Sáng kiến kinh ngiệm Năm 2009
I. Đặt vấn đề
Tiếng mẹ đẻ có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống
mỗi con ngời. Với cộng đồng đó là phơng tiện để giao tiếp và t duy. Đối với trẻ em,
tiếng mẹ đẻ càng có vai trò quan trọng. Trẻ em đi vào trong đời sống của mọi ngời xung
quanh nó duy nhất thông qua phơng tiện tiếng mẹ đẻ và ngợc lại. Để đạt đợc mục tiêu
sử dụng tiếng mẹ đẻ làm công cụ giao tiếp và t duy, trờng Tiểu học cần dạy lời nói. Vì
vậy ngôn bản nói và ngôn bản viết có vai trò rất quan trọng. Muốn giúp các em có vốn
từ trong sáng, diễn đạt lu loát, bộ môn Tiếng việt đã trau dồi cho các em vốn từ. Ngay từ
buổi đầu đến trờng, các em đã đợc học những bài thơ, bài ca dao, bài văn hay, Qua đó
mà các em đã biết đợc những câu văn hay, câu thơ hay. Bộ môn Tiếng Việt là then chốt,
là chìa khoá để các em bớc vào lĩnh hội, tiếp thu các nguồn tri thức của các môn học
khác. Phân môn Tập làm văn có nội dung chủ yếu là dạy học sinh sản sinh các ngôn từ
văn bản nói và viết. Để có thể nói và viết đợc ngôn bản, học sinh phảI hiểu đợc các ngôn
bản tiếp nhận khi giao tiếp. Do đó, Tập làm văn cũng bao hàm cả nội dung lĩnh hội ngôn
bản. Song việc dạy sản sinh các ngôn bản vẫn là nhiệm vụ chính, nội dung học tập
chính.
Chính vì hiểu đợc tầm quan trọng của bộ môn Tiếng Việt, tôi đã đem hết khả
năng của mình đi sâu vào việc bồi dỡng kĩ năng tập làm văn cho học sinh
II. GiảI quyết vấn đề
Phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng trong bộ môn
Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn yêu cầu các em vận dụng vốn từ đã học, viết đợc
những bài văn hay diễn đạt tốt những điều mà bản thân các em đã hiểu, đã quan sát đợc.
Qua giờ Tập làm văn, học sinh có đợc sự kết hợp hài hoà giữa văn cuộc đời và văn
nhà trờng. Biết cách viết văn linh hoạt để có thể sống hoà nhập với cuộc sống hiện đại.
Muốn có đợc một bài văn hay, đúng yêu cầu của đề bài đòi hỏi phải luyện tập nhiều kĩ
năng đa dạng. Phn ln các k nng cơ bn vit vn ó hc nh tr ng nhng vi
nhng hiu bit ú, không phải ai cũmg viết đợc hay.
Tất cả những bài văn viết hay đều chứa đựng những cảm hứng và hiểu biết của ngời
viết. Ngời viết lại phải có năng lực vận dụng Tiếng Việt, diễn đạt những cảm hứng và hiểu
biết đó thành bài văn, gây đợc ấn tợng mạnh mẽ và sâu sắc cho ngời đọc.
Tạo ra đợc cảm hứng, có vốn hiểu biết phong phú về cuộc sống và về Tiếng Việt
là những cơ sở rèn luyện kĩ năng viết văn.
* Tạo cảm hứng để viết văn hay.
Cảm hứng là động cơ thúc đẩy ham muốn viết văn. Cảm hứng bắt nguồn từ cảm
thụ văn học (qua sách báo, kể chuyện, thơ và văn đợc học và đợc đọc), từ hiểu biết thực
tế cuộc sống hàng ngày diễn ra quanh ta và từ hoạt động Tiếng Việt giàu đẹp trong văn
học, trong học tập, giao tiếp.
Khi đọc một cuốn chuyện, một bài văn, một bài thơ hay, các em cảm nhận đợc
bao điều mới mẻ, lí thú, hấp dẫn. Ham mê đọc sách báo văn học, biết đọc có suy nghĩ,
Nguyễn Thị Phơng Nam GV Trờng TH Xuân Ngọc
1
Sáng kiến kinh ngiệm Năm 2009
có chọn lọc, học tập cách thể hiện nội dung và diễn đạt ngôn từ tích luỹ cho mình
những mẫu mực để rèn luyện kĩ năng viết văn.
Một trong những biểu hiện cảm hứng văn học là biết phát biểu nhận xét đúng
đắn, biết bày tỏ cảm xúc chân thật trớc một hình ảnh, một chi tiết, một từ ngữ trong
cuốn chuyện, bài văn, bài thơ đang học.
Nhờ những cảm thụ tinh tế, sâu sắc mà các em viết đợc bài văn tốt theo yêu cầu
của đề bài
*Tập quan sát.
Cảm hứng gắn liền với quan sát. Tiếp xúc với các tác phẩm thơ văn, các em quan
sát cách lựa chọn nội dung, sắp xếp bố cục, cách hành văn,
Tìm ra những lời hay, ý đẹp của tác giả. Tiếp xúc với thực tế cuộc sống, các em
làm giàu vốn hiểu biết sâu rộng về thiên nhiên, về con ngời, loài vật và làm giàu vốn
Tiếng Việt, đáp ứng đòi hỏi diễn tả thực tế bằng lời văn sinh động, gợi cảm.
Quan sát thực tế nh thế nào để viết đợc văn hay?
Trớc hết phải xác định đối tợng và mục đích quan sát, căn cứ quan sát để tìm ý
cho bài văn. Khi đã có đề tài, em chủ động quan sát sự vật để tìm ý. Tuy nhiên, trong
cuộc sống hàng ngày, do tiếp xúc, quan hệ với sự vật, em cũng đã tích luỹ đợc những
hiểu biết chi tiết về sự vật đó. Thói quen quan sát sự vật không chỉ thể hiện khi thực sự
cần thiết cho việc viết một bài văn mà phải là thói quen thờng xuyên khi tiếp xúc với
mọi vật xung quanh ta, ở mọi nơi, mọi lúc. Có những chi tiết không thể cảm nhận bằng
lối quan sát trực tiếp, mà chỉ hình dung đợc trong trí óc.
Khi quan sát một sự vật, sự việc, các em phải xem xét sự vật, sự việc đó ở một nơi,
một lúc nhất đinh, trong một hoàn cảnh cụ thể và trong mối quan hệ với sự vật, sự việc khác.
Tả một con mèo con, ta có thể chú ý những chi tiết khi mèo mẹ nô đùa cùng mèo con, mèo
con dụi dụi vào lòng mẹ,, thái độ, cử chỉ của mèo mẹ với con của nó.
Ta có thể quan sát sự vật, sự việc trong cách suy nghĩ, hiểu biết của ngời khác. Ví
dụ nh nghe một câu chuyện, biết một vật, một ngời qua lời nói của ngời khác hoặc đọc
trong sách báo viết về câu chuyện đó, về ngời, về vật đó. Quan sát qua sự quan sát của
ngời khác là con đờng học tập, tích luỹ những hiểu biết cuộc sống. Hằng ngày, ông bà,
cha mẹ, bà con lối xóm nói năng, trao đổi, các thầy cô giáo giảng bài trên lớp, bạn bè
trò chuyện,Sách báo cung cấp kiến thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Sự
quan sát trong giao tiếp, trong học tập giúp ích nhiều cho công việc viết văn của em, gợi
trí tởng tợng và kích thích cảm hứng cho bài văn sắp viết ra. Nh vậy muốn viết văn hay,
em phải đọc nhiều sách báo. Điều đó mở mang trí tuệ cho em, làm cho các em có hiểu
biết phong phú hơn rất nhiều.
Biết quan sát là biết chọn chỗ đứng xem xét sự vật.
Ví dụ: Tả một con thuyền trên sông, em có thể đứng trên bờ sông hoặc trên một
con thuyền khác, hoặc ngay trong lòng con thuyền em định tả để quan sát.
Cần phải quan sát sự vật trong biến đổi: ngời và vật đang hoạt động, làm việc, sinh
hoạt, sự vật đang phát triển, trong trạng thái chuyển động và trong mối quan hệ với con
ngời. Quan sát sự vật không đứng yên giúp cho cảm hứng thêm sâu sắc, sinh động và khi
viết bài văn mới có đợc cái mới, cái riêng, cái độc đáo mới viết ra đợc những điều mà
ngời bình thờng không trông thấy (Phạm Hổ). Nh vậy, ngay khi bắt đầu quan sát để
Nguyễn Thị Phơng Nam GV Trờng TH Xuân Ngọc
2
Sáng kiến kinh ngiệm Năm 2009
chuẩn bị ý tứ nội dung và trong khi viết văn em phải có tình cảm, hứng thú và duy trì cảm
hứng đó ít ra là cho đến khi viết thành công bài văn.
* Phát huy trí tởng tợng.
Viết văn cần có trí tởng tợng. Tởng tợng và quan sát thực tế có liên quan với nhau.
Tởng tợng có cơ sở thực tế (do quan sát, thu thập đợc và do kinh nghiệm sống tích luỹ đ-
ợc). ở lớp, các em đã đợc học làm kiểu bài văn kể chuyện tởng tợng.
Ví dụ: Cho ba nhân vật: ngời mẹ bị ốm, ngời con hiếu thảo và một bà tiên. Hãy
tởng tởng và viết thành câu chuyện.
Không chỉ tởng tợng khi viết loại văn tởng tợng, tởng tợng trong tất cả thể loại:
miêu tả, kể chuyện, làm thơ Sự kết hợp trí tởng tợng phong phú và thực tế tinh tế trong
một bài văn là điều kiện cần thiết để viết bài văn hay.
Nói tởng tợng trong viết văn là những điều ngời viết nghĩ ra một cách có chủ ý,
nghĩa là tởng tợng phải hợp lí và có mục đích. Tởng tợng không phải là bịa đặt vô căn
cứ, tuỳ tiện.
Ví dụ: Nhân vật Dế Mèn tự kể về chuyện phu lu của mình, suy nghĩ và hành động
nh một con ngời là do tởng tợng của nhà văn mà vẫn không xa lạ với đặc điểm của loài
dế côn trùng và tuổi trẻ của nhà văn đã nhận biết, quan sát đợc.
Nói tóm lại, để viết đợc một bài văn hay (đã xác định đợc nội dung viết gì, viết về
sự vật, sự việc gì), em phải có sự chuẩn bị. Đó là việc tìm hiểu kĩ ngời, vât, việc, hoàn
cảnh cụ thể, diễn biến cụ thể để phát hiện nét mới, nét riêng, nét độc đáo đa vào bài văn.
Kết quả quan sát sự vật phải khơi nguồn cho những sáng tạo nên các hình ảnh sinh
động, bằng trí tởng tợng phong phú và cảm hứng dồi dào.
Chỉ ở lớp 4, học sinh mới thực sự tập làm văn. Vì vậy cần phải nghiên cứu một
vài điểm có tính nguyên tắc việc dạy và học tập làm văn lớp 4.
Học sinh l trung tâm của quá trình học tập, là t tởng cơ bản của giáo dục hiện
đại. Trong việc dạy - học Tập làm văn cũng vậy, học sinh phải thực sự làm chủ quá trình
hình thành kĩ năng sản sinh văn bảnThầy giáo chỉ đóng vai trò ngời tổ chức, dắt dẫn
để học sinh làm việc.
Để thực hiện đợc yêu cầu trên, khó nhất là tạo đợc hứng thú học tập làm văn cho
học sinh.
Mặt khác giáo viên cần tôn trọng sự độc lập suy nghĩ, sự sáng tạo của học sinh
qua bài tập làm văn. Mỗi bài tập làm văn là sản phẩm của từng cá nhân học sinh trớc
một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, cách
kể, cách tả, cách diễn đạtNgời giáo viên luôn tôn trọng sự độc lập suy nghĩ, sáng tạo
đó nếu nó không biểu lộ những lệch lạc.
*Phải coi trọng yêu cầu thực hành:
ở đây là thực hành kĩ năng viết văn bản. Mỗi tiết Tập làm văn phải là một tiết thực
hành, cần tăng thời gian cho sự luyện tập của học sinh. Tuy nhiên, học sinh luôn nắm chắc lí
thuyết về từng kiểu bài một cách chính xác, đầy đủ để giúp các em thực hành tốt.
Phải giúp cho học sinh viết văn có cảm xúc và chân thực:
Nguyễn Thị Phơng Nam GV Trờng TH Xuân Ngọc
3
Sáng kiến kinh ngiệm Năm 2009
ở lớp 4, học sinh học chủ yếu các bài thuộc ngôn ngữ nghệ thuật (miêu tả, kể
chuyện). Loại văn thuộc ngôn ngữ nghệ thuật đòi hỏi bài viết phải giàu cảm xúc. Tạo nên
cái hồn, chất văn của bài làm. Muốn vậy phải luôn nuôi dỡng ở các em tâm hồn trong
sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễ xúc động và luôn hớng tới cái thiện.
Mặt khác các bài làm của học sinh phải chân thực: chân thực khi miêu tả, lúc viết
th hay kể chuyện, lúc phát biểu cảm xúc Giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái
độ giả tạo, sáo rỗng. Một biểu hiện cụ thể của căn bệnh này là thói làm bài theo cách
sao chép nguyên văn bản mẫu.
Trong trờng hợp này, giáo viên cần bình tĩnh chỉ ra các thiếu sót, hớng dẫn để học
sinh tự sửa chữa.
* Quy trình dạy bài tập làm văn lớp 4.
Đặc điểm của quy trình này là:
Mỗi tiết học là một tiết thực hành, một hoặc vài kĩ năng làm văn (kĩ năng viết mở
bài, kết bài và đoạn văn trong bài văn).
Coi trọng việc luyện tập, sản sinh văn bản cả hai hoạt động nói và viết.
Không có tiết dạy lí thuyết riêng nh trớc đây. Các hiểu biết có tính lí thuyết đợc
rút ra sau khi thực hành và trình bày rải ra qua nhiều tiết trong mục ghi nhớ.
u điểm của quy trình trên là nhấn mạnh tới tính thực hành, chú trọng các kĩ
năng. Vì vậy, giáo viên cần chú ý tới phần ghi nhớ để học sinh nắm vững lí thuyết.
Sau đây là quy trình cụ thể: Quy trình bài miêu tả đồ vật:
+ Quan sát và tìm ý tả đồ vật.
+ Quan sát và xếp ý tả đồ vật (Phần thân bài: Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật.
Luyện tập xây dựng đoạn văn trong bài văn miêu tả đồ vật)
+ Mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả đồ vật.
+ Làm bài viết tại lớp về miêu tả đồ vật.
+ Trả bài viết.
Từ quy trình trên, chúng ta cần đi sâu vào luyện tập: tìm ý, làm dàn ý, làm bài
viết và trả bài.
1.Phơng pháp tìm ý:
Nhiệm vụ của việc tìm ý là thông qua giải quyết một bài cụ thể luyện cho học
sinh hai kĩ năng: kĩ năng tìm hiểu một đề bài cụ thể và kĩ năng tìm ý cho đề bài đó để
chuẩn bị làm bài. Đồng thời cung cấp cho các em hiểu biết chung nhất mang tính lí
thuyết về kiểu bài, loại bài.
-Tìm hiểu đề bài
Việc tìm hiểu đề bài có ý nghĩa quan trọng. Đây là bớc định hớng cho quá trình
làm bài.
Muốn tìm hiểu đề bài đúng phải đọc nhiều lần đề bài, tìm hiểu ý nghĩa của từ,
tiếng, vế câu, chọn ra những từ ngữ quan trọng nhất. Từ đó trả lời mấy câu hỏi sau:
+ Đề bài yêu cầu viết loại văn nào? (miêu tả, kể chuyện hay viết th cho ai?)
Nguyễn Thị Phơng Nam GV Trờng TH Xuân Ngọc
4
Sáng kiến kinh ngiệm Năm 2009
+ Phạm vi bài làm đến đâu? Trọng tâm bài là ở chỗ nào?
2. Phơng pháp làm dàn ý:
Muốn lập đợc dàn bài, học sinh phải tiến hành lựa chọn sắp xếp thành hệ thống
các ý, đa chúng vào những phần khác nhau của một dàn bài cụ thể.
Cần cho học sinh làm dàn bài ngay tai lớp, học sinh chỉ chuẩn bị ý ở nhà. Đến
lớp, cả lớp cùng giáo viên xây dựng một dàn bài chung. Khi tiến hành công việc này,
giáo viên cần hớng dẫn học sinh thao tác cụ thể để lựa chọn ý, sắp xếp các ý theo hệ
thống đề mục, hệ thống hoá cách diễn đạt ý.
3. Lựa chọn từ ngữ
Từ ngữ Tiếng Việt giàu và đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc điểm cấu tạo l
đa dạng về kiểu loại (từ đơn, từ ghép và từ láy), phong phú về ý nghĩa, linh hoạt về sử dụng.
Từ trong văn thơ thờng có sức gợi tả hình ảnh, âm điệu và gợi cảm xúc mạnh mẽ.
Chẳng hạn: khi miêu tả một sự vật ngoài việc quan sát đặc điểm của sự vật
còn phảI biết lựa chọn từ ngữ miêu tả phù hợp, chính xác, cụ thể để không nhầm lẫn với
những sự vật khác.
Ví dụ: Miêu tả con ngan mới nở. Khi đi miêu tả các bộ phận của con ngan
đó cần lựa chọn từ ngữ miêu tả nh sau:
Các bộ phận
Từ ngữ miêu tả
Hình dáng chỉ to hơn cái trứng một tí
Bộ lông Vàng óng, nh màu của những con tơ nõn mới guồn
Đôi mắt chỉ bằng hột cờm. đen nhánh hạt huyền, long lanh đa đi đa đi đa lại nh
có nớc
Cái mỏ Màu nhung hơu, vừa bằng ngón tay đứa bé mới đẻ, mọc ngay ngắn
đằng trớc
Cái đầu Xinh xinh, vàng nuột
Hai cái chân Lủn chủn, bé tí, màu đỏ hồng
4. Dùng các kiểu câu
Khi viết văn cần phối hợp các kiểu câu (câu theo mục đích nói, viết: câu kể, câu
hỏi, câu cầu khiến, câu cảm). Khi đặt câu, ngoài thành phần chính, còn cần thiết dùng
các thành phần phụ thích hợp diễn tả hoàn cảnh, thời gian, không gian, các tình huống
của sự việc nêu trong câu. Các từ ngữ phạt huy đợc giá trị gợi tả hay gợi cảm khi đợc đặt
đúng vị trí ngữ pháp của chúng trong cấu tạo câu.
Ví dụ : Một buổi sáng mùa thu mát mẻ, tôi từ trờng học về nhà. Bỗng một tiếng
uỵch làm tôi sững lại. Một cụ già đèo bó củi ngã lăn xuống vỉa hè. Bó củi văng ra,
chiếc xe đạp tuột xích nằm chỏng chơ. Tôi đang ngó nghiêng nhìn cụ thì mấy bạn đang
chơi gần đấy vỗ tay khoái trá:
- Hoan hô, ngã xe đạp! Hoan hô!
Tôi cảm thấy khó chịu. Bỗng từ đâu ba bốn bạn cả nam lẫn nữ chạy ra trách mắng
mấy bạn chơi:
Nguyễn Thị Phơng Nam GV Trờng TH Xuân Ngọc
5