Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Vai trò của phép biện chứng duy vật đối với thực tiễn việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.81 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

[1]
1


MỞ ĐẦU
Phép biện chứng duy vật là một học thuyết khoa học, là linh hồn của chủ
nghĩa Mác, là đỉnh cao của tư duy khoa học mà nhân loại đã đạt được thông qua
bộ óc thiên tài của C.Mác vào giữa thế kỷ XIX. Sau đó đã được Ph.Ăngghen bổ
sung và hoàn thiện vào cuối thế kỷ XIX và V.I.Lênin phát triển trong điều kiện
cách mạng mới vào đầu thế kỷ XX. Sau khi tiếp thu, nghiên cứu lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được hạt nhân của chủ nghĩa
Mác - Lênin chính là Phép biện chứng duy vật với nhận xét rất cô đọng: “Chủ
nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”1
Với nhân quan khoa học, sự công bằng khách quan, chúng ta có thể khẳng
định rằng, triết học Mác - Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng
vẫn là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa
học và thực tiễn cách mạng, với ý nghĩa đó, làm rõ những vấn đề trên là một
việc mang tính thời sự có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà cả trong thực
tiễn, không chỉ đối với lịch sử, hiện tại mà cả tương lai và trong cuộc đấu tranh
trên mặt trận tư tưởng hiện nay.
Và để làm rõ hơn những vấn đề liên quan đến phép biện chứng duy vật và
vai trò của phép biện chứng duy vật đối với Việt Nam hiện nay em xin được lựa
chọn đề tài số 3: “Vai trò của phép biện chứng duy vật đối với thực tiễn Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay” làm nội dung cho bài tiểu luận của mình

1 />
thuc-hien-duong-loi-doi-moi-cua-Dang-Cong-san-Viet-Nam.html, ngày truy cập 19/9/2019.

[2]


2


NỘI DUNG
I. Khái quát chung về phép biện chứng duy vật
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã
cung cấp thực tiễn cho C.Mác và Ph.Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận
về phép biện chứng. Dựa trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX) đi vào hệ thống hoá tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây
là hai tiền đề thực tiễn rất quan trọng cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật.
Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy
tâm của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép
biện chứng và vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một
cách thần thánh hoá tư duy, nói cách khác các ông đã cải tạo một cách duy vật
phép biện chứng duy tâm Hêghen.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu
hình (Triết học cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép
biện chứng duy vật không chỉ duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh
vực xã hội, do đó các ông đã xây dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng:
"Phép biện chứng... là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy".
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác — Lênin còn có một số định nghĩa
khác về phép biện chứng duy vật. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến, Ph.Ăngghen đã định nghĩa: "Phép biện chứng là khoa học về
sự liên hệ phổ biến"; còn khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển

(trong đó có bao hàm học thuyết về sự phát triển của nhận thức) trong phép biện
chứng mà C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hêghen, V.I.Lênin đã khẳng định:
"Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là
học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không
[3]
3


phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức
này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng"',V.V..
3. Những đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện
chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc
trưng này, phép biện chứng duy vật không chỉ có sự khác biệt căn bản với phép
biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt là với phép biện chứng của Hêghen
(là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy tâm), mà còn
có sự khác biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng đã từng
có trong lịch sử triết học từ thời cổ đại (là phép biện chứng về căn bản được xây
dựng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật nhưng đó là chủ nghĩa duy vật còn ở
trình độ trực quan, ngây thơ và chất phác).
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác—Lênin có sự
thống nhất giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận
hiện chứng duy vật, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là
công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lý, quy luật trong
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ là sự giải thích
đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa học
của việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Trên cơ sở khái quát mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật
phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của tất thảy mọi sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa

Mác - Lênin cung cấp những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho quá
trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, đó không chỉ là nguyên tắc phương
pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể, phưong pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm tìm ra nguồn gốc, động lực
cơ bản của các quá trình vận động, phát triển,… 2 Với tư cách đó, phép biện
chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức
và cải tạo thế giới.
2 ngày truy cập 19/9/2019.

[4]
4


Với những đặc trưng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là
một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chú
nghĩa Mác - Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan vả phương pháp luận
chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và
hoạt động thực tiễn.
Tóm lại, phép biện chứng duy vật là kết quả của sự chín muồi về mặt lịch
sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp ứng nhu
cầu về mặt lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát triển của
phép biện chứng gắn với tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng thành công phép
biện chứng Mác-xít trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga
năm 1917. Sự phát triển của V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật thể hiện trong
lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một công cụ sắc bén để cải tạo thế
giới một cách cách mạng nhất.
II. Vai trò của phép biện chứng duy vật đối với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
1. Vai trò của phép biện chứng duy vật trong quá trình xây dựng và thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi

xướng và lãnh đạo đã trải qua hơn ba mươi năm, đã thu được nhiều thành tựu
quan trọng, đã, đang và sẽ đem lại những thay đổi lớn lao cho đất nước và dân
tộc. Kết quả quan trọng đó có phần quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của triết học mác xít, trong đó có
phép biện chứng duy vật vào xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới.
Tổng kết 30 năm qua đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết 8 mối
quan hệ lớn, đó là: quan hệ đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã
hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ
[5]
5


giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Điều đó cho thấy, trên cơ sở vận dụng phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Đảng ta đã “bước đầu xác định được mối quan hệ hữu cơ, mối liên hệ nội tại
giữa tám mối quan hệ lớn, đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước với sự chi
phối và thúc đẩy lẫn nhau giữa các quan hệ. Trong từng mối quan hệ đều có hai
mặt thống nhất và mâu thuẫn. Các mối quan hệ không chỉ tác động, chi phối lẫn
nhau theo tương tác nhân - quả, mà còn thâm nhập, giao thoa, quy định lẫn nhau.
Điều quan trọng trong nhận thức các mối quan hệ là ở chỗ, tất cả các quan hệ
đều thống nhất ở mục tiêu phát triển, đều tất yếu thông qua đổi mới, đều phục vụ
cho lợi ích cao nhất: phát triển đất nước, vì lợi ích của nhân dân và của dân tộc”.
Từ nhận thức về 8 mối quan hệ lớn và mối liên hệ hữu cơ giữa chúng,
Đảng ta xác định rõ mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước hiện nay là: “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then

chốt, phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an
ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”. Điều đó giúp cho chúng ta thấy rõ:
“Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc,
toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân”.
Thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc vận dụng sáng tạo phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề mâu
thuẫn nội tại nảy sinh trong quá trình đổi mới là hoàn toàn phù hợp. T
rên quan điểm duy vật biện chứng để tổng kết, đánh giá Đảng ta đã rút ra 5
bài học kinh nghiệm quan trọng làm tiền đề, từ đó xác định phương hướng cho
chặng đường tiếp theo của sự nghiệp đổi mới, đó là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương,
chính sách xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết
tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta”3.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới,

Nxb CTQG, H.2015, tr.182 – 184.

[6]
6


Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn
đề thực tiễn cách mạng đặt ra vừa là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật.
Để triển khai một cách hiệu quả, đòi hỏi các thế hệ cách mạng hiện nay phải
nắm được bản chất của phép biện chứng duy vật, không ngừng học tập và rèn
luyện mới có thể vận dụng một cách đúng đắn phương pháp biện chứng duy vật

vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra mà không rơi vào ngụy biện,
chiết trung… để thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội./.
2. Vai trò của phép biện chứng duy vật trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội
Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua sự phát triển của
CNTB, xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Đó là con đường
quá độ lâu dài, mà có thể nói mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ này là mâu thuẫn
giữa xu hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa
xã hội. Quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của cách mạng
nước ta là quá trình vừa phải kế thừa những mặt cần thiết hợp lý của chủ nghĩa
tư bản để phát triển lực lượng sản xuất lại vừa phải đấu tranh loại bỏ những mặt
tiêu cực, mất nhân tính của chủ nghĩa tư bản. Con đường quá độ lên CNXH ở
nước ta đòi hỏi phải chủ động và tự giác phát triển và sử dụng CNTB làm khâu
trung gian, làm phương tiện để đi lên CNXH, nhất là hướng tư bản đi vào con
đường tư bản Nhà nước. Đó chính là sự thống nhất của các mặt đối lập thông
qua các biện pháp trung gian và quá độ.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định sạch trơn
CNTB, không thể cho rằng cái gì đó có trong CNTB là không thể có trong
CNXH, càng không thể áp dụng nguyên vẹn mô hình CNXH ở nước khác để
xây dựng nước ta. Chúng ta phải nhận thức được tính tất yếu của sự phát triển.
Do đó, để xây dựng thành công CNXH, chúng ta phải lấy lý luận của C.Mác Lênin làm kim chi nam cho hành động, đồng thời phải học hỏi, nghiên cứu tình

[7]
7


hình thực tế của các XHCN, TBCN trên thế giới để áp dụng vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của nước ta.
Ngày nay chủ nghĩa tư bản vẫn đang trong quá trình tự điều chỉnh để thích

nghi và phát triển trong điều kiện mới với những đặc điểm nổi bật như: toàn cầu
hóa, kinh tế tri thức, tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư… Song những đặc điểm đó ngày càng khoét sâu mâu thuẫn nội tại cơ bản của
chủ nghĩa tư bản mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra, đó là mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm
hữu tư nhân của quan hệ sản xuất. Những giải pháp mà chủ nghĩa tư bản đang sử
dụng để duy trì sự tồn tại dần vượt khỏi giới hạn thích nghi của nó. Chính những
phương tiện mà chủ nghĩa tư bản tạo ra để duy trì sự tồn tại của mình lại là “cỗ
xe không phanh” đang trên đà lao dốc đưa chủ nghĩa tư bản đến chỗ tự phủ định
chính mình - Đó chính là biện chứng khách quan của lịch sử. Hay hiểu theo
quan điểm biện chứng duy vật thì chủ nghĩa tư bản hiện đại đang “thai nghén”
chủ nghĩa xã hội với những tiền đề vật chất và những yếu tố thuận lợi cho chủ
nghĩa xã hội nảy sinh và phát triển ngay trong lòng nó. Điều này rất đúng với
các nước tư bản phát triển cao. Nhưng các nước này không thể tự phát chuyển
đổi sang chủ nghĩa xã hội được mà phải thông qua cuộc cách mạng xã hội của
quần chúng nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo thì mới có thể lật
đổ ách thống trị của giai cấp tư sản.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn diễn ra gay gắt.
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và các nước thuộc địa trước đây đã chuyển
thành mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển và
giữa các nước đế quốc, các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc
gia, các trung tâm tư bản lớn vẫn đang diễn ra gay gắt vì mục tiêu lợi nhuận.
Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ở trong từng quốc gia và trên phạm vi quốc
tế đang ngày càng được mở rộng, thành cuộc đấu tranh rộng rãi của các tầng lớp
nhân dân chống lại giai cấp tư sản vì chủ nghĩa tư bản hiện đại có hiệu suất bóc
lột giá trị thặng dư rất cao, với sự hỗ trợ đắc lực của khoa học công nghệ thì máy
móc tự động hóa đang dần thay thế lao động chân tay làm cho nhân công ngày
[8]
8



càng dư thừa, thất nghiệp… làm cho xã hội ngày càng có sự phân cực rõ rệt,
khoảng cách giàu - nghèo ngày càng tăng. Tất cả những đặc điểm mới của chủ
nghĩa tư bản hiện đại không hề làm mất đi bản chất bóc lột, bất công.
Vì vậy, Đảng ta đã nhận định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” và “Những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”
3. Vai trò của phép biện chứng duy vật trong việc quản lý kinh tế và xã hội
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta lại
gặp phải một mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển
kinh tế và phát triển xã hội. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá hoạt
động theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của thị
trường thông qua hoạt động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế thị
trường có ưu điểm ở chỗ là phát huy được tính năng động sáng tạo của mọi chủ
thể kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của xã hội. Tuy
nhiên cơ chế thị trường đồng thời kích thích đầu cơ, làm sai lệch các quan hệ thị
trường, gây ra khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã
hội. Một trong những đặc điểm của nền kinh tế XHCN là xây dựng một Nhà
nước "của dân, do dân, vì dân", xây dựng một xã hội "công bằng văn minh".
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII
đã khẳng định: "Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là
thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn tại khách quan, cần thiết cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây
dựng”.
Để giữ vững bản chất CNXH trong phát triển kinh tế Nhà nước cần sử
dụng các công cụ của mình để tiến hành điều tiết lợi ích giữa các thành phần
kinh tế, đảm bảo mọi thành viên trong xã hội được hưởng thành quả trong phát
triển kinh tế. Nhà nước có thể sử dụng các công cụ như thuế thu nhập cao, trợ

cấp, bảo hiểm để tiến hành phân phối lại thu nhập xã hội; xây dựng kế hoạch
[9]
9


phát triển kinh tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát triển xã hội. Đây chính là
công cụ, phương tiện quan trọng để tác động giải quyết mâu thuẫn trên làm cho
nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN.
Phát huy dân chủ trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Quan hệ giữa nền dân chủ xã hội và nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là mối liên hệ giữa mục tiêu và phương tiện, giữa cái bất biến và
cái khả biến trong tổng thể sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
Không có nền dân chủ chủ nghĩa xã hội thì không thể có chủ nghĩa xã hội, càng
không thể có 1 nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1 cách đúng
đắn với tư cách là 1 trong những phương tiện quan trọng, 1 trong những động
lực to lớn và mạnh mẽ để đẩy nhanh tốc độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.

[10]
1
0


KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với quy luật phát triển
của nhận thức. Đây là một khoa học triết học toàn diện nhất, sâu sắc và triệt để
nhất của sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Với bản chất khoa học
và cách mạng, phép biện chứng duy vật đã, đang và tiếp tục cung cấp cho chúng
ta hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến, thực sự khoa học và có

hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội nói chung.
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu phép biện chứng duy vật
một cách có hệ thống, nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những
nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi
mới tư duy, là định hướng tư tưởng và mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc
bén để đấu tranh chống lại tư duy siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng
lợi mục tiêu XHCN của cách mạng nước ta.

[11]
1
1


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Nxb.Chính trị

2.

Quốc gia, năm 2013.
Hỏi – đáp môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, NXB Đại

3.

học Quốc gia Hà Nội, năm 2013.
.Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn

4.


qua 30 năm đổi mới, Nxb CTQG, H.2015, tr.182 – 184.
/>
5.

Nam.html, ngày truy cập 19/9/2019.
ngày truy
cập 19/9/2019.

[12]
1
2



×