó, thông qua đó tạo sự gần gũi,
quan tâm đúng mức với học sinh; việc làm này giúp các em không còn cảm thấy
khoảng cách giữa thầy cô và các em; qua đó GVCN nắm bắt được các tâm tư,
nguyện vọng của các em, tạo cho các em một niềm tin một chỗ dựa vững chắc.
Tuy nhiên , bên cạnh sự quan tâm người thầy vẫn phải nghiêm khắc với những
vi phạm của học sinh, gương mẫu trước các em có như vậy mới tạo được sự
khâm phục , nể trọng của học sinh và làm cho học sinh noi theo.
*Bước 5: Giao nhiệm vụ cho học sinh.
Đối với nhiều GVCN khi giao nhiệm vụ cho các học sinh cá biệt thường
không yên tâm vì thấy rằng xưa nay các em chưa ngoan, hay làm hỏng việc .
Tuy nhiên đối với các học sinh cá biệt khi được thầy cô giao nhiệm vụ thì học
sinh sẽ thấy rằng mình không phải là người thừa, vẫn có khả năng được giáo
viên tin tưởng do đó các em sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và những khi đó
GVCN cần tuyên dương học sinh trước lớp để động viên, khích lệ các em.Ngay

kể cả khi học sinh không hoàn thành nhiệm vụ như đúng sự mong muốn của
giáo viên thì giáo viên vẫn động viên các em cố gắng phát huy trong những lần
sau theo tinh thần “ mưa dầm thấm đất ”, từ đó có thể dần đưa các em vào đúng
guồng đã vạch sẵn.
*Bước 6. Công tác phối hợp.
Đây là công tác vô cùng quan trọng khi GVCN phối hợp với các đoàn thể, tổ
chức, các giáo viên trong nhà trường , gia đình học sinh từ đó có biện pháp phù
hợp đối với các học sinh giúp các em dần trở thành những học sinh ngoan,
những công dân có ích.

9


C.KẾT LUẬN
1. Kết quả.
Việc giáo dục đạo đức học sinh trong lớp nói chung và học sinh cá biệt nói
riêng thành công hay thất bại, phải kết hợp rất nhiều phương pháp một cách
nhuần nhuyễn, thành thục phù hợp với từng đối tượng học sinh,phải biết chọn
được điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng lớp, từng học sinh.
Không nên áp dụng phương pháp một cách rập khuôn, máy móc cho tất cả các
đối tượng bởi lẽ đối tượng cũng như sản phẩm ở đây là con người, nó là tổng
hòa những mối quan hệ xã hội.
Giáo dục học sinh cá biệt trở thành người học sinh tốt, có ích cho xã hội là
một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất của GVCN nhưng nếu thành công thì
nó lại có ý nghĩa hết sức to lớn đối với bản thân học sinh, tập thể lớp, gia đình và
xã hội. Chính lòng nhiệt tình, tâm huyết và trách nhiệm sẽ giúp cho GVCN có
được khả năng cảm hóa được học sinh nói chung và học sinh cá biệt nói riêng.
Đó chính là năng lực gây ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với học sinh bằng lí
trí, tình cảm, tâm huyết và trách nhiệm của người giáo viên. Hơn ai hết GVCN
phải dùng chính nhân cách của mình để tác động vào học sinh, là tấm gương để

các em noi theo, từ đó giáo dục các em thành người. Khi “ cảm hóa ” giáo dục
được các học sinh cá biệt thì sẽ thu được kết quả hết sức to lớn:
- Đối với học sinh: GVCN tìm hiểu, nắm bắt được những điểm mạnh, ưu thế
của học sinh và khai thác được các điểm mạnh đó sẽ thúc đẩy học sinh phát triển
theo hướng tích cực , từ đó cho học sinh sự tự tin, niềm tin yêu trong học tập và
dần dần hướng các em trở thành một học sinh tốt về đạo đức, phát triển theo
đúng hướng, trở thành một học sinh có trách nhiệm, một công dẫn có ích cho xã
hội.
- Đối với tập thể lớp: Khi việc giáo dục học sinh cá biệt có kết quả thì đó là
một trong những điều kiện đảm bảo cho lớp ổn định trật tự, nề nếp để cho mọi
thành viên khác trong lớp học tập và tu dưỡng tốt; từ đó tạo sợi dây đoàn kết,gắn
bó trong lớp, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Đối với gia đình học sinh cá biệt: Thành công trong công tác giáo dục học
sinh cá biệt có ý nghĩa hết sức lớn lao và quan trong đối với gia đình học sinh vì
niềm hạnh phúc lớn nhất của cha mẹ chính là con cái. Giáo dục thành công có
nghĩa đem về cho gia đình một người con từ “ hư hỏng, bất trị, bỏ đi ” trở nên
người con biết nghe lời, biết lẽ phải, tạo xự phát triển thành con người tốt sau
này.
- Đối với xã hội: Việc thành công trong giáo dục học sinh cá biệt giúp một
phần ổn định xã hội , cung cấp cho xã hội một người công dân tốt, tạo sự phát
triển cho xã hội.
Qua kinh nghiệm làm chủ nhiệm ở 16 năm tôi nhận thấy đối với các học sinh
cá biệt khi được giáo dục đúng cách các em sẽ trở thành những người rất có ích
trong công tác chủ nhiệm và sau này khi trưởng thành các em sẽ vô cùng trân

10


trọng những gì mà GVCN đã mang lại; và sau này khi ra trường thì chính những
học sinh cá biệt này lại là những học sinh tình cảm, quan tâm tới thầy cô nhất.

VD: + Học sinh Trần Văn Bách khóa 2003-2006 là một học sinh hay bỏ học
chơi bời, giao lưu với các đối tượng xấu, kể cả các đối tượng sử dụng ma túy có
nhiều khả năng bỏ học. Sau nhiều lần tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư tình cảm , cùng
gia đình động viên , thuyết phục học sinh đã ý thức và chuyển biến rõ rệt ở năm
lớp 12 và hiện tại đang là sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam.
+ Học sinh Nguyễn Văn Dũng khóa 2008-2011 học lực yếu, thường giao du
với bạn bè không tốt không chịu học đã từ bỏ học sau khi bỏ đi biển cùng với bố
1 tuần sau nhiều lần GVCN gọi điện, đến nhà trao đổi thì em đã quay trở về và
xin được học lại, và hiện tại là một công nhân thợ máy lành nghề.
+ Học sinh Nguyễn Thị Dung khóa 2008-2011 đang từ một học sinh học khá,
ngoan hiền bỗng nhiên sa sút , chểnh mảng trong việc học, tới lớp thường nằm
ngủ. Qua tìm hiểu GVCN biết được do gia đình hộ nghèo,cuộc sống chỉ có hai
mẹ con; mẹ vài tuần gần đây bi ốm nặng phải đi viện, gia đình không có tiền
chạy chữa nên em phải đi làm thêm để lấy tiền nuôi mẹ và có nguy cơ phải bỏ
học, GVCN đã kêu gọi học sinh trong lớp ủng hộ theo tinh thần “ tương thân,
tương ái” , “ lá rách ít đùm lá rách nhiều”, hội khuyến học nhà trường và bản
thân giáo viên chủ nhiệm hỗ trợ cho gia đình em và em đã tiếp tục sự nghiệp học
của mình và đã tốt nghiệp khoa kế toán trường đại học Hải Phòng, hiện đang
làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh.
2. Kiến nghị, đề xuất .
- Nhà trường, đoàn trường và các tổ chức đoàn thể : Cần tăng cường tổ
chức các sân chơi lành mạnh cho học sinh giúp các em giảm áp lực trong học
tập. Kết hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục đạo đức và văn hóa cho học sinh.
+ Tăng cường công tác giáo dục kĩ năng sống , giúp các em ý thức hơn trong
việc học cũng như có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng.
+Tổ chức các lớp tập huấn giáo dục học sinh cá biệt và công tác chủ nhiệm
cho GVCN và giáo viên bộ môn để mọi người cùng có phương pháp giáo dục
đúng đắn đối với học sinh. Khen thưởng kịp thời cho các tập thể lớp và giáo
viên có thành tích cao.
- Giáo viên bộ môn: Nên đặt mình vào vị trí của học sinh để có cách xử lí phù

hợp, tuyệt đối tránh sử dụng các ngôn từ không đúng mực, coi thường, xúc
phạm tới nhân phẩm và lòng tự trọng của học sinh. Xử lí, đánh giá công bằng
với tất cả các học sinh; tránh trường hợp “ thiên vị ” ưu ái cho một học sinh nào
đó.
- Phụ huynh học sinh: Chủ động phối hợp cùng nhà trường, thường xuyên liên
hệ kịp thời với GVCN, quan tâm tới học sinh tránh tình trạng phó mặc , “ khoán
trắng”cho nhà trường vì nếu không có sự hợp tác phối hợp kịp thời của gia đình
thì nhà trường không thể trở thành môi trường giáo dục tốt nhất.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quy định về đạo đức nhà giáo ( Ban hành kèm theo quyết định số
16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ).
2. Quy định chuẩn nghề nghiệp GV THCS và GV THPT ( Ban hành kèm theo
thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ).
3. Luật giáo dục năm 2005, luật sửa đổi năm 2009.
4. Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học
( Ban hành kèm theo thông tư số 12/2011/TT-BGD ĐT ngày 28/3/2011 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT ) .
5. Nguyễn Thanh Bình, công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT, MS. SPHN – 09
– 465NCSP, 2010.
6. Vũ Thị Hải - Biện pháp quản lí công tác chủ nhiệm lớp , luận văn thạc sĩ quản
lí giáo dục.

12


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Sầm Sơn,ngày 22 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Lê Thế Phương

13



×