Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tiểu luận kỹ năng lãnh đạo, lãnh đạo thách thức phát triển của đoàn thanh niên huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.5 KB, 15 trang )

1
PHẦN I. LỜI MỞ ĐẦU
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên
Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện. Được xây dựng và trưởng thành qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng của dân tộc,
chính vì lẽ đó mà tổ chức Đoàn luôn giữ vai trò quan trọng đối với thanh niên Việt Nam trong
suốt chiều dài lịch sử. Trong thời chiến, Đoàn lãnh đạo thanh niên Việt Nam bản lĩnh, kiên
cường đấu tranh giành lấy độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Trong thời bình, Đoàn định
hướng thanh niên phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nêu cao tinh thần xung phong,
tình nguyện, xung kích, đi đầu trong công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước, bảo vệ độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, thế hệ thanh niên Việt Nam vốn
được kế thừa những tinh hoa truyền thống của dân tộc và thành quả của cách mạng, nay lại có
thêm cơ hội tiếp cận tri thức mới nên có mặt mạnh cơ bản là trình độ học vấn cao hơn trước,
nhạy cảm với thời cuộc. Do vậy mà Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tiếp tục được kỳ
vọng để lãnh đạo, dẫn dắt thanh niên Việt Nam gánh vác trọng trách đưa đất nước tiến lên
những tầm cao mới. Thực tiễn cho thấy tổ chức Đoàn các cấp đã không ngừng phát huy tinh
thần xung kích, tình nguyện của đoàn viên, thanh niên trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, qua đó mà tiếp tục khẳng
định vai trò, vị thế của mình, xứng đáng đội dự bị tin cậy của Đảng.
Tuy nhiên cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, hoạt động của Đoàn Thanh niên trong
thời gian qua vẫn còn không ít những hạn chế. Tổ chức Đoàn chưa giúp phát huy hết tiềm
năng, sức sáng tạo của thanh niên; công tác giáo dục của Đoàn tuy rộng nhưng chưa sâu; việc
đoàn kết, tập hợp thanh niên ở một số địa phương, trên một số lĩnh vực còn rất nhiều hạn chế;
công tác thanh niên nhiều nơi chưa thực sự mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó, một bộ phận
thanh thiếu niên có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình
đất nước, ý thức chấp hành pháp luật kém, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa của
dân tộc…
Là một người cán bộ Đoàn, qua thực tiễn công tác của mình, tôi nhận thức sâu sắc
những thách thức mà tổ chức Đoàn các cấp đang gặp phải trong quá trình thực hiện sứ mạng
của mình và luôn trăn trở với điều đó. Thông qua việc học tập, nghiên cứu nội dung môn kỹ


năng lãnh đạo khu vực công, tôi lựa chọn đề tài “Lãnh đạo thách thức phát triển của Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện An Minh trong thời kỳ hội nhập” để làm tiểu luận
môn học, đồng thời cũng là để đóng góp cho sự phát triển của tổ chức và bổ sung thêm những
kiến thức, kỹ năng cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của bản thân trong thời gian sắp tới.


2
PHẦN II. SƠ LƯỢC VỀ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
HUYỆN AN MINH
1. Sơ đồ tổ chức
Bí thư huyện đoàn
P.Bí thư huyện đoàn Chủ tịch Hội đồng đội huyện

UVTV huyện
đoàn phụ trách
tổ chức

UVTV huyện đoàn Phó Chủ tịch Hội
đồng đội huyện

11 xã, thị đoàn

78 chi đoàn ấp,
khu phố

8 chi đoàn ngành

13 chi đoàn ngành và
42 chi đoàn trường


P.Bí thư huyện đoàn - Chủ
tịch Hội LHTN huyện

UVTV huyện
đoàn - Phụ trách
phong trào

2 ĐCS ngành

12 chi đoàn ngành
trực thuộc

UVTV huyện đoàn
- Phó Chủ tịch Hội
LHTN huyện

3 Đoàn trường THPT

36 chi đoàn lớp
trực thuộc

2. Cơ cấu tổ chức
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh huyện An Minh (sau đây gọi tắt là Đoàn
thanh niên huyện, viết tắt là ĐTN huyện) được tổ chức thành 2 cấp:
- Cấp huyện: Gồm cơ quan chuyên trách là huyện đoàn, với 7 biên chế chính thức.
- Cấp cơ sở: Gồm Đoàn cơ sở (ĐCS) và chi đoàn cơ sở (CĐCS), với 11 xã, thị đoàn, 3
Đoàn trường Trung học phổ thông (THPT), 2 Đoàn cơ sở ngành và 8 chi đoàn ngành trực
thuộc huyện.
Đoàn cơ sở và chi đoàn cơ sở, là nền tảng của Đoàn, được thành lập theo địa bàn dân
cư, theo ngành nghề, theo đơn vị học tập, công tác, lao động, nơi cư trú và đơn vị cơ sở trong

lực lượng vũ trang nhân dân theo hướng dẫn của Ban Thường vụ (BTV) Trung ương Đoàn.
Chi đoàn là tổ chức tế bào của Đoàn, là hạt nhân nòng cốt đoàn kết, tập hợp thanh
thiếu nhi. Toàn huyện có 181 chi đoàn trực thuộc với 3.457 đoàn viên đại diện cho hơn 21.000
thanh niên.
3. Nguyên tắc tổ chức
ĐTN huyện lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, được thể
hiện như sau:
- Cơ quan lãnh đạo cao cấp của ĐTN huyện do bầu cử lập ra, thực hiện nguyên tắc tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.


3
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của ĐTN huyện là Đại hội đại biểu Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh huyện An Minh. Giữa hai kỳ Đại hội, cơ quan lãnh đạo là Ban chấp
hành (BCH) huyện Đoàn do Đại hội Đoàn cấp huyện bầu ra. Giữa hai kỳ họp BCH, cơ quan
lãnh đạo là BTV huyện Đoàn do BCH huyện Đoàn bầu ra.
- BCH huyện Đoàn các cấp có trách nhiệm báo cáo về hoạt động của mình với Đại hội
hoặc hội nghị đại biểu cấp huyện, với BCH Đoàn tỉnh Đoàn Kiên Giang, với huyện ủy An
Minh và thông báo cho BCH Đoàn cấp cơ sở trực thuộc huyện.
- Nghị quyết của ĐTN huyện phải được chấp hành nghiêm chỉnh, cấp dưới phục tùng
cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức.
- Trước khi quyết định các công việc và biểu quyết của Đoàn, các thành viên đều được
cung cấp thông tin và phát biểu ý kiến của mình, ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu
các báo cáo lên Đoàn cấp trên cho đến kỳ Đại hội đại biểu cấp trên, song phải nghiêm chỉnh
chấp hành nghị quyết hiện hành.
4. Sứ mạng
Sứ mạng lịch sử của Đoàn thanh niên huyện trong giai đoạn hiện nay là đoàn kết tập
hợp thanh niên, xây dựng lớp thanh niên sống có ước mơ, hoài bão, cống hiến xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam trên con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

5. Tầm nhìn
ĐTN huyện An Minh xây dựng một tổ chức vững mạnh và rộng lớn với tổng số đoàn
viên chiếm trên 65% thanh niên có mặt tại địa phương, trở thành một trong những đơn vị dẫn
đầu công tác Đoàn và phong trào TTN tỉnh Kiên Giang; từng cán bộ Đoàn là người bạn thân
thiết, người đồng hành tin cậy nhất của thanh niên huyện nhà trong mọi lĩnh vực đời sống xã
hội.
6. Giá trị cốt lõi
6.1. Trung thành
Kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, trung thành
với Đảng Cộng sản Việt Nam và với nhân dân Việt Nam.
6.2. Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
Xung kích, tình nguyện tham gia vào các hoạt động an sinh xã hội, vì cuộc sống cộng
đồng, xuất phát từ tình yêu thương với quê hương, với tổ quốc, với đồng bào mà không màng
đến lợi ích cá nhân, đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
6.3. Tiên phong, gương mẫu
Tổ chức Đoàn ở bất kỳ cấp nào cũng cần phát huy vai trò tiên phong gương mẫu trên
mọi lĩnh vực, mạnh dạn đảm đương những nhiệm vụ khó khăn cần đến sức trẻ, nhiệt huyết,


4
năng lượng của thanh niên. Từng cán bộ Đoàn phải là người tiên phong về chính trị tư tưởng,
gương mẫu trong đạo đức, lối sống, có trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ chức
trách được giao.
6.4. Bản lĩnh
Từng cá nhân và tổ chức của họ phải dám nghĩ, dám nói, dám làm và dám chịu trách
nhiệm; có tính độc lập cao, không ỷ lại không dựa dẫm vào người khác; không cầu an, không
ngại khó, không chùn bước trước những trở lực; có chí lớn, dám chấp nhận mạo hiểm để đạt
tới mục tiêu đã chọn.
6.5. Đoàn kết
Mở rộng tập hợp, đoàn kết các đối tượng thanh niên khác nhau, hỗ trợ và định hướng

thanh niên tham gia tổ chức Đoàn, Hội để rèn luyện, khởi nghiệp, lập nghiệp; đoàn kết trong
nội bộ BCH Đoàn các cấp trong thực hiện nhiệm vụ và xây dựng, phát triển tổ chức; đoàn kết
giữa tổ chức Đoàn các cấp từ huyện đến cơ sở để tạo sự thống nhất trong lề lối làm việc, quan
điểm chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ; đoàn kết giữa tổ chức đoàn với các tổ chức, cá nhân, ban
ngành, đoàn thể khác trong phối hợp thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của huyện.
6.6. Năng động, sáng tạo
Năng động thích ứng trước những thay đổi, chủ động tiếp cận tri thức mới, công nghệ
mới; không ngừng sáng tạo để tạo ra những giá trị mới phù hợp với thực tiễn và xu thế chung
của đất nước và thế giới.
7. Chức năng, nhiệm vụ
- Đại diện, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi
(TTN) trên địa bàn huyện.
- Tổ chức hoạt động tạo môi trường giáo dục, rèn luyện đoàn viên, TTN nhằm góp
phần thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh của địa
phương, đơn vị.
- Phối hợp với chính quyền, các đoàn thể, các tổ chức KT- XH làm tốt công tác thanh
niên, tích cực chăm lo xây dựng Đoàn, xây dựng các hội của thanh niên và Đội TNTP Hồ Chí
Minh, tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và chính quyền.
8. Quyền hạn của ĐTN 2 cấp huyện An Minh
- Kết nạp đoàn viên mới, quản lý đoàn viên, tiếp nhận, chuyển sinh hoạt Đoàn; giới
thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng bồi dưỡng, kết nạp; giới thiệu cán bộ, đoàn viên vào quy
hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và tổ chức kinh tế, xã hội.


5
- Tổ chức các hoạt động, các phong trào, nhằm đoàn kết, tập hợp thanh niên, đáp ứng
nhu cầu, lợi ích chính đáng, hợp pháp của tuổi trẻ; liên kết, phối hợp với các ngành, các đoàn
thể, các tổ chức kinh tế - xã hội tạo sức mạnh đồng bộ trong công tác thanh niên.
- Tổ chức các hoạt động tạo thêm việc làm và thu nhập cho cán bộ đoàn viên, thanh

niên, tạo nguồn kinh phí cho hoạt động của Đoàn; được sử dụng con dấu hợp pháp.
PHẦN III. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm thách thức phát triển
Thách thức phát triển là một quá trình tích cực, được hướng dẫn và có mục đích, trong
đó nhà lãnh đạo cố nhận diện sớm một thách thức mới, và can thiệp trước khi nó trở thành
một mối đe dọa hoặc một cơn khủng hoảng, nhằm giữ cho tổ chức tiếp tục tồn tại với sứ mạng
của nó.
1.2. Nhận diện thách thức phát triển
Thách thức phát triển diễn ra trong bối cảnh “hoạt động thường lệ” không còn tạo ra
được mức độ hài lòng, việc thực hiện, và năng suất cần thiết để tiến bộ. Tổ chức đối mặt với
một đe dọa từ từ, mà những khả năng hiện có không thể làm lắng dịu, do đó cần phát triển
những khả năng mới để tồn tại và lớn mạnh.
1.3. Nguyên tắc lãnh đạo đích thực một thách thức phát triển
Những áp lực kinh tế, xã hội và văn hóa có thể làm ngắt quãng tình trạng cân bằng
trong cộng đồng, quốc gia, và trong các tổ chức. Khi ấy, các nhà lãnh đạo có trách nhiệm phải
đóng vai trò một áp lực khuấy động để kích hoạt một quá trình phát triển vốn gia tăng sức
khỏe cho tổ chức và việc thực hiện của các cá nhân trong tổ chức đó. Khi trạng thái cân bằng
của hệ thống bị đứt quãng bởi một áp lực khuấy động, một cơ hội thích ứng mới sẽ nảy sinh.
Vấn đề là tổ chức cần phải tiên liệu được thách thức, tận dụng những thời cơ đặc biệt để tích
lũy những nguồn lực cần thiết giúp tổ chức tiếp tục tồn tại và phát triển lớn mạnh.
Thách thức phát triển cần sự tập trung hoàn toàn từ tập thể lãnh đạo để trợ giúp và
định hướng quá trình. Đó là một hoạt động không ổn định, vì nó đòi hỏi một sự sẵn lòng đối
với thử nghiệm và va chạm và ưu tư đáng kể khi mọi người dốc sức xây dựng những khả năng
mới cho phép họ đối mặt với những nguy cơ với óc thực tế, xem xét những thực tế mới, và tận
dụng những thời cơ nảy sinh.
Lãnh đạo đích thực một thách thức phát triển là việc thực hiện những nhiệm vụ sau:
Tạo ra môi trường che chở lành mạnh để duy trì sự tập trung của mọi người; phát triển theo
từng giai đoạn, cho mọi người thời gian tìm ra điều gì có tác dụng; tìm sự kết hợp đúng đắn
của những lực đòn bẩy để phát triển những giá trị và khả năng mới và cho phép mọi người có

một phần hùn vốn trong sự phát triển những khả năng của họ.


6
1.3.1. Tạo ra môi trường che chở lành mạnh để duy trì sự tập trung của mọi người
Lãnh đạo đích thực một thách thức phát triển không bao giờ là điều dễ dàng. Trong bất
kỳ nhóm nào đang tìm cách phát triển, không tránh khỏi có lúc mọi người thấy do dự, xao
nhãng, hoặc ra mặt chống đối. Vì vậy, để ngăn chặn sự hỗn loạn của quá trình và tạo ra không
khí và điều kiện cho sự phát triển khơi mở, nhiệm vụ của lãnh đạo là tạo ra một môi trường
che chở lành mạnh, nhằm giúp “che chở” mọi người vượt qua công việc khó khăn và mất
phương hướng là phát triển những khả năng mới thích ứng với những điều kiện mới. Môi
trường che chở yếu ớt hoặc thiếu vắng sẽ ngăn trở quá trình phát triển vì mọi người quá hoang
mang để học tập và thử nghiệm những cách thực hành và những hoạt động mới.
Tùy thuộc vào bối cảnh và tính chất đặc thù của thách thức phát triển, những thành
phần của môi trường che chở có thể thay đổi. Một môi trường che chở có thể bao gồm sự sử
dụng quyền hạn một cách rộng lượng nhưng kiên quyết nhằm định rõ những ranh giới giữa
những gì có thể làm và không thể làm. Nó cũng có thể bao gồm một tập hợp những giá trị
không thể thỏa hiệp hoặc những nguyên tắc hướng dẫn. Hay có thể là việc sử dụng những
biểu tượng, câu chuyện nhằm định hướng mọi người thực hiện công việc thích ứng và nhắc
nhở họ về mục đích cao hơn. Tạo ra môi trường che chở lành mạnh là làm cho mọi người đối
mặt với thực tế và gánh vác công việc thích ứng của một thách thức phát triển, ngay cả khi họ
có miễn cưỡng, hoang mang hoặc kháng cự.
1.3.2. Phát triển theo từng giai đoạn: Cho mọi người thời gian để tìm ra điều gì có tác
dụng
Con người và tổ chức của họ thay đổi rất chậm chạp, luôn cần phải thử nghiệm và
khám phá, thông thường qua phương pháp thử và sai để tìm ra cái gì có tác dụng trong thực
tế. Họ cần thời gian để thích ứng với những thực tế mới và điều chỉnh theo những quá trình
mới. Nhiệm vụ lãnh đạo lúc này là trở thành một áp lực khuấy động để hướng mọi người vào
công việc phát triển: kích thích họ bằng cách nhắc nhở họ về mối đe dọa nếu họ không phát
triển, và khơi gợi một khao khát phát triển bằng cách nối kết tầm nhìn hoặc mục đích phát

triển với những mong ước của mọi người về một tổ chức tốt hơn. Phát triển thường cũng là
một quá trình đầy rẫy những bấp bênh, thất bại, tính toán nhầm lẫn, và đôi khi là những bước
nhảy vọt của sự hiểu biết và tiến bộ. Và điều nhà lãnh đạo cần làm là phải cung cấp sự hỗ trợ
cần thiết để giúp mọi người chuyên tâm vào quá trình, nhất là khi nó trở nên khó khăn và gây
nản lòng.
1.3.3. Tìm sự kết hợp đúng đắn của những lực đòn bẩy để phát triển những giá trị và
khả năng mới
Để phát triển những khả năng mới phục vụ cần thiết cho sự phát triển, công việc lãnh
đạo là thay đổi những giá trị và niềm tin lỗi thời để một nhóm có thể vượt qua những rào cản,


7
tiến lên một mức hoạt động cao hơn, và tận dụng những cơ hội mới. Việc tìm kiếm một sự kết
hợp đúng đắn của những lực đòn bẩy trong tổ chức còn giúp kích thích và tăng tốc quá trình
phát triển sao cho giúp mọi người đối mặt với thực tế khó khăn của mình và điều chỉnh cách
nhìn phù hợp với một điều kiện thay đổi.
1.3.4. Cho phép mọi người có một phần hùn vốn trong sự phát triển những khả năng
của họ
Có một thực tế là mọi người thường làm việc tích cực hơn để hoàn thiện những gì họ
hiểu là của họ. Vì vậy một nhà lãnh đạo cần không ngừng tìm kiếm sự cân bằng đúng đắn và
phân phối quyền lợi một cách hợp lý. Và cũng cần lưu ý rằng, trong một thách thức phát triển,
sự sáng suốt là cần thiết để giữ sự cân bằng thích đáng giữa nỗ lực và phần thưởng cho tất cả
mọi người.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Bối cảnh xã hội thời kỳ hội nhập
2.1.1. Thời cơ
Phải khẳng định rằng hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu thế tất yếu toàn cầu bởi
những lợi ích to lớn mà nó mang lại. Bất kỳ một quốc gia, một địa phương nào muốn phát
triển, muốn nâng cao đời sống của mỗi người dân đều phải nỗ lực hết mình nhằm đạt được
hiệu quả cao nhất của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam cũng không là ngoại lệ.

Trong những năm trở lại đây, hoạt động ngoại giao đa phương đã góp phần nâng cao vai trò
và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Nếu việc tham gia Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) mở đầu sự hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế quốc tế, thì khi trở thành thành viên Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã bắt đầu hội nhập đầy đủ vào đời sống chính trị quốc
tế. Với vị thế và trọng trách này, Việt Nam không chỉ vươn lên tầm cao trong quan hệ đối
ngoại, mà còn có tiếng nói quan trọng tại Liên hợp quốc – diễn đàn quốc tế đa phương lớn
nhất trên hành tinh. Thông qua đó, Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia giải quyết những
vấn đề chính trị – xã hội, an ninh quốc tế có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp, đồng thời đóng
góp tích cực hơn và nhiều hơn trong nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và phát triển trên thế
giới.
Trên lĩnh vực kinh tế, Việt Nam gia nhập các định chế, tổ chức kinh tế, tài chính khu
vực cũng như toàn cầu, tham gia nhanh và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế,
tận dụng mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển. Nền kinh tế toàn cầu hoá với các yếu tố
như nguồn vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại có sự lưu chuyển tự
do nhanh chóng mang đến cho chúng ta có cơ hội thuận lợi đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ
cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời gian vật chất của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.


8
Hội nhập quốc tế cũng thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn hoá và tri thức
quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Dưới ảnh
hưởng đó, tri thức loài người, kết tinh cô đọng ở các phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật,
công nghệ… được phổ biến rộng rãi toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân
loại.
Với thanh niên Việt Nam, quá trình hội nhập là điều kiện, môi trường thuận lợi để
thanh niên thể hiện tài năng, sức trẻ, cống hiến cho đất nước. Với đường lối đúng đắn của
Đảng đất nước tiếp tục ổn định, vị thế không ngừng tăng lên đã tạo cơ hội lớn cho thanh niên
học tập, tiếp cập văn minh nhân loại, nâng cao tri thức, nhất là những thành tựu khoa
học - công nghệ. Sự quan tâm của mỗi gia đình đối với lớp trẻ không ngừng tăng lên là cơ sở,

nguồn lực, điều kiện quan trọng để chăm lo tốt hơn cho thanh niên những năm tới đây.
2.1.2. Thách thức
Tình hình thế giới và trong nước đang có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Thanh
niên Việt Nam đối mặt với những thách thức lớn xuất phát từ những nguy cơ chung của đất
nước mà Đảng ta chỉ ra: kinh tế đất nước vẫn còn nhiều khó khăn; sự chuyển dịch về cơ cấu
kinh tế, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng, quá trình phát triển kinh tế thị trường sẽ
tạo ra những thách thức đối với thanh niên về trình độ học vấn chuyên môn, nghiệp vụ, tay
nghề, bản lĩnh và tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm, lối sống của thanh niên. Bên cạnh
đó, các thế lực bên ngoài luôn âm mưu xóa bỏ những thành quả của chế độ xã hội chủ nghĩa,
xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc đặt ra thách thức
lớn cho thanh niên. Mục tiêu của chúng là luôn nhằm vào thanh niên, coi đây là đối tượng dễ
lung lạc để dùng các thủ đoạn kinh tế, chính trị và văn hoá tác động làm biến chất, tạo mầm
mống chống đối chế độ; ra sức lôi kéo, tha hóa thanh niên, kích động thanh niên tham gia các
hoạt động gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị đất nước.
Song song đó, toàn cầu hóa là gia tăng nguy cơ thanh niên dễ dàng tiếp cận với những
sản phẩm độc hại phi văn hóa, thông qua nhiều con đường, nhất là qua internet, các phương
tiện truyền thông. Việc tiếp cận này tác động trực tiếp, liên tục và với cường độ cao đến lối
sống, nếp sống của thanh niên sẽ tạo ra nhiều sức ép, gây nhiều khó khăn, phức tạp cho việc
bảo vệ và phát huy văn hoá dân tộc trong giới trẻ. Kéo theo đó là sự gia tăng của các tệ nạn xã
hội như ma túy, mại dâm, tội phạm nguy hiểm, côn đồ, hung hãn, băng nhóm… đã, đang và sẽ
tác động xấu đến thanh niên.
Rõ ràng, hội nhập không chỉ đem đến cơ hội, thuận lợi và thời cơ mà còn đem đến
nhiều khó khăn và thách thức đối với thanh niên. Do vậy mà yêu cầu xây dựng lớp thanh niên
có đủ bản lĩnh, ý chí, trình độ để phát huy thuận lợi, tận dụng thời cơ, khắc phục khó khăn,
vượt qua thách thức, tự học, tự rèn luyện, có đủ tâm, đủ tầm để tham gia vào sự nghiệp công


9
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động tham gia vào nền kinh tế tri thức và quá trình hội
nhập quốc tế là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, mà trọng tâm là nâng cao vai

trò của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
2.2. Tình hình thanh niên trên địa bàn huyện An Minh hiện nay
An Minh là huyện nằm trong vùng U Minh Thượng của tỉnh Kiên Giang, phía đông giáp
với huyện U Minh Thượng, phía bắc giáp với huyện An Biên, phía nam giáp với huyện Thái
Bình của Tỉnh Cà Mau, phía tây là Biển Đông. Địa giới hành chính của huyện được chia thành
10 xã 01 thị trấn, có 78 ấp, với diện tích tự nhiên 59.050 ha và tổng dân số 120.193 người, trong
đó thanh niên là 21.175 người, chiếm tỷ lệ 17,62% (thống kê năm 2018), chủ yếu đang hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản.
Quá trình hội nhập cũng có những tác động không nhỏ đến tình hình thanh niên của
huyện An Minh, tạo ra những thuận lợi và khó khăn cơ bản:
2.2.1. Thuận lợi
Trong những năm qua tình hình tư tưởng thanh niên cơ bản ổn định, đại bộ phận thanh
niên tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; tích cực học tập, lao động và công tác góp phần vào
sự phát triển kinh tế - xã hội huyện nhà, ổn định tình hình an ninh chính trị; chấp hành tốt các
chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trình độ học vấn của
thanh niên được nâng lên, đáp ứng yêu cầu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào lao động, sản xuất;
xung kích tình nguyện tham gia các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ, góp phần xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; có ý thức tự lực, tự cường, lập thân lập nghiệp, tăng thu nhập ổn định
cuộc sống, đóng góp trí tuệ và sức trẻ vào sự phát triển chung của huyện.
Chủ trương xây dựng Nông thôn mới góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn trên địa bàn
huyện, việc giao thương, đi lại thuận lợi và dễ dàng hơn, các địa điểm vui chơi, giải trí, rèn
luyện thể dục thể thao cho thanh niên cũng từng bước phát triển hơn, đáp ứng cơ bản nhu cầu
sinh hoạt, học tập và rèn luyện cho thanh niên.
2.2.2. Khó khăn
So với các huyện còn lại trên địa bàn tỉnh, An Minh là huyện có thu nhập bình quân đầu
người thấp hơn mặt bằng chung, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn khá cao. Thu nhập bấp bênh vì
phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản - những ngành nghề
chịu tác động lớn của quy luật cung cầu được mùa mất giá và biến đổi khí hậu, đầu ra cho các
sản phẩm nông nghiệp hiện còn chưa ổn định.
Với địa hình có 6/11 xã, thị trấn giáp biển, nhiều thanh niên lựa chọn công việc đánh

bắt thủy hải sản xa bờ, cùng với một số không nhỏ thanh niên rời địa phương đi làm ăn xa, do
vậy trên tổng số hơn 21 nghìn thanh niên thì hiện tại số thanh niên có mặt trên địa bàn chỉ còn
8.314 người, chiếm chưa tới 40% trên tổng số thanh niên. Kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên


10
điều kiện để đáp ứng tốt các nhu cầu về việc làm, thu nhập, học tập, lập nghiệp của thanh niên
huyện còn nhiều mặt hạn chế.
Tuy phải thừa nhận rằng hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan và rất cần
thiết cho sự phát triển đất nước, thực tiễn những thành tựu mà chúng ta có được hiện nay đã
chứng minh điều này, song chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng xu hướng này cũng đã và
đang mang lại nhiều hệ lụy, tác động tiêu cực đặc biệt là đối với giới trẻ, và địa bàn An Minh
cũng không phải là ngoại lệ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, dưới
tác động của toàn cầu hóa những sản phẩm văn hóa đồi trụy, độc hại đang có nhiều thuận lợi
để lan truyền nhanh chóng và ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống, nhân cách của thanh niên, tạo
sức ép, gây nhiều khó khăn, phức tạp cho quá trình gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa dân tộc trong giới trẻ. Thêm vào đó, các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, băng nhóm…
đang có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp tác động xấu đến thanh niên địa phương.
Một thực tế đáng báo động là hiện nay có một bộ phận không nhỏ thanh niên có biểu
hiện phai nhạt lý tưởng, thiếu bản lĩnh chính trị, thờ ơ và ít quan tâm đến các vấn đề kinh tế,
chính trị của địa phương và đất nước. Họ sống thực dụng, ích kỷ, ngại rèn luyện phấn đấu,
thích hưởng thụ; chưa thấy được trách nhiệm của bản thân trong việc tham gia các hoạt động
có ích, dễ bị dao động về mặt tư tưởng trước những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội trong khu vực và quốc tế; trình độ học vấn thấp, năng lực chuyên môn yếu,
thiếu sự sáng tạo và thụ động trong việc đón nhận thời cơ, tiếp cận khoa học công nghệ. Hiện
tượng “yêu sớm” và quan hệ tình dục trước hôn nhân cùng lối sống buông thả ở một bộ phận
lớn thanh niên đang có chiều hướng gia tăng. Tình hình thanh niên tham gia tệ nạn xã hội, vi
phạm pháp luật có chiều hướng giảm về số vụ nhưng tăng về mức độ và có xu hướng ngày càng
trẻ hóa. Thống kê của huyện cho thấy trung bình mỗi năm số người phạm tội từ 18 - 30 tuổi
chiếm trên 50% tổng số người phạm tội, dưới 18 tuổi chiếm hơn 10%, đa số là phạm tội cờ bạc,

đá gà ăn thua bằng tiền, trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích… phần lớn là thanh niên địa bàn
nông thôn, nhiều trường hợp phạm tội lần đầu và chưa có tiền án, tiền sự. Tình trạng ma túy đá
len lỏi vào những ngõ ngách của các ấp, khu phố, với 9/11 xã, thị trấn có phát hiện thanh niên
dương tính với ma túy cũng gây ra nhiều lo lắng và hệ lụy cho xã hội.
2.3. Bối cảnh tổ chức
2.3.1. Ưu điểm
Trong những năm qua, dưới sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và hướng dẫn
của Đoàn cấp trên, sự tạo điều kiện của chính quyền các cấp, sự phối hợp của các ban ngành
đoàn thể tạo sự đồng thuận cao trong công tác Đoàn và phong trào TTN trong toàn huyện,
song song đó là sự chủ động, nỗ lực và quyết tâm cao của các cấp bộ Đoàn trong toàn huyện


11
nên hầu hết các chỉ tiêu nhiệm vụ đề ra trong năm đều đạt và vượt, Đoàn thanh niên huyện An
Minh nhiều năm liền được đánh giá là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Công tác tuyên truyền giáo dục từng bước đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền
theo hướng tiếp cận và phù hợp với lứa tuổi của ĐVTN; các đợt sinh hoạt chính trị giáo dục
truyền thống dân tộc, truyền thống của Đảng, của Đoàn, các sự kiện quan trọng của đất nước
và địa phương được tổ chức sâu rộng, đặc biệt là cuộc vận động “Tuổi trẻ An Minh học tập và
làm theo lời Bác” được đông đảo ĐVTN tích cực tiếp thu, học tập và vận dụng vào thực hiện
nhiệm vụ có hiệu quả. Công tác xây dựng và phát triển tổ chức Đoàn - Hội - Đội và Đoàn
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền được quan tâm, nâng lên về chất lượng. Việc sắp xếp
bố trí, quy hoạch cán bộ kịp thời, đúng quy định và từng bước chuẩn hóa, trẻ hóa đội ngũ cán
bộ Đoàn. Các phong trào xung kích, đồng hành trong ĐVTN được phát động mạnh mẽ, trong
đó nổi bật là phong trào đồng hành với TN trong lập thân, lập nghiệp, sáng tạo phát triển kinh
tế; phong trào tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng từng bước mang lại hiệu quả, tạo hiệu ứng
tốt trong xã hội.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm, thành tích đạt được, bản thân lãnh đạo tổ chức Đoàn 2 cấp
của huyện An Minh cũng nhận thức được tổ chức của mình vẫn còn nhiều mặt hạn chế:

- Công tác tuyên truyền, giáo dục phần nhiều mới chỉ tiếp cận được với nhóm ĐVTN
năng động, tích cực; kiến thức xã hội, kỹ năng tuyên truyền, khả năng tiếp cận TN của cán bộ
làm công tác Đoàn ĐBDC còn nhiều hạn chế. Các hình thức tuyên truyền mới chậm được
nhân rộng, ý thức tiếp thu của một số ĐVTN chưa cao, một số nơi hình thức tuyên truyền
chưa thu hút ĐVTN; khả năng nghiên cứu, nắm bắt chủ trương để tuyên truyền ra ĐVTN của
một số báo cáo viên còn yếu.
- Hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm cho TN gặp nhiều lúng túng, lực lượng tham
gia lao động ngoài kênh giới thiệu của đoàn còn nhiều. Công tác hỗ trợ TN tiếp cận nguồn
vốn vay và quản lý nguồn vốn còn nhiều hạn chế. Chưa thường xuyên kiểm tra, nhân rộng các
mô hình phát triển kinh tế có hiệu quả, thiếu liên kết đầu ra cho các mô hình; vai trò xung
kích của một bộ phận ĐVTN trên lĩnh vực sản xuất kinh tế chưa rõ nét. Công tác xã hội hóa
các hoạt động TDTT ở cơ sở chưa được phát huy đúng mức.
- Công tác củng cố, kiện toàn tổ chức ở một số cơ sở còn chậm, cán bộ đoàn biến động
nhiều, nhất là ở ấp, khu phố; việc bố trí cán bộ đoàn ở cơ sở có nơi chưa đảm bảo trình độ,
thiếu kỹ năng công tác. Công tác quản lý đoàn viên chưa chặt chẽ; đoàn viên xóa tên, chuyển
đi nhiều làm giảm số lượng đoàn viên so với đầu nhiệm kỳ; tỷ lệ đoàn viên tham gia sinh hoạt
định kỳ ít, nội dung và hình thức chưa phong phú; Công tác thi đua khen thưởng ở cơ sở thiếu


12
thường xuyên, chất lượng khen thưởng còn hạn chế, khen thưởng chuyên đề, đột xuất còn ít.
Chất lượng sinh hoạt đoàn nơi cư trú hiệu quả không cao.
- Công tác mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp TN, vận động thành lập các chi hội nghề
nghiệp, sở thích còn ít; nội dung, hình thức sinh hoạt CLB, đội nhóm ở cơ sở còn đơn điệu,
thiếu hấp dẫn.
- Bí thư chi đoàn ấp, khu phố thường xuyên thay đổi ảnh hưởng đến công tác chăm
bồi, giới thiệu đoàn viên ưu tú (ĐVUT) cho Đảng, Một số cơ sở Đoàn thiếu chủ động định
hướng cho đoàn viên, TN trong góp ý xây dựng các chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế
hoạch lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền. Vai trò tiêu biểu gương mẫu của Đảng
viên trẻ tham gia sinh hoạt đoàn một số nơi chưa thể hiện tốt. Tỷ lệ bí thư chi đoàn ở ấp, khu

phố là đảng viên còn thấp.
- Công tác tham mưu, phối hợp từng lúc từng nơi thiếu kịp thời, phương pháp chưa
khoa học. Việc đổi mới nội dung, phương thức chỉ đạo còn chậm, thiếu đồng bộ. Vai trò lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành của Ban chấp hành, Ban thường vụ Huyện đoàn còn nhiều mặt hạn
chế, chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động Đoàn cấp cơ sở.
- Năng lực, kỹ năng nghiệp vụ, kiến thức kinh tế, xã hội của một bộ phận cán bộ Đoàn
còn yếu; tư duy của một bộ phận cán bộ Đoàn trên một số lĩnh vực chậm đổi mới, chưa bắt
kịp với đòi hỏi của phong trào thanh niên. Công tác thanh niên ở một số nơi chưa nhận được
sự quan tâm đúng mức và thường xuyên của cấp ủy, chính quyền. Công tác tham mưu của
Đoàn với cấp ủy, chính quyền cùng cấp có nơi chưa chủ động, công tác phối hợp với một số
ngành, đoàn thể tại địa phương có lúc chưa đồng bộ.
- Do điều kiện địa phương không có các công ty, xí nghiệp lớn nên không đáp ứng
được nhu cầu việc làm cho những TN không có đất sản xuất, TN phải rời địa phương đi làm
xa nhiều, ảnh hưởng lớn đến công tác tập hợp TN ĐBDC; Cơ chế, chính sách hỗ trợ cho TN
còn ít.
Những hạn chế nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
khách quan và chủ quan. Khách quan là do bối cảnh xã hội trong thời kỳ hội nhập, điều kiện
địa lý, nguồn lực thực tế của địa phương và tình hình thanh niên nói chung về độ tuổi, tâm lý,
nhu cầu, sở thích, lối sống, trình độ văn hóa,… Nhưng đáng nói nhất là nguyên nhân chủ quan
xuất phát từ bản thân tổ chức với sự tự mãn, an phận chấp nhận thành tích “hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ hàng năm” đôi khi là chạy theo phong trào, chỉ tiêu hàng năm đến mức không
còn thời gian cho sự sáng tạo; nhiều cán bộ Đoàn nặng “kinh nghiệm”, làm việc theo lối mòn,
“trước sau giờ vậy”, ngại đổi mới, sợ sự thay đổi, không dám phạm sai lầm; nguồn lực dành
cho công tác Đoàn còn nhiều hạn chế nhưng việc thực hiện lại mang tính dàn trải, thiếu sự tập
trung nguồn lực vào các hoạt động trọng tâm, trọng điểm; lối làm việc nặng văn bản, giấy tờ,


13
báo cáo dẫn đến hành chính hóa, biến cán bộ Đoàn thành “những con người của văn phòng”,
ít thời gian tiếp xúc với cơ sở, tiếp cận thanh niên, vai trò “người đồng hành với thanh niên”,

“người bạn tin cậy của thanh niên” do đó mà giảm đi ý nghĩa của nó; sự hụt hẫng những cán
bộ Đoàn có trình độ, kỹ năng, nhiệt tình với công tác Đoàn và phong trào thanh niên có xuất
phát điểm ngay từ khâu tuyển dụng, lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ làm công tác này; những
cán bộ Đoàn có tâm đôi khi lại thiếu hụt những kỹ năng cần thiết để thích ứng và thực hiện
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Có người nói: "Nhìn lên còn thấy tổ chức đoàn thanh niên nhưng nhìn xuống thì
không thấy thanh niên đâu?!". Ðem câu nói ấy đối chiếu với thực trạng thanh niên nông thôn,
cơ sở hiện nay quả thật không sai! Sở thích, thói quen, lối sống, nhu cầu của thanh niên, kể cả
một số giá trị xã hội đã thay đổi khác hơn nhiều so với trước đây. Phương pháp tập hợp, tuyên
truyền, vận động thanh niên trước giờ vẫn hay dùng nay đã không còn phù hợp và hiệu quả.
Rõ ràng là những “hoạt động thường lệ” đã không còn phù hợp và không còn tạo ra được mức
độ hài lòng, việc thực hiện, và hiệu quả cần thiết để tổ chức Đoàn và thanh niên ngày càng
tiến bộ. Thực trạng thì đáng buồn, nhưng tổ chức Đoàn các cấp hiện nay vẫn còn đang loay
hoay và bế tắc trong việc tìm kiếm những giải pháp phù hợp, do vậy mà lỡ mất thời cơ để trở
nên mạnh mẽ hơn. Đoàn thanh niên 2 cấp huyện An Minh đối mặt với một đe dọa từ từ, mà
những khả năng hiện có không thể làm lắng dịu, do đó cần phát triển những khả năng mới để
tồn tại và lớn mạnh.
Thường khi một người hay một tổ chức nhìn vào những nguy cơ và triển vọng thường
có khuynh hướng sợ hãi những nguy cơ, sự lựa chọn tiếp tục duy trì cái cũ, cái đã có thường
đơn giản và dễ dàng hơn là việc tạo ra sự khác biệt để tồn tại, thông qua những nỗ lực phi
thường để làm những việc phi thường mà chưa từng ai làm trước đó. Đây thực sự là thách
thức lớn với Đoàn thanh niên huyện - một thách thức phát triển cần sự lãnh đạo tập trung để
vượt qua.
2.4. Những kỳ vọng về chất lượng hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện
An Minh trong thời kỳ hội nhập
Trong đấu tranh cách mạng Đảng, Bác Hồ đã giành cho thanh niên những đánh giá rất
có ý nghĩa và quan trọng khẳng định vị trí, vai trò của thanh niên. Bước sang thời kỳ đổi mới
đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục thể hiện niềm tin sâu sắc vào thế hệ thanh niên
Việt Nam, là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa VII nêu rõ:

“Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng
đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường
xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào thanh niên”. Và Nghị quyết về “Tăng


14
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” được thông qua tại Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương khóa IX tiếp tục khẳng định: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai
của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Thời gian qua, công tác Đoàn và phong trào TTN huyện luôn được sự quan tâm lãnh
đạo sâu sát của cấp ủy Đảng, sự hỗ trợ, tạo điều kiện của chính quyền, các ban ngành đoàn thể
huyện. Trong những năm tiếp theo, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sẽ tiếp tục tạo ra
những cơ hội lớn cho Đoàn thanh niên huyện, song cũng chứa đựng nhiều thách thức cho tổ
chức trong việc gìn giữ những giá trị cốt lõi vốn có, và đạt đến sứ mạng của mình:
- Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh huyện An Minh phải tiếp tục vai trò là tổ
chức chính trị xã hội lớn nhất của thanh niên huyện An Minh, là trường học xã hội chủ nghĩa
của thanh niên huyện tạo môi trường đưa thanh niên vào các hoạt động giúp học tập rèn luyện
và phát triển nhân cách, năng lực của người lao động mới phù hợp với yêu cầu hội nhập như
hiện nay.
- Định hướng thanh niên đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của kẻ thù nhằm
mục đích chia rẽ khối đoàn kết thống nhất toàn dân, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng,
Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
- Tạo môi trường thuận lợi, lành mạnh để thanh niên phát huy hết những phẩm chất tốt
đẹp: năng động, sáng tạo, bản lĩnh, trí tuệ, tạo nên lớp thanh niên “vừa hồng vừa chuyên” để
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
- Là Đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, Nhà
nước và các ngành. Đoàn luôn luôn xác định nhiệm vụ của mình là đội quân xung kích cách

mạng tích cực tham gia xây dựng Đảng và là người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng
vẻ vang của Đảng và của Bác Hồ.
Với những kỳ vọng nói trên, tổ chức Đoàn 2 cấp của huyện An Minh cần nhận diện
đúng thách thức phát triển mà mình đang gặp phải, để lãnh đạo tổ chức đi đến thành công, đáp
ứng được những kỳ vọng.
PHẦN IV. LÃNH ĐẠO THÁCH THỨC PHÁT TRIỂN CỦA ĐOÀN TNCS HỒ
CHÍ MINH HUYỆN AN MINH THỜI KỲ HỘI NHẬP
1. Tạo ra một môi trường che chở lành mạnh duy trì sự tập trung của mọi người
1.1. Trở thành một áp lực khuấy động và quấy động sự tự mãn
Có một thực tế là trong thời gian qua, tổ chức Đoàn các cấp của huyện phần lớn hài
lòng với những nhận xét đánh giá cuối năm của mình,


15
1.2. Tạo ra môi trường
PHẦN V. KẾT LUẬN
Việc hoàn thành các chỉ tiêu xây dựng NTM do Đoàn thanh niên đảm nhận có ý nghĩa
rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và tỉnh Kiên Giang nói
chung như: Góp phần giải quyết việc làm cho thanh niên tại địa phương, nâng cao trình độ tay
nghề của người lao động, nâng cao thu nhập, đời sống, giảm tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo trên địa
bàn huyện, tiến tới xóa nghèo bền vững; tạo môi trường, sân chơi lành mạnh cho thanh thiếu
nhi, tập hợp đoàn kết thanh niên vào tổ chức, hạn chế đối tượng vi phạm pháp luật, tệ nạn xã
hội; góp phần hình thành nhân cách, con người mới, nâng cao nhận thức cho cán bộ Đoàn, TN
trên địa bàn, sống có ước mơ, hoài bão và có trách nhiệm; góp phần xây dựng tổ chức Đoàn, đội
ngũ cán bộ Đoàn hoạt động có hiệu quả, thực sự người bạn tin cậy, người đại diện cho quyền và
lợi ích chính đáng, hợp pháp của thanh niên, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh.
Do vậy, Chiến lược phát huy vai trò của Đoàn thanh niên trong tham gia xây dựng Nông thôn
mới trên địa bàn huyện An Minh đến năm 2025 khả thi để triển khai thực hiện. Mục tiêu đến
năm 2025, huyện An Minh hoàn thành xây dựng huyện Nông thôn mới.




×