Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài THẢO LUẬN về chủ nghĩa xã hội khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.51 KB, 13 trang )

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN

Bài 4: CNXH KHOA HỌC
Câu 1: Hãy phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân và
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay?
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân :
Khái niệm giai cấp công nhân.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về giai cấp vô sản, giai
cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình, lao động làm thuê ở thế kỷ XIX,
giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp... như
những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm giai cấp công nhân - con đẻ của nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản
xuất hiện đại.
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì theo C.
Mác và Ph. Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động trực tiếp hay
gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa
cao.
- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao động không có tư
liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Thuộc tính thứ hai này nói lên một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, bộ mặt của giai cấp công nhân hiện đại có
nhiều thay đổi khác trước. Cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có những thay đổi to lớn:
bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự
động hoá, với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Song, dù cho trình độ kỹ
thuật có thay đổi như thế nào đi nữa thì xét theo tiêu chí kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân vẫn tồn
tại như là một giai cấp đặc thù.
Căn cứ hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể
coi những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là công nhân.


Còn những người làm công ăn lương phục vụ trong các ngành khác như y tế, giáo dục, văn hoá,
dịch vụ (không liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp)... là những người lao động nói chung,
đang được thu hút vào tổ chức công đoàn nghề nghiệp, nhưng không phải là công nhân.

Sứ mệnh lich sử của giai cấp công nhân :
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ
chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại
khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Ở nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó thông qua đội tiên
phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên
chính dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân từng bước
lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, không có người bóc lột người,
giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay :
1


Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức và giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa là nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Sứ
mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; qua đó giải phóng giai cấp, giải phóng người lao động, xây dựng một “xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”...Hiện nay, để sớm đưa đất nước khỏi tình
kém phát triển, nội dung trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri
thức và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
hiện nay là “Rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và
công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Theo đó phát triển giai cấp công nhân cũng chính là phát triển,

hoàn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch sử hiện đại - cơ sở xã hội quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh
đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam cũng chỉ có thể thực hiện thắng lợi khi
quyền lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, được giữ vững và không ngừng tăng cường; Nhà nước xã hội chủ nghĩa và chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân lao động nước ta không ngừng được hoàn thiện
và phát triển.

Câu 2: Trình bày tính tất yếu ra đời và các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa? Nêu sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về con
đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay
1. Tính tất yếu ra đời hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa
- Phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử loài người. Các nhà sáng lập chủ nghĩa
xã hội khoa học đã phát hiện ra quy luật khách quan của quá trình chuyển biến cách mạng
căn bản và khẳng định lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái
kinh tế xã hội phát triển từ thấp đến cao diễn ra như “một quá trình lịch sử tự nhiên”. Bắt
đầu từ xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa. Như
vậy sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa thay thế cho hình thái kinh tế
- xã hội tư bản chủ nghĩa cũng giống như sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa thay thế cho hình thái kinh tế - xã hội phong kiến.
- Sự phát triển của CNTB đã và đang tạo ra những tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của
hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa như là tất yếu khách quan.
+ Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất đặc biệt là nền công nghiệp hiện
đại, dựa trên các thành tựu khoa học – công nghệ đã phát triển ngày càng cao thì trình độ
xã hội hóa cũng càng cao. Điều đó đã tạo ra mâu thuẫn ngày càng gay gắt với quan hệ sản
xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Biểu
hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Đây là mâu
thuẫn đối kháng, không thể điều hòa. Giai cấp tư sản đã dùng rất nhiều biện pháp như tăng
cường sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, thành lập các tập đoàn tư bản… với mong
muốn làm giảm những mâu thuẫn giữa tư sản và công nhân. Song sở hữu nhà nước trong

chủ nghĩa tư bản thực chất chỉ là giai cấp tư sản lợi dụng nhà nước, nhân danh nhà nước để
nắm tư liệu sản xuất. Do vậy, mâu thuẫn đối kháng trong kinh tế và trong xã hội không hề
suy giảm. đòi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn trên bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
đưa đến sự ra đời hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
+ Sự phát hình thái kinh tế - xã hội TBCN đã tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại và cùng với nó là nền tảng khoa học tiến tiến…đang tạo ra những cơ sở, tiền đề cho sự
ra đời của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
2


2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa
a. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Khái niệm: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển tiếp từ xã hội tư
bản và tiền tư bản lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bắt đầu
từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền nhà nước cho đến khi Chủ nghĩa xã hội
đã tạo ra được những cơ sở của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Theo C.Mác: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một thời
kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ
quá độ chính trị…”. Theo V.I.Lênin: “Cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời
gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực trong cuộc sống và
phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn
của thói quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản…”).
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thể hiện:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa xã hội
được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, không còn đối kháng
giai cấp, không còn tình trạng áp bức bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có một thời
gian cải biến cách mạng khá lâu dài.
Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ

cao. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất- kỹ thuật nhất định
cho chủ nghĩa xã hội, nhưng phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng xã
hội tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Do vậy cần
phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và
phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công
việc. đó.
- Hai loại hình quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
+ Quá độ trực tiếp từ những nước Tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ nghĩa xã hội thì
thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn vì những nước này đã có đại công nghiệp và cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại.
+ Quá độ gián tiếp từ những nước tư bản chủ nghĩa trung bình và những nước chưa
qua tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.
Theo V.I.Lênin, đó là kiểu quá độ đặc biệt hoặc “đặc biệt của đặc biệt” phải trải qua
rất nhiều khó khăn, phức tạp, lâu dài, chủ yếu vì các nước này chưa qua “ trường học dân
chủ tư sản” và chưa có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là những nhân tố của xã hội
mới và những tàn tích của xã hội cũ tồn tại đan xen lẫn nhau, đấu tranh với nhau trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, tập quán…
+ Nội dung kinh tế: là nền kinh tế nhiều thành phần
Theo V.I.Lênin: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có
phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những
mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội? Bất cứ ai cũng thừa nhận là
có…” V.I.Lênin nêu ra 5 thành phần kinh tế gồm:
+ Kinh tế nhà nước.
+ Kinh tế tập thể.
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
+ Kinh tế tư bản tư nhân.

+ Kinh tế tư bản nhà nước.
3


Trong đó kinh tế nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, đảm nhận các
khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài
chính, tín dụng.
+ Nội dung chính trị: Nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố, ngày
càng hoàn thiện. Do kết cấu kinh tế đa dạng, phức tạp nên kết cấu giai cấp xã hội cũng đa
dạng, phức tạp. Thời kỳ này bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các giai tầng này vừa hợp tác, vừa đấu
tranh với nhau. Trong một giai cấp, tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ, ý thức khác
nhau. Thu nhập, ý thức chính trị của các bộ phận khác nhau có sự khác nhau.
+ Nội dung văn hóa – tư tưởng: Chủ nghĩa Mác-Lênin, thế giới quan và hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân từng bước giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
Bên cạnh đó, còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông v. v… V.I.Lênin cho
rằng, tính tự phát tiểu tư sản là” kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn cả bọn
phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hóa cũng tồn tại văn hóa cũ, văn hóa mới,
chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
-Thực chất của thời kỳ quá độ
Là thời kỳ diển ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị lật đổ nhưng
chưa bị xóa bỏ hoàn toàn với giai cấp công nhân và quần chúng lao động đã giành được
chính quyền đang ra sức đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với
những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng,
bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
b. Chủ nghĩa xã hội (hay xã hội xã hội chủ nghĩa)
- Khái niệm Chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là “giai đoạn thấp của xã hội cộng
sản” theo cách gọi của Các Mác và Ph.Ăngghen. Theo hai ông thì trong giai đoạn này, trình
độ phát triển kinh tế – xã hội trước hết là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp.
Của cải làm ra chưa thật dồi dào do đó phải “lấy lao động làm thước đo trong phân phối

của cải vật chất” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản).
- Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa:
+Thứ nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật là nền đại công nghiệp.
Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh trình
độ phát triển kinh tế – kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật
chất kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Nền đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội nảy sinh với tính cách là một chế độ xã
hội phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy cơ sở vật chất kỹ thuật của nó phải là nền sản
xuất đại công nghiệp có trình độ cao hơn so với trình độ của xã hội tư bản chủ nghĩa.
V.I.Lênin đã đề ra kế hoạch điện khí hóa toàn nước Nga, ông đã nêu lên quan niệm: [ chủ
nghĩa xã hội = chính quyền xô viết + điện khí hóa toàn quốc]. Ngày nay, cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội phải có trình độ cao hơn nhiều, phải là tự động hóa.
+Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư
bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả công cụ sản xuất vào trong tay nhà
nước…”
Do vậy chỉ đến chủ nghĩa xã hội thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xác
lập đầy đủ. Tới thời kỳ này, tư liệu sản xuất còn hai hình thức là sở hữu tập thể và sở hữu
toàn dân, người lao động làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội; không còn tình trạng
người bóc lột người.
+Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức lao
động và kỷ luật lao động mới.
4


Tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa, không còn chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều kiện cho người lao động kết hợp hài hòa
giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích toàn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội cũng

tạo ra cách tổ chức lao động mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân, dưới sự lãnh đạo,
hướng dẫn của Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đương nhiên, để có một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự giác cao như vậy, một mặt
đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền vận động, mặt khác phải đẩy mạnh
cuộc đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác phong của người sản xuất nhỏ.
+Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tuy sản xuất đã phát triển, nhưng vẫn còn có những hạn
chế, vì vậy thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là cơ bản nhất. Ngoài phân phối
theo lao động, người lao động còn được phân phối theo phúc lợi xã hội. Bằng thu thuế,
những đóng góp khác của xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng trường học, bệnh
viện, công viên, đường giao thông v.v… phục vụ mọi người trong xã hội. Nguyên tắc phân
phối này vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội, vừa thể hiện tính ưu việt của
chủ nghĩa xã hội. Đây là một nội dung quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội trong
giai đoạn này.
+Thứ năm, xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất giai cấp
công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích
của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân vì nhà nước là cơ quan
quyền lực tập trung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thực hiện
trấn áp những thế lực phản động, những lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Nhà nước này tập hợp đại
biểu các tầng lớp nhân dân, nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo điều
kiện để nhân dân tham gia ngày càng nhiều vào công việc của nhà nước với tinh thần tự
giác, tự quản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn nguyên nghĩa như nhà nước tư bản chủ
nghĩa mà là “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự quản, tự giác ngày càng cao của nhân
dân, quyền tự do dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng; biện pháp bạo lực trấn áp
ngày càng giảm đi. Tất cả những điều đó nhằm chuẩn bị cho sự tự tiêu vong của nhà nước
trong giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc. Thời đại ngày nay, giai cấp
công nhân là người đại diện chân chính cho dân tộc, có những lợi ích cơ bản thống nhất với
lợi ích của dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đoàn kết được các dân tộc, tạo nên sự
bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc cả trên cơ sở pháp lý và trong thực tiễn cuộc sống,
đấu tranh bảo vệ những lợi ích chân chính của dân tộc, không ngừng phát huy những giá trị
của dân tộc, nâng chúng lên ngang tầm với yêu cầu của thời đại.
+Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con
người khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người
phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi sự bóc lột về
kinh tế, nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Tới xã hội xã
hội chủ nghĩa đã thực hiện xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, cùng
với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thực hiện việc xóa bỏ đối kháng giai cấp, xóa bỏ
bóc lột, con người có điều kiện phát triển tài năng cá nhân, mang tài năng đó đóng góp cho
xã hội; thực hiện được công bằng, bình đẳng xã hội, trước hết là bình đẳng về địa vị xã hội
của con người, bình đẳng nam – nữ, bình đẳng giữa các dân tộc v.v…
Những đặc trưng trên từng bước được hình thành và hoàn thiện trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
5


c. Giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa
C.Mác trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển lực lượng sản xuất của xã hội loài
người đã có những dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng
sản chủ nghĩa (giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản).
- Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã hội tuôn
ra dồi dào, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con người
được giảm nhẹ, lúc đó nhân loại mới thực hiện được nguyên tắc làm theo năng lực hưởng
theo nhu cầu. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết: “Khi mà lao động
trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu

bậc nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của cá nhân, sức sản xuất
của họ ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào – chỉ khi
đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội
mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
- Về mặt xã hội: Trình độ xã hội ngày càng phát triển, con người có điều kiện phát
triển năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao, không còn có sự khác biệt giữa
thành thị và nông thôn, tới “khi bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và không còn giai cấp nữa
(nghĩa là giữa các thành viên trong xã hội không còn có sự phân biệt nào nữa về những
quan hệ xã hội của họ đối với những tư liệu sản xuất xã hội) chỉ lúc đó “nhà nước mới
không còn nữa và mới có thể nói đến tự do”. Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị,
thật sự không hạn chế mới có thể có được và được thực hiện. Chỉ lúc đó, chế độ dân chủ
mới bắt đầu tiêu vong vì lý do đơn giản là một khi thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa,
thoát khỏi những sự khủng khiếp, những sự dã man… thì người ta sẽ dần dần quen với việc
tôn trọng các qui tắc sơ thiểu của đời sống chung xã hội”.
Qua phân tích của V.I.Lênin đã cho thấy, khi xã hội đạt được trình độ phát triển cao
như vậy thì dân chủ mới thực hiện đầy đủ, dân chủ cho mọi người, không còn đối tượng bị
hạn chế dân chủ, do vậy, dân chủ cũng không còn; nhà nước, luật pháp tự tiêu vong, vì lúc
này không cần tới sự trấn áp của nhà nước, pháp luật trở thành phong tục, tập quán, thành
quan niệm đạo đức mọi người tự giác thực hiện.
Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai đoạn cao của hình thái
kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa, cho chúng ta những nhận thức đúng đắn về giai đoạn
hiện nay:
Một là, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của hình thái kinh tế –
xã hội cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế – xã hội đảm bảo cho sự xuất hiện
của giai đoạn này.
Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa là
một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tổ
chức xã hội về mọi mặt, giáo dục nâng cao tinh thần tự giác của con người.
Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ
nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tùy thuộc vào sự nỗ lực

phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian
nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả
nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản”. Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của
hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác về nhà nước, về dân
chủ vẫn còn nguyên giá trị. Tính chất giai cấp của nhà nước, của dân chủ vẫn tồn tại.
3. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên CNXH ở nước ta
hiện nay
Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
đạt được một số nhiều thành tựu bước đầu thể hiện qua phương châm, chiến lược gắn độc
lập dân tộc với xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở thời kỳ này còn nhiều hạn chế. Đảng ta chưa nhận thức hết tính phức tạp, khó
6


khăn và lâu dài của thời kỳ quá độ; chưa xác định nội dung “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa”, thậm chí đối lập chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội một cách máy móc theo kiểu
phủ định sạch trơn; tư duy giáo điều, giản đơn về chủ nghĩa tư bản, đồng nhất bản chất bóc
lột, áp bức, nô dịch loài người của chủ nghĩa tư bản và chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với
toàn bộ những tiến bộ, văn minh của chủ nghĩa tư bản. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Việc
giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều hạn chế, yếu
kém. Chủ trương “lấy quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển”
là quan điểm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Nhất là thời kỳ sau khi
thống nhất đất nước, do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm triệt tiêu
nhiều động lực phát triển đất nước.
Trong phương hướng phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không chú ý
đúng đắn đến các lợi ích chính đáng; chưa giải quyết thoả đáng mối quan hệ lợi ích giữa cá
nhân - tập thể - xã hội.
Nhiều quy luật, đặc biệt là các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ đã bị nhận thức sai

lệch hoặc quá máy móc, giáo điều. Việc tồn tại hai hình thức sở hữu, hai thành phần kinh tế:
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã làm triệt tiêu các nguồn lực cần thiết, vốn có trong các
thành phần kinh tế tất yếu phải tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Các vấn đề khác như dân chủ xã hội chủ nghĩa, văn hóa xã hội chủ nghĩa, con người
mới xã hội chủ nghĩa còn có nhiều nhận thức mơ hồ, chủ quan, duy ý chí… Các phương
hướng, giải pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn chung chung, trừu tượng. Vì vậy, trên
thực tế chỉ tồn tại ở hình thức, không có nội dung, thực chất. Một số vấn đề về xã hội như
bình đẳng xã hội, công bằng xã hội giữa các tộc người, giữa miền núi với miền xuôi, giữa
nông thôn và thành thị… đều có những nhận thức chưa đầy đủ. Tính hiệu quả, thiết thực của
các chính sách xã hội còn nhiều hạn chế.
Khắc phục những hạn chế nêu trên, bước vào thời kỳ đổi mới, qua các kỳ đại hội, nhận
thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng sáng tỏ hơn. Những
điểm mới trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta thời kỳ đổi mới thể hiện trên những nét căn bản sau:
Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tiến trình đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới
tư duy về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội VI - Đại hội
của đổi mới, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua
một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, thời kỳ quá độ rất lâu dài và khó khăn. Đó là một
thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã
hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó, bao
hàm nhiều chặng đường, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Phải có
“những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất”(4). Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra
đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng
- tiền...; trong đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và chi phối các thành
phần kinh tế khác. Với đường lối đổi mới của Đảng, trước hết là đổi mới kinh tế, lực lượng
sản xuất được giải phóng khỏi những trói buộc cũ, có những bước phát triển quan trọng, có

những chuyển biến tích cực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển, tạo nên sắc thái mới
trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối phát triển kinh tế đúng đắn này đã
được Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội sau đó, tạo điều kiện cho
sự phát triển mới về chất trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức
này khắc phục được tư tưởng chủ quan, nóng vội, giản đơn về thời kỳ quá độ.
7


Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương diện: Một là,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Hai là, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần
“tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại”. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát
triển, có chọn lọc. Nhận thức này đã góp phần khắc phục tư duy giáo điều, siêu hình về sự
tương đồng và khác biệt của hai hình thái kinh tế - xã hội mà trước đây chúng ta đã mắc
phải. Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở các nước khác đã khẳng định luận
điểm của V.I. Lênin: “chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến
thức của nhân loại”(5).
Thứ ba, về các phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề đặt ra cần
phải giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng xã
hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 25 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991,
từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể
hiện ở 8 phương hướng cơ bản nhằm thực hiện thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc
thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến
trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở

thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Những phương hướng cơ
bản đó bao gồm: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bốn là, bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; năm là, thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; bảy là, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tám là, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh(6).
Tám phương hướng nêu trên về cơ bản đã thể hiện rõ phương thức, con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, các chủ trương
trong đường lối đối nội, đối ngoại. Mặt khác, vai trò của toàn bộ hệ thống chính trị cũng như
trách nhiệm của từng thành viên trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo đã được thể hiện rõ trong một số phương hướng. Bên cạnh việc xác định 8 đặc trưng
của xã hội xã hội chủ nghĩa, 8 phương hướng cơ bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Đại hội XI cũng chỉ ra 8 mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt trong quá
trình thực hiện các phương hướng đã nêu: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa;
giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ(7). Trong quá trình phát triển ở Việt Nam, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy
động và phân bổ các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất.
Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và nguồn
lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sức sản xuất kinh doanh
8



và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, được bổ
sung mới trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng.
Tiếp tục khẳng định đường lối phát triển của đất nước, Đaị hội XII của Đảng làm rõ
thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; chỉ rõ “con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(8) .
Điểm mới của Đại hội XII về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện
tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
Hai là, xác định rõ phương châm “lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao
nhất;
Ba là, xác định ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc
xác định lộ trình công nghiệp hóa và mô hình phát triển kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu
phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam. Nhằm tạo dựng cơ sở vật chất cần thiết cho chủ
nghĩa xã hội thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là tất yếu khách quan. Đại hội XII
nhấn mạnh “chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới”(9) . Đây là yêu cầu khách quan và là một trong những chiến lược
trọng tâm nhằm bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, vì mục tiêu con người, mục tiêu chủ
nghĩa xã hội.
Bốn là, gắn kết chặt chẽ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, giữa phát triển
kinh tế với phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Xét từ góc độ chính trị xã hội, lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, vấn đề phát triển xã hội, “quản lý phát triển
xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội” được tách riêng thành một mục (mục VIII).
Điều này khẳng định nhận thức cũng như quyết tâm chính trị, hành động thực tiễn nhằm
thực hiện mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân ta đang từng bước xây dựng.
Năm là, về mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân: Đảng khẳng định việc thực hiện
thành công mục tiêu chủ nghĩa xã hội hơn bao giờ hết đòi hỏi nhân tố nội lực, vai trò chủ
quan mang tính quyết định. Để làm được điều đó rất cần tạo dựng mối quan hệ găn bó
khăng khí, bền chặt giữa Đảng với Nhân dân.

Tóm lại, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Để
thực hiện thành công con đường này, về thực tiễn, đòi hỏi các cấp, các ngành, cán bộ và
nhân dân quán triệt những quan điểm của Đảng, đồng thuận, chung sức, quyết tâm thực hiện
tốt những nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của đất nước; về lý luận, cần tiếp tục tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu, khái quát, trả lời đầy đủ những vấn đề đặt ra: Xã hội xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là gì? Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào? Để trả lời và
làm rõ hai câu hỏi trên, trong thời gian tới, công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận
về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần quan tâm làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
- Chủ nghĩa xã hội là tất yếu trong sự phát triển của nhân loại nhưng không phải là cái
đương nhiên có, thụ động ngồi chờ mà phải thông qua sự nỗ lực hoạt động thực tiễn của
Đảng, nhân dân ta để hiện thực hóa mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội là một trình độ mới trong sự phát triển của nhân loại, nó không có
mô hình, con đường có sẵn mà đòi hỏi Đảng ta, trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, phải không ngừng sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội.
- Cần nhận thức rõ ràng rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội có tính lịch sử, cụ thể; tùy
từng giai đoạn nhất định mà xác định nội dung, phương thức phù hợp; thoát ly điều kiện
thực tế, chủ nghĩa xã hội sẽ rơi vào ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí - đây là điều đã từng diễn
ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại một số quốc gia, dân tộc.

9


Câu 3: Nêu bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa? Liên hệ quá trình dân
chủ hóa ở nước ta hiện nay?
Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa như sau:
Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công nhân
– đảng Mác-Lênin mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể
hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thoả mãn ngày càng cao hơn các
nhu cầu và các lợi ích của nhân dân. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng
của nó đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho
giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân,
trong đó có giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao
nhiêu lợi ích đều là vì dân… Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa…
do đó về thực chất là của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, khác với các cuộc cách mạng trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng của số đông,
vì lợi ích của số đông nhân dân. V.I. Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa
là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Với ý nghĩa đó,
V.I. Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất và mục tiêu của dân chủ xã hội chủ
nghĩa rằng: đó là nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Do vậy, dân chủ xã hội chủ
nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu
sắc.
Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về những
tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng
sản xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những
nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động. Bản chất kinh tế đó chỉ được
bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống
của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác-Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ…
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác
về bản chất kinh tế của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công, nhưng cũng như toàn
bộ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nó không hình thành từ “hư vô” theo mong muốn của bất
kỳ ai. Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã
tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm… của các
chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột, bất công… đối với đa số
nhân dân.
Bản chất tư tưởng – văn hoá: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng MácLênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng, chủ đạo đối với mọi hình thái ý
thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn
hoá, xã hội, tôn giáo v.v.). Đồng thời, dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy những tinh

hoa văn hoá truyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng – văn hoá, văn minh,
tiến bộ xã hội… mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc…
Do đó, đời sống tư tưởng – văn hoá của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất phong phú, đa
dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu, thành mục tiêu và
động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên hệ quá trình dân chủ hóa ở nước ta
Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả
10


quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong cuộc sống thực
tế ở từng cấp và trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu
ra và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Cách mạng Việt Nam
từ khi có Ðảng lãnh đạo, bất kỳ ở giai đoạn lịch sử nào, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng. Nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa cần xây dựng, phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì đây là một mục tiêu quan trọng của cách mạng. Không
có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà không thực hiện quyền dân
chủ rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực của đời sống với quảng đại quần chúng thì chỉ là chủ
nghĩa xã hội hình thức.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Ðảng ta đã chỉ rõ một trong những nguyên tắc cơ
bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội không ngừng tiến
lên. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do đại hội
Ðảng toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 đã ghi: 'Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bảo
đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân'. Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định, tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân và phải được thể chế hóa quyền lực đó bằng pháp luật,
được pháp luật bảo hộ. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và công bằng xã hội đòi hỏi
phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trải
qua gần 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, nền dân chủ XHCN ở Việt

Nam đã có những bước tiến quan trọng và được thế giới thừa nhận.
Ðể tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HÐH đất nước, mở
rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện thành công mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của Ðảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa vì nó là một mục tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ðến lượt nó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát triển và hoàn thiện lại trở thành
động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển. Chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ
chỗ chưa chín muồi đến chín muồi, từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ chỗ chưa phát
triển đến phát triển. Quá trình này cần có thời gian và môi trường ổn định, đặc biệt là ổn
định chính trị, nếu không có sự ổn định thì không thể làm được việc gì. Muốn duy trì ổn
định xã hội để tiến lên phải phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và lấy đó làm động lực thúc
đẩy sự phát triển toàn diện xã hội.

Câu 4: Vì sao GCCN phải xây dựng khối liên minh với GC nông dân và đội ngũ
tri thức? ý nghĩa của khối liên minh công - nông – trí thức đối với sự nghiệp CM VN?
Trả lời:
- Tính tất yếu phải thực hiện liên minh công – nông – trí thức:
+ Giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành
và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ
phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng lao
động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất
và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên
tiến trong thời đại ngày nay.

11


+ Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa bàn nông
thôn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất rừng, sông biển, tạo ra các sản
phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu

cho công nghiệp và xuất khẩu. Nông dân có tính hai mặt, vừa là người lao động, đồng thời
là người tư hữu nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nông dân không có hệ tư tưởng độc lập, luôn
luôn phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời. Luôn có nguyện vọng
được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng
tự giải phóng của mình.
+ Tầng lớp trí thức, ta thường gọi là đội ngũ trí thức, là một tập đoàn những người
lao động xã hội đặc biệt bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá
nhân, tạo ra những sản phẩm khoa học, trí tuệ, tinh thần. Nói chung họ là những người có
trình độ học vấn và chuyên môn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ
không phải là giai cấp mặc dù số lượng ngày càng đông, mà chỉ là một tầng lớp vì họ không
trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất, họ chỉ sở hữu trí tuệ, lại xuất thân từ nhiều giai tầng khác
nhau trong xã hội, không có hệ tư tưởng độc lập. Dưới các chế độ thống trị trước đây, trí
thức bao giờ cũng bị các giai cấp thống trị nắm lấy, làm công cụ trong tay mình. Họ cũng là
người bị bóc lột về cơ bản, và cũng luôn có nguyện vọng được giải phóng.
Liên minh giữa Giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là hình
thức hợp tác đặc biệt trong công cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ Tư bản chủ nghĩa xây
dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản.Tính tất yếu được thể hiện:
Liên minh CNT trong thời kỳ quá độ lên CNXH là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác, liên
kết…giữa gc công nhân với gc nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện nhửng nhiệm
vụ, giải quyết các vấn đề về lợi ích không chỉ cho một lực lượng mà còn cho cả các lực
lượng tham gia, đồng thời góp phần vào sự nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên minh CNT trong thời kỳ quá độ lên CNXH mang tính tất yếu từ điều kiện và đòi
hỏi khách quan của chính giai đoạn lịch sử đặc biệt này.
Công nhân, nông dân đội ngũ trí thức điều là giai tầng của những người lao động có
nhu cầu, khác vọng cơ bản thống nhất cho nên công nhân, nông dân trí tức dễ đồng cảm, đi
đến đoàn kết, hợp tác vì sự nghiệp phát triển nói chung và lợi ích của mình nói riêng.
Từ thực tiễn của công cuộc xây dựng CNXH càng thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của
liên minh CNT . V.Lê nin từng nói “ Chuyên chính vô sả là một hình thức đặc biệt của liên
minh giữa gcvs, đội tiền phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao
động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân trí thức).

Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn
toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội.
Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông
dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp tầng
lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau.
Để xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân
phải coi việc xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế
độ TBCN đi lên CNXH
- Tầm quan trọng của liên minh công – nông -trí ở nước ta hiện nay?
Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn
toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội.
Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông
dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp tầng
lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau. Để thực hiện được vai
12


trò lãnh đạo tiên phong của mình, giai cấp công nhân mà đứng đầu là ĐCS phải tổ chức tập
hợp được mọi lực lượng xã hội, trong đó chủ yếu là nông dân, trí thức.
Trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới, giai cấp công nhân là
giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu
trong việc giải phóng con người, giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực
lượng cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là sự nghiệp của quần chúng.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi chế độ áp
bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời sống còn thấp kém hơn các giai tầng xã hội
khác. Mặt khác nông dân lại có vai trò to lớn trong cuộc cách mạng xây dựng và phát triển
kinh tế xã hội. Họ là lực lượng sản xuất đông đảo đầy tiềm năng, là nguồn cung cấp nhân

lực cho công nghiệp hóa, là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu cho xã hội, thị
trường đầy tiềm năng trong nền kinh tế thị trường của thời kỳ quá độ. Giai cấp nông dân đã
được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu cầu tìm đến với giai cấp
công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là người bạn tự nhiên, gần gũi nhất của giai
cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó khách quan tạo ra sự cố kết
chặt chẽ công – nông.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tầng lớp trí thức cũng đã được giải phóng, càng có
điều kiện để phát huy vai trò của mình. Ở mọi quốc gia, trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí
tuệ, văn hoá của đất nước. Họ có vai trò nghiên cứu khoa học, phát minh sang chế, vận
dụng, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp để xây
dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Họ có nhiều ý kiến đóng góp vào việc hoạch
định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà nước để phát triển kinh tế, văn
hoá, giáo dục, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Trí thức nói chung rất nhạy cảm về mặt chính trị xã hội, nên khi đã thấy
được vị trí vai trò tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng
về phía công nhân và dân tộc để thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội chung, trong đó có
bản thân mình.
Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là
những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò
xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
việt nam, đặc biệt đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai
cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan
từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc dựa trên nguyên tắc cơ bản
chung nhất của liên minh công – nông trí là “ kết hợp đúng đắn các lợi ích” trên các lĩnh vực
các nội dung của liên minh, khi liên minh công - nông - trí - thức được thiết lập, củng cố
trên cơ sở các điều kiện khách quan đó thì liên minh trở thành nền tảng chính trị - xã hội
vững chắc cho sự lãnh đạo của ĐCS, cho Nhà nước.

13




×