Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Ước lượng suất sinh lợi của việc sử dụng điện Luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THANH NGỌC

ƯỚC LƯỢNG SUẤT SINH LỢI
CỦA VIỆC SỬ DỤNG ĐIỆN
Nghiên cứu trường hợp nông thôn Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2009


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----o0o-----

NGUYỄN THỊ THANH NGỌC

ƯỚC LƯỢNG SUẤT SINH LỢI
CỦA VIỆC SỬ DỤNG ĐIỆN
Nghiên cứu trường hợp nông thôn Việt Nam

Chuyên ngành : Kinh tế phát triển
Mã số

: 60.31.05


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Giảng viên hướng dẫn khoa học
TS. TRẦN TIẾN KHAI

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2009


-iii-

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ADB : Ngân hàng phát triển Châu Á
Bộ LĐ - TB&XH : Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
DID : Khác biệt trong khác biệt
GDP : Tổng thu nhập quốc nội
OLS : Phương pháp bình phương bé nhất
MOI : Bộ Công Nghiệp
UNDP : Tổ chức phát triển Liên Hiệp Quốc
XHH : Xã Hội Học
WB : Ngân hàng Thế giới
WTP : Mức sẵn lòng chi trả


-iv-

DANH MỤC HÌNH VẼ & BẢNG BIỂU
1. Hình vẽ
Hình 2.1 Minh hoạ cách tiếp cận của WB sử dụng trong nghiên cứu đánh giá tác động

của chương trình điện khí hoá nông thôn tại Philippines ................................................. 11
Hình 2.2 Tỷ lệ thu nhập theo giới tính............................................................................ 17
Hình 2.3 Minh hoạ phương pháp khác biệt trong khác biệt ........................................... 22
Hình 3.1 Mô tả mẫu nghiên cứu ..................................................................................... 32
Hình 3.2 Loại hình gia đình............................................................................................. 34
Hình 3.3 Số người phụ thuộc trong gia đình ................................................................... 35
Hình 3.4.1 Học vấn chủ hộ .............................................................................................. 36
Hình 3.4.2 Trình độ học vấn cao nhất năm 2002 và 2005............................................... 38
Hình 3.5 Tuổi của chủ hộ ................................................................................................ 40
Hình 3.6 Giới tính chủ hộ và thu nhập bình quân đầu người .......................................... 41
Hình 3.7 Diện tích đất sản xuất trung bình...................................................................... 42
Hình 3.8.1 Kiểu nhà......................................................................................................... 43
Hình 3.8.2 Diện tích đất xây dưng................................................................................... 44
Hình 3.9 Thu nhập bình quân đầu người theo xã có dự án ............................................. 46
Hình 3.10 Thu nhập bình quân đầu người theo lĩnh vực nghề nghiệp ............................ 47
2. Bảng
Bảng 2.1 Tóm tắt kết quả phương pháp ước lượng khác biệt trong khác biệt ................ 23
Bảng 3.1 Thu nhập bình quân đầu người theo nhóm hộ ................................................. 33
Bảng 3.2 Quy mô hộ gia đình.......................................................................................... 34
Bảng 3.4 Kết quả ước lượng mô hình sau khi kiểm soát các yếu tố ............................... 50


-v-

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Điện khí hoá nông thôn là một chương trình lớn của chính phủ trong nỗ lực góp
phần cải thiện môi trường sống, nâng cao trình độ dân trí và làm tăng thu nhập của các hộ
gia đình nông thôn. Chính vì vậy việc có một đánh giá tác động của chương trình là điều
cần thiết.
Khai thác bộ dữ liệu từ cuộc điều tra đánh giá tác động của Chương trình điện khí

hoá nông thôn tại Việt Nam do WB, MOI và Viện XHH thực hiện thời gian qua, nghiên
cứu tìm thấy mối tương quan giữa việc sử dụng điện với trình độ học vấn, tình trạng sức
khoẻ và khả năng tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng v.v của các hộ dân
vùng hưởng lợi.
Bằng phương pháp khác biệt trong khác biệt kết hợp mô hình hồi quy OLS, một
kết luận quan trọng được đưa ra là: Điện góp phần làm tăng 28,5% thu nhập bình quân
đầu người trung bình.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra hàng loạt các yếu tố khác có tác động trực tiếp và
gián tiếp lên mức thu nhập bình quân đầu người trong các hộ gia đình nông thôn.
Kết quả của nghiên cứu đã gợi ý nhiều tác động về mặt chính sách trong tương lai.


-vi-

MỤC LỤC
Lời cám ơn........................................................................................................................ i
Lời cam đoan .................................................................................................................... ii
Danh mục chữ viết tắt....................................................................................................... iii
Danh mục hình vẽ và bảng biểu ....................................................................................... iv
Tóm tắt kết quả nghiên cứu .............................................................................................. v
Mục lục ............................................................................................................................. vi
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU................................................... 1
1. Đặt vấn đề........................................................................................................................ 1
2. Giới hạn và phạm vi của nghiên cứu ............................................................................ 3
3. Mục tiêu của nghiên cứu .............................................................................................. 4
3.1. Mục tiêu chung ......................................................................................................... 4
3.2. Mục tiêu cụ thể .......................................................................................................... 4
4. Câu hỏi nghiên cứu....................................................................................................... 5
5. Kết cấu của luận văn..................................................................................................... 5
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............ 6

1. Lược khảo tài liệu......................................................................................................... 6
1.1. Các tác động của điện đối với thu nhập..................................................................... 6
1.2. Các phương pháp đánh giá tác động của điện ........................................................... 8
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ......................................................................... 13
2. Giới thiệu phương pháp khác biệt trong khác biệt ....................................................... 21
3. Các phương pháp áp dụng trong nghiên cứu................................................................ 24
3.1. Phương pháp thống kê mô tả ..................................................................................... 24
3.2. Phương pháp khác biệt trong khác biệt .................................................................... 25
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................... 31
1. Mẫu nghiên cứu ............................................................................................................... 31
1.1. Cách thức chọn mẫu và cơ cấu mẫu ....................................................................... 31
1.2. Đơn vị nghiên cứu .................................................................................................. 31
1.3. Đơn vị thu thập thông tin........................................................................................ 31
2. Bảng câu hỏi .................................................................................................................... 31


-vii3. Mô tả dữ liệu.................................................................................................................... 32
3.1. Thu nhập hộ gia đình .............................................................................................. 32
3.2. Quy mô hộ gia đình ................................................................................................ 33
3.3. Số người phụ thuộc.............................................................................................. 35
3.4. Trình độ học vấn..................................................................................................... 36
3.5. Tuổi chủ hộ............................................................................................................. 39
3.6. Giới tính chủ hộ...................................................................................................... 40
3.7. Diện tích đất canh tác ............................................................................................. 41
3.8. Kiểu nhà.................................................................................................................. 43
3.9. Có thuộc dự án hay không...................................................................................... 45
3.10. Nghề nghiệp.......................................................................................................... 46
4. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy................................................................................ 50
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH................................................... 55
1. Kết luận ........................................................................................................................... 55

2. Gợi ý chính sách .............................................................................................................. 58
3. Những hạn chế của nghiên cứu ....................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 61
Tài liệu Tiếng Việt .......................................................................................................... 61
Tài liệu Tiếng Anh .......................................................................................................... 62
PHỤ LỤC ........................................................................................................................... PL


Page |1

CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.

Đặt vấn đề
Công cuộc Đổi Mới hơn hai mươi năm qua tại Việt Nam đã mang lại những

thành tựu hết sức có ý nghĩa đối với đời sống kinh tế - xã hội. Với tốc độ tăng trưởng
liên tục giữ ở mức cao và ổn định trong thời gian qua, nền kinh tế đất nước đang trên
đà khởi sắc. Việt Nam phấn đấu trở thành nước đạt mức thu nhập trung bình quân
của thế giới vào năm 2010.
Cùng với những thành tích đáng khích lệ trong việc phát triển kinh tế, Việt
Nam cũng được WB đánh giá là một trong những quốc gia nơi thành công nhất trong
nỗ lực thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ đói nghèo (theo tiêu
chuẩn của WB) đã giảm từ 58% dân số vào năm 1993 xuống còn 20% dân số vào
năm 2004, trong khi cũng cùng thời gian đó, dân số đã gia tăng từ 70,3 triệu người
lên đến 80 triệu người (WB, 2005).
Trên thực tế, những nỗ lực của chính phủ trong việc xóa đói giảm nghèo
không chỉ bao gồm các chương trình hỗ trợ lương thực, cung cấp tín dụng, cung cấp

các dịch vụ giáo dục miễn phí v.v mà còn bao gồm cả việc đưa điện về với người
dân tại các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Những thay đổi từ quá trình
điện khí hóa được gắn với các mục tiêu dài hạn trong nỗ lực xóa đói giảm nghèo của
Chính phủ. Do đó, thành công cũng như tồn tại trong quá trình thực hiện chương
trình có thể sẽ là những kinh nghiệm quý báu để chia sẻ với các quốc gia khác có
hoàn cảnh tương đồng.
Trong thời gian qua, với sự hỗ trợ đắc lực của WB, Việt Nam đã triển khai
thực hiện chương trình điện khí hóa nông thôn với tiến độ và diện bao phủ tốt hơn
cả trong nhóm các quốc gia nhận được tài trợ của tổ chức này. Số liệu thống kê của
WB cho thấy, vào năm 1996 tại Việt Nam mức độ phủ điện chỉ là 6,031 triệu hộ gia
đình thuộc 5.698 xã khu vực nông thôn thì sau 10 năm thực hiện chương trình con số
này đã tăng lên 12,584 triệu hộ gia đình thuộc 10.609 xã khu vực nông thôn. Với tốc
độ tăng trưởng liên tục, hiện đã có 97,4% số xã nông thôn có điện lưới quốc gia. Như


Page |2

vậy nếu tính trung bình thì cứ 1 ngày tại Việt Nam có thêm 1,3 xã và 1.795 hộ được
sử dụng điện (WB, 2006). Cũng theo thống kê mới nhất của tổ chức này, tính đến
tháng 6/2008, lưới điện quốc gia đã vươn tới 8.736/9.091 xã trên cả nước, đạt tỷ lệ
97,26% và vượt mục tiêu 90% số xã có điện của chính phủ đề ra tới năm 2010; trên
13/14,16 triệu hộ gia đình nông thôn được sử dụng điện, đạt 94,31% so với tỷ lệ 95%
mục tiêu của chính phủ đề ra tới năm 2015 (WB, 2008).
Những tác động tích cực của chương trình Điện khí hóa nông thôn đối với
việc cải thiện các mặt của đời sống kinh tế - xã hội là điều không thể phủ nhận. Nhờ
có sự phát triển ngày càng rộng khắp của mạng lưới điện quốc gia, đời sống của
người dân, đặc biệt là tại các vùng nông thôn đã được cải thiện, nâng cao cả về vật
chất lẫn tinh thần. Điện về làm thay đổi diện mạo bức tranh nông thôn; đẩy mạnh
quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thay đổi tập quán canh tác, chăn nuôi; giúp
tăng năng suất và sản lượng lương thực, hoa màu; phát triển công nghiệp chế biến;

mở ra nhiều ngành nghề mới theo hướng hiện đại hoá, công nghiệp hoá v.v. Đồng
thời, người dân có điều kiện mua sắm các phương tiện nghe nhìn, thông tin liên lạc,
nâng cao chất lượng đời sống tinh thần, kéo theo sự ổn định về an ninh trật tự cho
khu vực nông thôn v.v. (WB, 2008).
Tuy nhiên, hiện vẫn còn khoảng 230 xã và gần 1 triệu hộ dân ở vùng sâu,
vùng xa, vùng núi cao chưa có điện. Khoảng 6.000 xã cần được bảo dưỡng hệ thống
điện do mạng lưới ngày một xuống cấp, tỷ lệ thất thoát điện cao, thường xuyên ách
tắc trong quá trình truyền dẫn và phân phối. Điều đáng nói là giá điện ở khu vực
nông thôn, miền núi còn cao so với khả năng chi trả của người dân; tình trạng mất
điện, thiếu điện thường xuyên xảy ra, đặc biệt là vào giờ cao điểm v.v. Tình trạng
này không chỉ là hạn chế của ngành điện mà đang là nỗi bức xúc của người dân
(WB, 2008). Bên cạnh đó, việc đánh giá hiệu quả của chương trình điện khí hoá
nông thôn như thế nào cho đến hiện nay vẫn còn là một điều đáng bàn. Do đó, việc
có một nghiên cứu đánh giá tác động của chương trình là cần thiết nhằm mang lại
những thông tin hữu ích cho các bên liên quan. Đứng về phía các nhà làm chính
sách, việc đánh giá hiệu quả của chương trình còn cần thiết hơn vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, con số cụ thể về chi phí và lợi ích giúp cung cấp các chỉ báo quan
trọng để đưa ra các quyết định đúng trong việc lựa chọn dự án điện khí hóa này chứ


Page |3

không phải dự án điện khí hóa khác, hay việc ra quyết định để chọn lựa dự án điện
khí hóa hay các dự án khác như giao thông hay giáo dục hoặc y tế v.v. cho vùng
nông thôn.
Thứ hai, những kiến thức về mức lợi ích của chương trình mang lại có thể là
một gợi ý quan trọng trong việc lựa chọn các quy mô dự án khác nhau cho từng địa
phương, từng khu vực và từng đối tượng.
Thứ ba, nấc thang lợi ích là một chỉ báo quan trọng giúp xác định một mức
giá hợp lý và trong trường hợp cần thiết, có thể là sự trợ giá từ phía chính phủ.

Cuối cùng, những lợi ích đã được lượng hóa là cần thiết để đưa ra những kết
luận mang tính khách quan về hiệu quả kinh tế của dự án. Nó đồng nghĩa với việc
một mục tiêu xã hội bất kỳ có thể đạt được khi sử dụng nguồn lực ít hơn và cách
thức để mang lại những lợi ích đó có thể được so sánh với các dự án khác.
Với những lý do kể trên, hy vọng kết quả phân tích của nghiên cứu này sẽ góp
phần làm sáng tỏ những tác động tích cực của chương trình điện khí hoá nông thôn
đối với việc nâng cao chất lượng cuộc sống cả người dân, đặc biệt cho những người
nghèo và người dân thuộc các dân tộc thiểu số.
2.

Giới hạn và phạm vi của nghiên cứu
Luận văn sử dụng bộ số liệu của cuộc điều tra Đánh giá tác động chương trình

điện khí hoá nông thôn do Ngân hàng Thế giới (WB), Bộ Công Nghiệp (MOI) và
Viện Xã hội học (IOS) tiến hành điều tra tại 07 tỉnh: Hà Giang, Điện Biên, Hoà
Bình, Quảng Bình, Quảng Nam, Đắc Lắc và Sóc Trăng. Mỗi tỉnh có 6 xã được chọn
làm địa bàn nghiên cứu, trong đó chọn 3 xã có dự án điện nông thôn, 2 xã không có
dự án và 1 xã có điện để đối chiếu. Có 1.260 hộ được chọn vào mẫu nghiên cứu, bao
gồm 61% hộ gia đình là người dân tộc thiểu số thuộc 28 dân tộc.
Bộ dữ liệu của cuộc điều tra bao gồm nhiều thông tin thuộc các mặt của đời
sống kinh tế - xã hội như vấn đề thu nhập, việc làm, giáo dục, truyền thông, giải trí
v.v. Điểm đặc biệt về phương pháp nghiên cứu của cuộc điều tra này là kỹ thuật thu
thập thông tin lặp lại để so sánh những biến đổi kinh tế - xã hội diễn ra trong vòng 3
năm từ 2002 – 2005 nhằm so sánh những thay đổi của đời sống người dân trước và
sau khi sử dụng điện.


Page |4

Như đã đề cập ở trên, những tác động của chương trình không chỉ gói gọn ở

khía cạnh kinh tế gia đình mà nó còn được kỳ vọng ở các mặt khác của đời sống như
vấn đề y tế, giáo dục, chất lượng cuộc sống, năng suất lao động, bình đẳng giới, bảo
vệ môi trường bền vững v.v. Tuy nhiên để phù hợp với khuôn khổ của một luận văn
tốt nghiệp, tác giả giới hạn lại vấn đề nghiên cứu trong phạm vi hẹp hơn: Đó là ước
lượng suất sinh lợi từ việc sử dụng điện (thể hiện bằng biến số thu nhập bình
quân đầu người). Điều này cũng có nghĩa là luận văn sẽ không sử dụng hết thông
tin của tất cả 1.260 hộ gia đình trong cuộc điều tra mà chỉ chọn ra một lượng mẫu
nhỏ hơn, phù hợp với tiêu chí mà luận văn đã đề ra.
Mặc dù phạm vi của đề tài đã bị giới hạn nhưng tác giả vẫn kỳ vọng kết quả
của nghiên cứu sẽ có ích trong việc gợi ý chính sách, nhất là trong bối cảnh hiện nay,
khi Chính phủ vừa có hàng loạt các quyết định quan trọng liên quan đến điện như
tăng giá bán, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này v.v.
Bản thân tác giả nhận thấy việc không thể đánh giá tất cả tác động của chương
trình điện khí hoá là một hạn chế lớn. Rất mong trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều
nghiên cứu khác để việc đánh giá tác động của chương trình điện khí hoá nông thôn
trở nên hoàn thiện và có ý nghĩa hơn.
3.

Mục tiêu của nghiên cứu
3.1 Mục tiêu chung
 Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của chương trình điện khí hóa nông thôn
đối với việc cải thiện và nâng cao điều kiện sống cho người dân.
 Tính toán mức lợi ích mà người dân được hưởng thông qua áp dụng các kỹ
thuật phân tích trong khoa học xã hội liên ngành.
 Tìm hiểu sự thay đổi trong điều kiện sống của người dân theo thời gian (đối
chiếu trước và sau khi có chương trình).
3.2 Mục tiêu cụ thể
 Ước lượng suất sinh lợi của việc sử dụng điện đối với thu nhập bình quân đầu
người.
 Tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng tới mức thu nhập bình quân đầu người.



Page |5

4.

Câu hỏi nghiên cứu
 Điện đóng góp bao nhiêu % tổng thu nhập bình quân đầu người?
 Yếu tố nào có ảnh hưởng lên mức thu nhập bình quân đầu người?

5.

Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 04 chương với các nội dung cụ thể sau:
Chương 1: Giới thiệu vấn đề nghiên cứu. Nội dung của chương này gồm phần

đặt vấn đề; giới hạn và phạm vi của nghiên cứu; mục tiêu nghiên cứu; câu hỏi nghiên
cứu và kết cấu của luận văn.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và Phương pháp nghiên cứu. Phần đầu, tác giả
lược khảo các tài liệu có liên quan. Phần tiếp theo là phần giới thiệu các phương
pháp được sử dụng trong luận văn, trong đó chú trọng đến phương pháp: Khác biệt
trong khác biệt - Phương pháp chính của luận văn.
Chương 3: Kết quả của nghiên cứu. Bước đầu bằng phương pháp thống kê mô
tả, tác giả mô tả bộ dữ liệu trong đó đặc biệt chú trọng đến các biến số sẽ được sử
dụng trong mô hình hồi quy. Các số liệu thống kê mô tả giúp người đọc hình dung ra
những khác biệt trong đặc điểm cơ sở của hai nhóm hộ gia đình được sử dụng để
phân tích trong nghiên cứu này. Phần cuối cùng là phần trình bày kết quả ước lượng
khác biệt về mặt thu nhập của hai nhóm hộ bằng phương pháp khác biệt trong khác
biệt kết hợp mô hình hồi quy OLS.
Chương 4 cũng là chương cuối cùng của luận văn. Nội dung của chương này

bao gồm phần tóm tắt các phát hiện chính của nghiên cứu và nêu các gợi ý về mặt
chính sách. Đồng thời trong chương này, tác giả cũng nêu những hạn chế của luận
văn và những gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo.


Page |6

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.

Lược khảo tài liệu

1.1 Các tác động của điện đối với thu nhập
Cho đến nay, điện vẫn là nguồn năng lượng chưa thể thay thế, đóng vai trò
thiết yếu đối với sự phát triển của bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Các nghiên cứu
đi trước cũng đã chỉ ra rằng, có một mối liên hệ chặt chẽ giữa việc phát triển và sử
dụng nguồn điện đối với những nỗ lực nhằm nâng cao mức sống cho người dân, đặc
biệt cho người dân nông thôn ở các vùng sâu, vùng xa và nhóm người thuộc các dân
tộc thiểu số.
Ở Việt Nam, trước khi cuộc điều tra đánh giá về tác động của chương trình
điện khí hóa nông thôn do WB, MOI và Viện XHH tiến hành, chưa có một nghiên
cứu sâu và cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên trên thế giới, các công trình nghiên cứu
liên quan cho thấy, năng lượng điện đóng vai trò không thể thiếu cho sự phát triển
bền vững của bất cứ một quốc gia nào.
Theo ADB (2003) việc cung cấp điện năng một cách hiệu quả đã giúp (i) cải
thiện điều kiện sống của người dân, nâng cao dân trí và mở rộng hệ thống y tế và (ii)
giúp nông dân nghèo nâng cao năng lực sản xuất, tăng năng suất cây trồng, tạo thêm

nhiều việc làm mới và cải thiện nguồn thu nhập.
WB (2002) cũng đưa ra các kết luận khi nghiên cứu tác động của chương
trình điện khí hoá nông thôn tại Bangladesh. Theo đó, trong phạm vi hộ gia đình,
chương trình đã mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực đối với người dân thông qua việc
môi trường sống được cải thiện một cách rõ rệt, mức thu nhập được nâng cao. Các
yếu tố khác như trình độ văn hóa, khả năng tiếp cận thông tin, y tế giáo dục v.v. cũng
đều có những chuyển biến tích cực. Nếu chỉ tính riêng về mặt thu nhập, thu nhập
trung bình của hộ gia đình có điện thuộc xã có dự án cao hơn thu nhập của những hộ
không có điện trong các xã không có dự án là 64,5% và cao hơn 126,1% so với


Page |7

những hộ gia đình trong cùng xã nhưng không sử dụng điện.. Ngoài ra nghiên cứu
còn đi đến các kết luận là: (i) 9,3 % tổng thu nhập trong các hộ gia đình nông thôn ở
Bangladesh là do đóng góp của việc có sử dụng điện và (ii) giả định rằng, tất cả các
hộ gia đình nông thôn đều có điện thì tổng thu nhập - theo thời giá hiện hành - sẽ
tăng lên tới 1.775 tỷ Tk1. trong khi hiện tại con số đó chỉ là 1.105 tỷ Tk. Như vậy thu
nhập ròng hàng năm sẽ tăng thêm 671 tỷ Tk. (trong đó 290,8 tỷ Tk.hay 43,3% giá trị
tăng thêm đó là do có điện). Ước tính thu nhập ròng hàng năm do 100% số hộ gia
đình được điện khí hóa sẽ tương đương với 26% GDP hiện tại (khoảng 2.580 tỷ Tk. tính theo tỷ giá thời điểm tiến hành nghiên cứu). Đồng thời, nghiên cứu cũng kết
luận, điện làm gia tăng 16,4% trong tổng thu nhập của các hộ gia đình sử dụng điện
trong khi nó chỉ làm gia tăng 12% đối với các hộ không sử dụng điện (thuộc các xã
có dự án) (Ngoại tác tích cực).
Tại Indonesia, từ 1989-90 đến 2000-01, chương trình điện khí hóa nông thôn đã
góp phần làm tăng thu nhập trung bình hằng năm 8,4% cho mỗi hộ gia đình, đồng
thời góp phần tạo thêm các cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho 31% số người trả
lời (JBIC, 2002).
Nghiên cứu của tổ chức JICA tại Vanuatu cho thấy, có điện, cuộc sống của
người dân đã thay đổi một cách rõ rệt. Thu nhập của hộ gia đình được cải thiện đáng

kể do thời gian làm việc được kéo dài hơn (JICA, 2000).
Kết quả của Báo cáo: Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam (IDS, 2005) cho
thấy, điện là yếu tố có ý nghĩa thống kê trong phân tích thu nhập và chi tiêu của các
hộ gia đình nông thôn, nơi 71% hộ gia đình có điện. Tuy nhiên ở thành thị, nơi có
98% hộ có điện thì ngược lại, điện không phải là yếu tố ảnh hưởng nhiều đến chi tiêu
và thu nhập.
Từ kết quả của các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy điện đóng vai trò
lớn trong việc góp phần nâng cao thu nhập của hộ gia đình nói chung và bản thân các
cá nhân nói riêng. Tuy nhiên để ước lượng suất sinh lợi của việc sử dụng điện, những
phương pháp nghiên cứu nào đã và đang được sử dụng? Phần tiếp sau đây sẽ đề cập
đến vấn đề này.

1

Đơn vị tiền tệ của Bangladesh.


Page |8

1.2 Các phương pháp đánh giá tác động của điện đối với đời sống của người
dân vùng nông thôn
Trước đây trong các nghiên cứu của mình, Ngân hàng Thế giới thường dùng
hai chỉ số chi tiêu (expenditures) và chi phí tiết kiệm được (cost savings) để đo lường
lợi ích. Tuy nhiên trong một số nghiên cứu khác, thuế được sử dụng như là công cụ
đo lường. Lý luận của việc sử dụng thuế dựa trên giả định rằng người ta sẵn lòng trả
cho các dịch vụ điện ít nhất bằng với mức thuế phải trả. Việc sử dụng thước đo này
có thể là một cách dễ dàng để lượng hóa các lợi ích nhưng nó cũng rất dễ dẫn tới
những sai lầm không đáng có. Nếu trong thuế đã bao gồm cả phần trợ cấp của chính
phủ thì sử dụng thuế để đo lường lợi ích sẽ dẫn tới sai lầm nghiêm trọng. Trong
trường hợp này, tổng lợi ích của xã hội không bằng với tổng lợi ích của tất cả người

tiêu dùng.
Trong một số nghiên cứu khác, WB sử dụng khái niệm thặng dư người tiêu
dùng để ước lượng tổng lợi ích của việc sử dụng điện. Tuy nhiên, thặng dư người
tiêu dùng chỉ được tối đa hoá trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo. Nếu giá thị
trường được quyết định bởi một nhà độc quyền hoặc sản phẩm đó là một hàng hóa
công được chính phủ trợ cấp thì việc dùng thước đo thặng dư người tiêu dùng để đo
lợi ích sẽ là không thỏa đáng. Cả hai điều này lại rất đúng với hàng hoá là điện tại
Việt Nam. Do đó sẽ không chính xác khi tính lợi ích của người tiêu dùng điện ở Việt
Nam thông qua việc tính toán mức thặng dư người tiêu dùng. Mặt khác, nếu có thể
quan sát tất cả các mức tiêu thụ điện của các hộ gia đình ở các mức giá khác nhau,
thì diện tích dưới đường cầu chính là tổng lợi ích của người tiêu dùng. Giả định rằng
mức sẵn lòng chi trả bằng ít nhất với tổng lợi ích nhận được thì đường cầu cung cấp
một thang đo lợi ích tại mỗi mức tiêu thụ điện. Như vậy lợi ích của dự án chính là
mức thặng dư người tiêu dùng. Thang đo này được dùng để đánh giá hiệu quả tiềm
năng của dự án. Song việc dùng thang đo thặng dư người tiêu dùng cũng làm nảy
sinh một số vấn đề sau:
Thứ nhất: rất khó có thể quan sát các mức tiêu dùng tại các mức giá khác
nhau.
Thứ hai: phương pháp trên giả định mức tiêu dùng không phụ thuộc vào độ
lớn của thu nhập. Thêm một giả định hợp lý nữa là đường cầu sẽ dịch chuyển lên


Page |9

trên về phía bên phải khi thu nhập tăng lên. Như vậy tại một mức giá bất kỳ, người
có mức thu nhập cao hơn sẽ có xu hướng tiêu dùng nhiều điện năng hơn. Ngoài ra
trong trường hợp giá điện giảm, mức tiêu thụ này còn ảnh hưởng do tác động thay
thế và tác động thu nhập. Theo cách tiếp cận này, tác động thay thế và tác động thu
nhập bị bỏ qua.
Thứ ba: cách tiếp cận trên giả định đường cầu không phụ thuộc vào mức giá

cũng như mức tiêu thụ của hàng hóa và dịch vụ thay thế. Đường cầu sẽ dịch chuyển
ra bên ngoài nếu giá của các mặt hàng phụ trợ trở nên rẻ một cách tương đối. Ngược
lại, đường cầu sẽ dịch chuyển vào bên trong nếu sản phẩm thay thế trở nên rẻ hơn
v.v.
Về mặt nguyên tắc, để ước lượng lợi ích mà chương trình mang lại, người ta
sẽ tính toán sự khác nhau trong lợi ích được hưởng thụ của cả hộ có và không sử
dụng điện. Cộng tổng các mức lợi ích đó lại - tương đương với mức sẵn lòng chi trả
của các hộ gia đình - willing to pay - (WTP) sẽ ra tổng lợi ích của việc sử dụng điện.
Do đó trong một số nghiên cứu liên quan đến đo lường lợi ích, WB cũng áp dụng
cách tính toán mức WTP dựa trên giả định số tiền người tiêu dùng sẵn sàng chi trả để
đổi lấy việc được tiêu dùng điện chính là lợi ích của việc sử dụng điện. Song thước
đo WTP chỉ chính xác khi đi kèm với nó là những giả định chặt chẽ, rất khó đáp ứng
được trên thực tế. Hơn thế nữa, ngay cả khi những giả định này được đáp ứng đầy đủ
thì chỉ báo WTP lại không đo lường được những ngoại tác tích cực như lợi ích thông
qua việc kéo dài thời gian học hành, lợi ích để có được thời gian làm việc dài hơn
v.v. Do đó mức WTP này cũng sẽ không thể hiện được lợi ích ròng của việc sử dụng
điện. Điều này nói lên một thực tế là cần phải xem xét lợi ích từ việc có điện dựa
trên tổng thể các nguồn lợi ích khác nhau - dù chúng có thể được đo lường một cách
trực tiếp hay gián tiếp.
Tóm lại, trong khi các cách tiếp cận trên có những điểm mạnh riêng nhưng
một điểm yếu chung nhất đó là nó đã thất bại khi không đo lường được những lợi ích
vô hình như cải thiện việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao trình độ dân trí hay cải thiện
chất lượng cuộc sống cho người dân.
Trong những năm gần đây, các tổ chức quốc tế đã chú trọng đến việc tính
toán lợi ích của quá trình điện khí hóa và coi nó như là kết quả của việc giảm đói


P a g e | 10

nghèo, tăng thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, các nghiên cứu này

cũng đã chỉ ra rằng một số lợi ích không dễ dàng lượng hóa và các tác động của
chúng là các tác động qua lại. Những mối quan hệ không độc lập như vậy không
phản ảnh được trong các chi phí hoặc các chỉ số tài chính riêng biệt.
Gần đây, trong nghiên cứu: Đánh giá tác động của chương trình điện khí hoá
nông thôn tại Philippine (WB, 2002) người ta dựa trên giả định: bản thân việc sử
dụng điện không tạo ra thu nhập mà nó chỉ được coi là một hàng hoá đầu vào để tạo
ra hàng hóa và dịch vụ cuối cùng. Những sản phẩm dịch vụ có được từ quá trình điện
khí hóa như là thắp sáng, làm lạnh, bảo quản thực phẩm, máy bơm nước, sử dụng
các phương tiện nghe nhìn v.v. sẽ tạo ra lợi ích cho người tiêu dùng thông qua việc
nâng cao dân trí, cung cấp các dịch vụ giải trí và truyền thông, bảo vệ sức khỏe, sự
an toàn, thoải mái, tăng năng suất lao động v.v. Tổng cộng của các tác động đó cuối
cùng sẽ làm gia tăng thu nhập hộ gia đình. Với cách tiếp cận của nghiên cứu này, các
tác giả đã tính toán các mức lợi ích như sau:
-

Lợi ích của giáo dục bao gồm thời gian học/đọc sách tăng lên cũng như các cơ

hội tiếp cận với chương trình tự học trên truyền hình v.v.
-

Lợi ích mang tới cho sức khỏe thông qua việc giảm tỷ lệ bệnh tật do cải thiện

nguồn không khí, nguồn nước tốt hơn do sử dụng nước ngầm, bảo quản thức ăn và
tiếp cận các thông tin chăm sóc sức khỏe qua các phương tiện truyền thông đại
chúng v.v.
-

Lợi ích từ việc giải trí và truyền thông bao gồm sự gia tăng các mối quan hệ

với bạn bè và gia đình vào thời gian buổi tối, tiếp cận các chương trình giải trí trên

truyền hình v.v.
-

Lợi ích của sự thoải mái, thuận lợi và an toàn gồm sự giảm của tội phạm,

giảm thời gian dành cho những công việc vặt trong gia đình như nấu ăn, giặt giũ, lau
nhà, kiếm củi và lấy nước v.v.
-

Lợi ích do tăng năng suất lao động được tính toán dựa trên thời gian làm việc

lâu hơn, linh hoạt hơn trong môi trường làm việc thoải mái hơn. Đồng thời năng suất
lao động cũng tăng lên cũng là kết quả của việc tiếp cận được các kiến thức và kỹ
năng sản xuất mới.


P a g e | 11

Với cách tiếp cận trên, đối với mỗi sản phẩm cuối cùng thước đo lợi ích tương
đối rõ ràng. Ví dụ, giáo dục có thể được đo bằng số năm đi học; giải trí được đo bằng
số giờ thưởng thức âm nhạc hoặc xem truyền hình; sức khỏe được đo bằng tình trạng
bệnh tật hoặc tỷ lệ trẻ sơ sinh chết; sự thuận tiện được đo bằng thời gian tiết kiệm và
năng suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm đầu ra v.v. Tuy nhiên việc
lượng hóa cho sự thoải mái và sự an toàn khó hơn nhiều. Nó có thể được đo lường
bằng cách thống kê tội phạm nhưng với một cách làm linh hoạt hơn, ví dụ như câu
trả lời của các thành viên trong hộ gia đình về câu hỏi về họ nghĩ như thế nào là đủ
an toàn và thoải mái.
Hình 2.1 Minh hoạ cách tiếp cận của WB sử dụng trong nghiên cứu đánh giá
tác động của chương trình Điện Khí Hoá nông thôn tại Philippine


Điện
THIẾT BỊ
THIẾT
BỊ sáng
T.B.
Chiếu
SP. TRUNG GIAN

Bóng
điện

Radio/TV

Thắp
sáng

Tivi

Tủ lạnh

Bảo quản
thức ăn

Quạt

Làm
mát

Bếp điện


Làm sạch
không khí

Nấu ăn

Máy bơm

Bơm
nước

SP. CUỐI CÙNG
SP. CUỐI CÙNG

Giáo dục

Giải trí
Truyền thông

Sức khỏe

An toàn

Sự thoải mái

Năng suất

Nguồn: WB, 2002, Rural Electrification and Development in the Philippines: Measuring the Social
and Economic Benefits.

Bên cạnh đó, nghiên cứu còn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau.

Ví dụ phương pháp quan sát sự khác nhau giữa các hộ gia đình có sử dụng và không
sử dụng điện để từ đó có thể bổ sung những kết luận chính xác hơn về mức độ lợi ích
mà điện mang lại. Hay nghiên cứu đã sử dụng thước đo WTP cho sản phẩm đầu ra
cuối cùng. Cụ thể, mức WTP cho sự gia tăng về giáo dục có thể được tính toán một
cách hợp lý bởi sự gia tăng trong phần thu nhập của hộ gia đình như là kết quả của


P a g e | 12

việc đi học. Tương tự mức WTP cho việc cải thiện sức khỏe có thể được ước lượng
bởi sự giảm bớt trong chi phí khám chữa bệnh, việc giảm số ngày nghỉ làm việc do
ốm đau và giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong cũng như là sự gia tăng tuổi thọ kỳ vọng.
Đối với mức độ gia tăng của sự thuận tiện, WTP được ước lượng bằng chi phí cơ hội
của thời gian. Chi phí cơ hội về thời gian này được tính tương đương với mức thù
lao của người lao động. Lợi ích của việc gia tăng năng suất lao động có thể được đo
lường tốt nhất bởi giá trị thị trường cho số lượng sản phẩm gia tăng. Lợi ích của sự
gia tăng tiếp cận với các phương tiện giải trí cũng có thể được lượng hóa bằng giá trị
thị trường của việc giải trí đó. Ví dụ lợi ích của việc xem truyền hình có thể được đo
bằng giá trị (bằng tiền) của một tấm vé đi xem phim trong rạp chiếu phim v.v.
Ngoài ra, trong trường hợp nếu có thể ước lượng được đường cầu cho những
sản phẩm đầu ra cuối cùng, cách tính toán của WB theo thông lệ cũng đã được sử
dụng. Tương tự, nếu mức tiết kiệm trong chi phí sản xuất các sản phẩm đầu ra trên
thị trường đã có sẵn để đo lường thì chi phí tiết kiệm đó cũng có thể được sử dụng
như là thước đo lợi ích.
Tóm lại: Có rất nhiều phương pháp và cách thức khác nhau để ước lượng lợi
ích của việc sử điện. Hầu hết các nghiên cứu đều đã có sự kế thừa và phát triển các
cách tiếp cận trước về đánh giá lợi ích mà WB đã áp dụng trong hàng loạt các nghiên
cứu đánh giá tác động của chương trình điện khí hoá nông thôn tại một số quốc gia ở
Châu Á. Theo cách tiếp cận mới mà WB đang làm, việc ước lượng các tác động cuả
việc có điện sẽ đầy đủ hơn, hạn chế được những sai số ở mức tối đa nhất.

Dựa trên tiền lệ mà WB đã sử dụng, tác giả của nghiên cứu này cũng cho rằng
bản thân việc có điện không làm gia tăng thu nhập một cách trực tiếp. Điện đóng vai
trò là một sản phẩm trung gian, hỗ trợ việc tăng thu nhập của gia đình thông qua việc
nâng cao trình độ học vấn, kiến thức, kỹ năng và tầm hiểu biết; nâng cao năng suất
lao động, cải thiện điều kiện làm việc v.v. Ngoài ra thu nhập là một hàm đa biến,
chịu sự tác động của rất nhiều các yếu tố khác nhau. Do đó cũng cần thiết phải xem
xét các biến số này trong nghiên cứu. Phần tiếp sau đây tác giả sẽ trình bày các yếu
tố ảnh hưởng đến thu nhập.


P a g e | 13

1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập
Các nghiên cứu đi trước đều chú trọng đến việc xem xét các yếu tố độc lập có
thể tác động trực tiếp hay gián tiếp lên thu nhập của một hộ gia đình hay cá nhân
người lao động. Các yếu tố độc lập đó là:
(i) Học vấn: Đã từ lâu, các triết gia, các nhà kinh tế sự nhìn nhận giáo dục là
một sự đầu tư mà khởi nguồn từ thời Adam Smith (1776). Các nhà kinh tế trước đây
và đến tận hôm nay đều rất quan tâm đến vai trò của học vấn – con đường để tích luỹ
vốn con người - trong phát triển kinh tế và trong các quá trình sản xuất (Becker,
1962; Kendrick, 1976; Schultz, 1961). Cơ sở lý thuyết vốn con người đề cập đến
những sự đầu tư vào con người để gia tăng năng suất lao động của họ. Theo Becker
(1993), những sự đầu tư này bao gồm đào tạo phổ cập trong nhà trường và đào tạo
chuyên môn trong quá trình làm việc. Lý thuyết vốn con người nhấn mạnh đến khái
niệm các cá nhân như là những nhà đầu tư, cũng giống như các công ty trong các lý
thuyết đầu tư vốn hữu hình. Lý thuyết này cho rằng các cá nhân sẽ đầu tư vào giáo
dục để kiếm được lợi ích cao hơn vào những năm sau khi học. Những sự đầu tư này
bao gồm đào tạo trong trường và đào tạo trong quá trình làm việc; các chi phí học
tập và việc mất thu nhập trong ngắn hạn do dành thời gian cho việc đi học. Tuy
nhiên, nhà đầu tư hi vọng sẽ kiếm được thu nhập cao hơn trong tương lai. Khác với

vốn vật chất, vốn con người có khả năng tăng lên và tự sinh ra khi sử dụng (liên quan
đến kinh nghiệm), mặt khác, nó có khả năng di chuyển và chia sẻ do vậy không tuân
theo qui luật “năng suất biên giảm dần” như vốn vật chất.
Lý thuyết về học vấn, nền tảng của vốn con người cũng là khởi nguồn của
nhiều phát triển của các lý thuyết kinh tế. Những đóng góp này có thể được tóm tắt
như sau: Học vấn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế: (i) đó là
các kỹ năng được tạo ra bởi giáo dục và đào tạo, là yếu tố của quá trình sản xuất kết
hợp với vốn hữu hình và các lao động “thô” (không có kỹ năng) để tạo ra sản phẩm;
(ii) đó là kiến thức để tạo ra sự sáng tạo, một yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế.”
(Mincer, 1989).
Từ nghiên cứu và mô hình của Mincer (1974) logW = β0 + β1S + β2t + β3t2 +
biến khác (w là mức thu nhập, s số năm học tập, t cho biết kinh nghiệm thực tế mấy
năm, t2 là bình phương về kinh nghiệm), đã có nhiều nghiên cứu ước lượng lợi nhuận


P a g e | 14

từ trình độ giáo dục và chỉ ra rằng mối quan hệ giữa trình độ học vấn và thu nhập là
dương. Nhìn chung, kết quả của các nghiên cứu này chỉ ra rằng lợi suất giáo dục nằm
trong khoảng từ 0,05 đến 0,15.
Nghiên cứu của Arias và các tác giả (2001) đã ước lượng tỷ lệ lợi nhuận thu
được từ một khoản đầu tư cho giáo dục ở Mỹ là từ 9% đến 13%. Trong khi đó,
Watkins (1995) tập trung vào mệnh đề đảo: Ông quy cho việc có có mức thu nhập
thấp là do trình độ học vấn thấp và nêu ra: “Thu nhập thấp của những người nghèo
một phần là do hậu quả của việc có kỹ năng và trình độ học vấn thấp. Giáo dục sẽ
làm tăng khả năng kiếm tiền và triển vọng việc làm, mang lại phúc lợi lớn cho xã
hội”.
Tại Việt nam, suất sinh lợi của giáo dục năm 1992-93 là 2,9% và 1997-98 là
5,0%, (Gallup [2004]); năm 2002 là 7,32% (Nguyễn Xuân Thành [2006]), và năm
2004 là 7,4% (Vũ Trọng Anh [2008]). Nghiên cứu Nghèo ở ĐBSCL (2004) cũng

cho thấy tỷ lệ đói nghèo của những người chưa hoàn thành bậc tiểu học là 30% trong
khi tỷ lệ chung ở cả nước là 40%. Hầu như không có người nghèo thuộc nhóm có
trình độ học vấn cao hoặc đi học nghề.
Cũng có những nghiên cứu không dựa trên hàm Mincer mà tiếp cận dựa vào
hàm Cobb –Douglas từ đó chỉ ra ảnh hưởng của học vấn đến thu nhập quốc dân. Ở
Việt Nam, cách tiếp cận này được Đinh Phi Hổ (2003) áp dụng để nghiên cứu ảnh
hưởng của kiến thức nông nghiệp tới thu nhập của nông dân ở ĐBSCL. Kết quả cho
thấy mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức độ kiến thức và thu nhập.
Bên cạnh đó, có thể kể ra hàng loạt các công trình nghiên cứu thực nghiệm
khác có kết luận tương tự. Báo cáo Đánh giá nghèo đói có sự tham gia của cộng
đồng (1999) cho thấy trình độ kỹ thuật yếu kém, hạn chế về ngôn ngữ, không biết
đọc, biết viết và biết đếm bị coi là các nét quan trọng của cuộc sống tồi tàn trong tất
cả các điểm nghiên cứu. Điều này dẫn đến nhiều nguy cơ rủi ro tiềm tàng như bị lừa
trên thị trường. Ngoài ra trình độ kỹ thuật yếu kém được dẫn chứng là nguyên nhân
dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh và chết cao của đàn gia súc, năng suất cây trồng thấp và hạn
chế kinh tế hộ gia đình.
Báo cáo của WB (1995) cũng đã nêu rõ “giáo dục góp phần nâng cao đời
sống của người dân, đặc biệt với những người nghèo bằng cách nâng cao năng suất


P a g e | 15

lao động, giảm tỷ lệ sinh, tăng cường sức khoẻ và bằng cách trang bị để con người
tham gia một cách đầy đủ vào nền kinh tế và xã hội”.
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu đều chỉ ra mối quan hệ tuyến tính thuận
chiều khá chặt giữa yếu tố học vấn và thu nhập. Đây là một trong các yếu tố quan
trọng nhất ảnh hưởng đến thu nhập của một cá nhân hay một hộ gia đình.
(ii) Số người phụ thuộc có tác động nghịch biến đối với biến số thu nhập.
Ảnh hưởng của yếu tố người phụ thuộc hầu như mang tính số học. Rõ ràng, nếu các
yếu tố khác là như nhau nhưng số người phụ thuộc của gia đình nào cao hơn thì thu

nhập trung bình tính trên đầu người sẽ giảm. Và vì vậy số người phụ thuộc ảnh
hưởng trực tiếp đến mức thu nhập bình quân tính trên đầu người. Trong rất nhiều
nghiên cứu về đói nghèo hay đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập, biến số
người phụ thuộc được đề cập đến như là một trong số các biến số chính. Các nghiên
cứu đi trước cũng thường đưa ra cách tính thu nhập bình quân đầu người (Y/N)
bằng các nguồn thu theo giờ làm việc (Y/H), số giờ làm việc bình quân 1 lao động
(H/L) và tỷ lệ số người sống trong hộ (L/N). Do đó công thức có dạng:
Y/N=Y/H*H/L*L/N2.
Từ công thức trên ta thấy một hộ gia đình sẽ có mức sống tốt hơn chỉ khi các
thành viên đang làm việc của hộ nhận được mức lương cao hơn hoặc làm việc nhiều
thời gian hơn, hay chỉ khi hộ đó có tỷ lệ người làm việc cao hơn (tức là giảm số
người phụ thuộc trong hộ). Các hộ có nhiều người phụ thuộc, đặc biệt là trẻ nhỏ
thường bị xếp vào các hộ nghèo do không chỉ có ít lao động hơn so với số miệng ăn
trong gia đình mà còn do phải chi trả gánh nặng chi phí giáo dục hay chi phí khám
chữa bệnh gây bất ổn cho gia đình3.
(iii) Quy mô hộ gia đình (tổng số người trong gia đình) và loại hình gia đình
(hạt nhân/mở rộng) cũng là yếu tố thường được các nghiên cứu đề cập. Do nền kinh
tế Việt Nam phát triển từ mức khởi điểm thấp dựa chủ yếu vào nông nghiệp nên nó
bị chi phối bởi nền sản xuất sử dụng nhiều lao động. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng,
2

Dominique Haughton, Jonathan Haughton và Nguyễn Phong (2001) “Mức sống trong thời đại
bùng nổ ở Việt Nam” Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội .
3

Trong nghiên cứu này, người được coi là phụ thuộc gồm trẻ em dưới 15 tuổi, người mất khả năng
lao động và người trên 60 tuổi mà không có các khoản lương hưu hay trợ cấp.


P a g e | 16


đối với khu vực sản xuất nông nghiệp, các hộ gia đình có quy mô lớn sẽ có thu nhập
bình quân đầu người cao hơn do các tận dụng được lợi thế kinh tế theo quy mô.
Ngược lại nhiều nghiên cứu cho thấy, những hộ có từ 5 đến 7 thành viên có mức thu
nhập bình quân giờ lao động cao nhất, tuy nhiên thu nhập bình quân đầu người cao
nhất lại thuộc về những hộ có từ 3 đến 4 thành viên. Đối với những hộ gia đình có
chủ hộ làm nông nghiệp, thu nhập có khuynh hướng tăng khi quy mộ đạt tới mức tối
đa là 6 và sau đó giảm đi. Nguyên nhân được lý giải là do những hộ có quy mô quá
lớn có khuynh hướng có trình độ giáo dục thấp hơn và dẫn đến kết quả là quy mô hộ
càng lớn thì thu nhập càng giảm (UNDP, 2000).
(iv) Nghề nghiệp của gia đình: Theo Báo cáo phát triển Việt Nam (UNDP,
2000), người nghèo, người có thu nhập thấp hơn thường rơi vào nhóm các hộ thuần
nông với trình độ học vấn thấp và khả năng tiếp cận thông tin bị hạn chế. Có tới 90%
người thu nhập thấp sống ở khu vực nông thôn và 45% dân nông thôn sống dưới
ngưỡng nghèo. Các tính toán về tỷ lệ nghèo theo nghề nghiệp chỉ ra rằng, những
người sống dưới ngưỡng thu nhập thấp thường là thành viên của những hộ là nông
dân tự do hay sống phụ thuộc vào nông nghiệp, không có nghề phụ nào khác. Thông
thường, khả năng có được thu nhập ổn định nào đó từ công ăn việc làm hay từ các
ngành nghề phi nông nghiệp đã mang lại sự ổn định và đảm bảo trong nguồn thu
nhập của hộ gia đình. Thậm chí ngay cả đến đứa trẻ cũng nhận thức được rằng, cần
có thu nhập ổn định để đảm bảo cuộc sống gia đình.
Từ các kết luận trên cho thấy, yếu tố nghề nghiệp của gia đình là rất quan
trọng, cần thiết được đưa vào mô hình để kiểm soát biến số thu nhập.
(v) Giới tính chủ hộ cũng có ảnh hưởng tới vấn đề thu nhập của hộ. UNDP
(2006) trong Báo cáo phát triển con người cho thấy, Việt Nam là nước có mức bất
bình đẳng về thu nhập xét trên giới tính của người lao động thấp so với một số quốc
gia lân cận như Trung Quốc, Thái Lan, thậm chí thấp hơn nhiều so với Nhật Bản một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là thu
nhập của nam giới và nữ giới ở Việt Nam đã bình đẳng.



P a g e | 17

Hình 2.2 Tỷ lệ (%) thu nhập theo giới tính tại một số nước Châu Á

(Nguồn: UNDP, Báo cáo phát triển con người, 2006)
Theo Báo cáo đánh giá nghèo đói có sự tham gia của người dân (1999), trung
bình, các hộ có phụ nữ là chủ gia đình thường tập trung vào trong nhóm nghèo hơn
trong xếp hạng mức sống. Song cũng có một số phát hiện trái chiều: thu nhập bình
quân đầu người của những hộ gia đình có chủ hộ là nữ cao hơn so với nam giới. Các
thành viên trong những hộ này không chỉ làm việc nhiều thời gian hơn mà còn nhận
được mức lương cao hơn mức trung bình. Đồng thời chi tiêu bình quân đầu người
của những thành viên ở các gia đình có nữ làm chủ hộ cũng cao hơn tỷ lệ này ở các
gia đình nam giới làm chủ hộ và tỷ lệ nghèo đói thấp hơn. Tuy nhiên nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng, trong khi các gia đình do phụ nữ làm chủ hộ ở Việt Nam nói chung
sung túc hơn thì vẫn có nhóm gia đình nhỏ mà chủ hộ là phụ nữ làm chủ hộ lại rất
nghèo và hoặc có nguy cơ bị tổn thương cao(UNDP, 2006).
Rõ ràng đã có những kết luận trái chiều trong kết quả của nhiều nghiên cứu
đối với biến số giới tính của chủ hộ. Do đó, đối với mẫu nghiên cứu này, biến số giới
tính chủ hộ cũng được đưa vào để xem xét tác động của chúng đối với biến phụ
thuộc: thu nhập bình quân đầu người.
(vi) Dân tộc luôn là yếu tố tạo ra sự khác biệt lớn về thu nhập hoặc chi tiêu.
Ngay cả khi các điều kiện khác giống nhau, thu nhập của nhóm người dân tộc thiểu
số thấp hơn so với nhóm người Kinh là 13% (Nghèo, 2004). Theo thông cáo báo chí,
UNDP (2006): mặc dù các dân tộc thiểu số chỉ chiếm 14% tổng số dân nhưng chiếm


P a g e | 18

tới 29% số người nghèo. Ngoài ra, trong khi tỷ lệ đói nghèo đã giảm ở hầu hết các
vùng trong cả nước, ở cả thành thị lẫn nông thôn thì các dân tộc thiểu số (trừ dân tộc

Hoa) có tốc độ giảm nghèo thấp hơn so với tốc độ giảm nghèo chung của cả nước (từ
86% năm 1993 xuống 75% năm 1998 so với mức giảm chỉ từ 54% xuống còn 31%).4
Trung bình, các hộ gia đình dân tộc thiểu số làm việc nhiều bằng bất cứ hộ gia đình
nào khác nhưng mức thu nhập của họ lại chỉ bằng 60% trung bình cả nước. Sở dĩ loại
trừ người Hoa ra khỏi nhóm dân tộc thiểu số có mức sống nghèo bởi có tới 2/3 số hộ
gia đình người Hoa (dân tộc này chiếm khoảng 2% dân số cả nước) thuộc nhóm giàu
trong khi gần 50% các hộ gia đình thuộc các dân tộc thiểu số bị xếp vào hộ nghèo
(tổng dân số của nhóm này chiếm 14% số dân của cả nước) (UNDP, 2006). Nghiên
cứu của UNDP cũng chỉ ra rằng, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, các hộ
gia đình dân tộc thiểu số (trừ dân tộc Hoa) có xác suất trở thành hộ nghèo là 32% và
xác suất để trở thành hộ giàu chỉ là 8%.
Các kết quả trên cho thấy sự cần thiết đưa biến dân tộc vào trong mô hình hồi
quy để ước lượng tác động của yếu tố này và loại trừ tác động của chúng khi muốn
xem xét, đánh giá tác động thuần của việc một hộ có/ không sử dụng điện đối với
mức thu nhập bình quân.
(vii) Khác biệt về mức thu nhập do ảnh hưởng của vùng địa lý cũng được
nhiều nghiên cứu đề cập. Theo lý thuyết kinh tế vĩ mô, sự khác biệt trong thu nhập
giữa các vùng được lý giải bởi (i) cung và cầu lao động không giống nhau và (ii) cơ
cấu cung và cầu lao động khác nhau giữa các vùng. Đồng thời thu nhập còn bị ảnh
hưởng bởi yếu tố cơ sở hạ tầng. Rõ ràng tình trạng thu nhập bị ảnh hưởng bởi vị trí
địa lý, nơi sinh sống cũng như cách mà vị trí địa lý này có ảnh hưởng lên khả năng
tiếp cận những nhu cầu thiết yếu như nước sinh hoạt, nhiên liệu, nơi ở và thức ăn. Nó
cũng tác động lên tính dễ bị tổn thương trước những tai nạn rủi ro của người dân
vùng sâu vùng xa.
Trên thực tế, vùng nào có cơ sở hạ tầng tốt thì vùng đó sẽ thu hút được đầu tư
và kéo theo là cung - cầu lao động cao và ngược lại. Việc phát triển kết cấu hạ tầng
có tác động cả về kinh tế lẫn xã hội. Hạ tầng góp phần làm tăng thu nhập gián tiếp
4

Dominique Haughton, Jonathan Haughton và Nguyễn Phong (2001) “Mức sống trong thời đại

bùng nổ ở Việt Nam” Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội.


×