Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Thị trường chứng khoán và khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.67 KB, 6 trang )

Thị trường chứng khoán và khả năng tiếp cận các nguồn
vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế. Theo thống kê sơ bộ của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VCCI), DNNVV hiện chiếm tỷ trọng 97% tổng số doanh nghiệp đang
hoạt động tại Việt Nam, đóng góp 45% vào GDP, 31% vào tổng số thu ngân
sách và thu hút hơn 5 triệu lao động. Tuy vậy, dư nợ tín dụng của mô hình
doanh nghiệp này ở mức 22-25% nghĩa là chỉ chiếm 1/5 tổng dư nợ cả nước,
Việt Nam hiện có hơn 600.000 doanh nghiệp, bao gồm gần 500.000 doanh
nghiệp tư nhân. Trong số đó, hơn 96% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, 2%
doanh nghiệp quy mô vừa và 2% là doanh nghiệp lớn. Những DNNVV khá linh
hoạt và năng động trong kinh doanh, góp phần thu hút lượng lớn lao động, đóng
góp đáng kể vào tổng thu nhập quốc gia. Nhưng cũng chính vì nhỏ và hạn chế
về kinh nghiệm vận hành nên các doanh nghiệp này còn đang gặp nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài chính, chủ yếu là thông qua các kênh huy
động ngân hàng, tín dụng hoặc từ các nguồn vốn từ xã hội (nhà đầu tư thiên
thần). Các khoản vay thông qua ngân hàng thường là các khoản vay ngắn hạn
trong khi các doanh nghiệp lại có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn để phục vụ
cho việc duy trì hoạt động của mình.
Để thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN nói chung và doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST) nói riêng, ngày 16/5/2016, Chính phủ ban
hành Nghị quyết số 35/NQ-CP về Hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm
2020, trong đó có giải pháp về “Tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo”. Ngày 18/5/2016, Thủ
tướng Chính phủ có Quyết định số 844/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ
sinh thái khởi nghiệp đổi sáng tạo quốc gia đến năm 2025” (Đề án 844) với
mục tiêu “Tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành
và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên
khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới”. Để triển khai Đề
án 844, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số 1128/TTg-ĐMDN ngày


31/8/2018 về việc thu hút đầu tư khởi nghiệp đổi mới sáng tạo từ các nguồn
trong và ngoài nước, giao Bộ Tài Chính chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và
Công nghệ nghiên cứu, đề xuất trình Chính phủ áp dụng thí điểm mô hình nền
tảng gọi vốn cộng đồng và nền tảng giao dịch cổ phần của các doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo trong phạm vi cụ thể. Bên cạnh đó, để hoàn thiện hành
lang pháp lý hỗ trợ các DNVVN, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được
Quốc hội thông quavào ngày 12/6/2017 và Nghị định số 39/2018/NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đã được
Chính phủ ban hành vào ngày 11/3/2018.
1


Thực trạng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa từ thị trường chứng
khoán
Thời gian qua, các DNVVN linh hoạt huy động vốn từ nhiều nguồn khác
nhau như: các quỹ đầu tư, các công ty tài chính, phát hành trái phiếu, cổ phiếu...
Trong bối cảnh nguồn vốn từ các quỹ đầu tư, công ty tài chính ngày càng bị thắt
chặt, việc huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu của các
DNVVN trở thành một kênh hút vốn hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế, có rất ít
DNVVN tiếp cận kênh huy động vốn từ thị trường chứng khoán (TTCK), mặc
dù hiện nay các quy định về phát hành trái phiếu, cổ phiếu riêng lẻ khá cởi mở.
Một trong những nguyên nhân được cho là do lãi suất huy động của kênh này
thường cao hơn lãi suất vay ngân hàng, dao động từ 10% đến 12% nên nguồn
vốn này chỉ phù hợp với các doanh nghiệp lớn, tài sản nhiều. Đó là chưa kể,
ngay cả khi doanh nghiệp phát hành được chứng khoán thì cũng gặp khó khăn
trong việc tìm người mua và phải tốn kém các chi phí để thực hiện các tiêu
chuẩn về minh bạch thông tin tài chính, về báo cáo kiểm toán... Do vậy, không
phải DNNVV nào cũng có thể thực hiện thành công các hình thức huy động vốn
trên TTCK.
Mặt khác, thực hiện vay vốn thông qua các sàn cho vay ngang hàng (P2P

lending platform) cũng là một trong những hình thức được một số các DNNVV
lựa chọn mặc dù các sàn này đang hoạt động độc lập và chưa được quản lý dưới
bất kỳ một cơ sở pháp lý nào. Sở hữu nhiều ưu điểm vượt trội của một loại hình
dịch vụ sáng tạo, P2P dựa trên nền tảng công nghệ số kết nối trực tiếp người cho
vay với người cần vay mà không thông qua trung gian tài chính, chi phí dịch vụ
thấp, thủ tục nhanh gọn, đơn giản, tuy nhiên rủi ro tiềm ẩn của các nền tảng cho
vay ngang hàng này là rất lớn. Thứ nhất, các nền tảng này không có sự bảo hộ
cho bên cho vay trong trường hợp bên đi vay bị mất khả năng thanh toán. Thứ
hai, trong trường hợp xảy ra tranh chấp, kiện tụng giữa hai bên thì hiện chưa có
bất kỳ văn bản pháp lý nào được ban hành để giải quyết vấn đề này. Thứ ba, lãi
suất cho vay giữa các bên được thực hiện theo hình thức thoả thuận và đây cũng
là một trong những yếu tố khiến bên đi vay trong trường hợp là các doanh
nghiệp nhỏ sẽ gặp khó khăn trong việc cân đối doanh thu và trả lãi hàng tháng.
Kinh nghiệm quốc tế về các biện pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa trên thị trường chứng khoán
Hỗ trợ các DNNVV huy động vốn qua TTCK là một trong những mục
tiêu được đề ra tại các nước trong khu vực Châu Á nhằm giải quyết bài toán vay
vốn trung – dài hạn, một số nước như Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn
Quốc... đang đi đầu trong việc tạo lập thị trường dành riêng cho các DNNVV,
đồng thời đưa ra những quy định, chính sách hỗ trợ cụ thể để hỗ trợ các
DNNVV này dần phát triển qua đó có đủ điều kiện niêm yết trên TTCK truyền
thống.
2


Tại Singapore, các DNNVV thường được định nghĩa là các công ty có
doanh thu hàng năm ít hơn 100 triệu đô la Singapore hoặc sử dụng ít hơn 200
công nhân đóng góp 48% GDP, sử dụng khoảng 65% lực lượng lao động và
chiếm 99% tổng số doanh nghiệp và là một trong những trụ cột chính của nền
kinh tế, mặc dù các doanh nghiệp này có tính chất rủi ro cao. Không chỉ hỗ trợ

các DNNVV này phát triển tập trung trong khu vực trong nước mà Chính phủ
cũng như các cơ quan quản lý tại Singapore còn đặt mục tiêu đưa các doanh
nghiệp này vươn đến các nước trong khu vực Châu Á. Để đạt được mục tiêu
này, Chính phủ Singapore đã dự kiến thay đổi một số chính sách về ngân sách
nhằm hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp, cụ thể các khoản cho vay lưu động
(SME Working Capital Loan) thường không thu hút được các tổ chức tài chính
vì xu hướng đầu tư của các tổ chức này thường tập trung vào các loại hình ít rủi
ro. Vì lý do này, Chính phủ Singapore đã quyết định chia sẻ rủi ro với các tổ
chức này thông qua việc cung cấp Gói hỗ trợ tự động hoá (Automation Support
Package) nhằm giảm bớt gánh nặng cho các tổ chức tài chính yên tâm đầu tư
vào các DNNVV.
Thái Lan cũng là một trong các nước quan tâm đến các hoạt động hỗ trợ
phát triển dành cho DNNVV. Trong năm 2017, Chính phủ Thái Lan đã đưa ra
một loạt các cơ chế hỗ trợ nhằm thúc đẩy xuất khẩu của các DNNVV, hỗ trợ
phát triển kinh doanh kỹ thuật số và thương mại điện tử, và tăng khả năng tiếp
cận tài chính tại các ngân hàng thương mại. Những nỗ lực này đã giúp các
DNNVV tăng cường hoạt động trong nước và mở rộng sự hiện diện trong khu
vực, thúc đẩy sự phát triển và ổn định kinh tế vĩ mô, và tiếp tục phát triển nền
kinh tế kỹ thuật số. Vào tháng 7 năm 2016, Ngân hàng Krung Thai (KTB), ngân
hàng thương mại lớn thứ ba của Thái Lan, đã tuyên bố ra mắt quỹ đầu tư mạo
hiểm trị giá BT2,3 tỷ đồng (64,8 triệu đô la). Quỹ ủy thác cổ phần tư nhân của
SME, được ra mắt với sự hợp tác của Sở Giao dịch Chứng khoán Thái Lan
(SET) và Cơ quan phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, nhằm mục đích
giúp các DNNVV khởi nghiệp mở rộng kinh doanh. Quỹ sẽ được quản lý bởi
Krung Thai Asset Management, một công ty con của KTB và One Asset
Management, với KTB để góp BT2 tỷ (56,3 triệu đô la) trong tổng số và SET để
cung cấp thêm vốn BT200m (5,6 triệu đô la). Quỹ nhắm mục tiêu đầu tư vào
các loại hình DNNVV khởi nghiệp tăng trưởng cao, DNNVV dựa trên công
nghệ, với mục đích hỗ trợ các doanh nghiệp tăng trưởng dài hạn và cho phép
các doanh nghiệp huy động vốn từ TTCK. Ban đầu khi quỹ đi vào hoạt động đã

hỗ trợ khoảng 100 doanh nghiệp, đồng thời đóng vai trò như một đối tác tại một
số DNNVV. Khoản tài trợ của các quỹ được đặt ở mức giữa BT20m (563.000
đô la) và BT150m (4,2 triệu đô la) cho mỗi doanh nghiệp, trong đó ưu tiên dành
cho các DNNVV với doanh thu hàng năm từ BT400m (11,3 triệu đô la) đến
BT600m (16,9 triệu đô la). Các DNNVV sẽ được hưởng lợi từ các dịch vụ tư
vấn tài chính, tư vấn đầu tư và quản lý niêm yết trước cho các công ty dự định
niêm yết trên TTCK, trong khi Cơ quan phát triển khoa học và công nghệ quốc
3


gia - NSTDA có những chính sách ưu đãi về thuế nhất định dành cho các
DNNVV thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển hoặc các doanh
nghiệp phát triển dựa trên công nghệ.
Tại Trung Quốc, bốn cơ quan được giao nhiệm vụ giám sát các DNNVV
bao gồm: Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc, Trung tâm điều
phối hợp tác của các DNNVV với nước ngoài, Hiệp hội các DNNVV tại các
tỉnh Trung Quốc. Mục tiêu của các cơ quan quản lý này là phát triển chính sách
và kế hoạch quản lý các DNNVV. Có nhiều cách khác nhau để chính phủ hỗ trợ
các DNNVV. Đầu tiên, Luật hỗ trợ DNNVV được ban hành vào năm 2003, đặt
nền tảng cho sự ủng hộ của Chính phủ đối với DNNVV. Theo luật này, chính
phủ sẽ chịu trách nhiệm bảo vệ các các DNNVV ngoài ra cũng sẽ đứng ra bảo
vệ các nhà đầu tư khi mua cổ phiếu của các doanh nghiệp này. Các cơ quan
hành chính nhà nước bảo vệ các quyền hợp pháp của các DNNVV, gồm quyền
cạnh tranh công bằng trong thương mại. Nhà nước cũng xác định các lĩnh vực
ưu tiên cho DNNVV phát triển. Thứ hai, vào năm 2005, chính phủ đã ban hành
một tài liệu có tiêu đề Khuyến nghị của Hội đồng Nhà nước về việc hỗ trợ và
hướng dẫn phát triển các nền kinh tế tư nhân và không thuộc sở hữu công khác
(bao gồm 36 bài viết về các nền kinh tế không thuộc sở hữu công), giúp giảm
bớt các điều kiện tiếp cận thị trường cho các doanh nghiệp tư nhân. Thứ ba,
chính phủ đã công bố Đề án tăng trưởng dành DNNVV trong năm 2006, các

mục tiêu bao gồm:
- Thúc đẩy xây dựng hệ thống chính sách và quy định cho DNNVV;
- Xây dựng hệ thống dịch vụ xã hội của DNNVV;
- Để tạo điều kiện cho điều chỉnh cơ cấu DNNVV;
- Để duy trì cải cách DNNVV;
- Tăng cường đào tạo DNNVV;
- Cải thiện khả năng sáng tạo;
- Giải quyết các khó khăn tài chính ảnh hưởng đến các doanh nghiệp nhỏ;
- Khuyến khích các DNNVV mở rộng ra nước ngoài thông qua việc cung
cấp các ưu đãi FDI.
Ấn Độ cũng đã phát triển các sàn giao dịch chứng khoán dành riêng cho
các doanh nghiệp nhỏ. Sở giao dịch chứng khoán Bombay (BSE) đã ra mắt Sở
giao dịch DNNVV vào tháng 3 năm 2012 và có 41 DNNVV được niêm yết vào
ngày 19 tháng 11 năm 2013. Sở giao dịch chứng khoán quốc gia (NSE) cũng đã
ra mắt nền tảng SME có tên Emerge, với 3 DNNVV được niêm yết.
Tại Hàn Quốc, KOSDAQ là thị trường có quy mô lớn nhất dành cho các
DNNVV các doanh nghiệp và được điều hành bởi Sở Giao dịch Chứng khoán
Hàn Quốc (KRX). Tuy nhiên KOSDAQ đã dần trở thành kênh huy động dành
4


cho các doanh nghiệp lớn, một thị trường mới được thiết kế cho các DNNVV có
tên KONEX được ra mắt dưới sự quản lý của KRX vào tháng 7 năm 2013.
Nâng cao khả năng tiếp cận vốn thông qua đa dạng hóa các kênh cung cấp
vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thị trường chứng khoán
Nắm bắt được tình hình khó khăn của các DNNVV, Chính phủ đã ban
hành các chính sách thu hút các DNNVV tham gia TTCK, đặc biệt là doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, cụ thể như đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp
Đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt năm 2016 (Đề án 844), Luật hỗ trợ DNNVV năm 2017. Để triển khai Đề

án 844, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số 1128/TTg-ĐMDN ngày
31/8/2018 về việc thu hút đầu tư khởi nghiệp đổi mới sáng tạo từ các nguồn
trong và ngoài nước, giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và
Công nghệ nghiên cứu, đề xuất trình Chính phủ áp dụng thí điểm mô hình nền
tảng gọi vốn cộng đồng và nền tảng giao dịch cổ phần của các DNKNST trong
phạm vi cụ thể.
Triển khai chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đang tiến hành
nghiên cứu để triển khai thí điểm mô hình nền tảng gọi vốn cộng đồng
(crowdfunding). Đây là một trong các giải pháp được áp dụng nhiều nhất trên
các thị trường phát triển, thông qua nền tảng gọi vốn cộng đồng, DNNVV có thể
thực hiện huy động vốn thông qua nhiều phương thức trong đó bao gồm cả việc
phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp). Tại một số các
nước trong khu vực Châu Á như Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc doanh
nghiệp khi có nhu cầu tham gia gọi vốn thông qua nền tảng gọi vốn cộng đồng
thường tương đối dễ dàng, thủ tục và hồ sơ đăng ký thường được xử lý thông
qua chính website của công ty vận hành nền tảng gọi vốn cộng đồng. Ngoài ra,
các nền tảng này thường chịu sự giám sát và tuân thủ quy định của pháp luật về
chứng khoán.
Bộ Tài chính cũng đã giao Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)
chủ trì phối hợp với Bộ KHCN nghiên cứu, đề xuất trình Chính phủ áp dụng thí
điểm mô hình nền tảng giao dịch cổ phần của các DNKNST trong phạm vi cụ
thể để nâng cao thanh khoản của các chứng khoán được phát hành thông qua
nền tảng gọi vốn cộng đồng. UBCKNN sẽ nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và
đề xuất xây dựng mô hình cụ thể cho Việt Nam. Theo đánh giá chung một khi
hai nền tảng này được đi vào hoạt động thì sẽ trở thành kênh huy động vốn thu
hút được nhiều sự tham gia của DNNVV.
Các văn bản pháp lý cũng đã được chuẩn bị nhằm hỗ trợ cho các nền tảng
huy động vốn cộng đồng dành cho DNKNST ra đời cụ thể là dự thảo Luật
Chứng khoán (sửa đổi) hiện đang trình Quốc Hội để Quốc Hội cho ý kiến vào
kỳ họp tháng 5/2019 đã có nội dung giao Chính phủ quy định về “chào bán

chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” và tổ chức thị
trường giao dịch chứng khoán của DNKNST. Luật Chứng khoán (sửa đổi) dự
5


kiến sẽ được thông qua vào kỳ họp Quốc Hội tháng 10/2019 và có hiệu lực vào
năm 2020. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho các kế hoạch dài hạn để hỗ
trợ các DNNVV huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh qua TTCK trong
thời gian tới./.

6



×