Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

bai thao luan MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.84 KB, 18 trang )

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Câu 1 : Hai thuộc
tính của hàng
hóa, liên hệ hàng
hóa sản xuất ở
Việt Nam

- Khái niệm hàng hóa:
Là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông
qua trao đổi, mua bán. Có 2 loại hàng hóa: hàng hóa vô hình và hàng hóa hữu hình.
Hàng hoá có thể ở dạng hữu hình như máy móc, công cụ, lương thực, thực phẩm... có
thể ở dạng vô hình như dịch vụ các loại, vận tải, thương mại…Sản phẩm là hàng hoá
khi có đủ hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và giá trị.
- Hai thuộc tính của hàng hóa:
Giá trị sử dụng hàng hoá .
- Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu
cầu nào đó của con người.
Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng
(tính có ích) đó làm cho hàng hoá có giá trị sử dụng. Ví dụ công dụng của gạo là nuôi sống
con người, vậy giá trị sử dụng của gạo là ăn để nuôi sống người.
- Cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hoá là do các thuộc tính tự nhiên ( lý,
hóa, sinh ..) của thực thể hàng hoá đó quyết định. Do đó giá trị sử dụng là phạm trù
vĩnh viễn.
- Giá trị sử dụng của hàng hoá được phát hiện dần trong quá trình phát triển
của khoa học, kỹ thuật và LLSX Ví dụ: Thạch cao ngày xưa chỉ dùng làm gốm sứ,
nặn tượng, khoa học kỹ thuật phát triển nó còn được sử dụng trong ngành y (cố
định xương) làm nguyên liệu sản xuất xi măng....Xã hội càng tiến bộ, LLSX càng
phát triển thì số lượng giá trị sử dụng càng nhiều, chủng loại càng phong phú và chất
lượng ngày càng cao.
- Giá trị sử dụng của hàng hoá là giá trị sử dụng cho xã hội, để đáp ứng nhu
cầu của xã hội thông qua trao đổi mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất phải quan


tâm tới nhu cầu của xã hội, hàng hoá mới bán được.
Giá trị của hàng hoá.
Khác với giá trị sử dụng, giá trị của hàng hoá không tự bộc lộ ra mà được biểu
hiện ra thông qua giá trị trao đổi trong quan hệ mua bán. Vì vậy, muốn hiểu được giá
trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ trao đổi lẫn nhau giữa
những giá trị sử dụng khác nhau..
Ví dụ: 1m vải đổi lấy 5kg thóc.
hay 1m vải =
5kg thóc.
Ví dụ trên cho thấy hai hàng hoá khác nhau có thể trao đổi được cho nhau
theo tỷ lệ nhất địng vì giữa chúng có một cơ sở chung ở chỗ chúng đều là sản phẩm
của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng
hoá được trao đổi với nhau.
Chẳng hạn: Người thợ dệt phải mất 2 giờ lao động để dệt ra 1m vải, và người
nông dân phải mất chi phí 2 giờ lao động sản xuất ra 5kg thóc. Khi họ trao đổi sản phẩm
với nhau chính là họ đổi 2 giờ lao động dệt vải lấy 2 giờ lao động sản xuất thóc. Vì vậy,
thực chất trao đổi hàng hoá chẳng qua là người ta trao đổi lao động của mình ẩn dấu
trong những hàng hoá đó. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hoá là cơ sở chung của

1


việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hoá.
Vậy: giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết
tinh trong hàng hoá.
Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ là hình
thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị. Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hoá với nhau. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại
trong nền kinh tế hàng hoá.

- Mối quan hệ giữa hai thuộc tính: Hai thuộc tính của hàng hóa vừa thống nhất vừa mâu
thuẩn với nhau.
Thống nhất vì chúng cùng tồn tại đồng thời trong một hàng hóa.Tức là một vật phẩm
phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới trở thành hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính
trên thì vật phẩm không là hàng hóa.
Mâu thuẩn thể hiện ở chổ khi là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về
chất, nhưng khi là giá trị thì chúng lại đồng nhất về chất( đều là kết tinh của lao động). Việc
thực hiện hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị thường không đồng thời về không gian và
thời gian.Đúng về phía người sản xuất cái mà anh ta cần là giá trị nhưng họ phải tạo ra giá trị
sử dụng và ngược lại thì người tieu dung lại cần giá trị sử dụng nhưng anh ta phải có giá trị
tức là phải có tiền để thanh toán. Nó được thể hiện thành mâu thuẩn giữa sản xuất và tiêu
dung, giữa cung và cầu.
- Liên hệ hàng hóa sản xuất ở việt nam
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế hang
hóa kém phát triển mang nặng tính tự cung tự cấp, cơ sở vật chất xã hội kém, trình độ
công nghệ trong các doanh nghiệp còn lạc hậu, sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng XHCN với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các
thành phần kinh tế được tự do kinh doanh theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ
hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật.
Các thành phần kinh tế ngày càng đầu tư nhiều hơn vào khoa học kĩ thuật nhập
về những loại máy móc hiện đại và tiên tiến, đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề
cao đã nâng cao được khả năng cạnh tranh của hàng việt nam so với hàng hóa của
nước ngoài, hàng hóa sản xuất ở việt nam về giá trị, giá trị sử dụng ngày càng ngày càng
được nâng cao với số lượng ngày càng được sản xuất ra nhiều hơn chất lượng hàng hóa được
đảm bảo, mẩu mã ngày càng được cãi tiến cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, giá cả
ngày một có sức cạnh tranh trên thị trường hơn.
Câu 2 Quy luật
- Khái niệm : Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
giá trị và ý nghĩa Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của
của quy luật giá

quy luật giá trị.
trị trong phát
- Nội dung :
triển kinh tế thị
Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí
trường ở việt nam lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất tự quyết định
hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hoá không phải được quyết
định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí
lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và
có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù
hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.

2


Trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có
nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Sự vận động của quy luật giá trị thông
qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá
cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược
lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố: cạnh tranh,
cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả
hàng hoá trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của
nó.
Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính
là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường
mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
- Cơ chế hoạt động :
Quy luật gái trị hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên xuống của giá cả thông
qua sự biến đổi cung cầu về hàng hóa trên thị trường. Sự biến đổi giá cả một cách tự
phát, tự do là phản ánh hoạt động của qui luật giá trị.

Nếu sức mua của đồng tiền không đổi, không kể đến sự điều tiết của nhà nước và
độc quyền thì xảy ra 3 trường hợp sau :
Khi cung = cầu thì giá cả = giá trị
Khi cung > cầu thì giá cả < giá trị
Khi cung < cầu thì giá cả > giá trị
- Tác động của qui luật giá trị.
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa :
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến
động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở
ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá
bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và
sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành
đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ
vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển
sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự
biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả
thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt. Như vậy, sự
biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà
còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
VD: trồng dưa hấu ở miền trung do mọi người tập trung vào trồng dưa hấu nên
đến khi thu hoạch cung vượt quá cầu kéo theo giá cả giảm xuống người dân phải vận
chuyển dưa từ miền trung vào miền nam và ra bắc vì nơi đây giá được cao hơn. Khi
cung vượt quá cầu giá giảm người nông dân bị lổ và năm sau lại phá bỏ dưa để trồng
các loại cây khác.
+ Kích thích cải tiến kỷ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng xuất lao động, lực
lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế
độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện

sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có
hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi,
sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí
lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và
tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao
cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến
kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao
động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn,
mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh

3


Câu 3 Mâu thuẩn

mẽ.
VD trồng thanh long sử dụng bóng đền để kích thích cây ra nụ và kết trái
+ Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ
giàu người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có
điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có
hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài,
giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất, kinh
doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc
gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó, làm
thuê. Tác dụng của quy luật giá trị có ý nghĩa: một mặt, quy luật giá trị chi phối sự
lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển;
mặt khác, phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong
xã hội.
VD : DN vừa và nhỏ phá sản do kinh doanh không có hiệu quả và có doanh

nghiệp làm ăn có hiệu quả thì qui mô ngày càng lớn.
- Ý nghĩa của qui luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường ở việt nam
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn hết sức to lớn: một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các
yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa XH thành kẻ
giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong XH.
+ Đối với điều tiết SX và lưu thông hàng hóa: cần đề ra các phương hướng tìm
hiểu và nghiên cứu thị trường đặt ra các chính sách đặc biệt về giá cả, điều tiết cungcầu phù hợp với thị trường, với nhu cầu của người tiêu dùng, mở rộng quy mô SX
các mặt hàng có sức hút lớn, giá cả cao đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho người SX,
nhà sản xuất sẻ năng động hơn.
+ Đối với việc kích thích tiến bộ, nâng cao năng suất LĐ: cần đẩy mạnh CNHHDH, áp dụng công nghệ-KH-Kỹ thuật hiện đại, tiên tiến vào SX nhằm nâng cao
chất lượng sp, giá cả sp ngày càng rẻ, mẫu mã ngày càng đẹp, phong phú, đa dạng về
chủng loại, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, ...Bên cạnh đó cần đề ra
các chính sách về giá cả, khuyến khích phát triển và đầu tư cho khoa học-công nghệ,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp,...Các chính sách mở rộng và giao lưu kinh tế giữa
các cá nhân, các vùng, các quốc gia... không chỉ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa
giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển mà đs v/c, văn hoá,
tinh thần của nd cũng được nâng cao hơn ,phong phú và đa dạng hơn. Tuy nhiên do
vốn thiếu công nghê nhập về vẩn chưa phải là công nghệ tiên tiến nhất nên vẩn không
đủ khả năng cạnh tranh.
+ Đối với sự phân hóa người sản xuất hàng hóa thành giàu nghèo: Trong nền sx
hàng hóa giản đơn xuất hiện tình trạng trái ngược nhau:
. Những người sản xuất hàng hóa có mức hao phí lao dộng cá biệt thấp hơn mức
hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao đông xã hội
cần thiết sẻ thu được nhiều lãi, giàu lên ,có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở
rộng sx kinh doanh đến mức trở thành ông chủ giàu có hơn và có thể sử dụng được
nhiều hơn lao động làm thuê.
. Ngược lại nhưng người sản xuất hàng hóa có mức hao phí lao động cá biệt
lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết sẻ rơi vào tình trạng thua lổ, phá sản
trở thành người bán sức lao đông, làm thuê

Như vậy quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Thấy
được điều đó, đồng thời với việc thúc đẩy SXHH phát triển, Nhà nước cần có những
biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực của nó, đặc biệt là trong
đk phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước
ta hiện nay.
- Công thức chung của tư bản:

4


công thức chung
của tư bản và lý
luận hàng hóa sức
lao động

Với tư cách là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, sản xuất tư bản chủ
nghãi vừa có điểm giống lại có những điểm khác so với sản xuất hàng hóa giản đơn
(H-T-H) và công thức lưu thông của tư bản (T-H-T).
+ Những điểm giống nhau giữa hai công thức thể hiện sản xuất tư bản chủ nghĩa là
sản xuất hàng hóa bao gồm:
. Về nhân tố đều gồm hai nhân tố hàng và tiền.
. Về hành vi đều gồm hai hành vi của lưu thông hàng hóa là mua và bán
. Về quan hệ kinh tế đều thể hiện quan hệ giữa người mua và người bán
+ Tuy nhiên hai công thức trên cũng thể hiện những khác biệt căn bản giữa lưu
thông hàng háo giản đơn và lưu thông của tư bản như:
. Về trình tự của các hành vi, nếu lưu thông hàng hóa giản đơn có điểm xuất phát
và điểm kết thúc là hàng hóa thì lưu thông của tư bản lại bắt đầu từ hình thái tiền và
kết thúc cũng dưới hình thái tiền.
. Nếu lưu thông hàng hóa giản đơn thể hiện mục đcíh cuối cùng là giá trị sử
dụng bởi lẻ người sản xuất bán hàng hóa của mình nhằm có được giá trị sử dụng

mình cần và do đó hàng hóa xuất phát và hàng hóa thu về phải khác nhau về chất(giá
trị sử dụng) thì lưu thông của tư bản lại thể hiện mục đích cuối cùng là giá trị vì tiền
ở điểm xuất phát và điểm quay về phải giống nhau về chất song phải khác nhau về
lượng, nếu không công thức lưu thông của tư bản sẻ là vô nghĩa.
Từ đó công thức chung của tư bản phải có hình thái là T-H-T’ trong đó
T’=T+Δt (Δt một khoản tiền tăng thêm so với số tiền T ứng ra ban đầu gọi là
giá trị thặng dư kí hiệu là m)
. Nếu công thức lưu thông hàng hóa giản đơn thể hiện sự vận động có giới hạn
thì lưu thông của tư bản thể hiện sự vận động không có giới hạn.
- Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
+ Sự khác biệt căn bản nhất giữa lưu thông cảu tư bản và lưu thông hàng hóa giản
đơn là trong lưu thông của tu bản có sự xuất hiện của giá trị thăng dư, vậy nguồn gốc
của giá trị thặng dư do đâu mà có để làm rỏ vấn đề này cần phải nghiên cứu cụ thể
hơn về lư thông của tư bản thông qua xem xét quá trình trao đổi và các yếu tố tham
gia vào trao đổi. Quá trình trao đổi trong lưu thông của tư bản bao gồm hai hành vi
mua và bán, có thể được thực hiện thông qua hai trường hợp:
. Giá cả ngang bằng giá trị. Trường hợp này xét theo phương diện gái trị không
thấy sự thay đổi về lượng giá trị trong quá trình lưu thông, vì vẩn một lượng gái trị
nhất định chỉ thay đổi từ hình thái tiền sang hình thái hàng hóa và ngược lại không có
giá trị thăng dư nào xuất hiện.
. Giá cả khác giá trị. Trong trường hợp giá cả cao hơn gái trị cái thiệ trong hành
vi mua sẻ được bù lại bởi cái lợi khi bán và ngược lại nếu giá cả thấp hơn giá trị cái
thiệt khi mua sẻ được bù lại với cái lọi khi bán do đó cũng không có giá trị thặng dư
nào xuất hiện. Trong trường hợp mua rẻ và bán đắt với khỏa chenh lẹch giá trị đó sẻ
có một số người nhờ đó má giàu lên song chỉ là sự phân phối lượng giá trị đã có trong
lưu thông, khoản chênh lệch đó không thể là nguồn làm giàu cho nhà tư bản.
+ Nếu xét các yế tố tham gia trao đổi có thể thấy rỏ tiền dù ở ngoài hay ở trong lưu
thông, cũng không tự lớn lên được, không thể tự đẻ ra tiền còn hàng hóa thông
thường cũng không thể tự tăng thêm giá trị.
Như vậy nghiên cứu công thức lưu thông của tư bản dựa trên lý luận giá trị

chưa cho thấy có nguôn gốc của giá trị thặng dư.
Tuy nhiên sự hình thành và tồn tại của giá trị thặng dư lại là thực tiển lịch sử
cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ. Rõ ràng trong công thức chung của tư bản chứa
đựng mâu thuẩn : tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất
hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó không do lưu thông đẻ ra nhưng lại được tạo ra thông
qua lưu thông. Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tìm được trên thị trường một loại hàng
hóa đặc biệt có khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho mình. Đó là hàng hóa sức lao
động.
- Hàng hóa sức lao động.

5


Câu 4
Hai phương pháp
sản xuất giá trị
thặng dư, so sánh
và rút ra ý nghĩa
của việc nghien
cứu

+ Sức lao động là tổng thể nhưng năng lực tồn tại trong mổi con người mà có thể
mang ra sử dụng mổi khi tạo ra một gái trị sử dụng nào đó. Sức lao động là yếu tố cơ
bản của mọi quá trình sản xuất, nó chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:
Người lao động được tự do về thân thể, tự do chi phối sức lao động của mình, có
quyền bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định.
Người lao động buộc phải bán sức lao động của mình khi mất hết tư liệu sản xuất
và của cải khác để sinh sống, buộc phải đi làm thuê. Với tư cách là hàng hóa đặc biệt
nó có hai thuộc tính sau:
. Giá trị hàng hóa sức lao động cũng bằng lượng lao động xã hội cần thiết để

sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Nhưng việc sản xuất và tái sản xuất ra sức
lao động được tính ngang bằng giá trị hững tu liệu sinh hoạt cần thiế để sản xuất và
tái sản xuất sức lao động, bao gồm ba bộ phận: giá trị những tư liệu sinh hoạt cần
thiết để tái sản xuất ra sức lao động của người công nhân làm thuê, gia đình anh ta chi
phí đào tạo nâng cao tay nghề theo yêu cầu sản xuất và chi phí nuôi dưỡng con cái.
Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi
quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.
. Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là khi được sử dụng, nó tạo ra một
lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó cho chủ thể mua sức lao động, tức là khả
năng tạo ra giá trị thăng dư. Gía trị sử dụng của hàng hóa sức lao động gắn liền với
cơ thể của ngừơi công nhân làm thuê và không tích lủy được, vì vậy người mua sức
lao động buộc phải sử dụng nó.
=> Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành tư bản, đây
cũng chính là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.
Như vậy, tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi nó được sử dụng làm phương tiện để mang
lại giá trị thặng dư cho người có tiền và người có tiền phải tìm được một loại hàng
hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động.
- Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề :
Việc nghiên cứu hàng hoá sức lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc xây
dựng thị trường lao động ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sức lao
động là hàng hoá (khi có đủ các điều kiện trở thành hàng hoá) cho nên việc xây dựng
thị trường sức lao động là tất yếu. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là vấn đề cốt lõi, trọng tâm của Đảng ta.
Phân tích thị trường sức lao động ở Việt Nam: Trong xu thế hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới, đòi hỏi thị trường lao động ở Việt Nam phát triển linh hoạt để hỗ trợ
tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thế nhưng, do mới hình thành
và phát triển chưa đồng bộ, nên thị trường lao động Việt Nam đang bộc lộ nhiều yếu
điểm lẫn mâu thuẫn, trong đó nghiêm trọng nhất là mất cân bằng giữa cung và cầu,
năng suất lao động thấp. Trong khi chúng ta dư thừa sức lao động ở nông thôn thì ở
lĩnh vực phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ trung cao cấp lại thiếu hụt lao

động trầm trọng.
- Khái niệm:
+ Ngày lao động là thời gian làm việc trong một ngày
+ Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công
nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản.
- Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Đây là phương pháp nhà tư
bản thu được giá trị thặng dư do kéo dài ngày lao động, vượt quá thời gian lao động
tất yếu, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư, trong khi năng suất lao động và
thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Tuy nhiên, pp này cũng gặp phải những
giới hạn như: độ dài ngày lao động, thể chất và tinh thần người lao động, cuộc đấu
tranh đòi hỏi ngày lao động tiêu chuẩn (8 giờ),…….. nhà tư bản áp dụng tăng cường
độ lao động hiểu theo nghĩa hao phí calo, điều này cũng có nghĩa là kéo dài thời gian
lao động. Phương pháp này được áp dung phổ biến ở giai đoạn sau của CNTB.

6


+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Đây là phương pháp nhà tư
bản thu được giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động cần thiết, nhờ đó kéo dài
tương ứng thời gian lao động thặng dư,bằng cách ha thấp giá trị sức lao động, trong
khi độ dài ngày lao động không đổi, hoặc thậm chí rút ngắn. Để rút ngắn thời gian lao
động, tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải
giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều này
chỉ co thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất
ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sản xuất đó. Đây là phương pháp phổ
biến ở giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối có điểm giống nhau đều làm cho thời gian lao động thặng dư được kéo
dài ra, thời gian lao động thặng dư của người công nhân không chỉ đủ nuôi sống

mình, mà còn tạo ra phần thặng dư.
Nhưng giữa chúng còn có sự khác nhau về cách thức làm tăng thời gian lao
động thặng dư, mâu thuẩn giữa tư sản và công nhân làm thuê, bản chất bóc lột, tạo ra
giá trị mới ngày càng cao( chưa tìm ra)
- Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
Nếu gạt bỏ mục đích và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì vận dụng các phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương
đối và giá trị thặng dư siêu ngạch trong các doanh nghiệp sẽ kích thích sản xuất, tăng
năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật – công nghệ mới, cải tiến tổ chức quản
lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đất nước ta đang đứng trước nhiêm vụ tạo ra tiền đề phát triển của sức sản xuất,
phát triển kinh tế hàng hóa sẻ tạo ra nhiều giá tri thặng dư . Chúng ta không thể đạt
được mục tiêu kinh tế ấy ngay trong thời gian ngắn mà phải biết rút ngắn nhưng quá
trình tất yếu mà CNTB đã trải qua và đang thực hiện để có một nền kinh tế thị
trường cực thịnh như ngày nay. Đó là quá trinh phát triển trải qua nhiều gia đoạn
phân công lao động xã hội, nền kinh tế hàng hòa TBCN hình thành và giá trị thặng dư
cũng được sản xuất ra với khối lượng lớn, đặc biệt khi khoa học công nghệ ngày càng
phát triển và áp dụng rộng rãi vào sản xuất với qui mô chưa từng có. Các giai đoạn
phát triển sản xuất và chiếm đoạt giá trị thặng dư của CNTB đã diển ra một cách tự
phát và tuần tự. Nhưng đó cũng là những giai đoạn của một quá trình lịch sử-tự nhiên
mà chúng ta chỉ có thể rút ngắn chứ không thể bỏ qua.
Gợi mở cách thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. đối với nước ta,
cần tận dụng triệt để các nguồn lực; nhất là nguồn lao động trong sản xuất kinh
doanh. Về cơ bản và lâu dài , giải pháp quan trọng cần phải coi trọng tăng năng suất
lao động xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại
hóa đất nước.
Nhà nước phải sử dụng giá trị thặng dư đuợc điều tiết sao cho có lợi đối với việc
thực hiên mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Câu 5 Thực chất
tích lũy tư bản,

mối quan hệ giữa
tích lũy, tích tụ và
tập trung tư bản

- Tích lủy tư bản là quá trình biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm
để mở rộng sản xuất.
+ Tính tất yếu:
. Tái sản xuất mở rộng nền kinh tế TBCN
. Chiếm ưu thế trong quá trình cạnh tranh
. Đẩy mạnh quá trình ứng dụng khoa học kỹ thuayt56 đổi mới công nghệ
. Bảo đảm vai trò thông trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân làm thuê.
+ Thực chất : Thực chất của tích luỹ tư bản được thể hiện thông qua quá trình tái
sản xuất tư bản chủ nghĩa.

7


Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và đổi mới không ngừng.
Nội dung của tái sản xuất:
. Tái sản xuất ra của cải vật chất.
. Tái sản xuất ra sức lao động.
. Tái sản xuất ra quan hệ sản xuất.
Loại hình tái sản xuất: Tái sản xuất được chia thành tái sản xuất giản đơn và tái
sản xuất mở rộng:
. Tái sản xuất giản đơn là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ. Tái sản
xuất giản đơn TBCN là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô tư bản như cũ, nhà
tư bản tiêu dùng hết giá trị thặng dư
Ví dụ: Một nhà tư bản có lượng tư bản ứng trước là 100 triệu USD (80 dùng để
mua tư liệu sản xuất, 20 dùng để mua sức lao động), m (giá trị thặng dư)= c/v không
đổi, m’( tỷ suất gái trị thặng dư) =m/v x 100%, c (tư bản bất biến), v( tư bản khả

biến).
Quy mô sản xuất năm thứ nhất: 80c + 20v
=>Kết quả sản xuất năm I G = 80c + 20v + 20m = 120
Quy mô sản xuất năm thứ 2:

(tiêu dùng hết 20m)

80c + 20v (như năm I)

. Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn
trước. Tái sản xuất mở rộng TBCN là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô tư
bản lớn hơn trước, nhà tư bản không tiêu dùng hết giá trị thặng dư mà biến một phần
giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.
Ví dụ: Một nhà tư bản có lượng tư bản ứng trước là 100 triệu USD (80 dùng để
mua tư liệu sản xuất, 20 dùng để mua sức lao động), m (giá trị thặng dư)= c/v không
đổi, m’( tỷ suất gái trị thặng dư) =m/v x 100%, c (tư bản bất biến), v( tư bản khả
biến).
Quy mô sản xuất năm thứ nhất: 80c + 20v
=>Kết quả sản xuất năm I: G = 80c + 20v + 20m = 120 (Trong 20m, nhà TB
tiêu dùng 10m và tích luỹ 10m để mở rộng sản xuất )
Quy mô sản xuất năm thứ hai: 88c + 22v =>Quy mô tư bản: 110 (theo tỷ lệ như
cũ, với 10 tr.đô tư bản phụ thêm, nhà tư bản sẽ chia thành 8c và 2v).
=>Kết quả sản xuất năm II: G = 88c + 22v + 22m = 132 (Trong 22m, nhà tư
bản tiếp tục tiêu dùng 11m và tích luỹ 11m)
+ Kết luận :
. Nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư.
. Thực chất của tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày một lớn

8



hơn.
. Số tư bản ứng ra ban đầu dù là tài sản chính đáng của nhà tư bản thì qua quá
trình tích luỹ tư bản (tái sản xuất mở rộng) nó cũng vô cùng nhỏ bé so với số tư bản
đã tích lũy được.
- Mối quan hệ giữa tích lũy, tích tụ và tập trung tư bản
+ Tích tụ TB: là sự tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa GTTD. Vậy
tích tụ TB là kết quả trực tiếp của tích lũy TB. Tích tụ TB do yêu cầu của việc mở
rộng SX, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật. Mặt khác, khi khối lượng GTTD tăng thêm lại
tạo khả năng hiện thực cho tích tụ TB mạnh hơn.
+ Tập trung TB: là sự tăng thêm quy mô của TB cá biệt bằng cách hợp nhất
những TB cá biệt có sẵn trong XH thành một TB cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và
tín dụng là những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung TB.
. Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết tự nguyện hay sáp nhập các TB cá biệt.
. Tín dụng TBCN là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong XH
vào tay các nhà TB.
Tích tụ tư bản là việc tăng quy mô tu bản cá biệt bằng tích lủy của từng nhà tư bản
riêng rẻ, nó là kết quả tất yếu của tích lủy. Tích tụ tư bản một mặt là yêu cầu của việc
mở rộng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỷ thuật, mặt khác sự tăng lên của khói lượng giá
tri thặng dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tạo ra khả
năng thực tế cho tích lủy tư bản. Sự phát triển của tư bản thúc đẩy cạnh tranh, dẩn tới
xuất hiện sự hợp nhất một số nhà tư bản nhỏ thành tư bản cá biệt lớn. Đó là tập trung
tư bản, tập trung tư bản có thể diển ra bằng con đường tự nguyện hay cưỡng bức,
trong quá trình tích lũy tư bản, tích tụ và tập trung tư bản luôn thúc đẩy lẩn nhau có
vai trò to lớn trong việc chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
-Vai trò của tập trung TB trong sự phát triển của CNTB:
+ Nhờ có tập trung TB mà có thể tổ chức được một cách rộng lớn LĐ hợp tác,
biến quá trình SX rời rạc, thủ công thành quá trình SX phối hợp theo quy mô lớn và
được xếp đặt một cách khoa học, xây dựng được những công trình công nghiệp lớn,
sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

+ Tập trung TB làm cho cấu tạo hữu cơ TB tăng lên, nhờ đó NSLĐ tăng lên
nhanh chóng. Vì vậy, tập trung TB trở thành đòn bẩy mạnh mẽ của tích lũy TB
+ Quá trình tích tụ và tập trung TB ngày càng tăng, do đó, nền SX TBCN
cũng ngày càng trở thành nền SX xã hội hóa cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ
bản của CNTB càng sâu sắc thêm.
* Ý nghĩa nghiên cứu:

9


+ Tích tụ và tập trung TB là các con đường làm cho quy mô vốn tăng lên.
+ Việc tập trung TB có ý nghĩa to lớn đối với CNTB trong việc tăng nhanh quy mô
TB để cải tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu KHCN mới, tăng NSLĐ để giành thắng
lợi trong cạnh tranh
+ Đối với nước ta, cần hình thành những tập đoàn kinh tế có quy mô vốn lớn. Từ đó,
nước ta mới có điều kiện tham gia cạnh tranh trong điều kiện hội nhập nền kinh tế

Câu 6.
Chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà
nước và xu hướng
vận động của
CNTB ngày nay

nước ta với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới
+ Quy mô vốn lớn còn là điều kiện, tiền đề nhằm đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta
hiện nay
- Khái niệm:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức
độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế

thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ
nghĩa tư bản.
+ Chủ nghĩa TB độc quyền nhà nước ra đời do những nguyên nhân chủ yếu sau:
. Tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng cao,
do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản
xuất và phân phối, một sự kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nói cách khác, sự
phát triển hơn nữa của trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu
khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý nền sản xuất. Lực
lượng sản xuất xã hội hoá ngàycàng cao càng mâu thuẫn gay gắt với hình thức chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, do đó tất yếu đòi hỏi một hình thức mới của quan hệ
sản xuất để lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện còn sự thống
trị của chủ nghĩa tư bản. Hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
. Sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự tác động của khoa học - kỹ
thuật làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế thay đổi, xuất
hiện một số ngành mà tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn
đầu tư kinh doanh, vì dầu tư vốn lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các
ngành thuộc kết cấu hạ tầng. Bởi vậy, cần phải có sự giúp đỡ đầu tư và can thiệp của
nhà nước.
. Sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư
sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách để
xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân,
phát triển phúc lợi xã hội
. Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ chức độc
quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với các tổ chức kinh doanh vừa và
nhỏ…trở nên gay gắt cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước bằng các hình thức
khác nhau như nghiêm cấm một số hình thức độc quyền, ra luật chống độc quyền để
hạn chế sự chi phối hay quy mô của các độc quyền, hạn chế sự lũng đoạn nền kinh tế
của các tổ chức độc quyền…
. Cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên
minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi

ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết
các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế của nhà nước tạo môi trường quốc tế hỗ trợ
các tổ chức độc quyền tư nhân, mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chuyển
dịch các mâu thuẫn đối kháng ra ngoại vi, nhằm giảm bớt mức độ gay gắt mâu thuẫn
của chủ nghĩa tư bản.
- Tính tất yếu khách quan của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:

10


- Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
+ Xét về bản chất CNTB độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản, chịu sự chi
phối của quy luật giá trị thặng dư, mặc dù đã có nhiều thay đổi so với chủ nghĩa tư
bản thời kỳ canh tranh tự do.
+ CNTB độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản
độc quyền, nhưng nóc vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa tư bản độc quyền.
+ CNTB độc quyền nhà nước chỉ là một nấc thang mới so với chủ nghĩa tư bản
độc quyền thời kỳ đầu.
+ Đặc điểm nổi bật của CNTB độc quyền nhà nước là sự can thiệp, sự điều tiết
của nhà nước về kinh tế ở chừng mực nhất định, nhưng hoạt động chi phối vẫn là của
bàn tay vô hình hoặc sự can thiệp, điều tiết của nhà nước mang tính gián tiếp. Chẳng
hạn, ngay ở giai đoạn nhà nước đã điều tiết gián tiếp vào quan hệ kinh tế bằng thuế
má, bằng việc đi xâm lược nước ngoài để mở rộng thị trường cho các tổ chức độc
quyền…
+ Như vậy CNTB độc quyền nhà nước không phải là một chế độ kinh tế mới so
với CNTB, lại càng không phải chế độ tư bản mới so với CNTB độc quyền. CNTB
độc quyền nhà nước chỉ là CNTB độc quyền có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước
về kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước
về kinh tế.
- Vai trò của nó trong xã hội tư bản ngày nay:

+ Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
và chủ nghĩa tư bản độc quyền mà nấc thang cuối cùng của nó là chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước. Trong suốt quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu quả
nghiêm trọng đã gây ra đối với loài người thì chủ nghĩa tư bản cũng có những đóng
góp tích cực đối với sản xuất, đó là: Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài
người khỏi đêm trường trung cổ của xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự
nhiên, tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa,
chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn, hiện đại. Dưới tác động của qui luật giá trị
thặng dư và các kinh tế của sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa tư bản đã làm tăng năng
suất lao động, tạo ra khối lượng sản phẩm vật chất khổng lồ.
+ Phát triển lực lượng sản xuất: Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm
cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ tạo cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản
xuất hiện đại với trình độ khoa học và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công
lên kỹ thuật cơ khí và ngày nay các nước tư bản chủ nghĩa cũng đang là những quốc
gia đi đầu trong việc chuyển nền sản xuất của nhân loại từ giai đoạn cơ khí hóa sang
giai đoạn tự động hóa, tin học hóa và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của
kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả, khám
phá và chinh phục thiên nhiên của con người.
+ Thực hiện xã hội hóa sản xuất: Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng
hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá
trình xã hội hóa sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân
công lao động xã hội, sản xuất tập trung với qui mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất
và hợp tác lao động sâu sắc, mối quan hệ kinh tế giữa các đơn vị , các ngành, các lĩnh
vực ngày càng chặt chẽ...làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết lại và
phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, thành một quá trình sản xuất xã hội.Phát triển
lực lượng sản xuất tăng năng xuất lao động xã hội. Chuyển sản xuất nhỏ thành sản
lớn hiện đại.
+ Chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng công nghiệp đã lần đầu tiên biết
tổ chức lao động theo kiểu công xưởng và do đó đã xây dựng được tác phong công
nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nề nếp, thói quen của người lao động sản

xuất nhỏ trong xã hội phong kiến.Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết
lập nên nền dân chủ tư sản, nền dân chủ này tuy chưa phải là hoàn hảo song so với
thể chế chính trị trong các xã hội phong kiến, nô lệ...vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi vì

11


nó được xây dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể của cá nhân.Tuy nhiên
những thành tựu mà CNTB đạt được không phải chỉ có một chiều mà trong sự vận
động đầy mâu thuẫn. Điều đó biểu hiện ở hai xu hướng trái ngược nhau:
. Xu thế phát triển nhanh chóng của nền kinh tế là do yêu cầu nội tại và xu thế
tăng nhanh tốc độ của việc phát triển lực lượng sản xuất gắn với cuộc cách mạng và
khoa học công nghệ.
. Xu thế trì trệ của nền kinh tế : Đó là sự thống trị của độc quyền đã tạo ra
những nhân tố ngăn cản sự tiến bộ kỹ thuật và phát triển sản xuất.
- Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của nó, một mặt đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển rất mạnh mẽ, tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản
xuất lớn hiện đại; mặt khác làm cho mâu thuẫn cơ bản của nó - mâu thuẫn giữa tính
chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thêm gay gắt.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học, công
nghệ, thị trường, đang có khả năng thích nghi và phát triển trong chừng mực nhất
định; chủ nghĩa tư bản cũng đã buộc phải thực hiện một số điều chỉnh giới hạn về
quan hệ sản xuất, trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, song không thể khắc phục
nổi những mâu thuẫn vốn có của nó, không thể vượt quá giới hạn lịch sử của nó.
Mặt khác, các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa
chọn và quyết định con đường phát triển tiến bộ của mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế
giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh
của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Vì vậy, sớm hay

muộn chủ nghĩa tư bản cũng sẽ bị thay thế bằng một chế độ mới, cao hơn - xã hội
cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.
Câu 7:
Tính tất yếu khách
quan của thời kỳ
quá độ lên CNXH
bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa của
Việt Nam(233247)

- Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa của Việt Nam
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn
bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã hội cũ sang
xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân và chính đảng của nó muốn xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội với tư cách là một chế độ ưu việt, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản thì tất yếu phải
trải qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì:
. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội không thể ra đời tự phát
trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa hay các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Các xã hội
trước chỉ chuẩn bị những điều kiện vật chất để giai cấp công nhân thực hiện bước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, còn bản thân công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ được
thực hiện khi có cơ sở vật chất – kỹ thuật cũng như với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hóa tương ứng.
. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân cũng không thể đem áp
dụng ngay tức khắc những nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, những
nguyên tắc xây dựng và bản chất của chủ nghĩa xã hội khác với các xã hội trước; giai
cấp thống trị cũ mới bị đánh bại về chính trị nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn; những
tàn dư của xã hội cũ còn in vết trong xã hội mới. Do đó cần có thời gian để tiến hành

cải tạo những tàn dư của xã hội cũ, từng bước xây dựng các nhân tố mới.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có hai kiểu: quá độ trực tiếp và quá độ gián
tiếp.
. Quá độ trực tiếp từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ nghĩa xã hội.
. Quá độ gián tiếp từ các nước tiền tư bản chủ nghĩa hay các nước tư bản trung
bình lên chủ nghĩa xã hội

12


+ Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa của Việt Nam:
. Căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở những nước
nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
. Căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó cũng là thời đại độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào…
. Căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá trình phát triển
của cách mạng Việt Nam, con đương quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản trước hết là sự lựa chọn của chính Đảng ta: Ngay từ “Cương lĩnh chính trị năm
1930” đến “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” được trình bày ở Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh chính trị
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa
chọn của chính nhân dân lao động nước ta khi theo Đảng làm cách mạng là muốn có
cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân không có
con đường nào khác là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
. Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển về

kinh tế, chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đỗ ở Liên Xô và Đông Âu, nhưng Đảng ta vẫn
khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường duy nhất đúng đắn. Chủ nghĩa xã
hội vẫn là khuynh hướng phát triển khách quan của thời đại. Nó không chỉ là lý tưởng
mà là hiện thực sinh động trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam
Cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua
giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu khách quan của nền kinh tế, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay, nước ta
có những điều kiện khách quan bên ngoài và bên trong để quá độ lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN.
. Điều kiện bên ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao,
đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng
trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở
vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, nếu chúng ta thực hiện hiệu quả phương châm đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước
nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã
hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó,
quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất
định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN. Bối cảnh, điều kiện quốc
tế mới nêu trên đã tạo khả năng để Việt Nam chúng ta thực hiện quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN.
. Điều kiện bên trong là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 25 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng
nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung
bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có
vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện
tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.

Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà trình độ phát triển kinh tế - xã hội chưa vượt hoàn
toàn khỏi tiến trình phát triển của CNTB, tiến trình đó phải được tiếp tục đẩy mạnh
dưới chính quyền của nhân dân, mà hình thức thích hợp nhất là CNTB nhà nước và
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN theo định hướng XHCN. Đó

13


cũng là tư tưởng cốt lõi của chính sách kinh tế mới trong TKQĐ lên CNXH do V.Lênin vạch ra.
Xu hướng phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta và sự lựa chọn một
trong hai xu hướng đó. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền
nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy
sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc
đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật,
công nghệ hiện đại. Để đáp ứng yêu cầu khách quan đó, nền kinh tế nước ta chứa
đựng trong mình hai khả năng phát triển, hai xu hướng vận động. Và nền kinh tế
nước ta có thể lựa chọn một trong hai hướng sau đây:
. Để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở
phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị.
Nhưng, đi theo hướng này, CNTB ra đời, sẽ dẫn đến những hậu quả sau: Chính quyền
do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải tốn bao
xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa
vị người làm thuê và bị bóc lột. Đi theo con đường TBCN thì không thể thực hiện
được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không
đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB, mặc
dù CNTB đang có sự điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội
thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB
không thể không bị phủ định. Đó là xu thế khách quan. CNTB là chế độ xã hội đã lỗi
thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng một chế độ xã hội

mới, phát triển ở trình độ cao hơn, với giai đoạn đầu là CNXH. Với sự phát triển
mạnh mẽ của toàn cầu hóa, chính CNTB cũng đã và đang tạo ra những tiền đề vật
chất - kỹ thuật để chuyển sang CNXH.
. Thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố
chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh công
- nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn
mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích
cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội. Những thành tựu đã đạt được qua 25 năm đổi mới đã chứng
tỏ: chọn con đường thứ hai này là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Bởi
lẽ, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức, bất công,
mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Toàn bộ lịch sử cách
mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH. Chỉ có đi lên CNXH mới giữ được độc lập, tự do cho dân tộc,
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Và
trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là sức
mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề
cả vật chất và tinh thần để có thể "rút ngắn" tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của
xã hội. Vì thế, trong sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con
đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý
luận và thực tiễn, nó là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của
thời đại cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế, đáp ứng

đúng khát vọng của nhân dân ta.

14


Câu8:
Những vấn đề liên
quan đến thành
phần kinh tế, liên
hệ thực tiễn Việt
Nam.(251)

-Quan điểm của chủ nghĩa Mac-LêNin, tư tưởng HCM
+ Chủ nghĩa tư bản với tư cách là phương thức sản xuất được hình thành và thay
thế phương thức sản xuât phong kiến trong lịch sử, được C.Mác và Ph.Angghen đánh
giá là chế độ kinh tế-xã hội tiến bộ hơn nhiều so với các chế độ kinh tế- xã hội trước
đó. Nhờ vận dụng các quy luật kinh tế của thị trường, buộc các quy luật kinh tế của
thị trường phục vụ cho lợi ích của mình thông qua sự chi phối của quy luật giá trị
thặng dư.
Mặc dù chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn trong việc nâng cao năng suất lao động
xã hội, thúc đây nhanh chóng sự phát triển kinh tế-xã hội, song chủ nghĩa tư bản vẩn
là chế độ bất công. C.Mác khẵng định” xã hội tư sản hiện đại , được sinh ra từ trong
lòng xã hộ phong kiến đã bị diệt vong, không xóa bỏ được những đối kháng giai cấp.
Nó chỉ đem những giai cấp mới ,những đk áp bức mới, những hình thức đấu tranh
mới thay thế cho những giai cấp,những đk áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà
thôi”
Trong quá trình phát triển của CNTB những tiến bộ về kinh tế chủ yếu được sử
dụng để phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản chứ không phải phục vụ lợi ích của LLSX
chủ yếu của xã hội là giai cấp công nhân làm thuê,do đó CNTB càng phát triển thì
các mâu thuẩn nội tại của nó ngày cang2sau6 sắc, xu thế xã hộ hóa sản xuất ngày

càng trở nên không thể chịu đựng nổi trong võ bọc của sở hữu tư nhân TBCN,cho
nên CNTB tất yếu phải được thay thế bằng chế độ kinh tế-xã hội mới.
+ Để xây dựng thành công CNXH cần phải tạo ra những cơ sở chủ yếu của
CNXH trong thời kỳ quá độ, những cơ sở chủ yếu của CNXH với tư cách là chế độ
kinh tế- xã hội cao hơn CNTB dược thể hiện ở cả trên phượng diện LLSX cũng như
QHSX. Về LLSX cần phải có cơ sở vật chất kỷ thuật và người lao động với trình độ
có khả năng tạo ra năng suất lđộng cao hơn so với CNTB về QHSX trong đk nền
kinh tế quá độ là nền kihn tế nhiều thành phần, V.I.LêNin khẵng định không thể có
quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải thông qua con đường gián tiếp, không thể quá
vội vàng, thẳng tuột ,không được chuẩn bị. Xây dựng QHSX thông qua con đường
gián tiếp là chủ nghĩa tư bản NN,để chuẩn bị việc chuyển sang CNCS thì cần thiết
phải có một loạt những bước quá độ như CNTB NN và CNXH.
+ Vận dụng quan điểm của LêNin về nền kinh tế quá độ lên CNXH là nền kihn tế
nhiều thành phần vào hoàn cảnh cụ thể của VN, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những thành
phần kinh tế trong vùng tự do
. Trước 1954 gồm : kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô, kinh tế quốc doanh
có tính chất CNXH, các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp,Kinh tế cá nhân
của nông dân và của thủ công nghệ, kinh tế tư bản của tư nhân, kinh tế tư bản quốc
gia.
. Sau 1954 gồm kinh tế quốc doanh, các hợp tác xã, kinh tế cảu cá nhân, nông
dân và thủ công nghệ, tư bản của tư nhân, tư bản của nhà nước.
-Nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam:
+ Xây dựng QHSX mới thông qua phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Phát triển nền kihn tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cãnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không
ngừng đucợ cũng cố và phát triển. kinh tế NN cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thanh nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong

những động lực cảu nền kinh tế. Kinh tế có vốn đấu tu nước ngoài được khuyến
khích phát triển. Các hình thức sở hữu hổn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ
chức kinh tế đa dạng và ngày càng phát triển, các yếu tố thị trường được tạo lập đồng
bộ, các loại thị trường được từng bước xây dựng, phát triển và tuan theo qui luật của
kinh tế thị trường, vừa đảm bảo tính định hướng XHCN. Phân định rõ quyền của
người sỡ hữu, quyền cảu người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của nhà

15


nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người lam chủ, mọi
đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan
hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển, các nguồn lực đucợ
phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, thực hiện chế
độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức
đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế-xã hội bằng pháp luật, chiến lược,quy hoạch, kế hoạch chính sách
và lực lượng vật chất.
- Quan điểm của Đảng về các thành phần kinh tế : Đại hội XI của Đảng xác định
gồm có 4 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà nước; Thành phần kinh tế tập
thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định tính khách quan của việc
đa dạng hóa các hình thức sở hữu, coi trọng mọi thành phần kinh tế, mọi hình thức
kinh doanh và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
Đa dạng hoá các hình thức sở hữu
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã có những
khái quát mới về lý luận: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh

doanh và hình thức phân phối.”(1)
Lần đầu tiên trong Văn kiện, Đảng ta nêu đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Đây là một bước phát triển mới trong
nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn mối quan
hệ giữa chế độ sở hữu, hình thứcsở hữu và loại hình kinh doanh. Mỗi chế độ sở hữu
trong thực tiễn có thể có nhiều hình thức sở hữu mà ở đó sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và biểu hiện ra là các loại hình
kinh doanh có hiệu quả cao góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển đa
dạng của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất càng đa dạng, trình độ xã hội càng phát triển, quan hệ sản xuất càng mở rộng
thì tính đa dạng trong quan hệ sở hữu cũng ngày càng tăng lên.
Vì vậy, Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ nhấn mạnh “Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh”, còn số lượng các hình thức sử hữu, các thành
phần kinh tế và theo đó là bao nhiêu loại hình doanh nghiệp là do nhu cầu khách quan
của sự phù hợp giữaquan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất quyết định. Đây là một
bước tiến nhằm tạo một không gian mở cho quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất hoạt động, để có thể tránh giáo điều chủ quan.
Coi trọng mọi hình thức sở hữu và loại hình kinh doanh
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã đưa ra khái quát mới về mặt lý luận: “Tiếp tục thể
chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp trong nền
kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới như sở
hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước..., quy định rõ quyền, trách nhiệm
của các chủ sở hữu đối với xã hội”(2).
“Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một
trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở
hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo

điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập
đoàn kinh tế nhà nước”(3), “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là
bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”(4).

16


Có thể có ý kiến còn băn khoăn về cách tiếp cận nêu trên của Văn kiện Đại hội XI
của Đảng so với lý luận của V.I. Lê-nin về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta biết rằng, nhận thức về thành phần kinh tế của V.I.
Lê-nin cũng rất uyển chuyển, linh hoạt phù hợp với các giai đoạn phát triển khác
nhau: Giai đoạn áp dụng chính sách cộng sản thời chiến, thành phần kinh tế được
nhấn mạnh trên cơ sở quan hệ sở hữu nhất định, nhưng khi chính sách kinh tế mới
(NEP) ra đời, thành phần kinh tế lại được nhấn mạnh đến các hình thức kinh tế.
Như vậy, ở các giai đoạn khác nhau thì nhận thức về thành phần kinh tế cũng có sự
thay đổi, đó là quá trình khách quan phù hợp với quy luật nhận thức. Vì vậy, quá trình
đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về các thành phần kinh tế ở nước ta qua các kỳ đại
hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế, thời kỳ đang phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu.
Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp
và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”(5).
Như chúng ta đã biết, tại Đại hội VIII (năm 1996) Đảng ta lần đầu tiên đưa ra phạm
trù kinh tế nhà nước thay vì cách gọi kinh tế quốc doanh trước đó, với nội hàm rộng

hơn, bao quát được toàn bộ các hoạt động quản lý tài nguyên của đất nước; những cơ
sở hạ tầng được tạo ra; các loại quỹ của quốc gia; các doanh nghiệp nhà nước bao
gồm cả doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh... nhờ đó đã giải quyết
được vấn đề nhận thức thực tiễn cũng như lý luận về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước.
Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả cao sẽ góp phần tăng cường tiềm
lực và sức mạnh của kinh tế nhà nước trong sứ mệnh chủ đạo trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên, việc tăng hay giảm cả về quy mô, số
lượng, chất lượng hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chỉ
phản ánh một bộ phận của kinh tế nhà nước nói chung, chứ không thể coi đó là toàn
bộ kinh tế nhà nước với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định
hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”(6). Luận điểm nêu trên của
Đảng ta là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn kinh tế khách quan. Bài học từ các nền
kinh tế lớn vừa qua cũng cho thấy, vai trò của nhà nước không chỉ thể hiện ở sự điều
hành vĩ mô nền kinh tế, mà còn ở thực lực của kinh tế nhà nước.
Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ và cuộc khủng hoảng
nợ công ở các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) hiện nay đã nói lên điều đó.
Mỹ là nền kinh tế mạnh nhất toàn cầu, chiếm 30% GDP của thế giới, nhưng thực lực
kinh tế lại nằm trong tay các tập đoàn kinh tế tư nhân, nên khi các “đại gia” sụp đổ
thì nhà nước cũng đứng trước nguy cơ vỡ nợ. Học thuyết chủ nghĩa tự do mới, với
việc hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế đã bị sụp đổ hoàn toàn.
Ông Ni-cô-la Xác-cô-di, Tổng thống Pháp đồng thời là Chủ tịch luân phiên của Liên
minh châu Âu (EU) đã kêu gọi phải “tái xây dựng một chủ nghĩa tư bản điều chỉnh”.
Như vậy, để chuyển biến nhận thức từ giai đoạn phân chia các thành phần kinh tế
thành hai loại: kinh tế xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa (trước đổi mới), đến
thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần (trong đổi mới), và thừa nhận tất cả các thành
phần kinh tế đều là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, phải trải qua hơn 15 năm đổi mới (đến Đại

hội IX năm 2001). Ngày nay, từ kết quả 25 năm đổi mới chúng ta lại có một bước
tiến quan trọng trong quá trình nhận thức bằng việc khẳng định vai trò của các thành

17


phần kinh tế qua sự đóng góp đối với sự tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mang lại cho
nền kinh tế quốc dân.
Vì thế, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát
triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền
kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình
thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày
càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng
bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa
bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”(7).
Như vậy, từ thực tiễn đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta đã có
những đóng góp quan trọng về mặt lý luận về những đặc trưng kinh tế của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội./.

18



×