THẢO LUẬN
ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
VỀ CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
(Phần Văn hóa – Xã hội)
Câu 1) Thông qua mối quan hệ giữa con người và sự phát triển văn hóa, anh chị hãy cho biết con người Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay cần hoàn thiện những giá trị nhân cách văn hóa cốt lõi nào? Vì Sao?
Như Bác Hồ đã nói "Cách dạy trẻ: cần làm cho chúng biết yêu Tổ quốc, thương đồng bào, yêu lao động, biết
vệ sinh, giữ kỷ luật, học văn hóa...". Vậy văn hóa là gì?
1. Khái niệm về văn hóa
Văn hóa là phạm trù thuộc về con người, của con người, loài người, do con người sáng tạo ra, vì cuộc sống
và sự phát triển, hoàn thiện của chính mình, làm cho con người trở thành Người, làm cho con người trở nên Người
hơn, là tính người, chất người. Mục tiêu và nội dung cốt lõi quan trọng nhất trong xây dựng văn hóa là xây dựng
con người – nhân cách. Văn hóa và con người là hai mặt của cùng một vấn đề. Mục tiêu quan trọng nhất của văn
hóa là con người. Mục tiêu quan trọng nhất của vấn đề con người là văn hóa.
Theo Hồ Chí Minh, “văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Vậy, khi ta nói đến nền văn hóa là nói về cái to lớn, vĩ mô, nhưng vẫn còn trừu tượng. Trong cái vĩ mô ấy,
nhất thiết phải có, phải xuyên suốt, đầu tiên và cuối cùng, phần cốt lõi quan trọng nhất của văn hóa, là con người,
từng con người, từng cuộc đời, những con người, với nhân cách của họ. Cộng nhiều người lại, với quan hệ xã hội
của họ với nhau, thành một dân tộc, một xã hội. Để đánh giá văn hóa thế nào thì quan trọng nhất là xem thử con
người với nhân cách, đạo đức xã hội ra sao.
2. Con người Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cần hoàn thiện những giá trị nhân cách văn hóa cốt lõi
Từ khi nước ta tiến hành đổi mới đến nay, về văn hóa và con người, Việt Nam đã có nhiều mặt tiến bộ đáng
kể. Đời sống vật chất và tinh thần có nhiều mặt khá hơn trước; giáo dục phát triển mạnh về quy mô, số lượng,
mạng lưới, trình độ học vấn của nhân dân cao hơn, đã phổ cập trung học cơ sở và xóa mù chữ trên toàn quốc; con
người ngày càng tiếp cận nhiều hơn với các nguồn thông tin đa dạng và nhiều chiều, từ đó mà kiến thức và nhận
thức nhiều mặt đã nâng lên. Vấn đề con người và quyền con người được quan tâm hơn, thể hiện cả trong Cương
lĩnh, trong Hiến pháp và luật pháp. Dân chủ có những mặt tiến bộ đáng kể do nhận thức của các cấp và trình độ
dân trí được nâng lên, chịu sự tác động của thông tin. Tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc cơ bản được giữ vững;
các phong trào xóa đói giảm nghèo, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo, từ thiện, xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở… đạt những kết quả đáng ghi nhận; các ấn phẩm văn học, nghệ thuật có phát triển về số
lượng, quy mô phát hành, phong phú về đề tài và phương thức thể hiện…
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại nhất là đạo đức xã hội có nhiều mặt xuống cấp, trong đó, có mặt nghiêm trọng
đáng báo động. Tiêu cực và tội phạm gia tăng. Nạn cướp của, giết người, hãm hiếp và buôn bán phụ nữ, trẻ em; sự
giả dối, lừa gạt, hàng giả, thuốc chữa bệnh giả, thực phẩm độc hại; buôn bán ma túy, phá rừng, đổ chất độc hại ra
môi trường, tội phạm là phụ nữ và trẻ em tăng lên. Nạn tham nhũng chưa được đẩy lùi mà có mặt còn phức tạp và
nghiêm trọng hơn, gây nhức nhối, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và mấy năm gần đây quyết
liệt hơn trong chỉ đạo cụ thể. Việc chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy dự án còn diễn ra phức tạp. “Văn hóa
phong bì” còn khá phổ biến. Kinh tế thị trường còn nhiều hoang dã, chụp giật. Các biểu hiện lợi ích nhóm, lũng
đoạn kinh tế rất đáng lo ngại, về mặt nào đó có hiện tượng giống như tình hình ở nhiều nước trong thời kỳ tích lũy
tư bản, điều này nếu không kịp thời ngăn chặn một cách hiệu quả để phát triển thì sẽ dẫn đến chệch hướng khỏi
mục tiêu XHCN và làm cho đất nước lún sâu trong bẫy thu nhập trung bình, mà rồi sẽ mất nhiều chục năm để
vùng vẫy thoát ra. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, trong đó có cả cán bộ trung, cao cấp như
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã chỉ ra. Các tệ nạn tiêu cực xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội,
kể cả ở những nơi đáng ra phải luôn trang nghiêm, trong sạch (như nơi nắm cán cân công lý, bảo vệ pháp luật, nơi
dạy người, nơi cứu người, nơi truyền bá các giá trị nhân văn, nơi tham mưu cấp chiến lược, nơi thiêng liêng về tâm
linh, tín ngưỡng, thờ tự).
Tình trạng đạo đức xã hội sa sút có nhiều nguyên nhân. Rất đáng lưu ý là hệ giá trị bị đảo lộn về vị trí, thang
bậc. Nhân cách đáng ra phải luôn ở vị trí hàng đầu, trung tâm thì trong nhiều trường hợp đã xuống hàng thứ yếu,
sang bên cạnh, trong khi đồng tiền lại lên ngôi, chi phối nhiều mặt, nhiều việc. Vì tiền, con người ta đã vi phạm
đạo đức, kể cả làm việc ác. Nhưng vì sao mà hệ giá trị lại bị đảo lộn? Đương nhiên có lý do từ mặt trái của cơ chế
thị trường, nhưng không thể đổ lỗi cho cơ chế ấy, bởi vì nó là vậy, có nhiều mặt tích cực, tạo động lực phát triển,
sự lựa chọn cơ chế thị trường là đúng, và có một số mặt tiêu cực cần phải phòng tránh. Khuyết điểm đáng lưu ý là
khi bước vào kinh tế thị trường, chúng ta chưa lường hết sự phức tạp, tác hại và nhất là chưa có giải pháp hữu hiệu
chủ động phòng tránh để hạn chế tác hại bởi mặt trái của cơ chế ấy. Nói cách khác, chưa tạo ra được những cơ chế
1
quản lý hữu hiệu để hạn chế tác hại bởi mặt trái của cơ chế thị trường. Mặt khác, sự tác động từ mặt trái của cơ chế
thị trường lại trong điều kiện Đảng ta cầm quyền, cán bộ, đảng viên nhiều người có quyền lực, được giao quản lý
tài nguyên, tài sản, tài chính, dự án và các mặt quan trọng của đời sống xã hội, mà bản thân quyền lực thì mặt trái
của nó là làm thoái hóa con người khi sử dụng nó nếu như không có cơ chế tốt để kiểm soát quyền lực, để lựa chọn
cán bộ có “đức trọng” mới giao “quyền cao”, để giám sát nhân cách những người có chức, có quyền, dù lớn, dù
nhỏ. Khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý, sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường cộng hưởng với mặt trái
của cơ chế quyền lực như hai con ngựa bất kham. Trong khi cơ chế quản lý, giám sát, kiểm soát kể cả đối với kinh
tế và đối với quyền lực còn nhiều sơ hở, khiếm khuyết. Việc tự rèn luyện nhân cách của từng người không thường
xuyên liên tục, không gương mẫu, tức là chưa đủ độ chín về văn hóa; và kể cả khuyết điểm trong giáo dục đạo
đức, liêm sỉ, trong lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ.
Để khắc phục tình hình nói trên, tới đây, việc trước tiên là tiếp tục nhận thức sâu hơn tầm quan trọng đặc biệt
của văn hóa, đạo đức trong đời sống xã hội, trong xây dựng hệ thống chính trị. Đại văn hào Macxim Gorky đã có
lần nói, đối với ông, khi nghe nói văn hóa lâm nguy còn đáng sợ hơn là Tổ quốc lâm nguy. Về tầm sâu xa, ông nói
đúng. Nếu Tổ quốc lâm nguy mà văn hóa còn bền vững thì người ta sẽ giữ được Tổ quốc, lấy lại được Tổ quốc khi
đã mất; còn nếu văn hóa lâm nguy thì chẳng những mất Tổ quốc mà còn mất cả dân tộc.
Nhìn lại các triều đại phong kiến Việt Nam thấy rằng, phần lớn các triều đại khi mới lên được nhân dân ủng
hộ, lập được nhiều công tích lớn, có ý nghĩa lịch sử, nhưng sau đó không lâu thì suy thoái về văn hóa, đạo đức
trong đội ngũ quan chức và trong triều đình, dẫn đến sụp đổ. Tiếp theo, triều đại khác lên thay rồi cũng lặp lại như
vậy. Mỗi khi thoái hóa đạo đức trong đội ngũ quan lại thì dẫn đến đạo đức xã hội suy đồi, trật tự xã hội rối ren.
Một nửa số triều đại phong kiến chỉ tồn tại trên dưới vài chục năm, rồi sụp đổ ngay trong đời vua thứ nhất, thứ nhì.
Nhà Lý và nhà Trần trị vì dài nhất, mỗi triều đại trên dưới 200 năm, là nhờ biết chăm lo xây dựng văn hóa trong
chính trị “dân là gốc”; mặc dù vậy, cuối cùng cũng do thoái hóa mà suy sụp. Liên Xô, thời kỳ đầu, xây dựng chính
quyền của dân, được nhân dân ủng hộ, đã làm nên nhiều việc lớn lao như chiến thắng 14 nước đế quốc đến bao
vây khi chính quyền Xô Viết còn non trẻ, chiến thắng chủ nghĩa phát xít cứu nhân loại khỏi thảm họa diệt chủng,
đưa một đất nước từ chủ yếu còn là nông nghiệp thành một nước công nghiệp hùng mạnh; từ một nước chủ yếu
còn là thủ công thành một nước có công nghiệp vũ trụ hàng đầu thế giới… Vậy mà, giai đoạn sau, đã để thoái hóa,
từ một nhà nước của dân thành nhà nước của các quan cai trị tham nhũng, dẫn đến đổ vỡ. Sự đổ ngã của Liên Xô
chủ yếu là do “tự đổ” chứ không phải hoàn toàn do địch phá. Địch thì bao giờ mà chẳng phá, do nó phá nên mới
gọi là địch. Nhưng địch phá sao bằng các thời kỳ trước đó? Phá là việc của địch, còn đổ là việc của ta. Mặt trái của
cơ chế quyền lực luôn song hành, luôn bám theo trong mỗi bước đi từ lúc đã thành công. Khi chiến thắng đến đỉnh
cao thì cũng là lúc bắt đầu thua. Khi đã có trong tay tất cả thì cũng là lúc bắt đầu mất dần. Bài học lịch sử là, các
nhà nước của vua và tập đoàn phong kiến, nhà nước của các quan cai trị, nhà nước do các tập đoàn tài phiệt chi
phối cuối cùng do thoái hóa bởi mặt trái của cơ chế quyền lực mà đổ ngã (tất nhiên còn có cả lý do từ quy luật phát
triển). Chỉ có nhà nước của nhân dân, thật sự của nhân dân, mọi quyền lực đều của nhân dân, như tư tưởng Hồ Chí
Minh, thì mới bền vững lâu dài, vì nhân dân là vạn đại, việc bảo vệ và phục vụ nhân dân thì lúc nào cũng cần thiết.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khóa XI về văn hóa đã nhấn mạnh vấn đề cốt lõi, trung tâm
của xây dựng văn hóa là xây dựng con người có nhân cách, đạo đức tốt đẹp. Tinh thần ấy thể hiện xuyên suốt
trong Nghị quyết, từ tên gọi đến mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp. Đây là điểm cần đặc biệt lưu ý để
luôn bám chắc mục tiêu chủ yếu trong quá trình xây dựng văn hóa. Nền văn hóa là cái to lớn, nhưng cũng sẽ chưa
có nghĩa gì nếu như trong đó vấn đề con người – nhân cách không được quan tâm đúng mức, để cho đạo đức suy
đồi. Càng không thể hiểu sai rằng văn hóa là chuyện “cờ, đèn, kèn, trống”, “nhảy múa, hát hò”, là cái đi sau, cái
đuôi của kinh tế, là chuyện mua vui.
- Con người Việt Nam phải là những con người có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì
độc lập dân tộc và CHXH, có ý chí vươn lên, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết và luôn
phấn đấu sánh vai cùng các nước cường quốc năm châu về mọi lĩnh vực đời sống kính tế văn hóa xã hội, luôn
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Trong xây dựng văn hóa cần quan tâm thường xuyên
việc xây đắp lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Nhờ đặc điểm này của văn hóa Việt Nam mà chúng ta đã giữ được
nước, lấy lại được nước sau bao nhiêu lần bị kẻ thù mạnh hơn ta rất nhiều đến xâm lược và đô hộ; nhờ đó mà
chúng ta không bị đồng hóa qua một nghìn năm Bắc thuộc. Ngày nay cũng cần phải lấy tinh thần yêu nước, tinh
thần dân tộc làm bàn đạp và chỗ dựa để tiến lên, phát triển. Trong thế giới hội nhập, với cuộc tiếp biến văn hóa ở
quy mô toàn cầu, chỉ có phát triển mới tồn tại chính mình – một dân tộc thực sự độc lập.
- Con người Việt Nam phải đề cao tinh thần tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung và đặc biệt, con
người Việt Nam phải có lòng nhân ái. Trong quá khứ, người Việt Nam đã biết yêu thương, đùm bọc nhau, nhất là
mỗi khi có khó khăn, sóng gió, hoạn nạn. Trong tương lai, để có một xã hội thật sự tốt đẹp như mong muốn của
Bác Hồ, của Đảng và nhân dân ta, lòng nhân ái cũng sẽ là nền tảng quan trọng nhất cho sự tốt đẹp ấy trong đời
sống xã hội.
2
- Con người Việt Nam phải có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Con người Việt Nam luôn lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp cao, luôn đề cao trách nhiệm
bản thân với gia đình, với tập thể, cộng đồng xã hội.
- Con người Việt Nam phải là những con người thường xuyên học hỏi, sáng tạo, nâng cao hiểu biết,
năng cao trình độ chuyên môn năng lực thẩm mỹ và thể lực. Xưa nay, ta thấy con người Việt Nam dễ thích nghi,
có sáng kiến, nhưng bên cạnh đó lại có mặt bảo thủ, chưa đi đến cùng trong công cuộc sáng tạo để phát triển.
Điểm mạnh nhất của văn hóa Việt Nam là văn hóa giữ nước. Điểm chưa mạnh (nếu không muốn nói là điểm yếu)
là văn hóa phát triển. Thực tế đã kiểm nghiệm điều đó. Dân tộc ta trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn đã giữ
nước rất kiên cường và thành công; mặt khác, lịch sử Việt Nam không chỉ có chiến tranh mà còn có nhiều thời kỳ
xây dựng hòa bình, nhưng đến nay vẫn là nước chưa phát triển, rất vất vả trong quá trình phát triển. Từng con
người Việt Nam phải phát triển, một dân tộc Việt Nam phải phát triển, đó là mục tiêu quan trọng nhất của xây
dựng văn hóa. Muốn phát triển được thì phải đổi mới, phải sáng tạo, liên tục, không ngừng, nhất thiết phải như
vậy, không có cách khác.
Văn hóa là những giá trị thật, trong cuộc sống thực. Bệnh hình thức, bệnh thành tích, sự giả dối không bao
giờ tạo ra được các giá trị văn hóa, mà ngược lại nó làm hỏng văn hóa. Con người Việt Nam phải là những con
người trung thực, có tự trọng, biết xấu hổ với cha ông, với đồng bào đồng chí và với chính mình. Con người Việt
Nam yêu nước, nhân ái, trung thực, sáng tạo… là các đặc tính rất quan trọng đã nêu trong Nghị quyết Trung ương
9 khóa XI.
Hoạt động văn hóa là hoạt động của con người nhằm phát triển, sáng tạo, lưu giữ và truyền bá các giá
trị nhân văn, “Chân – Thiện – Mỹ”. Nếu hoạt động kinh tế chủ yếu là nhằm tạo ra thu nhập thì hoạt động văn hóa
chủ yếu là nhằm tạo ra giá trị nhân văn. Các hoạt động văn hóa có vai trò hết sức quan trọng đối với việc xây dựng
con người, hình thành nhân cách. Trung ương cũng đã có Nghị quyết 29 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục –
đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế”. Theo đó, phải chuyển nền giáo dục từ chủ yếu là truyền thụ kiến thức sang xây dựng nhân cách,
phát triển năng lực; phát triển một nền giáo dục mở, gắn với xã hội học tập. Đây là quan điểm đổi mới rất quan
trọng, và đúng hướng, phù hợp với xu thế khách quan. Phần lớn nhân cách của con người được hình thành ở giai
đoạn đầu đời, trong tuổi học sinh, sau này lớn lên sẽ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện, nhưng về cơ bản đã có nền tảng
trước đó. Vì vậy, việc xây dựng nhân cách quan trọng và hiệu quả nhất là ở lứa tuổi học trò, nên giáo dục là việc
trọng yếu trong xây dựng văn hóa. Nhân cách phải là mục tiêu hàng đầu trong các chương trình giáo dục phổ
thông, cần được thể hiện ở tất cả các môn học, nhất là khoa học xã hội.
Trong các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật là bộ phận tinh tế nhất, là con đường ngắn nhất để đến với
trái tim; là con đường để có thể vào sâu và đánh thức những tâm hồn. Vào sâu và ở lại, biến thành của người đó,
góp phần trực tiếp hoặc dọn “sân vườn” cho việc hình thành và phát triển nhân cách. Yêu cầu đối với các loại hình
văn học, nghệ thuật là tạo ra và lan tỏa các giá trị nhân văn. Quyển sách, bài hát, bản nhạc, một chương trình sân
khấu, một bức tranh, một lễ hội… là quan trọng, tuy nhiên, đó mới là sản phẩm “trung gian”, còn sản phẩm cuối
cùng, mục đích cao nhất là nó tác động tích cực cho việc xây dựng nhân cách, thông qua nội dung và nghệ thuật là
hai mặt của cùng một vấn đề, đều quan trọng như nhau, tạo ra trí tuệ, đạo đức, năng lực và làm phong phú tâm
hồn.
Thông tin truyền thông cũng là một loại hoạt động văn hóa, vừa đáp ứng nhu cầu thông tin của con người
vừa tham gia xây dựng nhân cách, thông qua việc phát hiện, tôn vinh, làm lan tỏa các giá trị nhân văn và lên án, cô
lập, loại trừ cái xấu, cái ác.
Văn học, nghệ thuật và thông tin truyền thông đều phải có trách nhiệm chiến đấu để chống lại cái xấu, cái ác
như Nguyễn Đình Chiểu đã viết: “Tải bao nhiêu đạo thuyền không khẳm; đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Trừ
gian là để tải đạo, để tạo điều kiện cho cái tốt, cái đẹp, cái thiện đâm chồi phát triển, giống như diệt cỏ dại để lúa
trĩu hạt cho đời, chứ không phải là sự đập phá gây đổ ngã. Nhà văn vừa là thư ký thời đại vừa là kỹ sư tâm hồn,
phản ánh hiện thực với lòng nhân ái, là “thầy thuốc” chữa các chứng bệnh thoái hóa nhân cách cho cộng đồng, là
người thắp lên ngọn đuốc để tham gia soi đường về với nhân văn. Nếu văn học, điện ảnh, sân khấu, thông tin
truyền thông và dư luận xã hội không còn tính chiến đấu chống lại cái xấu, cái ác thì cơ thể xã hội mất sức đề
kháng – căn bệnh thế kỷ mà loài người đang phòng tránh và chạy chữa.
Đặc điểm của loại lao động trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật mang đậm dấu ấn của cá nhân người nghệ sĩ và
tính sáng tạo cao. Đối với khoa học tự nhiên, nếu một nhà bác học nào đó không phát minh ra công thức ấy thì sau
đó, có thể rất lâu, có thể làm chậm rất nhiều đối với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, nhưng chắc chắn rồi
sẽ có một nhà bác học khác phát minh ra công thức ấy. Còn không có Nguyễn Du, không có Léptônxtôi, thì nhân
loại mãi mãi không có “Truyện Kiều”, không có “Chiến tranh và hòa bình”. Vì vậy, tôn trọng sự tự do và tôn vinh
sáng tạo của người nghệ sĩ chính là tạo điều kiện cho các kiệt tác ra đời.
3
Vấn đề nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách của con người phải được nhìn nhận là điểm cốt lõi,
sâu sắc và tinh tế nhất
Một con người đạt tới sự trưởng thành xã hội phải là một con người có nhân cách.
Nhân cách là nhân cách của từng người, trong tính cá thể sinh động của nó, trong sự tự biểu hiện và tự khẳng
định chặt lượng phát triển người của nó với tư cách một cá nhân, một chủ thể mang nhân cách. Đây là sự phát triển
đặc trưng của cái riêng, của từng cái riêng một trong mối liên hệ mật thiết về bản chất với cái chung. Mỗi cái riêng
đó là một con người cá thể, cá nhân mà nhân cách của nó phản ánh nhân cách xã hội, là sản phẩm của sự phát triển
xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định. Mỗi một cái Tôi nhân cách đều mang dấu ấn của nhân cách xã hội,
chịu ảnh hưởng và tác động của hoàn cảnh xã hội, điều kiện sống, truyền thống lịch sử, văn hoá cũng như trình độ
và tính chất phát triển của xã hội đương thời. Cái chung của nhân cách xã hội chi phối nhân cách cá nhân thông
qua hệ giá trị và chuẩn mực của nó, biểu hiện thành thế giới quan và nhân sinh quan, thành tư tưởng và đạo đức,
tình cảm và niềm tin, thành hành vi trong hoạt động và ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội. Do đó, mỗi
cá nhân mang cái tôi nhân cách như một hình ảnh thu nhỏ của nhân cách xã hội. Đời sống hiện thực, hàng ngày
của nó diễn ra trong môi trường xã hội, giữa những người khác, trong công việc, trong giao tiếp và ứng xử. Môi
trường xã hội, hoạt động của con người và những quan hệ xã hội của nó là những nhân tố trực tiếp nhất tham gia
vào sự hình thành và thực hiện nhân cách của mỗi cá nhân. Tính hiện thực này của nhân cách xác định hình thức
biểu hiện của nhân cách ở lẽ sống, lối sống và nếp sống. Lẽ sống biểu đạt một quan niệm sống, một thái độ lựa
chọn và định hướng giá trị cuộc sống của bản thân, chứa đựng trong đó cả mục đích, động cơ, nhu cầu và lý tưởng
xã hội mà cá nhân hướng tới. Nó đo lường trình độ trưởng thành xã hội của cá nhân về mặt nhận thức, lý trí, tình
cảm… ý thức và tự ý thức về mình – cải tạo thành bản ngã, hay ý thức về cái tôi cá thể và chủ thể, trước hết được
định hình ở lẽ sống. Nó như một triết lý về con người và cuộc sống.
Hồ Chí Minh khái quát triết lý ấy trên hai phương diện của cùng một vấn đề: Sống ở đời và Làm người. Làm
người và sống ở đời thì phải chính tâm và thân dân. Với những con người trẻ tuổi mới bước vào đời, lập thân và
lập nghiệp, lẽ sống là cả một vấn đề hệ trọng của cuộc đời. Xã hội, trước hết là gia đình, nhà trường, các bậc cha
mẹ, các nhà giáo dục và những thế hệ đi trước phải giúp đỡ thế hệ trẻ tự mình tìm thấy câu trả lời đúng và tôi, tôi
và đẹp về lẽ sống. Đây thực sự là một định hướng mang ý nghĩa sâu xa về văn hoá, về văn hoá nhân cách.
Xác định đúng đắn về lẽ sống đối với một con người là điểm tựa tinh thần đầu tiên để con người phát triển
thành một nhân cách với nghĩa là biết sống lương thiện, tử tế, có trách nhiệm với chính mình và xã hội.
Xây dựng lối sống và đời sống văn hoá tinh thần là tạo ra môi trường văn hoá theo các chuẩn mực giá trị về
đạo đức, khoa học, thẩm mỹ để hình thành văn hoá nhân cách của cá nhân cũng như tập thể. Lối sống vừa phản
ánh nhân cách vừa đánh giá nhân cách của cá nhân mỗi người.
Văn hoá nhân cách của cá nhân biểu hiện trình độ phát triển nhân cách của cá nhân đó ở mức độ điển hình,
trong đó những thuộc tính giá trị của nhân cách đã trở nên ổn định, bền vững. Ý thức về cái đúng (chân), cái tốt
(thiện), cái đẹp (mỹ) đã gắn liền với năng lực thực hành lối sống theo những giá trị đó. Nó trở thành xu hướng chủ
đạo dẫn dắt cá nhân tới những hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo, tới những hành vi giao tiếp và ứng xử với
những người xung quanh một cách có văn hoá, đặc biệt là văn hoá đạo đức. Đó là những nét đẹp thuộc về tư
tưởng, tâm hồn, tính cách như sự trung thực, lòng chân thành, tính vị tha, bao dung, sự ân cần chu đáo với con
người, thái độ tôn trọng nhân cách con người và coi trọng đạo lý làm người.
Vậy, văn hoá nhân cách biểu hiện trình độ phát triển nhân cách thông qua lối sống có văn hoá, là cái đã trở
thành lối sống văn hoá, thành chất lượng văn hoá lối sống của cá nhân. Đây là mục tiêu cần đạt tới của giáo dục
văn hoá nhân cách đối với con người, nhất là đối với thế hệ trẻ. Người đạt đến văn hoá lối sống và văn hoá nhân
cách là người không chỉ đạt đến trình độ phát triển của năng lực, của đạo đức và các giá trị, các chuẩn mực xã hội
khác của nhân cách, mà còn đạt tới sự phát triển về nhu cầu - những nhu cầu bên trong thuộc về đời sống văn hoá
tinh thần của mình, tự khẳng định mình về tư tưởng, đạo đức, lối sống theo các chuẩn mực giá trị Chân - Thiện Mỹ.
Người có văn hoá lối sống và văn hoá nhân cách là người có sự phát triển bền vững của văn hoá đạo đức.
Văn hoá đạo đức là nền tảng và giá trị cốt lõi nhất tạo nên đặc trưng điển hình và bao trùm cho một nhân cách đã
chín muồi.
Trong khi nhấn mạnh cả hai mặt đức và tài của nhân cách, Hồ Chí Minh vẫn coi đức là gốc, là quyết
định, là hàng đầu chính là vì vậy.
Theo quan niệm đó, người được coi là có nhân cách, trước hết là người có đạo đức, được đánh giá về đạo
đức bởi những người khác, bởi dư luận xã hội. Sự đánh giá này tập trung vào lối sống của con người, trong quan
hệ với công việc, với những người xung quanh, với cả bản thân mình từ thái độ đến hành vi, ứng xử. Tính ích kỷ,
sự vụ lợi mà rộng hơn là cá nhân chủ nghĩa xa lạ với những gì thuộc về nhân cách con người cả trên bình diện đạo
đức lẫn bình diện văn hoá. Sống đúng, sống tốt và sống đẹp giữa mọi người, không phải vì mình mà vì người
khác, coi lối sống, cách sống đó như một nhu cầu, một sự thoả mãn đạo đức và văn hoá làm người - đó là thước đo
giá trị nhân cách trong lối sống. Người mang lối sống ấy sẽ biểu hiện nhân cách của mình bằng cách làm việc hết
4
mình, tận tuy thực hiện bổn phận, nghĩa vụ, nhất quán giữa lời nói là việc làm - những cái mà ta thường nói, sống
có tâm, có tình, có nghĩa. Với cái tâm đó, người ta mới biết đem cái tài ra để giúp ích cho đời, cho người. Vị tha là
nét cao quý, đáng nể trọng của đạo làm người. Không nhân ái thì không thể vị tha được. Cũng như vậy, không có
lòng vị tha thì không thể khiêm nhường, thành thật, bao dung, độ lượng với người và nghiêm khắc với mình được.
Phải có những phẩm chất ấy, con người ta mới có thể đem vào trong nếp sống hàng ngày của mình những biểu
hiện của sự quan tâm, ân cần, chu đáo với người khác, tính cẩn thận, nề nếp, tận tâm, tận lực trong mọi công việc
lớn, nhỏ vì người khác. Đó là sự hy sinh, sự quên mình, chỉ với một tình cảm thiết tha được sống vì người khác,
được góp phần nhỏ bé của mình vào sự lớn rộng thêm những niềm vui và hạnh phúc cho người khác, làm vợi đi
những khó khăn, vất vả làm dịu đi những nỗi buồn, những đau khổ của người khác, cũng như làm được ngày một
nhiều hơn những điều, những việc hữu ích cho cuộc đời.
Là sự cụ thể hoá lối sống, củng cố sự bền vững những giá trị và chuẩn mực của văn hoá lối sống, nếp sống
thường ngày của mỗi cá nhân như những chỉ báo xác thực để đo lường mức độ trưởng thành cũng như xu hướng
phát triển nhân cách của cá nhân đó. Với những biểu hiện của nếp sống, con người tự bộc lộ mình là người như thế
nào, là một nhân cách như thế nào. Qua nếp sống của một con người cụ thể, có thể đánh giá được người ấy đã tự
giáo dục mình đến đâu, đã chuyển hoá học vấn thành văn hoá nhân cách của mình đến mức nào.
Từ những điều trình bày trên đây, cần nhấn mạnh rằng, nhân cách và văn hoá, nhân cách liên quan trên toàn
bộ chất lượng phát triển con người ảnh hưởng và có sức chi phối sâu xa đến cuộc sống của con người với sự toàn
vẹn của chỉnh thể cá nhân, cá thể của nó cũng như sự tác động qua lại giữa nó với những cá nhân, cá thể khác với
cộng đồng xã hội mà nó là một phần tử hợp thành, không thể tách rời.
Nhân cách là toàn bộ các giá trị mà con người đạt được trong sự trưởng thành xã hội của nó . Những
giá trị đó gắn liền với những chức năng và vị thế của con người trong các quan hệ xã hội mà nó biểu hiện ra bằng
hoạt động, với tất cả sự phong phú và toàn vẹn của đời sống cá nhân trong môi trường xã hội, trong sự phát triển
của cá nhân và xã hội.
Đạo đức cũng như năng lực là những thành phần chủ yếu của cấu trúc nhân cách, nhưng chỉ riêng đạo đức
hay năng lực không đủ để xác định một nhân cách. Nói đạo đức là yếu tố quan trọng hàng đầu là gốc, là cái quyết
định của nhân cách không có nghĩa là đồng nhất đạo đức với nhân cách, coi nhân cách chỉ là đạo đức. Cần phải
khắc phục một quan niệm đơn giản khi lược quy nhân cách vào mặt duy nhất là đạo đức, cũng như đồng nhất học
vấn với văn hoá như vẫn thường thấy khi đánh giá sự phát triển của cá nhân về mặt học vấn, học thức. Mặt khác,
nếu tách rời đạo đức với năng lực, tuyệt đối hoá đạo đức mà xem nhẹ năng lực, hoặc cho rằng dường như những
hạn chế, yếu kém, thiết hụt về năng lực có thể được bù trừ, châm chước bằng phẩm chất đạo đức, thì đó sẽ là một
quan niệm không đúng về nhân cách. Ngược lại, đề cao năng lực đến mức coi năng lực là tất cả, chỉ cần rèn luyện
năng lực để làm việc, còn đạo đức không có vai trò quyết định... thì quan niệm đó càng sai lệch nhiều hơn. Đó là
những biểu hiện khác nhau của cách hiểu phiến diện, siêu hình về nhân cách.
Trên thực tế, đạo đức chi phối và quyết định năng lực, đồng thời đạo đức phải biểu hiện qua năng lực, ở tác
dụng và hiệu quả của năng lực trong hoạt động.
Đạo đức và năng lực phải được hình dung cụ thể trong công việc và trong các quan hệ mà con người phải
giải quyết và ứng xử hàng ngày, tức là trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. Thông qua những công
việc và quan hệ đó, con người tỏ rõ mình đã làm được những gì, đã sống như thế nào giữa những người khác, nhờ
đó mà nhân cách cá nhân của nó được định bơm và cũng có thể tự đánh giá. Phải thông qua những đánh giá xã hội
thì nhân cách cá nhân mới có tính hiện thực. Tính hiện thực đó biểu hiện ở ảnh hưởng và uy tín mà người này có
được ở người khác, trong những người khác và ngược lại.
Mỗi cá nhân là một chủ thể mang nhân cách của mình, đồng thời là đối tượng; khách thể được đánh giá về
nhân cách bởi một chả thể khác, bởi cộng đồng xã hội.
Nhân cách của mỗi cá nhân được hình thành trong các mối liên hệ xã hội, trong các quan hệ liên nhân
cách. Điều đó được thể hiện trước tiên trong giao tiếp văn hoá.
Giao tiếp văn hoá để học cách sống, cách ứng xử văn hoá, tập luyện hành vi, thói quen tốt cho từng cá nhân
theo những chuẩn mực và giá trị của văn hoá giao tiếp, văn hoá đối thoại, tranh luận, văn hoá ứng xử. Làm cho
từng cá nhân nảy nở và phát triển nhu cầu văn hoá trên những phương diện đó chính là con đường giáo dục văn
hoá nhân cách cho họ.
Cảm nhận một cách tinh tế yêu cầu lý, Nêru, nhà hoạt động văn hoá lỗi lạc Ấn Độ nhấn mạnh rằng, “Văn
hoá chính là khả năng hiểu biết người khác và làm cho người khác hiểu mình”. Còn viện sĩ Lik- hachốp coi “Văn
hoá là biết lắng nghe” và Xukhômlinxki, nhà giáo dục xô viết nổi tiếng, người đã dồn hết tâm huyết và tinh lực cả
đời mình cho công việc giáo dục thế hệ trẻ, với tác phẩm vĩ đại “Giáo dục con người chân chính như thế nào?” lại
đặc biệt chú ý tới phẩm chất làm người thông qua giáo dục văn hoá nhân cách. Ông quan niệm “Văn hoá chính là
khả năng biết nhìn thấy người bên cạnh”.
Biết lắng nghe, ấy là sự khiêm nhường, là sự tôn trọng con người. Biết nhìn thấy người khác, ấy là sự ân cần,
chu đáo, sự thông cảm, chia xẻ với những số phận con người - một biểu hiện cao quí của nhân tính. Mác đã từng
5
nói: chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi thống khổ của đồng tính. Mác đã từng nói: chỉ nói có súc vật mới
quay lưng lại với nỗi thống khổ của đồng loại.
Tập luyện, gieo trồng, vun trồng nhân tính là gốc rễ bền bỉ nhất của văn hoá. Nhân tính đó, chính là chiều
sâu của sự hiểu biết, sự đồng cảm của con người với con người. Đó cũng là nhu cầu văn hoá đạo đức của mỗi cá
nhân trong lao động, hoạt động, trong gian tiếp, ứng xử với những người khác.
Những thuộc tính giá trị cộng đồng và cộng cảm ấy của văn hoá làm người, văn hoá nhân cách tỏ rõ rằng,
nhân cách con người không bao giờ độc lập, biệt lập trong cái trạng thái cô đơn, ốc đảo khép kín ở một cá thế. Nó
là sự giao hoà giữa nhân cách của nó với những nhân cách ngoài nó, của những con người, những cuộc đời và của
cả cộng đồng xã hội nói chung. Nhân cách là một quan hệ liên nhân cách chính là vì thế.
Sự phối hợp đồng bộ các lực lượng giáo dục cũng như sự thống nhất giữa mục tiêu và phương pháp giáo dục
trở nên hết sức cần thiết. Nó tạo ra những tác động tích cực cùng chiều tới sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ.
Muốn vậy, phải khai thác tối đa sức mạnh của giáo đục truyền, thống lịch sử dân tộc, truyền thống cách mạng; kết
hợp giáo dục khoa học để rèn luyện phương pháp tư duy sáng tạo và phát triển trí tuệ với giáo dục đạo đức và trau
dồi sự tinh tế trong cảm thụ nghệ thuật, nâng cao khiếu thẩm mỹ để làm phong phú thế giới tinh thần của họ. Đó là
những lực đẩy cần thiết giúp con người phát triển và hoàn thiện nhân cách. Nó còn cần thiết để thức tỉnh những
người đã bị lệch lạc về nhân cách, thậm chí đánh mất nhân cách của mình mà trong hoàn cảnh và ở thời điểm nào
đó, họ có thể hoàn lương và hướng thiện.
Tóm lại, việc xây dựng con người phát triển toàn diện với những phẩm chất cao quý của con người là công
việc khó khăn, phúc tạp cần phải có sự kiên trì, bền bỉ và có một chiến lược lâu dài. Phải huy độngmọi lực lượng,
vận dụng sức mạnh tổng hợp của văn hóa để hình thành con người mới từ lúc lọt lòng và trong suốt cả cuộc đời
bằng nhiều hình thức và biện pháp sinh động, hiệu quả và thích hợp với từng giai đoạn.
Câu 2) Thông qua mối quan hệ giữa môi trường văn hóa và sự phát triển văn hóa, anh chị hãy chỉ rõ cần
phải phát triển đồng bộ các môi trường văn hóa nào trong bối cảnh của đất nước ta hiện nay? Vì sao?
Tham khảo ở sách học Bài 4 - trang 117.
Bác Hồ có câu "Chúng ta phải học, phải cố gắng học nhiều. Không chịu khó học thì không tiến bộ được.
Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình không chịu học
thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình..."
a. Về khái niệm và bản chất của môi trường văn hóa
Về khái niệm, trước hết cần phải có sự khu biệt nhất định về khái niệm "văn hoá" trong quan niệm về môi
trường văn hóa (MTVH). Bởi, nếu văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng (bao hàm tất cả mọi hoạt động sáng tạo của
con người) thì nội hàm khái niệm MTVH phải được mở rộng tối đa. Như thế sẽ rất khó phân biệt được tính đặc thù
của MTVH. Còn nếu nhìn văn hoá trong tổng thể cấu trúc xã hội, thì môi trường văn hoá là bộ phận quan trọng,
phản ánh chiều sâu của môi trường xã hội, thậm chí đồng nhất với môi trường xã hội, đời sống xã hội.
Cũng không thể theo ý kiến cho rằng nên co hẹp khái niệm MTVH. MTVH chính là tổng hoà các loại điều
kiện văn hoá tinh thần (chủ yếu như giáo dục, đạo đức, tôn giáo, tập tục...) tồn tại xung quanh chủ thể và tác động
tới hoạt động của chủ thể. Nếu quan niệm như thế thì tất yếu sẽ gặp rào cản trong thực tiễn MTVH. Bởi những yếu
tố tác động tới con người của MTVH - con người với tư cách vừa là sản phẩm và chủ thể - thì không chỉ có thuần
tuý là các điều kiện văn hoá tinh thần.
Chúng tôi đồng tình với cách tiếp cận: MTVH chỉ là một thành tố, một phương diện cấu thành của văn hóa
và phát triển văn hóa. MTVH là tổng hoà của các phương diện: thực tiễn sáng tạo văn hóa (sự ứng xử, thích nghi
của con người với môi trường sống); hệ giá trị văn hóa (kết quả của hoạt động sáng tạo) và tâm lý văn hóa (kế
thừa, trao truyền, tiếp nhận). Quan niệm MTVH từ góc nhìn này phản ánh được những mối quan hệ nội tại của văn
hóa. Trong mối quan hệ với văn hoá: MTVH phản ánh văn hoá vừa là thuộc tính bản chất của xã hội, dạng hoạt
động của đời sống xã hội, biểu hiện kết quả hệ thống giá trị sáng tạo; văn hoá vừa như là một tiểu hệ thống của
toàn bộ hệ thống xã hội - tiểu hệ thống văn hoá tinh thần.
Tiếp cận từ góc nhìn này sẽ tránh được sự chồng chéo và sự mở rộng quá mức nội hàm khái niệm, đồng thời
làm rõ được tính đặc thù của MTVH. Tiếp cận MTVH là một yếu tố cấu thành của văn hóa, sẽ có cơ sở để phân
biệt cấu trúc và nội dung của xây dựng môi trường văn hóa, tác động của MTVH đến các hoạt động sáng tạo văn
hóa. Còn nếu quá mở rộng phạm vi khái niệm "môi trường văn hoá" thì sẽ dẫn đến sự chồng chéo giữa các khái
niệm và nội hàm của nó. Quá co hẹp trong quan niệm thì sẽ dẫn đến những giới hạn sẽ làm hạn chế phạm vi ảnh
hưởng và tác động của của "môi trường văn hoá" trong các hoạt động quản lý cũng như thực hành phát huy vai trò
MTVH trong phát triển đời sống xã hội.
Từ quan điểm trên đây, đưa ra khái niệm MTVH như sau: Môi trường văn hoá là tổng thể sống động các yếu
tố văn hoá vật thể và phi vật thể bao quanh con người trong một không gian, thời gian xác định, các yếu tố đó tác
6
động lẫn nhau và có quan hệ tương tác đối với con người, nhằm phát triển, phát huy vai trò con người vừa là sản
phẩm vừa là chủ thể văn hoá.
Với định nghĩa này, nội hàm của MTVH được quan niệm rộng hơn nội hàm của đời sống văn hoá, MTVH là
giới hạn có thể xác định trong mối quan hệ biện chứng của con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội. Trong môi trường sống của con người, môi trường tự nhiên là sự tập hợp các yếu tố bên ngoài hệ thống xã hội
- con người, là điều kiện cần cho sự tồn tại phát triển. Còn môi trường văn hoá là tập hợp các yếu tố bên trong hệ
thống xã hội - con người làm thành điều kiện đủ định hướng cho mỗi tiểu hệ thống trong hệ thống tồn tại, phát
triển(5).
Định nghĩa này cũng cho phép chúng ta nhận diện đặc trưng, đặc điểm của MTVH trong mối quan hệ với
đời sống văn hoá và đời sống xã hội. Đặc điểm đó chính là tính phi vật thể. Tính phi vật thể được hiểu rõ hơn khi
chúng ta xem xét phương thức tác dụng của MTVH so với môi trường xã hội. Sức mạnh của MTVH có tính vô
hình vì tác động theo hình thức thấm dần, làm thay đổi cảm nhận, hành vi của con người. So với sức mạnh có tính
hữu hình, trực tiếp và tính biến đổi sôi động của môi trường xã hội, thì MTVH có tính lắng đọng hơn. Trong mối
quan hệ với đời sống văn hoá, MTVH là khái niệm không đồng nhất, mà bao trùm lên toàn bộ đời sống văn hoá
của con người. MTVH phải được xem xét như một chỉnh thể, như một hệ thống.
Môi trường văn hóa là nơi con người sống và chịu sự tác động của nó trong quá trình hình thành nhân
cách. Gia đình, cộng đồng, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị có vai trò hết sức quan trọng đối với việc
xây dựng nhân cách. Cần phải có những gia đình hiếu học và chiếc nôi nuôi dưỡng nhân cách. Cần phải có một
nền kinh tế phát triển bền vững, lành mạnh, hiệu quả, trong đó những người lao động được tôn trọng, không bị
phân hóa giàu nghèo bất hợp lý, không bị lợi ích nhóm (theo nghĩa xấu) chi phối, có cơ chế quản lý tiên tiến, đủ
sức hạn chế “yêu quái” từ mặt trái của cơ chế thị trường. Cần có một nền chính trị dân chủ thấm đẫm văn hóa “dân
là gốc”, nói cách khác là một nền “dân trị”, trong đó dân thật sự là chủ, làm chủ, quyền lực là của nhân dân, cán bộ
là những người hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, kính trọng và lễ phép với nhân dân; có cơ chế kiểm soát quyền
lực đủ mạnh để hạn chế một cách hiệu quả mặt trái của con ngựa bất kham. Đó là điểm quan trọng nhất về xây
dựng văn hóa chính trị. Không thực hiện thành công điều đó thì không thể có CNXH hiện thực được, dù chúng ta
có viết, có hô khẩu hiệu nghìn lần. Trong nền chính trị ấy, và để xây dựng nền chính trị ấy, cần có Đảng là bộ tham
mưu chiến lược, là “con nòi” của dân tộc, là một Đảng chân chính, trong sạch, “đạo đức và văn minh”, “trí tuệ,
danh dự và lương tâm” như cách nói của Hồ Chí Minh và Lênin.
Môi trường văn hóa tốt đẹp là một môi trường mà khi tiếp cận với nó, sống trong đó, con người ta sẽ tốt hơn
lên, trưởng thành, hoàn thiện và hạnh phúc hơn. Một nền văn hóa tốt đẹp do con người tạo ra và đến lượt nó sẽ là
một môi trường văn hóa khổng lồ tác động trở lại tạo ra những con người có nhân cách tốt đẹp. Hội nghị Trung
ương 5 khóa VIII đã có chủ trương xây dựng một nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Kế thừa và tiếp
tục phát triển tinh thần ấy, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã lưu ý các đặc trưng của một nền văn hóa Việt Nam
là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Dân tộc ta nhất quyết phải phát triển và phải là Việt Nam; với một nền
văn hóa giàu tính nhân văn, để trong đó con người đẹp hơn và được hạnh phúc; với một chế độ dân chủ để ổn định
bền vững và có sức mạnh tiến lên; với một nền khoa học phát triển để dân tộc có thể tiến cùng thời đại.
Nói chung, môi trường văn hóa là tổng hòa các loại điều kiện văn hóa tinh thần tồn tại xung quanh con
người và tác động tới hoạt động của con người. Yếu tố chủ yếu tạo thành môi trường văn hóa là giáo dục, khoa
học, kinh tế, văn nghệ, đạo đức, tôn giáo, triết học, tâm lý dân tộc và tập tục truyền thống.
Từ tầm nhìn vĩ mô, môi trường văn hóa là một bộ phận hợp thành của toàn bộ môi trường xã hội, vì thế, nó
có vai trò to lớn đối với sự ổn định phát triển và tiến bộ của toàn thể xã hội.
Thứ nhất, môi trường văn hóa có ảnh hưởng đến sự hình thành quan điểm giá trị và quan niệm phân phối xã
hội một cách hợp lý, nhân văn, phù hợp với các tầng lớp khác nhau trong xã hội nhằm bảo đảm sự ổn định.
Thứ hai, môi trường văn hóa ảnh hưởng tới ổn định xã hội thông qua quan hệ giữa con người với con người.
Xã hội là do con người tổ chức hợp thành. Cá nhân, gia đình là tế bào của xã hội. Con người sống trong xã hội tất
nhiên sẽ phát sinh nhiều loại quan hệ và những mối quan hệ này ở những mức độ khác nhau sẽ ảnh hưởng đến ổn
định xã hội. Phải tăng cường ý thức đạo đức bao gồm quan niệm đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Thông
qua dư luận xã hội và hoạt động văn hóa làm cho các yêu cầu đạo đức trở thành một bộ phận hợp thành ý thức tư
tưởng của mọi công dân.
Thứ ba, phải thực hiện công bằng xã hội. Môi trường văn hóa tạo cơ hội, tạo điều kiện hưởng thụ văn hóa,
hưởng thụ giáo dục. Bên cạnh đó, việc hưởng thụ các giá trị tinh thần khác thông qua sách báo, truyền hình, ca
nhạc, triển lãm, du lịch văn hóa và du lịch sinh thái cũng rất quan trọng. Vấn đề đặt ra với chúng ta hiện nay là
song song với việc mở rộng không gian và môi trường văn hóa, cần chú trọng hơn nữa chất lượng hưởng thụ văn
hóa, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa vùng phát triển nhanh và vùng phát triển chậm, đặc
biệt là vùng sâu, vùng xa.
Môi trường văn hóa và biến đổi xã hội: Xã hội ổn định không có nghĩa là xã hội không có biến đổi. Trong hệ
thống xã hội to lớn và phức tạp, giữa các tầng bậc, các thành phần, các yếu tố có thể xảy ra tình trạng không thích
7
ứng, không hài hòa. Đây là cội nguồn khách quan của biến đổi xã hội. Với tư cách là một bộ phận hợp thành môi
trường xã hội, môi trường văn hóa tất có liên quan đến sự biến đổi xã hội, đặc biệt là liên quan đến văn minh chính
trị của nhà cầm quyền và sự lựa chọn hình thức phát triển đất nước của người dân.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển văn minh vật chất gắn liền với thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại
như kỹ thuật số, công nghệ tin học, công nghệ sinh học... Như vậy, văn minh vật chất hiện đại chủ yếu dựa vào trí
lực, không phải là khai thác và lợi dụng tài nguyên theo kiểu tiêu hao mà khai thác tài nguyên song song với việc
bảo vệ và tái sinh tài nguyên.
Còn về văn minh tinh thần, trước hết, môi trường văn hóa tốt đẹp sẽ tương thích và thúc đẩy sự phát triển
lành mạnh của đời sống văn hóa tinh thần vì thành phần cơ bản của môi trường văn hóa bao gồm tình trạng đời
sống văn hóa của quần chúng, tình trạng giáo dục khoa học - kỹ thuật, tình trạng đạo đức xã hội và tình trạng tư
tưởng lý luận. Thứ hai, nhìn từ góc độ khác sẽ thấy phạm vi môi trường văn hóa rộng hơn giá trị văn hóa tinh thần.
Vì môi trường văn hóa hiện thực bao gồm loại hình văn hóa, hoạt động văn hóa, tâm lý văn hóa nên ở đó, tồn tại
cả cái tốt và cái xấu, tích cực và tiêu cực, tiến bộ và lạc hậu.... Còn phạm trù giá trị văn hóa tinh thần là phạm trù
chỉ những giá trị mang ý nghĩa kết tinh, ở đó không có chỗ cho những sản phẩm văn hóa kém chất lượng.
Môi trường văn hóa và sự phát triển kinh tế - xã hội: Môi trường văn hóa có tác dụng thúc đẩy tích cực đối
với phát triển kinh tế. Thứ nhất, môi trường văn hóa có tác dụng điều chỉnh hài hòa đối với vận hành bình thường
của nền kinh tế. Các loại giá trị văn hóa không những là cơ sở chỉ đạo động cơ tăng trưởng kinh tế mà còn quy
định tính hợp lý của mục tiêu tăng trưởng. Thứ hai, môi trường văn hóa tốt đẹp có thể điều hòa, sửa chữa, uốn nắn
tính hẹp hòi của quan điểm giá trị vì lợi nhuận của kinh tế thị trường. Đặc biệt phải coi trọng vai trò động lực của
văn hóa; phải không ngừng nâng cao tỷ trọng văn hóa tinh thần; làm trong sạch thị trường văn hóa, chỉnh đốn và
quy phạm trật tự thị trường văn hóa theo pháp luật; đặt phát triển văn hóa vào vị trí chiến lược quan trọng trong
chiến lược phát triển đất nước.
Môi trường văn hóa và sự phát triển toàn diện con người: Tăng cường xây dựng môi trường văn hóa tạo
dựng nên một môi trường văn hóa lành mạnh, tiến lên, phát triển là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện phát
triển toàn diện con người.
Xây dựng văn hóa gia đình
“Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực khu biệt đặc thù điều tiết mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình và mối quan hệ giữa gia đình với xã hội, phản ánh bản chất của các hình thái gia đình
đặc trưng cho các cộng đồng các tộc người, các dân tộc và các khu vực khác nhau được hình thành và phát triển
lâu dài của đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội” (1).
Nhận thức được vai trò của gia đình trong việc giữ vững ổn định xã hội, phát triển kinh tế, nuôi dưỡng giáo
dục và cung cấp nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ phát triển kinh tế tri
thức và hội nhập quốc tế, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng văn hóa gia đình. Xây dựng môi trường văn hóa và
văn hóa gia đình đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước: “Xây dựng môi trường văn hóa với nội dung đầu tiên là xây dựng
văn hóa gia đình “tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, trường học, đơn vị bộ đội), các vùng dân cư (đô
thị, nông thôn, miền núi) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu đa dạng và không ngừng tăng lên
của các tầng lớp nhân dân” (2).
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước xác định một trong những nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa là thực hiện chiến
lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và
giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp ông bà, cha mẹ mẫu
mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các đề án “Phát huy giá trị tốt đẹp của mối quan hệ trong gia đình và hỗ
trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững đến năm 2020” (Quyết định số 279/QĐ-TTg); phê duyệt “Chiến lược
phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030” (Quyết định số 629/QĐ-TTg); phê duyệt “Chương
trình hành động quốc gia về phòng chống bạo lực gia đình đến năm 2020” (Quyết định số 215/QĐ-TTg) nhằm thể
chế Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI. Các chương trình và đề án đã khẳng định xã hội gia đình no ấm, tiến bộ,
hạnh phúc là một trong những mục tiêu quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020,
tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy phát huy các giá trị tốt đẹp các mối quan hệ
trong gia đình và hỗ trợ xây dựng gia đình Việt Nam hạnh phúc, bền vững là trách nhiệm của toàn Đảng và toàn
dân.
Trên thực tế, xây dựng văn hóa gia đình hướng vào các mục tiêu cụ thể:
(1) Nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn
chặn các tệ nạn xã hội thâm nhập vào gia đình. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức rất nhiều hoạt động
8
nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình, cộng
đồng và toàn xã hội trong công tác phòng chống, chống bạo lực gia đình, từng bước ngăn chặn và giảm bạo lực gia
đình trên phạm vi toàn quốc; cụ thể là các hoạt động viết về gương điển hình trong phòng, chống bạo lực gia đình;
cuộc thi Câu lạc bộ gia đình chủ đề: Gia đình hạnh phúc, xây dựng kế hoạch mạng lưới quốc gia về phòng chống
bạo lực gia đình giai đoạn 2010 - 2020. Trên thực tế, tình trạng ngoại tình, kết hôn bất hợp pháp, ly thân, chung
sống không kết hôn, không muốn sinh con, lối sống thử, sống độc thân, kết hôn đồng tính là nguyên nhân dẫn đến
bạo lực gia đình. Theo số liệu thống kê hành vi đánh đập ngược đãi dẫn đến ly hôn chiếm khoảng hơn 50% trong
tất cả các nguyên nhân dẫn đến ly hôn.
(2) Tăng cường các giải pháp hữu hiệu nhằm kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống của gia đình Việt
Nam, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển, thực hiện đầy đủ các quyền và
trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi con
nhỏ. Những hoạt động hưởng ứng Ngày quốc tế hạnh phúc 20-3 với chủ đề Yêu thương và chia sẻ; các hoạt động
kỷ niệm 15 năm ngày gia đình Việt Nam 28-6 với chủ đề Bữa cơm gia đình ấm áp yêu thương cùng với công tác
truyền thông về lĩnh vực tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng, nội dung phong phú trên các
phương tiện thông tin đại chúng đã tạo nên các mối quan hệ trong gia đình ngày càng tốt đẹp, tiến bộ, văn minh.
Đó là các quan hệ giữa vợ với chồng, cha mẹ với con cái, quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu trưởng thành
nhằm hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững.
(3) Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tính năng động,
tích cực của các thành viên trong gia đình tăng lên theo quá trình phát triển của đất nước. Năng lực của gia đình
trong phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế ngày càng được nâng cao; việc làm phong
phú và đa dạng hơn đã tăng thu nhập và phúc lợi cho các hộ gia đình; đặc biệt đối với các hộ gia đình chính sách,
hộ nghèo và cận nghèo.
Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam mà trọng tâm là xây dựng môi trường văn hóa phải bắt
đầu từ xây dựng văn hóa gia đình. Vì chính gia đình là nơi sinh ra, giáo dục và nuôi dưỡng thể lực và nhân cách
của mỗi con người, đó là nguồn lực tổng hợp như vốn xã hội để phát triển. Không có nguồn lực nào quan trọng và
quý giá bằng nguồn lực con người, bằng nguồn nhân lực, từ nhân lực hiện hữu bằng sức lao động đã trưởng thành,
đang được sử dụng đến nhân lực tiềm tàng, tiềm năng đang được nuôi dưỡng, đào tạo, nó như “của để dành" như”
“vốn dự trữ” cho tương lai. Do đó, con người, “tư bản” người là quan trọng bậc nhất, quyết định nhất vốn xã hội,
nhìn từ quan điểm phát triển, từ lăng kính quản lý xã hội, quản trị doanh nghiệp và sâu xa hơn từ tầm nhìn văn
hóa, từ triết lý nhân văn của phát triển văn hóa, phát triển con người. Để có được nguồn nhân lực đó, đầu tiên và
quan trọng nhất là từ nhiệm vụ xây dựng văn hóa gia đình.
Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI xác định rằng, “phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người
và xây dựng con người để phát triển văn hóa”.
Quan điểm chỉ đạo này cho thấy, mối liên hệ bên trong mật thiết, gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời giữa
văn hóa với con người, giữa con người với văn hóa, về thực chất, phát triển văn hóa là phát triển con người, lấy
phát triển con người là trọng tâm. Phát triển con người không chỉ tạo ra chất lượng nguồn nhân lực để phát triển
văn hóa mà con người với năng lực sáng tạo, trình độ học vấn, tiềm lực trí tuệ, phẩm giá đạo đức, lối sống của nó,
tựu trung lại là sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người là tính hướng đích, là mục đích, mục tiêu của
phát triển văn hóa. Xét theo quan điểm giá trị thì hệ giá trị Chân - Thiện - Mỹ của văn hóa cũng chính là hệ giá trị
phát triển con người, con người vừa với tư cách là chủ thể mang nhân cách của chính mình, phản ánh những chuẩn
mực, yêu cầu của mẫu nhân cách xã hội, vừa với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, sản xuất ra văn hóa dưới
dạng các sản phẩm, các giá trị, đồng thời còn là chủ thể quản lý, cảm thụ, tiêu dùng văn hóa, thực hiện các hoạt
động quảng bá, giao lưu văn hóa, tiếp xúc và tiếp biến văn hóa để phát triển xã hội, phát triển chính mình. Chỉ có
con người mới là chủ nhân đích thực của sáng tạo văn hóa, cả văn hóa vật chất (vật thể) lẫn văn hóa tinh thần (phi
vật thể), cũng chỉ có con người, từ cấp độ cá nhân - cá thể gia đình đến cấp độ xã hội - cộng đồng, dân tộc, rộng
nhất là nhân loại, mới tạo dựng nên môi trường văn hóa - xã hội để phát triển văn hóa và phát triển xã hội nói
chung, để làm cho hiệu ứng xã hội của văn hóa (nhất là văn hóa tinh thần), lan tỏa, mở rộng, thấm sâu vào mọi
lĩnh vực của đời sống, nhân lên sức sống, sức phát triển của con người, của văn hóa, không chỉ những thế hệ người
trong mối quan hệ gia đình, trong một dân tộc - quốc gia, nền văn hóa của mỗi dân tộc mà còn là sự phát triển của
các dân tộc, của các nền văn hóa trong thế giới nhân loại. Dòng chảy của sáng tạo và phát triển văn hóa là liên tục
từ quá khứ đến hiện tại và tương lai bắt đầu từ gia đình vì gia đình Việt Nam là một thiết chế nền tảng của xã hội
Việt Nam truyền thống. Con đường đi của phát triển, văn minh, tiến bộ của dân tộc cũng như của thế giới và thời
đại là con đường của sáng tạo, phát triển văn hóa, của hội nhập văn hóa mà trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay,
không một nước nào có thể ở bên ngoài tiến trình hội nhập để phát triển.
Biện chứng của mối quan hệ văn hóa gia đình với con người, con người với văn hóa gia đình là ở tương tác
nhân - quả giữa chủ thể và đối tượng. Con người sáng tạo ra văn hóa và chính văn hóa lại tác động sâu xa, rộng
lớn tới phát triển con người, hoàn thiện nhân cách, nhân tính. Có thể nói, con người là giá trị văn hóa cao nhất,
9
giá trị của mọi giá trị. Hoàn thiện nhân cách, nhân tính của con người là sứ mệnh của văn hóa, là nỗ lực cao nhất
mà sáng tạo văn hóa cần đạt đến và mọi thành quả, thành tựu của văn hóa đều góp phần vào sự bộc lộ các năng lực
người, khẳng định sức mạnh bản chất người của con người trong phát triển, từ cá thể người, gia đình đến cộng
đồng người trong dân tộc và trong nhân loại. Giáo sư Vũ Khiêu đã từng nhấn mạnh, văn hóa là tất cả những gì
cho thấy nhân tính vượt lên trên thú tính. Hoàn thiện nhân tính, nhân cách con người rõ ràng là thước đo văn hóa.
Đây là chỗ nói lên bản chất nhân văn đích thực của văn hóa, cũng là chỗ phân biệt văn hóa với phản văn hóa, trong
đó văn hóa gia đình có vai trò to lớn. Trong bản chất của nó, văn hóa chỉ biểu đạt cái tốt đẹp, sự lương thiện và tử
tế, sự chính trực và lẽ công bằng, trọng sự thật và lẽ phải, tôn trọng chân lý khoa học, đạo lý và đạo nghĩa ở đời và
làm người. Văn hóa có cốt lõi của nó là đạo đức, mà đạo đức là gốc của nhân cách được hình thành bắt đầu từ văn
hóa gia đình.
Sự phát triển bền vững của đất nước thực chất là phát triển bền vững con người mà muốn vậy, phải đặc biệt
chú trọng thực hiện chiến lược phát triển văn hóa, môi trường văn hóa và văn hóa gia đình. Chỉ có tạo dựng môi
trường xã hội lành mạnh, môi trường văn hóa lành mạnh, trong đó có văn hóa gia đình lành mạnh mới có thể tạo ra
những con người mang nhân cách văn hóa, mới sáng tạo, sản sinh ra văn hóa vì con người, vì phát triển. Đúng như
điều C. Mác nói, nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì phải làm cho hoàn cảnh ngày càng có tính người
nhiều hơn, và sự phong phú của mỗi cá nhân (nhân cách) tùy thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã
hội của nó, trong đó có văn hóa gia đình.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
Để phát triển văn hóa gia đình và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam theo đúng quan điểm, mục tiêu,
phương hướng, giải pháp mà Đảng đã xác định, trong tình hình hiện nay của nước ta và trước yêu cầu phát triển
mới của đất nước, cần phải tập trung triển khai thực hiện những công việc cụ thể, thiết thực, có ích cho nước, có
lợi cho dân, những việc làm thực tế, hợp với ý nguyện của lòng dân.
- Trước hết, phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất, tinh thần từ công sức, mồ hôi nước mắt, sức
sáng tạo của dân mà có được để phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân, giải quyết nạn
thất nghiệp đang nhức nhối trong xã hội hiện nay, bởi tình trạng hàng vạn thanh niên sinh viên tốt nghiệp, có học
thức mà không có việc làm. An sinh là cái gốc của ổn định và phát triển, là tiền đề cho phát triển con người và văn
hóa.
- Thực hành triệt để tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy lùi tham nhũng để chăm lo cuộc sống cho người dân,
nâng cao chất lượng cuộc sống và trình độ của dân, từ chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền để
đi tới dân chủ. Đó là một tổng hợp chương trình, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, đó còn là chính trị, là đường
lối, chính sách. Chính trị vì dân, cũng là văn hóa trọng dân, trọng pháp rất cần trong lúc này, khi lòng dân không
yên, do không ít cán bộ suy thoái, hư hỏng.
- Không có văn hóa và văn hóa chính trị nào cao quý hơn khi thực hiện cho được một nguyên tắc, một
phương châm hành động “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, có an dân thì mới đo được kết quả của việc
trị quốc. Có quốc thái thì sẽ có dân an. Từ bài học của ông cha ta trong lịch sử đến Di sản cao quý của Chủ tịch Hồ
Chí Minh mà kế thừa, thực hiện và phát triển vào lúc này thì mọi việc lớn và nhỏ phải luôn luôn vì dân, phải coi
“dĩ công vi thượng” là văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị hàng đầu trong giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên,
trong chỉnh đốn Đảng, trong cải cách thể chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Giáo dục
đạo đức, đặc biệt là giáo dục liêm sỉ, lương tâm, danh dự, giáo dục ý thức trách nhiệm đi liền với thực hành đạo
đức, lối sống liêm khiết phải được coi trọng trong văn hóa của Đảng, của các tổ chức công quyền.
- Cùng với giáo dục phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tính tôn nghiêm luật pháp, áp dụng chế tài mạnh mẽ để
trừng phạt tất cả những người, những việc gây hại tới dân. Đó là sức mạnh của văn hóa, của chính trị bảo đảm
“quang minh chính đại” theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những người tốt phải được tôn vinh, những kẻ
xấu phải bị phê phán, lên án, sàng lọc khỏi bộ máy để dân tin, dân tự mình bảo vệ Đảng và chế độ. Sức mạnh của
văn hóa và giá trị nhân cách con người, nhất là văn hóa trong Đảng và nhân cách văn hóa của mỗi cán bộ đảng
viên, ở các cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước và các đoàn thể luôn là chỉ số quan trọng để thuyết phục dân, lấy lại
niềm tin của dân đối với Đảng, với chế độ. Tăng trưởng niềm tin của dân vào lúc này có tác dụng như một động
lực phát triển, nó minh chứng cho sự trong sạch, vững mạnh của Đảng từ tác động của văn hóa. Tăng trưởng niềm
tin của dân còn quan trọng và khó khăn hơn nhiều so với tăng trưởng kinh tế.
Đẩy mạnh giáo dục văn hóa gia đình, giáo dục lý tưởng, lẽ sống và rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ phải
được chú trọng, góp phần quan trọng vào công cuộc chấn hưng đạo đức, phát triển văn hóa ở nước ta. Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam; chương trình hành động quốc gia
về phòng, chống bạo lực gia đình; chương trình quốc gia về giáo dục đời sống gia đình; Đề án phát huy giá trị tốt
đẹp các mối quan hệ gia đình và hỗ trợ gia đình phát triển hạnh phúc bền vững; nhân rộng mô hình phòng, chống
bạo lực gia đình; tuyên truyền đào tạo lối sống trong gia đình Việt Nam gắn với thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW
về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước” và
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
10
Xây dựng môi trường văn hoá để phát triển văn hoá và con người, phát triển bền vững đất nước
Thực tế triển khai thực hiện chủ trương trên thời gian qua cho thấy rằng có một số rào cản nhất định liên
quan đến nội dung, nhiệm vụ xây dựng MTVH và công tác tổ chức thực hiện. Bài viết này góp bàn làm rõ thêm
vấn đề: Định hướng của Đảng về xây dựng MTVH, khái niệm và bản chất của MTVH, nội dung nhiệm vụ xây
dựng MTVH trong giai đoạn hiện nay.
a. Những định hướng của Đảng về xây dựng MTVH
Lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (1996), MTVH mới được nhận thức như là nhiệm vụ, nội
dung của phát triển văn hoá. Nội dung Nghị quyết ghi rõ: Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng
và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức,
tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển xã hội. Tuy vậy phải đến
Văn kiện Đại hội Đảng VIII và Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII (1998), thì khái niệm, mục đích, nội dung xây
dựng "môi trường văn hoá" mới được làm rõ hơn.
Về khái niệm được xác định: "Môi trường văn hoá là môi trường chứa đựng những giá trị văn hoá và diễn
ra các quan hệ văn hoá, các hoạt động sáng tạo, hưởng thụ văn hoá của con người". Mục đích xây dựng MTVH...
là để đáp ứng nhu cầu văn hoá đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân. Nội dung xây dựng
MTVH được xác định bao gồm: Xây dựng đời sống văn hoá ở các cơ sở; Xây dựng gia đình, cộng đồng dân cư
văn hoá; Xây dựng nếp sống văn minh; Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hoá;
Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức phong trào văn hoá, văn nghệ(1).
Đến Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) Về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước), nhận thức của Đảng về xây dựng MTVH có bước
tiến mới.Nghị quyết Trung ương 9đã có sự bổ sung mới cả về lý luận và thực tiễn.
Mục đích xây dựng MTVH, xây dựng MTVH lành mạnh phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường và hội
nhập, MTVHphải là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa phát triển con người là chủ thể sáng tạo.
Về quan điểm, phải xây dựng đồng bộ môi trường văn hoá, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng
đồng, môi trường văn hoá chính trị.
Về nội dung, xây dựng MTVH phải gắn với không gian, điều kiện và chủ thể của mỗi địa phương, cộng
đồng, cơ quan, đơn vị;thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam; chú trọng giá trị văn hoá tín ngưỡng tôn
giáo trong xây dựng MTVH; gắn kết xây dựng MTVH với bảo vệ môi trường sinh thái; xây dựng đời sống văn
hoá, đặc biệt vấn đề quy chế dân chủ, lối sống, nếp sống, hệ thống thiết chế văn hóa và tính tự quản của người dân
trong các hoạt động...(2).
Trên đây là những định hướng quan trọng của Đảng về xây dựng MTVH và đã được triển khai thực hiện
trong nhiều năm qua. Tuy nhiên thực tế triển khai thực hiện và hiệu quả cho thấy cần phải tiếp tục làm rõ hơn nữa
về cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề.
Trước hết, chúng tôi đồng tình với một số ý kiến cho rằng, trong nội dung xây dựng MTVH của Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII là chưa nhấn mạnh đến mối quan hệ, vai trò của môi trường văn hoá với phát triển nhân
cách văn hoá và môi trường tự nhiên trong phát triển (3). Nhận định này hoàn toàn có sở, nhất là khi xem xét mối
quan hệ với đời sống văn hoá và thực tiễn MTVH về phương diện quản lý.
Thứ hai,trong quan điểm của các nhà nghiên cứu và cả ngay trong các Văn kiện của Đảng, vẫn chưa có sự
thống nhất, phân biệt rõ ràng về khái niệm và nội hàm của đời sống văn hoá và môi trường văn hoá. Điều đó đã
dẫn đến có sự lẫn lộn trong nhận thức của xã hội và trong chỉ đạo thực tiễn về xây dựng MTVH.
Sự không nhất quán thể hiện: Trong nhận thức lý luận của Đảng về văn hoá, các lĩnh vực văn hoá là đối
tượng lãnh đạo, quản lý, xây dựng nền văn hoá, thì đời sống văn hoá được xem là một trong bốn lĩnh vực quan
trọng (Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII) cần phải quan tâm. Và khái niệm MTVH bao hàm khái niệm đời sống
văn hoá. Thế nhưng chỉ đạo thực tiễn (phần nhiệm vụ, giải pháp) xây dựng nền văn hoá, có nhiệm vụ xây dựng
MTVH, xây dựng đời sống văn hoá và MTVH, có khi được xem vừa là nhiệm vụ, vừa là giải pháp. Trong nhiệm
vụ xây dựng MTVH, lại có nội dung xây dựng đời sống văn hoá. Sự chưa thống nhất như vậy sẽ rất khó đối với
những người làm công tác văn hoá, bởi họ vừa phải tổ chức, quản lý xây dựng đời sống văn hoá, vừa phải xây
dựng MTVH(4).
Rõ ràng cần phải tiếp tục làm rõ hơn cơ sở lý luận trong nhận thức thực hiện nội dung, nhiệm vụ xây dựng
MTVH hiện nay.
b. Về nội dung nhiệm vụ xây dựng MTVH
Quan niệm về MTVH trên đây là cơ sở để để xác định nội dung nhiệm vụ xây dựng MTVH. Vấn đề đặt ra từ
thực tiễn phương diện quản lý, nhiệm vụ, nội dung xây dựng MTVH có phải là xây dựng các thành tố của nó
không?
Nội dung xây dựng MTVH chính là xây dựng cái bao quanh, cái có thể tác động đến con người để trong đó
con người vừa là sản phẩm vừa tự hoàn thiện mình với tư cách là chủ thể. Hay nói cách khác, xây dựng MTVH
là tạo các điều kiện bên ngoài - cái có thể góp phần vào sự hình thành, hoàn thiện nhân cách, để không phải là cái
11
có thể tha hoá nhân cách. Xây dựng MTVH là tạo các điều kiện để phát huy vai trò của động của con người trong
các mối quan hệ ứng xử. MTVH bao gồm tổng thể các loại sản phẩm văn hoá; những cảnh quan văn hoá; các thiết
chế văn hoá; hệ thống những ứng xử văn hoá; diện mạo những vi MTVH (văn hoá gia đình, cơ quan, đơn vị, bản,
làng...).
Phát triển quan điểm của Đảng, nội dung nhiệm vụ xây dựng MTVH ở nước ta hiện nay, bao gồm:
1. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hoá, gắn với hệ giá trị, chuẩn mực cụ thể, tạo tiền đề cơ sở, định hướng
sự hình thành, phát triển hoàn thiện nhân cách văn hoá. Trước hết thực hiện chiến lược phát triển gia đình, xây
dựng gia đình văn hoá - môi trường đầu tiên của con người. Xây dựng môi trường văn hoá ở trường học, địa bàn
dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp..., cộng đồng dân cư văn hoá..., là các không gian gắn kết quan hệ giữa
con người.
2. Xây dựng đời sống văn hoá(bao hàm các hoạt động tinh thần, tạo giá trị tinh thần), gắn với các hoạt động
văn hoá của cá nhân và cộng đồng. Cụ thể là xây dựng lối sống, nếp sống văn minh (việc cưới, việc tang, lễ hội...),
quy chế dân chủ; giá trị văn hoá tín ngưỡng, tôn giáo gắn bó dân tộc, hướng thiện, nhân văn; các hoạt động hướng
thiện, "đền ơn đáp nghĩa", "uống nước nhớ nguồn"; văn hoá môi trường sinh thái..
3. Xây dựng hệ thống thiết chế văn hoá, cảnh quan văn hoá gắn với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các thiết chế văn hoá. Trước hết là xây dựng, hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hoá - xã hội: trường học
nhà mẫu giáo, sân vận động, trung tâm văn hoá, câu lạc bộ, thư viện, phòng truyền thống, rạp chiếu phim, công
viên văn hoá... Tạo mới, hoặc giữ gìn cảnh quan thiên nhiên; xây mới hoặc bảo vệ, trùng tu các công trình tượng
đài, công trình văn hoá kiến trúc, quảng trường, đường xã,...
4. Tạo điều kiện để người dân chủ động tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng. Xây dựng các quy chế,
quy định hợp lý để người dân tham gia xây dựng, quản lý tốt hệ thống thiết chế văn hoá (thư viện, câu lạc bộ, khu
vui chơi giải trí...) ở các khu dân cư thôn, xã.
Tóm lại, MTVH bao giờ cũng gắn với không gian thời gian cụ thể, nên xây dựng MTVH phải gắn với những
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Câu 3) Anh chị hãy trình bày những chính sách cụ thể mà Đảng và Nhà nước đang thực hiện nhằm hiện
thực hóa các quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay? Liên hệ thực
tiễn ở nước ta hiện nay.
Tham khảo sách học trang 121 và bài 6 trang 177.
1. Khái niệm về GD và ĐT – trang 177
2. Bối cảnh mới tác động đến phát triển GD&ĐT – trang 180
3. Thực trạng phát triển GD&ĐT KHCN ở VN hiện nay – trang 188
4. ...
Bác Hồ nói "Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi
không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô
danh. Đây là một điều rất vẻ vang"
Và đặc biệt Bác đã khẳng định "Tôi khuyên các bạn là chớ đặt những chương trình kế hoạch mênh mông,
đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được. Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì
cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần đến khó, từ thấp dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành
được hẳn hoi hơn là một trăm chương trình to tát mà không làm được"
Từ ngày xưa, cha ông ta đã khẳng định; “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” và điều đó đã trở thành truyền
thống quý báu của dân tộc ta. Phát huy truyền thống đó, Đảng và Nhà nước luôn luôn dành sự quan tâm đặc biệt
đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Nhận biết rõ tầm quan trọng của tri thức và việc học tập của mỗi cá nhân nên chỉ
một ngày sau khi đọc tuyên ngôn độp lập, trong phiên học đầu tiên vào ngày 3-9-1945, của Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những biện pháp cấp bách của Nhà nước ta
lúc bấy giờ. Trong nhiệm vụ cấp bách thứ hai, Người đã nói: “…Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề
nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ…”, (Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
năm 2002, tập 4, trang 8).
Và trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người
đã khẳng định rằng: “…Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh
quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của
các em”, (Sđd, t 4, tr 33). Từ quan điểm vô cùng sáng suốt và đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta về
giáo dục, về khuyến học, khuyến tài… đã phát huy tác dụng to lớn trong việc nhanh chóng nâng cao dân trí, thu
hút tầng lớp trí thức tham gia phong trào cách mạng.
12
Tiếp nối quan điểm này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã quyết định đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Và nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển
nhanh và bền vững. Và để thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương quyết định ban hành Nghị quyết định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000.
Có thể khẳng định, từ khi được thành lập đến nay, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục và đào
tạo. Các văn kiện của Đảng về giáo dục và đào tạo đã nêu nhiều quan điểm chỉ đạo mà đến nay vẫn còn nguyên
giá trị và cần tiếp tục quán triệt và thực hiện. Những quan điểm đó là: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu;
đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; mục
tiêu của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển giáo dục gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh; đa dạng hóa các loại hình giáo dục; học đi đôi với
hành, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình, xã hội; thực hiện công bằng trong giáo dục; ưu tiên đầu
tư phát triển giáo dục vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và các đối tượng
diện chính sách; thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục… Tuy nhiên, để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đề ra một số nội dung mới trong quan điểm chỉ đạo và những nội
dung này được nêu cụ thể trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8, khóa XI, gồm:
Thứ nhất là giáo dục và đào tạo là một nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; đầu tư cho giáo dục được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Thư hai là cụ thể hóa nội hàm quan niệm và các yêu cầu về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo”. Tức là: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực
hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục,
đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học,
ngành học. Đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân.
Thứ ba là chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học. Tứ là người dạy và người học hiểu đúng mục đích của việc dạy và học; dạy và
học thực chất; kết quả thi, kiểm tra phản ánh đúng, thực chất chất lượng giáo dục; người học là chủ thể trung tâm
của quá trình giáo dục, sau khi tốt nghiệp có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết để sống và làm việc. Đồng thời,
phát triển giáo dục và đào tạo phải phù hợp quy luật phát triển khách quan, những tiến bộ khoa học và công nghệ.
Chuyển phát triển giáo dục từ chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời
đáp ứng yêu cầu số lượng. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa.
Thứ tư là đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, bảo đảm liên thông giữa các bậc học, trình
độ và giữa các phương thức đào tạo; tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập suốt đời; xây dựng xã hội học tập. Cụ
thể là đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết là đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; có chính sách khuyến
khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người học, người sử dụng
lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo. Đối với các ngành đào tạo có khả năng xã hội hóa cao, ngân sách nhà nước
chỉ hỗ trợ các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và khuyến khích tài năng. Tiến tới bình đẳng về
quyền được hỗ trợ của Nhà nước đối với người học ở trường công lập và trường ngoài công lập. Bảo đảm bình
đẳng giữa nhà giáo trường công lập và nhà giáo trường ngoài công lập về tôn vinh và cơ hội đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ năm là chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục. Phát triển hài hóa, bình đẳng, hỗ trợ lẫn nhau giữa giáo dục công
lập và ngoài công lập, giáo dục các vùng miền. Đồng thời, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo
dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 8 KHÓA XI
VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
A - Tình hình và nguyên nhân
1- Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học.
Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh
viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ.
13
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý.
Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo đạt mức 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy
mạnh; hệ thống giáo dục và đào tạo ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung của
toàn xã hội. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định.
Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; phổ cập giáo dục
trung học cơ sở vào năm 2010; đang tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; củng cố và nâng cao kết
quả xóa mù chữ cho người lớn. Cơ hội tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số
và các đối tượng chính sách; cơ bản bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo.
Những thành tựu và kết quả nói trên, trước hết bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của dân tộc; sự quan tâm,
chăm lo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của mỗi gia đình và toàn xã hội; sự tận
tụy của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; sự ổn định về chính trị cùng với những thành tựu phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước.
2- Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học,
giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức
giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất,
kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ
năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất.
Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất
lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết,
thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa
phù hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
3- Những hạn chế, yếu kém nói trên do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, nhất
là quan điểm "giáo dục là quốc sách hàng đầu" còn chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến
lược, kế hoạch và chương trình phát triển giáo dục-đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội.
- Mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng. Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng
cấp... chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng hơn. Tư duy bao cấp còn nặng, làm hạn chế khả năng huy động
các nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo.
- Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo chưa rõ.
Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và gia đình chưa chặt chẽ. Nguồn lực quốc gia và khả năng của phần đông gia đình
đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu.
B- Định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
I- Quan điểm chỉ đạo
1- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
2- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi
mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và
việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có
chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải
bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ,
khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
3- Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá
trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi
với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
4- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến
bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số
lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
5- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các
phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo.
6- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập,
giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân
14
tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa
giáo dục và đào tạo.
7- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải
đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
II- Mục tiêu
1- Mục tiêu tổng quát
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn
công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển
toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức
giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại
hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
2- Mục tiêu cụ thể
- Đối với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố
đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi
vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020. Từng
bước chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non. Phát triển giáo dục mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng phù hợp với
điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục.
- Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân,
phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực
hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn
thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ
trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở;
trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng
cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương
đương.
- Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề
nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp
theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động
trong nước và quốc tế.
- Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất
và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học,
cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số
trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát
triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
- Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn, vùng khó khăn,
các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng
cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề; bảo đảm xóa mù chữ bền vững. Hoàn thiện
mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học
và giáo dục từ xa.
- Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài, có chương
trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài, góp phần phát huy sức mạnh của văn hóa Việt Nam, gắn bó với quê hương, đồng thời xây dựng tình đoàn
kết, hữu nghị với nhân dân các nước.
III- Nhiệm vụ, giải pháp
1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục và đào tạo
Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao
coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục và
đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; người học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục;
gia đình có trách nhiệm phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách, lối sống cho con em
mình.
15
Đổi mới công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự
tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc đổi mới, phát triển giáo dục.
Coi trọng công tác phát triển đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các trường học, trước hết là trong đội
ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi bộ; các trường đại học có đảng bộ. Cấp ủy trong các cơ sở giáo dụcđào tạo phải thực sự đi đầu đổi mới, gương mẫu thực hiện và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân về việc
tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa
vào đội ngũ giáo viên, viên chức và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân dân địa phương để
xây dựng nhà trường.
Các bộ, ngành, địa phương xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự báo nhu cầu về số
lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ sở đó, đặt hàng và phối hợp với các cơ sở giáo
dục, đào tạo tổ chức thực hiện.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm các hiện tượng tiêu cực kéo dài,
gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát
triển phẩm chất, năng lực của người học
Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, cần xác định rõ và công khai mục tiêu, chuẩn đầu ra của
từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo. Coi đó là cam kết bảo đảm chất lượng của
cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục và đào tạo; là căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy
người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa
tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo
đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống
và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin
học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ
viết của các dân tộc thiểu số; dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài.
Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo
và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý
các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong dạy và học.
Tiếp tục đổi mới và chuẩn hóa nội dung giáo dục mầm non, chú trọng kết hợp chăm sóc, nuôi dưỡng với
giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý, yêu cầu phát triển thể lực và hình thành nhân cách.
Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích
hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề
và hoạt động giáo dục tự chọn. Biên soạn sách giáo khoa, tài liệu hỗ trợ dạy và học phù hợp với từng đối tượng
học, chú ý đến học sinh dân tộc thiểu số và học sinh khuyết tật.
Nội dung giáo dục nghề nghiệp được xây dựng theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, tác phong làm việc
chuyên nghiệp để hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện đại, phù hợp với từng ngành,
nhóm ngành đào tạo và việc phân tầng của hệ thống giáo dục đại học. Chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, kỹ
năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên
tiến của thế giới.
3- Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm
trung thực, khách quan
Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội
và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với
đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường
với đánh giá của gia đình và của xã hội.
Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng giảm áp lực và tốn kém
cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
16
Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức, năng lực
thực hành, ý thức kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp. Có cơ chế để tổ chức và cá nhân sử dụng lao động tham gia vào
việc đánh giá chất lượng của cơ sở đào tạo.
Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng kết hợp sử dụng kết quả học tập ở phổ thông
và yêu cầu của ngành đào tạo. Đánh giá kết quả đào tạo đại học theo hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo,
tự cập nhật, đổi mới kiến thức; đạo đức nghề nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ;
năng lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi với môi trường làm việc. Giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các
cơ sở giáo dục đại học.
Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở cấp độ quốc gia, địa phương, từng cơ sở giáo dục, đào tạo
và đánh giá theo chương trình của quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất lượng giáo
dục, đào tạo.
Hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục. Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục, đào
tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định. Chú trọng kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng
giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tố nước ngoài. Xây dựng phương thức kiểm
tra, đánh giá phù hợp với các loại hình giáo dục cộng đồng.
Đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng chú trọng năng lực, chất lượng, hiệu
quả công việc thực tế, không quá nặng về bằng cấp, trước hết là trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Coi sự
chấp nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng của cơ sở
giáo dục đại học, nghề nghiệp và là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào
tạo.
4- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng
xã hội học tập
Trước mắt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở;
định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp
với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế giới.
Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tếxã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Thống nhất tên gọi các trình độ đào tạo, chuẩn đầu ra. Đẩy mạnh giáo
dục nghề nghiệp sau trung học phổ thông, liên thông giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục sắp
xếp, điều chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu theo hướng gắn đào tạo với nghiên
cứu khoa học. Thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực hành.
Hoàn thiện mô hình đại học quốc gia, đại học vùng; củng cố và phát triển một số cơ sở giáo dục đại học và giáo
dục nghề nghiệp chất lượng cao đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.
Khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất lượng cao ở tất cả các cấp học và
trình độ đào tạo. Tăng tỷ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Hướng tới có
loại hình cơ sở giáo dục do cộng đồng đầu tư.
Đa dạng hóa các phương thức đào tạo. Thực hiện đào tạo theo tín chỉ. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng năng
lực, kỹ năng nghề tại cơ sở sản xuất, kinh doanh. Có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia
xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.
5- Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và
trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng
Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và trách nhiệm quản lý theo
ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương. Phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo
dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở
giáo dục, đào tạo.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nhất là về chương trình, nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo
đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo của nước ngoài tại Việt Nam. Phát huy vai trò của công nghệ thông tin và các
thành tựu khoa học-công nghệ hiện đại trong quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo.
Các cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo địa phương tham gia quyết định về quản lý nhân sự, tài chính cùng
với quản lý thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp.
Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào tạo; chú trọng quản lý chất lượng đầu
ra. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục, đào tạo. Thực hiện cơ chế người học
tham gia đánh giá hoạt động giáo dục, đào tạo; nhà giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục, đào tạo
tham gia đánh giá cơ quan quản lý nhà nước.
Hoàn thiện cơ chế quản lý cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam; quản lý học sinh, sinh
viên Việt Nam đi học nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước và theo hiệp định nhà nước.
17
Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của hội đồng
trường. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của
cơ quan quản lý các cấp; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
6- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu
cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà
giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng
viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng,
đại học có trình độ từ thạc sỹ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản lý giáo dục
các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý.
Phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục; ưu tiên đầu tư xây dựng một số trường sư phạm, trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm; khắc
phục tình trạng phân tán trong hệ thống các cơ sở đào tạo nhà giáo. Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để
tuyển chọn được những người có phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành sư phạm.
Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học
tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp.
Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác.
Có chế độ ưu đãi và quy định tuổi nghỉ hưu hợp lý đối với nhà giáo có trình độ cao; có cơ chế miễn nhiệm, bố trí
công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính
sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.
Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Có chính sách
hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và nghiên cứu khoa học. Bảo đảm bình đẳng giữa nhà giáo trường công lập
và nhà giáo trường ngoài công lập về tôn vinh và cơ hội đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ... Tạo điều kiện
để chuyên gia quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục,
đào tạo trong nước.
Triển khai các giải pháp, mô hình liên thông, liên kết giữa các cơ sở đào tạo, nhất là các trường đại học với
các tổ chức khoa học và công nghệ, đặc biệt là các viện nghiên cứu.
7- Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả
đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân sách nhà nước chi cho giáo
dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Từng
bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập. Hoàn thiện chính sách
học phí.
Đối với giáo dục mầm non và phổ thông, Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng, phát triển các cơ sở
giáo dục công lập và có cơ chế hỗ trợ để bảo đảm từng bước hoàn thành mục tiêu phổ cập theo luật định. Khuyến
khích phát triển các loại hình trường ngoài công lập đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao ở khu vực
đô thị.
Đối với giáo dục đại học và đào tạo nghề nghiệp, Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng một số trường đại
học, ngành đào tạo trọng điểm, trường đại học sư phạm. Thực hiện cơ chế đặt hàng trên cơ sở hệ thống định mức
kinh tế-kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng của một số loại hình dịch vụ đào tạo (không phân biệt loại hình cơ sở đào
tạo), bảo đảm chi trả tương ứng với chất lượng, phù hợp với ngành nghề và trình độ đào tạo. Minh bạch hóa các
hoạt động liên danh, liên kết đào tạo, sử dụng nguồn lực công ; bảo đảm sự hài hòa giữa các lợi ích với tích luỹ tái
đầu tư.
Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; khuyến khích liên kết với
các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Có chính sách khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào
tạo trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người học, người sử dụng lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo. Đối với các
ngành đào tạo có khả năng xã hội hóa cao, ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ các đối tượng chính sách, đồng bào dân
tộc thiểu số và khuyến khích tài năng. Tiến tới bình đẳng về quyền được nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với người
học ở trường công lập và trường ngoài công lập. Tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với các đối tượng chính
sách, đồng bào dân tộc thiểu số và cơ chế tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay để
học. Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài, giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi.
Tôn vinh, khen thưởng xứng đáng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc và đóng góp nổi bật cho sự nghiệp
giáo dục và đào tạo.
18
Khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ trợ hoạt động đào tạo. Xây dựng cơ
chế, chính sách tài chính phù hợp đối với các loại hình trường. Có cơ chế ưu đãi tín dụng cho các cơ sở giáo dục,
đào tạo. Thực hiện định kỳ kiểm toán các cơ sở giáo dục-đào tạo.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; có chính sách hỗ trợ để có mặt bằng xây dựng
trường. Từng bước hiện đại h óa cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin. Bảo đảm đến năm
2020 số học sinh mỗi lớp không vượt quá quy định của từng cấp học.
Phân định rõ ngân sách chi cho giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục
đại học với ngân sách chi cho cơ sở đào tạo, bồi dưỡng thuộc hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang. Giám
sát chặt chẽ, công khai, minh bạch việc sử dụng kinh phí.
8- Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo
dục và khoa học quản lý
Quan tâm nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa học quản lý, tập trung đầu tư nâng cao năng lực, chất
lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu khoa học giáo dục quốc gia. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục. Triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về khoa học giáo dục.
Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của các
cơ sở giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu, giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất,
kinh doanh. Ưu tiên đầu tư phát triển khoa học cơ bản, khoa học mũi nhọn, phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng
thí nghiệm chuyên ngành, trung tâm công nghệ cao, cơ sở sản xuất thử nghiệm hiện đại trong một số cơ sở giáo
dục đại học. Có chính sách khuyến khích học sinh, sinh viên nghiên cứu khoa học.
Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học và
công nghệ, hỗ trợ đăng ký và khai thác sáng chế, phát minh trong các cơ sở đào tạo. Hoàn thiện cơ chế đặt hàng và
giao kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ cho các cơ sở giáo dục đại học. Nghiên cứu sáp nhập một số tổ
chức nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ với các trường đại học công lập.
Ưu tiên nguồn lực, tập trung đầu tư và có cơ chế đặc biệt để phát triển một số trường đại học nghiên cứu đa
ngành, đa lĩnh vực sớm đạt trình độ khu vực và quốc tế, đủ năng lực hợp tác và cạnh tranh với các cơ sở đào tạo và
nghiên cứu hàng đầu thế giới.
9- Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo
Chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và
thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại. Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa phương, thực hiện các
cam kết quốc tế về giáo dục, đào tạo.
Tăng quy mô đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước đối với giảng viên các ngành khoa học cơ bản
và khoa học mũi nhọn, đặc thù. Khuyến khích việc học tập và nghiên cứu ở nước ngoài bằng các nguồn kinh phí
ngoài ngân sách nhà nước. Mở rộng liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín, chủ yếu trong
giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo.
Có cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia
hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Tăng cường giao lưu
văn hóa và học thuật quốc tế.
Có chính sách hỗ trợ, quản lý việc học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên Việt Nam đang học ở nước
ngoài và tại các cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
C- Tổ chức thực hiện
1- Các cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tổ chức việc học tập, quán triệt tạo
sự thống nhất về nhận thức và hành động thực hiện Nghị quyết này. Lãnh đạo kiện toàn bộ máy tham mưu và bộ
máy quản lý giáo dục và đào tạo; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện, đặc biệt là kiểm tra công tác chính trị, tư
tưởng và việc xây dựng nền nếp, kỷ cương trong các trường học, phát hiện và giải quyết dứt điểm các biểu hiện
tiêu cực trong giáo dục và đào tạo.
2- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành mới hệ thống pháp luật về giáo
dục và đào tạo, các luật, nghị quyết của Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát
việc thực hiện.
3- Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản dưới luật; xây
dựng kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện và
kịp thời điều chỉnh kế hoạch, giải pháp cụ thể phù hợp với yêu cầu thực tế, bảo đảm thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết.
Thành lập Ủy ban quốc gia Đổi mới giáo dục và đào tạo do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch Ủy ban.
4- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực
thuộc Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban
Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.
19
Tóm lại, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho
học sinh, sinh viên, mở rộng quy mô giáo dục hợp lý. Cần coi trọng cả ba mặt giáo dục: dạy làm người, dạy
chữ, dạy nghề; đặc biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch sử, truyền thống văn hoá dân
tộc, giáo dục về Đảng. Ngăn chặn xu hướng coi nhẹ giáo dục chính trị, tư tưởng, xa rời định hướng xã hội chủ
nghĩa, các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động giáo dục. Quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục nhân cách, kỹ năng và
phương pháp làm việc; nâng cao trình độ về ngoại ngữ, tin học cho học sinh, sinh viên; phát triển năng lực, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm cho thế hệ trẻ có đủ khả năng và bản lĩnh thích ứng với những biến đổi nhanh
chóng của thế giới. Bồi dưỡng cho thanh thiếu niên lòng yêu nước nồng nàn, tự hào, tự tốn dân tộc và khát vọng
mãnh liệt về xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp, vai trò của ngành giáo dục và đào
tạo để phát triên sự nghiệp giáo dục. Đổi mới căn bản chính sách sử dụng cán bộ theo hướng coi trọng phẩm chất
và năng lực thực tế. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý, chú trọng
quản lý chất lượng giáo dục. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm định chất lượng và giám sát các hoạt động giáo
dục. Tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường đi đôi với việc hoàn thiện cơ chế công khai, minh
bạch, bảo đảm sự giám sát của các cơ quan nhà nước, đoàn thể và xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin, truyền thông trong quản lý giáo dục ở các cấp.
Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp và nội dung đào tạo của các trường và khoa sư phạm. Xây dựng một số trường sư
phạm thực sự trở thành trường trọng điểm đủ sức làm đầu tàu cho cả hệ thống các cơ sở đào tạo giáo viên. Tăng
đầu tư cơ sở vật chất nâng cấp các trường, các khoa sư phạm. Không ngừng nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ số
lượng giáo viên cho cả hệ thống giáo dục. Chuẩn hoá trong đào tạo, tuyển chọn, sử dụng nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục các cấp. Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về vật chất và tinh
thần để thu hút những người giỏi làm công tác giáo dục.
Tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục Rà soát lại toàn bộ
chương trình và sách giáo khoa phổ thông, sớm khắc phục tình trạng quá tải, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành,
chưa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của người học; chuẩn bị kỹ việc xây dựng và triển khai thực hiện bộ
chương trình giáo dục phổ thông mới theo chương hiện đại, phù hợp và có hiệu quả. Đổi mới, hiện đại hoá chương
trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, chuyển mạnh mẽ từ đào tạo theo khả năng sang đào tạo theo nhu cầu
xã hội. Thực hiện tốt đào tạo theo chế độ tín chỉ trong hệ thống giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Tiếp tục
đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy phương pháp dạy học tích
cực, sáng tạo, hợp tác; giảm thời gian giảng lý thuyết tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, sinh viên;
gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và đời sống.
Tăng cường nguồn lực cho giáo dục Tăng đầu tư nhà nước cho giáo dục và đào tạo; ưu tiên các chương
trình mục tiêu quốc gia, khắc phục tình trạng bình quân, dàn trải.
Câu 4) Anh chị hãy trình bày những chính sách cụ thể mà Đảng và Nhà nước đang thực hiện nhằm hiện
thực hóa các quan điểm chỉ đạo về phát triển khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay? Liên hệ thực
tiễn ở nước ta hiện nay.
Tham khảo sách học trang 121 và bài 6 trang 177.
1. Khái niệm về KHCN – trang 178.
2. Bối cảnh mới tác động đến phát triển GD&ĐT KHCN – rang 180
3. Thực trạng phát triển GD&ĐT KHCN ở VN hiện nay – trang 188
4. ...
Bác Hồ có câu "Chúng ta phải học, phải cố gắng học nhiều. Không chịu khó học thì không tiến bộ được.
Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình không chịu học
thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình..."
Quan điểm chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ (KH&CN) là động lực của sự phát triển. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước
ta, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn xác định KH&CN có vai trò đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951) đã thông qua Chính cương của Đảng Lao động Việt
Nam với nội dung cơ bản: Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm
20
cho người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã
hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã xác định, ở miền Bắc, công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. Công nghiệp hoá là con đường tất yếu để phát triển nhanh nền kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân, thực
hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Công nghiệp hoá phải có kế hoạch, phải có giải pháp cụ thể và phải giải quyết những mối quan hệ, trong đó
có mối quan hệ cơ bản là giữa tích luỹ cho công nghiệp hoá và cải thiện đời sống. Chú trọng mối quan hệ giữa
công nghiệp và nông nghiệp, nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp, công nghiệp phát triển lại thúc đẩy
nông nghiệp, phải coi công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của nền kinh tế "Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có
hai chân là công nghiệp và nông nghiệp". Phát triển kinh tế "gắn liền với phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự
phát triển văn hóa của nhân dân". Nửa đầu thập niên sáu mươi công nghiệp hóa được đẩy mạnh trên miền Bắc theo
đường lối Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng. Do hoàn cảnh chiến tranh nên từ 1965 phải chuyển
hướng kinh tế. Tuy vậy, Đảng ta vẫn chủ trương tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh,
đương nhiên quy mô tốc độ công nghiệp hoá có sự điều chỉnh. Với đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa,
miền Bắc đã đầu tư xây dựng những khu trung tâm công nghiệp lớn và cũng hình thành phát triển những ngành
công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế như điện, than, cơ khí luyện kim, hoá chất, v.v... Đẩy mạnh cuộc cách mạng
khoa học, kỹ thuật, coi trọng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các ngành kinh tế, nhất là nông nghiệp (cơ giới
hóa, thủy lợi hóa, cách mạng về giống cây trồng và vật nuôi). Phát triển giáo dục, cả giáo dục phổ thông, đại học,
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đào tạo đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa, lớp người lao động mới có giác
ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần yêu nước và tác phong công nghiệp. Đó là một trong những thành quả cần ghi
nhận của cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình công nghiệp hóa ở miền Bắc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) đã đề ra đường lối chung của cách mạng Việt Nam
trên phạm vi cả nước: (1) "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội." (2) về đường lối xây dựng kỉnh tế,
Đại hội xác định: Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội... làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn
hóa và khoa học - kỹ thuật tiên tiến.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đã nhấn mạnh:
"Một đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước
phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất". Trong tình
hình ấy, nước ta cần thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo ra động lực để giải phóng năng lực sản xuất,
thúc đẩy tiến bộ khoa học và kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng hóa với năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương lĩnh, trong đó có đoạn: "Nước
ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Cuộc cách mạng
KH&CN hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở những mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật
chất và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển, lịch sử và
cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách
thức gay gắt, nhất là đối với những nước lạc hậu về kinh tế".
Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị (1991) về KH&CN đã nêu rõ những mặt yếu kém của KH&CN
ở nước ta, đề ra những nhiệm vụ quan trọng của KH&CN trong giai đoạn cách mạng mới, những biện pháp chủ
yếu để đẩy mạnh phát triển KH&CN, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cải tiến sự quản lý của Nhà
nước đối với KH&CN. Đảng ta cho rằng: Phát triển KH&CN là nhu cầu của nước ta nhằm đuổi kịp các nước trên
thế giới bằng thực lực kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã xác định đưa nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại... Tập trung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng cơ cấu công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ, tận dụng lợi thế của nước đi sau, tranh thủ công nghệ mới. Về công nghiệp, đi vào
xây dựng những khu công nghệ cao, coi trọng phát triển một số ngành công nghiệp nặng; lấy ứng dụng, chuyển
giao công nghệ là chính.
Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (1996) đã ra Nghị quyết về Định hướng chiến lược phát triển KH&CN
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, khẳng định vai trò động lực của KH&CN
đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... Nghị quyết còn đặt ra yêu cầu phải sớm có luật pháp
về KH&CN để thể chế hóa mọi mặt hoạt động KH&CN, phải nhanh chóng đổi mới cơ chế quản lý khoa học, phải
21
đầu tư thỏa đáng, bước đầu dành tối thiểu 2% chi ngân sách cho KH&CN. Năm 2000, Luật KH&CN được ban
hành.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng định, phát triển KH&CN vừa là nền
tảng, vừa là động lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội đã nhận định: "Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều
biến đổi, KH&CN sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển
lực lượng sản xuất". Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải nắm bắt, khai thác, sử dụng các
thành tựu KH&CN hiện đại và những yếu tố của nền kinh tế tri thức. Phát triển KH&CN phải hướng vào việc
nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, xây dựng năng lực cạnh tranh của hàng hóa, xây dựng năng lực
công nghệ quốc gia đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin học, sinh
học, vật liệu mới, tự động hóa)... Tăng đầu tư từ ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho KH&CN...
Hội nghị Trung ương 6 Khóa IX (7- 2002) đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 Khóa VIII
và xác định nhiệm vụ của KH&CN trong thời gian tới là: Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn; đổi
mới nâng cao trình độ công nghệ trong nền kinh tế quốc dân; xây dựng và phát triển có trọng điểm các ngành công
nghệ cao đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng tiếp tục khẳng định: "Phát triển mạnh và nâng cao
hiệu quả hoạt động KH&CN... Kết hợp chặt chẽ hoạt động KH&CN với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy
vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức...
Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và
hiệu quả trong từng ngành, từng lĩnh vực của nền kinh tế... Cùng với việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động khoa học
- công nghệ, Nhà nước tập trung đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc gia, phấn đấu đạt trình độ khu vực
và thế giới; xây dựng tiềm lực KH&CN cho một số lĩnh vực trọng điểm, công nghệ cao... Thực hiện chính sách
trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và
công nhân kỹ thuật có tay nghề cao...".
Hội nghị Trung ương 9 Khóa X (2009) đã ra Nghị quyết 31-NQ/TW "Về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn
nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng", về KH&CN, Nghị quyết ghi: "Tiếp tục
đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý và chính sách phát triển KH&CN; nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KH&CN quốc gia và các ngành, các sản phẩm quan trọng. Phát triểrr
thị trường KH&CN. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh,
giáo dục và đào tạo. Có chính sách, chế độ đãi ngộ và điều kiện làm việc tốt hơn cho cán bộ nghiên cứu khoa học,
nhất là cán bộ đầu ngành, có trình độ cao".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã khẳng định: “Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến
bộ khoa học, công nghệ được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý khoa học, công
nghệ có đổi mới, thực hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ. Thị trường khoa học,
công nghệ bước đầu hình thành. Đầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng lên”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã
vạch rõ những định hướng lớn về phát triển KH&CN trong thời kỳ mới với những quan điểm cơ bản dưới đây:
“KH&CN giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển KH&CN
nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên
tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực KH&CN gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí. Tăng
nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực KH&CN của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu
KH&CN hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài
và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ”.
Hội nghị Trung ương 6 khóa XI đã ra Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 về phát triển KH&CN
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế đã chỉ rõ: Phát triển và ứng dụng KH&CN là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực
quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư
trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước và
tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ KH&CN đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển
KH&CN. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng
chiến lược, kế hoạch phát triển KH&CN; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ
của các tổ chức KH&CN phù hợp với kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu tư cho nhân lực
KH&CN là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước
có chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ cán bộ KH&CN. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực
quốc gia cho phát triển KH&CN. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công
nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của
22
đổi mới, trong ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường KH&CN. Quan
tâm đúng mức đến nghiên cứu cơ bản, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giới phù hợp với điều kiện
Việt Nam. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức KH&CN tiên tiến của thế giới, thu hút nguồn
lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án KH&CN của
Việt Nam. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh sau khi được đào
tạo ở nước ngoài về nước làm việc.
Trên đây là những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về KH&CN trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Ngành KH&CN, chính quyền các cấp đã xây dựng và triển khai chương trình hành động thực
hiện các Nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực KH&CN. Đội ngũ các nhà khoa học và toàn xã hội với quyết tâm
chính trị cao, kết hợp chặt chẽ hoạt động KH&CN với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách
hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức vì mục tiêu
cao cả: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Câu 5) Vai trò của chính sách xã hội đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay? Trong các chính sách xã
hội cần thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách hiện nay, theo anh chị chính sách nào là chìa
khóa then chốt? Vì sao?
Xem sách học bài 5 trang 133 (
1. Khái niệm xã hội và những vấn đề xã hội – trang 133.
2. Khái niệm về chính sách xã hội – trang 136.
3. Vai trò của chính sách xã hội với vấn đề xã hội – trang 138.
Bác Hồ nói "Chữ "người", nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước.
Rộng nữa là cả loài người. Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên
quyết đánh đổ, đối với những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ nhau"
Đổi mới nhận thức về vai trò của chính sách xã hội trong sự nghiệp xây dựng và phát triển hiện nay
Chính sách xã hội là chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội của đời sống con người, bao hàm cả việc
giải quyết các khía cạnh xã hội trong quá trình sản xuất, trong hoạt động sản xuất-kinh doanh, trong lĩnh vực kinh
tế. Đầu tư cho xã hội thông qua các chính sách xã hội là đầu tư cho sự phát triển, trước hết là phát triển kinh tế, và
cùng với phát triển kinh tế là phát triển xã hội để phát triển con người. Từ nhận thức đó càng thấy rõ chính sách xã
hội có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động tổ chức, điều hành và quản lý xã hội, trong việc
giải quyết các vấn đề bức bách hiện nay. Hiệu quả của việc giải quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội không
những góp phần tích cực tạo nên sự ổn định, phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội mà nó còn thúc đẩy sự
phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, lâu dài. Như vậy, ở bất kỳ thời đại nào, chế độ chính trị
nào, chính sách xã hội cũng đóng vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Mặt khác, không giải quyết
đúng mức cần thiết các vấn đề xã hội và chính sách xã hội thì bản thân con người và xã hội không thể có động lực
để tự phát triển, cũng không có những tiền đề vật chất để thực hiện hoạt động kinh tế.
Chính sách xã hội chỉ trở thành động lực của sự phát triển xã hội nếu đó là những chính sách đúng đắn, thể
hiện được nguyên tắc công bằng, dân chủ và nhân đạo. Những nguyên tắc đó cho chúng ta thấy trung tâm chú ý
của xã hội và đối tượng phục vụ của các chính sách đó là người lao động. Chính sách xã hội giữ vai trò điều hòa
các mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ của mỗi cá nhân, tập
thể, cộng đồng, tầng lớp và giai cấp trong xã hội. Chính sách xã hội còn điều hòa các quan hệ giữa người với
người, giữa cá nhân và tập thể, cộng đồng và các giai cấp khác nhau,...
Trong những năm qua, các chính sách an sinh xã hội được tỉnh tổ chức triển khai thực hiện toàn diện, bám
sát các quan điểm tư tưởng nghị quyết Đại hội X, XI của Đảng và Nghị quyết Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh. Các
chỉ tiêu cơ bản về giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, dạy nghề hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Các chính sách ưu đãi đối với người có công, đối tượng xã hội cơ bản đạt được mục tiêu đề ra, góp phần thúc đẩy
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân trong tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế như: Thông tin về thị trường lao động việc làm còn rất hạn chế; chất lượng lao động và năng suất lao động thấp nên khả năng tiếp cận thị trường và cạnh
tranh của lao động còn yếu. Chất lượng đào tạo nghề chưa có bước đột phá để thu hút được sự quan tâm của xã
hội; số lượng các cơ sở dạy nghề còn ít, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề còn thiếu, cơ cấu ngành nghề đào
tạo còn nhiều bất cập, chủ yếu là đào tạo nghề trình độ sơ cấp và đào tạo nghề thường xuyên, còn trình độ trung
cấp nghề chiếm tỷ lệ rất thấp (chưa tới 2%), cao đẳng nghề hoàn toàn không có ngành nghề đào tạo.
Mức trợ cấp ưu đãi xã hội còn thấp, đời sống của một bộ phận người có công, người nghèo, đồng bào dân
tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn thấp, độ bao phủ
23
BHYT trên địa bàn toàn tỉnh chưa đạt so với yêu cầu; số lao động thực tế tham gia BHXH chỉ chiếm tỷ lệ chưa
cao. Tình trạng trẻ em bị ngược đãi, bạo hành, bị lạm dụng tình dục, trẻ em vi phạm pháp luật, bị tai nạn thương
tích, trẻ lao động sớm vẫn còn và có diễn biến phức tạp,....
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên là do công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập. Việc tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật chưa nghiêm, hiệu quả thấp. Công tác thanh tra, kiểm tra ở nhiều nơi chưa
được coi trọng. Chế độ thông tin, báo cáo chưa nghiêm, chưa bảo đảm cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp
thời cho công tác chỉ đạo, điều hành và yêu cầu sửa đổi, bổ sung chính sách. Công tác tuyên truyền, hướng dẫn,
phổ biến pháp luật, chính sách tại các địa phương, cơ sở còn yếu, chưa thường xuyên nên nhiều chính sách hỗ trợ
chưa kịp thời đến với người dân. Nguồn lực thực hiện các chính sách xã hội còn hạn chế, vì cùng lúc phải đầu tư
giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc và chưa động viên, thu hút nhiều sự tham gia của xã hội. Việc phối hợp
lồng ghép các hoạt động giữa các ngành, đoàn thể, các địa phương với các chương trình mục tiêu quốc gia trong
kế hoạch hoạt động hàng năm chưa tốt.
Để khắc phục tình trạng trên và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng thực hiện chính sách xã hội trong thời
kỳ đổi mới, Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động số 28-CTr/TU ngày 14/01/2013 nhằm hướng đến mục
tiêu: Thực hiện tốt chính sách đối với người có công, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho người có công. Đảm bảo an sinh xã hội, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn,
bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân. Trong đó, chú trọng thực hiện các giải pháp chủ đạo:
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của các cấp ủy Đảng, chính quyền, phát huy sức mạnh của cả
hệ thống chính trị. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của
cán bộ, đảng viên, sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội trên địa bàn tỉnh trong chỉ đạo
thực hiện.
- Phát triển hệ thống tổ chức mạng lưới thực hiện công tác xã hội, đầu tư cơ sở vật chất và nguồn lực cho
việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
- Tăng cường và phát triển nguồn nhân lực làm công tác xã hội; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xã hội, nhất là đạo đức, tinh thần tận tụy với công
việc.
- Quan tâm bố trí ngân sách hợp lý, đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa công tác xã hội, tập trung huy động mọi
nguồn lực trong xã hội để thực hiện tốt các chính sách về việc làm, giảm nghèo; các chính sách đối với người có
công, đối tượng xã hội. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc quản lý, sử dụng các nguồn lực kết hợp với việc
vận động các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, cá nhân, tổ chức nước ngoài và động viên mỗi người dân
cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội.
- Nâng cao chất lượng các hoạt động xã hội, nhất là việc xây dựng, nhân rộng các mô hình hiệu quả như: mô
hình giảm nghèo; mô hình chăm sóc, bảo vệ trẻ em; mô hình phòng tránh và cứu trợ phù hợp để kịp thời ứng phó
và hạn chế tác động xấu của thiên tai.
- Nâng cao năng lực thực thi chính sách của cấp cơ sở. Kiểm soát thủ tục hành chính trong thực hiện chính
sách xã hội nhằm đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả và minh bạch trong giải quyết các thủ tục hành chính, giảm phiền
hà và loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo đối với các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến người dân.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Hoàn thiện các quy định về việc quản lý và sử dụng các khoản
đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân, đảm bảo minh bạch, hiệu quả.
Quan điểm, chủ trương của Đảng ta về an sinh xã hội
An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các lực lượng xã hội thực hiện
nhằm bảo đảm cho mọi người dân ít nhất có được mức tối thiểu về thu nhập, có cơ hội tiếp cận ở mức tối thiểu về
các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin,... thông qua việc nâng cao
năng lực tự an sinh của người dân và sự trợ giúp của Nhà nước. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn
diện, từng bước mở rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư
trong một thế hệ và giữa các thế hệ đang là đích đến của các quốc gia trên thế giới. Theo đó, chính sách an sinh xã
hội cần tập trung vào 4 nội dung chính như sau:
Một là, tăng cường cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho người lao
động yếu thế thông qua hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình phát triển sản xuất, hỗ trợ tín dụng, giải quyết việc làm và
kết nối thông tin thị trường lao động.
Hai là, mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp để chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già.
Ba là, hỗ trợ thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro
không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát (mất mùa, thiên tai, động đất, chiến tranh, đói nghèo,...)
thông qua các khoản tiền mặt và hiện vật do ngân sách nhà nước bảo đảm.
Bốn là, tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, nhà ở,
nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin.
24
Ở Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng và Nhà nước ta đặt quyết tâm
phát triển hệ thống an sinh xã hội bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, phù hợp
với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tiếp cận dần với chuẩn mức quốc tế. Từ nhiều năm qua, đặc
biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới (năm 1986) đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ
chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội,
phát triển bền vững. An sinh xã hội được xác định là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, nằm trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo đảm an sinh xã hội là điều kiện để bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Tiếp tục phát
triển quan điểm, chủ trương đó của Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (năm 1991 và bổ sung, phát triển năm 2011) và nghị quyết của các kỳ đại hội, đặc biệt Nghị Quyết số 15NQ/TW, ngày 1-6-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về “Một số vấn đề về chính sách xã hội
giai đoạn 2012 - 2020” đã đặt ra yêu cầu: Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và
thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời
kỳ...; đồng thời thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn
cảnh khó khăn; coi bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân
với các yêu cầu: bảo đảm người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội; bảo đảm hỗ trợ
những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu nhập thấp, người
khuyết tật nặng, người nghèo,…); bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu
(y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn,
bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.
Một số thành tựu quan trọng và những thách thức mới về an sinh xã hội hiện nay
Trong gần 30 năm qua, cùng với những thành tựu đổi mới kinh tế, phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn, đầu tư
nguồn lực và đổi mới cơ chế, chính sách để thực hiện an sinh xã hội, chăm lo cải thiện không ngừng cuộc sống của
người dân. Cụ thể:
Thứ nhất, bảo đảm an sinh xã hội gắn với tiến bộ và phát triển xã hội, với thành tựu phát triển kinh tế trong
bối cảnh kinh tế thị trường.
Trong thời gian qua, mặc dù có nhiều biến động về kinh tế trong nước và quốc tế, nguồn lực của đất nước
còn hạn hẹp, nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn coi trọng công tác bảo đảm an sinh xã hội, đặt nhiệm vụ phát
triển dân sinh trong mối tương quan hài hòa và gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế, giữa đầu tư phát triển kinh
tế với đầu tư bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Quan tâm đầu tư cho vùng núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, xã bãi ngang ven biển, hải đảo, theo đó nhiều chính
sách về an sinh xã hội được ban hành.
Các chương trình xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam ở tầm quốc gia đã thu được những kết quả rất tốt đẹp,
đã được dư luận quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, nhất là xóa đói, giảm nghèo cho nông dân ở miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Về việc giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho các
cộng đồng dân cư, Việt Nam là một trong những quốc gia đã hoàn thành sớm các mục tiêu phát triển Thiên niên
kỷ, nhận được những đánh giá tích cực của cộng đồng quốc tế. Dù còn có những hạn chế và bất cập so với yêu cầu
phát triển nhanh và bền vững nhưng kết quả, thành tích mà Việt Nam đạt được về phát triển giáo dục, chăm lo sức
khỏe cộng đồng, thực hiện bảo hiểm y tế cho người dân, khám, chữa bệnh cho người nghèo, chăm sóc các bà mẹ
và trẻ em, cũng như những nỗ lực giải quyết việc làm, cải thiện mức sống và điều kiện sống cho dân cư, cứu trợ xã
hội và thực hiện phúc lợi xã hội, quan tâm tới các đối tượng yếu thế... là những minh chứng về những tiến bộ đáng
kể thực hiện an sinh xã hội.
Thứ hai, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện để bảo đảm quyền an sinh xã hội cho mọi người dân.
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định quyền an sinh xã hội cơ bản cho người dân (Điều 34: “Công dân có
quyền được bảo đảm an sinh xã hội”; Điều 59: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi
xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội”). Bộ Luật Lao động sửa đổi (năm 2012) tiếp tục phát triển thị trường lao
động, tăng cường điều kiện hoạt động của các đối tác tham gia thị trường lao động (Nhà nước, doanh nghiệp, các
tổ chức môi giới trung gian và người lao động); tăng cường hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao động yếu thế
trên thị trường thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm. Luật Việc làm (ban hành lần đầu, năm 2013) lần đầu
tiên Việt Nam có Bộ Luật hướng đến khu vực kinh tế phi chính thức; tiếp tục mở rộng cơ hội cho người lao động
tham gia bảo hiểm thất nghiệp (mọi lao động làm việc trong các doanh nghiệp có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở
lên đều bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp). Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi (năm 2013) chuyển từ bao phủ toàn
dân sang bảo hiểm y tế bắt buộc đối với toàn bộ dân cư; mở rộng sự tham gia của người dân vào bảo hiểm y tế
(hoàn thiện chế độ đóng, chế độ hưởng và điều kiện hưởng bảo hiểm y tế); mở rộng đối tượng được Nhà nước bảo
hộ một phần và toàn phần để tham gia bảo hiểm y tế. Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi (năm 2014) mở rộng diện tham
25