Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tìm hiểu vai trò của nghề luật trong xã hội ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.38 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

Một số vấn đề lý luận về luật sư và quá trình phát triển ở Việt
Nam.

1.

Khái niệm về luật sư, nghề luật sư.

2.

Quá trình phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam

2.1

Trước cách mạng tháng Tám.

2.2

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến đại thắng xuân 1975

2.3

Giai đoạn từ 1975 đến nay

2.4

Giai đoạn đổi mới đất nước



II.

Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay

1.

Về đội ngũ luật sư

2.

Về hoạt động hành nghề của luật sư

3.

Về tổ chức luật sư và quản lý luật sư

4.

Về việc bảo vệ quyền hành nghề luật sư và bảo vệ luật sư

5.

Về địa vị xã hội hiện nay của luât sư

III.

Vai trò của nghề luật sư trong xã hội Việt Nam hiện nay

1.Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp c ủa b ị

can, bị cáo và đương sự trước tòa.
2.Vai trò của luật sư trong việc tư vấn pháp luật góp ph ần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
3. Vai trò của luật sư trong việc tuyên truyền, ph ổ biến, giáo dục, xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
4.Vai trò của luật sư trong việc phát triển hội nhập kinh tế quốc tế
IV. Đề xuất biện pháp phát triển vị trí, vai trò nghề luật sư trong xã hội
Việt Nam hiện nay. Liên hệ thực tế với sinh viên Đại học Luật Hà Nội
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tính cấp thiết của đề tài xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt là sự phát triển về
mặt kinh tế đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt xã hội trong đó có yếu tố pháp lý.
Việc hội nhập và phát triển kinh tế tạo cơ hội cho nhiều ngành nghề phát triển,
trong đó có ngành nghề luật. Ở nghĩa rộng nhất, nói đến những người làm nghề
luật là chúng ta nói đến thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên, công chứng viên,...
Theo nghĩa này, chúng ta thấy nghề luật thật phong phú và đa dạng và trong xã
hội pháp quyền, tất cả các nghề luật đều cần được tôn vinh một cách xứng đáng.
Xuất phát từ tầm quan trọng đối với việc nhìn nhận nghề luật ở Việt Nam hiện
nay, nhóm em đã chọn đề tài số 4: “Tìm hiểu vai trò của nghề luật trong xã hội
ở Việt Nam hiện nay”.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Một số vấn đề lý luận về luật sư và quá trình phát triển ở Việt Nam
1. Khái niệm về luật sư, nghề luật sư
Thứ nhất, theo Điều 2 Luật luật sư năm 2006 quy định: "Luật sư là người có
đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch

vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là
khách hàng)”.
Thứ hai, nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến thức
pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý và bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật và quy
chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần bảo
vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Quá trình phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam
2.1 Trước cách mạng tháng Tám
2


Trước khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm chiếm, việc xét xử ở nước ta
do vua quan phong kiến tiến hành. Chỉ sau khi xâm lược Nam Kỳ, ngày
26/11/1876 người Pháp ban hành Nghị định về việc biện hộ cho người Pháp
hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp tại tòa án Pháp. Sau khi thiết lập bộ máy
cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, năm 1884, Toàn quyền Pháp ký sắc lệnh
thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội gồm các luật sư người Pháp và
người Việt Nam đã nhập quốc tịch Pháp. Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm
quyền Pháp đã mở rộng cho người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm
luật sư. Sắc lệnh ngày 25/5/1930 của người Pháp về tổ chức Luật sư Đoàn ở Hà
Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng. Sắc lệnh này cho phép các luật sư không chỉ biện hộ ở
Tòa án Pháp mà cả trước Tòa Nam án; không chỉ bào chữa cho người có quốc
tịch Pháp và người không có quốc tịch pháp.
2.2 Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến đại thắng xuân 1975
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cộng
hòa Việt nam ra đời. Ngày 10/10/1945 chủ tịch nước ký sắc lệnh số 46/SL về
đoàn luật sư. Pháp lệnh đã quy định về những vấn đề phù hợp với chế độ mới
như :
+Các luật sư được bào chữa ở tất cả các tòa án từ cấp tỉnh trở lên và các tòa án

quân sự.
+Điều kiện trở thành Luật sư : Công dân Việt Nam không kể nam hay nữ, có
bằng cử nhân Luật, có hạnh kiểm tốt, đã tập sự 3 năm ở văn phòng Luật sư.
Những quy định trong pháp lệnh đã thể hiện sự ưu tiên, quan tâm của nhà
nước ta với nghề luật sư. Chỉ tiếc rằng ngay sau đó, ngày 19/12/1946, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ khi Hiến Pháp 1946 chưa được công
bố chính thức. Trong kháng chiến, các luật sư đều tham gia công tác tại các cơ
quan quân, dân, chính Đảng. Để khắc phục tình trạng thiếu luật sư, Sắc lệnh số
69/SL ngày 18/6/1949 quy định quy chế định bào chữa viên cho các bị cáp tại
3


các Tòa án. Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng cho người không phải
là luật sư cũng được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong
các vụ án dân sự.
2.3 Giai đoạn từ 1975 đến nay
Sau chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30/4/1975, đất nước ta đã thống nhất.
Hiến Pháp năm 1980 và Hiến Pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đều quy định quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật
sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý. Cụ thể là
đại hội Đảng toàn quốc năm 1986 đã tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời
sống xã hội trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng được ban
hành theo hướng mở rộng dân chủ trong tố tụng, tăng cường, bảo đảm quyền
bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Trong bối cảnh
đó, pháp lệnh tổ chức luật sư đầu tiên được ban hành ngày 18/12/1867. Đây là
văn bản pháp luật có ý nghĩa lịch sử trong việc khôi phục nghề luật sư và mở
đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở Việt Nam trong thời kì đổi mới. Chỉ
sau gần 10 năm, ở hầu hết các tỉnh, thành phố đã thành lập được đoàn luật sư
cũng có bước phát triển đáng kể. Ngoài việc tham gia tố tụng, cac luật sư đã
từng bước mở rộng hoạt động nghề nghiệp sang lĩnh vực tư vấn pháp luật và

thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
2.4 Giai đoạn đổi mới đất nước
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chủ
trương, biện pháp cải cách mạnh mẽ về tổ chức, hoạt động của các hệ thống
chính trị, trong đó có việc đổi mới tổ chức hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và thúc đẩy quá
trình hội nhập của đất nước. Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành. Nội
dung của Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động
luật sư theo hướng chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ luật sư, nghề luật
4


sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tạo
cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của luật sư ở Việt Nam. Với nội
dung tiến bộ, phù hợp với yêu cầu khách quan. Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã
nhanh chóng đi vào cuộc sống. Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, đội ngũ luật
sư đã tăng đáng kể về cả số lượng và chất lượng. Trong tham gia tố tụng, nhiều
luật sư đã dần khẳng định trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp khi tham
gia tranh tụng tại các phiên tòa. Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư cũng đã
có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là tư vấn cho khách hàng trong các
lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại ngày càng nhiều và ngày càng nâng cao
về chất lượng dịch vụ.
II. Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay Thực trạng nghề luật sư ở
Việt Nam hiện nay
1.Về đội ngũ luật sư
Sau khi Pháp lệnh luật sư và đặc biệt là Luật Luật sư 2006 được ban hành,
đội ngũ luật sư đã có sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Sự phát triển,
thay đổi của đội ngũ luật sư một phần do những quy định đổi mới của Luật Luật
sư về các tiêu chí như tiêu chuẩn luật sư, điều kiện hành nghề luật sư, quy trình
trở thành luật sư, các quy định về tập sự, gia nhập Đoàn Luật sư... Theo thống kê

của Liên đoàn Luật sư cho thấy, hiện cả nước có gần 5.800 luật sư và hơn 2.000
luật sư tập sự. Từ sau khi pháp lệnh hành nghề luật sư có hiệu lực (năm 2001)
đến nay, số lượng luật sư đã tăng 250%.
Tuy nhiên, vấn đề về đội ngũ luật sư nước ta còn một số hạn chế cần được khắc
phục sau đây:
+Thứ nhất, số lượng luật sư hiện có so với dân số còn rất thấp.
+Thứ hai, chất lượng của đội ngũ luật sư còn nhiều hạn chế. Gần một nửa số
lượng luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng hành
nghề. Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu
tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Các luật sư vẫn còn thiếu
kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến quá trình
5


bào chữa, tranh luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị tại phiên toà. Một số luật sư còn
có thái độ ứng xử nghề nghiệp chưa đúng mực trong quan hệ với các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp, làm ảnh
hưởng đến uy tín của đội ngũ luật sư. Hơn nữa, luật sư nước ta còn yếu về trình
độ ngoại ngữ cũng như kiến thức về pháp luật quốc tế.
+Thứ ba, về mức độ chuyên môn hoá trong hành nghề, đa số luật sư ở nước ta
hành nghề trong tất cả các lĩnh vực tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện
ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Tuy số lượng luật sư ở nước ta trong
những năm gần đây tăng lên đáng kể, song vẫn chưa hình thành được đội ngũ
các luật sư chuyên sâu về những lĩnh vực khác nhau. Các luật sư chủ yếu hành
nghề trong hai lĩnh vực dân sự và hình sự. Trong các lĩnh vực pháp luật khác
như hành chính, lao động, kinh tế…tỷ lệ vụ việc mà các luật sư tham gia tương
đối thấp.
2.Về hoạt động hành nghề của luật sư
Thứ nhất, về phạm vi hành nghề. Có thể thấy rằng sau khi Pháp lệnh luật
sư năm 2001 và đặc biệt sau khi Luật Luật sư được ban hành, hoạt động hành

nghề luật sư ở Việt Nam có những bước chuyển rõ rệt. Theo quy định của Pháp
lệnh luật sư thì dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, thực hiện
tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Luật Luật sư đã mở rộng hơn
phạm vi hành nghề luật sư với việc quy định luật sư được đại diện ngoài tố tụng
cho khách hàng. Có thể nói trên cơ sở những quy định ngày càng thông thoáng
hơn của pháp luật cộng với sự nỗ lực của các luật sư, dịch vụ pháp lý của luật sư
tăng đáng kể về số lượng và nâng cao một bước về chất lượng.
+ Tham gia tố tụng là lĩnh vực hành nghề chủ yếu của các luật sư hiện nay.
Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia giải quyết hàng trăm nghìn vụ án.
Vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã có những bước phát triển
về chất. Xuất phát từ việc pháp luật tố tụng đang từng bước được hoàn thiện, các
cơ quan tiến hành tố tụng đã quan tâm hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho
luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị
cáo, đương sự. Ý kiến của luật sư tại phiên toà đã được cơ quan công tố quan
6


tâm và coi trọng. Việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt
hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách
quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
+ Tư vấn pháp luật là lĩnh vực hành nghề quan trọng của luật sư, đặc biệt trong
điều kiện nhu cầu về tư vấn pháp luật trong xã hội ngày càng tăng nhanh. Các
luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong các lĩnh vực kinh doanh, đầu tư,
thương mại. Trong lĩnh vực pháp luật dân sự thì tư vấn về đất đai, hôn nhân gia
đình đang là mảng tư vấn phổ biến và sôi động nhất. Với điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá, các luật sư hoạt động trong lĩnh vực tư vấn pháp
luật đang phát huy vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp đàm
phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp phát sinh đặc biệt trong các
lĩnh vực mới mẻ như đầu tư nước ngoài, sở hữu trí tuệ, quan hệ thương mại hàng

hoá có yếu tố nước ngoài...
Bên cạnh đó, các luật sư cũng đã tham gia tích cực vào hoạt động trợ giúp
pháp lý cho người nghèo, đối tượng thuộc diện chính sách. Việc tham gia vào
hoạt động này không chỉ thực hiện một cam kết mang tính chất nghĩa vụ của luật
sư đối với xã hội mà còn góp phần tạo lập sự công bằng cho các đối tượng được
hưởng trợ giúp pháp lý. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia trợ giúp
pháp lý cho hàng chục nghìn vụ việc, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người thuộc diện chính sách. Có thể nói, mặc
dù còn những hạn chế, nhưng hoạt động của luật sư thời gian qua đã đáp ứng
một phần quan trọng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của công dân và tổ chức, đóng góp
đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các
đương sự khác.
Thứ hai, về hình thức hành nghề của luật sư. Theo quy định của Pháp
lệnh luật sư năm 2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ chức hành nghề luật
sư (thành lập hoặc tham gia thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh
hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư, kể cả tổ chức hành
nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Luật Luật sư đã mở rộng hình thức hành
7


nghề của luật sư, theo đó luật sư không chỉ hành nghề trong tổ chức hành nghề
luật sư như quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, mà còn được phép hành
nghề với tư cách cá nhân dưới hình thức tự mình nhận và thực hiện dịch vụ pháp
lý cho khách hàng theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, hoặc làm việc cho cơ quan, tổ
chức theo hợp đồng lao động.
Thứ ba, về hình thức tổ chức hành nghề luật sư. Theo quy định của Luật
Luật sư thì tổ chức hành nghề luật sư bao gồm:
+ Văn phòng luật sư là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư thành lập được
tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân;
+ Công ty luật bao gồm Công ty luật hợp danh và Công ty luật trách nhiệm hữu

hạn. So với Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã quy định thêm loại
hình Công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Hơn nữa , để phù hợp với quy định của
Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư còn quy định Công ty luật trách nhiệm hữu
hạn có thể là Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc Công
ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Như vậy, hình thức tổ chức hành nghề luật sư cũng được mở rộng, tạo
điều kiện thuận lợi cho các luật sư lựa chọn mô hình hoạt động nhằm phát huy
hết khả năng sử dụng các điều kiện để hành nghề một cách thuận lợi nhất.
3. Về tổ chức luật sư và quản lý luật sư.
Luật Luật sư hiện nay đã quy định hệ thống tổ chức luật sư từ trung ương
đến các địa phương, đó là Tổ chức luật sư toàn quốc và Đoàn luật sư ở các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương.
Hiện nay, Liên đoàn luật sư Việt Nam đã được thành lập gần một năm, với
việc quy định về Tổ chức luật sư toàn quốc và nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức
này, Luật Luật sư đã tăng cường đáng kể vai trò tự quản của tổ chức luật sư. Tới
đây, Liên đoàn luật sư Việt Nam sẽ ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư; phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành quy chế tập sự
hành nghề luật sư, đào tạo nghề luật sư, kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật
sư. Hơn nữa Liên đoàn luật sư Việt Nam còn được giao quyền cấp, thu hồi Thẻ
luật sư, quy định mẫu trang phục luật sư tham gia phiên toà…
8


Thời gian qua, công tác của các Đoàn luật sư đối với nghề luật sư đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn được giao, các
Đoàn luật sư đã thực hiện tương đối tốt công tác giám sát, kiểm tra việc tuân thủ
pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Điều lệ
Đoàn luật sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp thời nhắc nhở, uốn nắn
và có biện pháp xử lý nghiêm minh các trường hợp luật sư vi phạm. Các Đoàn
luật sư tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, tham gia tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, trợ giúp pháp lý, tư vấn miễn
phí, bào chữa miễn phí.
Tuy vậy, hoạt động tự quản của các Đoàn luật sư còn một số hạn chế cần
sớm khắc phục như:
+Hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của nhiều Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư
trong còn chưa cao.
+Một số Đoàn luật sư chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị
tư tưởng, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho luật sư;
công tác giám sát, quản lý người tập sự hành nghề luật sư còn mang tính hình
thức.
+Một số Đoàn luật sư phối hợp chưa tốt với cơ quan quản lý nhà nước ở địa
phương trong việc quản lý hành nghề luật sư, việc quản lý hành nghề luật sư ở
những địa phương này kém hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức và hoạt
động luật sư ở địa phương.
+Các Đoàn luật sư chưa thực hiện tốt chức năng đại diện để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các luật sư. Đoàn luật sư chưa thực sự là nơi tập hợp những
bức xúc, khó khăn, vướng mắc, đề xuất, kiến nghị của luật sư liên quan đến hoạt
động hành nghề và đại diện cho luật sư trong việc kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Hơn nữa, đối với công tác tự quản của tổ chức luật sư, cũng cần nói đến
vai trò của các tổ chức hành nghề luật sư. Việc tổ chức, điều hành văn phòng
luật sư, công ty luật cũng được cải tiến, tiếp cận gần hơn với cách tổ chức, điều
hành tiên tiến, hiện đại của các công ty luật ở các nước trên thế giới. Một số tổ
9


chức hành nghề luật sư đã cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho cá nhân,
tổ chức nước ngoài, tham gia giải quyết tranh chấp lớn có yếu tố nước ngoài.
Một số công ty luật đã có nhu cầu, khả năng và trong thực tế đã thuê luật sư
nước ngoài làm việc cho công ty mình. Trong thời gian qua, đa số các tổ chức

hành nghề luật sư đã làm tốt công việc giáo dục, giám sát luật sư trong việc tuân
theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư. Tuy nhiên,
một số tổ chức hành nghề luật sư chưa thực sự quan tâm đến công việc này,
đồng thời có biểu hiện lỏng lẻo trong việc quản lý các luật sư của tổ chức mình,
để xảy ra hiện tượng luật sư vi phạm pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà
tổ chức không biết hoặc bỏ qua.
4.Về việc bảo vệ quyền hành nghề luật sư và bảo vệ luật sư
Sở dĩ phải nói đến vấn đề này, bởi trên thực tế hiện nay, dù các quy định
của pháp luật đã quy định quyền tham gia tố tụng của luật sư, nhưng ở nhiều
phiên tòa, tiếng nói, vai trò của luật sư không thực sự có giá trị. Nhiều luật sư
trong quá trình hành nghề đã đành phải chấp nhận những rủi ro ngoài mong
muốn, họ thậm chí phải đổ máu vì nghề nghiệp.
Những biểu hiện về sự coi thường pháp luật, xâm hại đến quyền hành
nghề của luật sư cả trong và ngoài phiên tòa dường như đang diễn ra hàng ngày,
tuy nhiên chưa có những giải pháp thực sự hữu hiệu để đảm bảo rằng luật sư
được hành nghề với đầy đủ quyền của mình, đồng thời được bảo vệ khỏi sự xâm
hại về sức khỏe và tính mạng.
Như vậy, nghề luật sư ở Việt Nam nhìn nhận một cách khái quát ở các
khía cạnh vừa đề cập đã cho thấy chiều hướng ngày một được chuyên nghiệp
hóa. Quy định của pháp luật đối với nghề luật sư đã có những bước chuyển lớn
và là nền tảng để chúng ta tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, nhằm tạo điều
kiện tốt nhất cho nghề luật sư phát triển vững mạnh. Tuy nhiên, cũng qua đó để
thấy, còn nhiều những hạn chế, bất cập đã và đang nãy sinh trong hoạt động
nghề nghiệp cũng như công tác quản lý nghề luật sư rất cần những giải pháp hữu
hiệu để hoàn thiện, nhằm nâng cao chất lượng, uy tín của nghề luật sư trong xã
hội, cũng như để khẳng định vị thế của luật sư Việt Nam trên bình diện quốc tế.
10


5. Về địa vị xã hội hiện nay của luât sư

Năm 2006 Việt Nam đã ban hành Luật luật sư (có hiệu lực từ 1/1/2007).
Đây là cơ sở pháp lý tiếp tục củng cố và phát triển đội ngũ luật sư chuyên
nghiệp có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn đóng góp vào công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, hội nhập quốc tế và đáp ứng yêu cầu về
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trên cơ sở những văn bản pháp lý nêu
trên đội ngũ luật sư của Việt Nam đã hình thành và ngày càng phát triển đông về
số lượng, tính chuyên nghiệp và kinh nghiệm hành nghề cũng ngày được nâng
cao.
Ở Việt nam luật sư được tự do lựa chọn hình thức hành nghề theo hình
thức công ty hay văn phòng luật sư thậm chí hành nghề tự do. Tất cả các tổ chức
hành nghề luật sư đều được quyền hoạt động trên các lĩnh vực như: tranh tụng,
tư vấn và cung cấp các dịch vụ pháp lý. Luật sư được tự do hành nghề trong mọi
lĩnh vực pháp lụât. Luật pháp cho phép luật sư có quyền tham gia tranh tụng tại
các tòa án. Hoạt động tranh tụng tại tòa án là một trong những hoạt động có tính
truyền thống của luật sư Hà Nội có từ trước khi thành lập Đoàn luật sư thành
phố Hà Nội. Trong các vụ án hình sự, luật sư được cử để bào chữa cho các bị
can, bị cáo. Pháp lệnh tố tụng hình sự hiện hành đã cho phép luật sư tham gia từ
khi khởi tố vụ án hoặc khi bị can bị tạm giữ tạm giam. Đối với các vụ án phi
hình sự pháp luật quy định luật sư được quyền tham gia để đại diện cho đương
sự hoặc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự tại các Tòa án
Dân sự, Kinh tế, Lao động, Hành chính.
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cùng
với sự tăng trưởng kinh tế không ngừng, đội ngũ luật sư Việt Nam đang từng
bước khẳng định vai trò của mình trong việc góp phần bảo vệ công lý, phát triển
kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
III. Vai trò của nghề luật sư trong xã hội Việt Nam hiện nay
1. Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị

can, bị cáo và đương sự trước tòa
11



Bảo vệ quyền lợi cho đương sự trước Toà là một hoạt động tất yếu của Luật
sư trong quá trình hành nghề. Tại phiên Tòa, sự tham gia của Luật sư nhằm đảm
bảo các hoạt động tố tụng được diễn ra theo đúng các quy định của pháp luật.
Trước khi tham gia phiên toà, kỹ năng tranh tụng của luật sư thể hiện trong giai
đoạn này là một khâu quan trọng, có ý nghĩa rất lớn đối với sự thành công của
việc bào chữa hay bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, Luật sư được tham gia tố
tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc người bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án. Khi tham gia tố tụng Luật
sư được tham gia với hai mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo (thân chủ) và góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án bảo đảm
cho công tác xét xử được khách quan, đúng pháp luật. Khi tham gia trong tố
tụng dù với vai trò là người bào chữa cho của bị can, bị cáo hay người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, lợi ích hợp pháp của đương sự…
thì Luật sư cùng với thân chủ của mình luôn trở thành một bên trong tố tụng. Do
đó khi đã trở thành một bên trong tố tụng thì Luật sư phải sử dụng tổng hợp
những kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức của mình trong đó có kiến thức về
chứng cứ nhằm bác lại quan điểm đối lập, bảo vệ quan điểm của mình.
Ở giai đoạn này, vai trò của Luật sư không đối lập với Viện kiểm sát và Tòa
án bởi vì thông qua hoạt động bào chữa, bảo vệ thân chủ, Luật sư cùng một lúc
phải hướng tới việc góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật. Bên cạnh đó, Luật sư phải hoàn thành sứ mệnh của
mình trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thân chủ trên cơ sở pháp
luật. Đây cũng là mục tiêu hàng đầu của mỗi luật sư khi tham gia tranh tụng.
Cũng như ở những giai đoạn trước của quá trình tố tụng, trong phiên tòa
sơ thẩm hoặc phúc thẩm, luật sư tham gia tranh tụng với tư cách là người đại
diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích pháp của đương sự.
Trong giai đoạn này, luật sư sẽ thay mặt đương sự đưa ra những yêu cầu về thay

đổi người tiến hành tố tụng khi xét thấy cần thiết; trả lời các câu hỏi của Hội
12


đồng xét xử về các vấn đề của vụ án; trình bày yêu cầu về việc giải quyết vụ án;
đưa ra những chứng cứ, lý lẽ để thuyết phục Hội đồng đồng xét xử.
Việc tham gia xét hỏi của luật sư có ý nghĩa rất lớn, khắc phục được
những khiếm khuyết của Hội đồng xét xử và kiểm sát viên trong quá trình xét
hỏi, góp phần vào việc làm rõ các nội dung của vụ án.
Như vậy, thông qua các hoạt động tố tụng của mình, dù với tư cách là
người đại diện hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Luật
sư đều có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa.
Và cũng chính bằng các hoạt động tố tụng của mình trong phiên tòa, Luật sư đã
góp phần thúc đẩy quá trình tố tụng làm cho việc giải quyết vụ án được nhanh
chóng, tạo ra được điều kiện giải quyết vụ án thuận lợi và có chế kiểm soát hoạt
động xét xử bảo đảm cho hoạt động xét xử được tiến hành đúng đắn.
2. Vai trò của luật sư trong việc tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
Theo quy định của Luật luật sư 2006 sửa đổi và bổ sung năm 2012 thì chức
năng xã hội của luật sư là: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ
công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Với chức năng này, bằng các hoạt động của mình, các luật sư đã bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong một số lĩnh vực
như sau:
a. Trong lĩnh vực tham gia tố tụng
Luật sư tham gia trợ giúp pháp lý với tư cách là người bào chữa cho các bị
can, bị cáo người bị tạm giữ trong các vụ án Hình sự hoặc là người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong các vụ án dân sự, hành chính, lao động,
ly hôn, người bị hại trong các vụ án hình sự…
Ngoài ra, luật sư cũng trợ giúp pháp lý cho người chưa thành niên; người
có nhược điểm về thể chất tâm thần; người có khung hình phạt cao nhất là tử
hình... theo sự phân công của Trung tâm trợ giúp pháp lý, Đoàn luật sư và Tổ
13


chức hành nghề luật sư trên cơ sở yêu cầu trợ giúp pháp lý của người thuộc diện
trợ giúp pháp lý hoặc của Cơ quan tiến hành tố tụng.
b. Trong lĩnh vực đại diện ngoài tố tụng
Luật sư sẽ cùng người dân hoặc thay mặt người dân – những đối tượng thuộc
diện được trợ giúp pháp lý để làm việc với các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để giải quyết các vụ việc liên quan đến việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người dân. Thông thường, luật sư tham gia đại diện
ngoài tố tụng thể hiện trong các lĩnh vực như Hành chính, Lao động,khiếu nại…
3. Vai trò của luật sư trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Xã hội ngày càng phát triển, càng phát sinh thêm nhiều mối quan hệ giữa
công dân với công dân, giữa công dân với các cơ quan, tổ chức và giữa các cơ
quan, tổ chức với nhau. Những mối quan hệ này nhiều khi phát sinh mâu thuẫn,
ảnh hưởng đến quyền lợi của mỗi bên. Với tư cách là Luật sư, người am hiểu
pháp luật và kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật, luật sư là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức có hiệu quả nhất tại Tòa
án. Luật sư góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Theo quy định tại Điều 2 Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm
2012) : “ Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định
của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ

chức (sau đây gọi chung là khách hàng).”
Luật sư và nghề luật sư đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội hiện nay. Theo quy định tại Điều 3 Luật luật sư 2006
(được sửa đổi, bổ sung năm 2012), chức năng xã hội của luật sư là: "Hoạt động
nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Luật sư với tư cách là người hiểu biết pháp luật sẽ giúp cho các cơ quan
nhà nước, đảm bảo cho các hoạt động của các cơ quan này diễn ra đúng pháp
luật, không bị sai lầm bằng việc giám sát. Pháp luật phải được mọi người nhận
14


thức và thực hiện thống nhất trong cả nước và tất cả các ngành, pháp luật thống
nhất đòi hỏi mọi người, mọi vùng miền phải có đủ thông tin về pháp luật và
nâng cao ý thức pháp luật.
Luật sư có vai trò rất lớn trong việc giúp cá nhân, tổ chức hiểu biết pháp
luật và thực hiện đúng pháp luật
Theo quy định tại Điều 28 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm
2012 như sau:
“1. Tư vấn pháp luật là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng
soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ.
Luật sư thực hiện tư vấn pháp luật trong tất cả các lĩnh vực pháp luật.
2. Khi thực hiện tư vấn pháp luật, luật sư phải giúp khách hàng thực hiện đúng
pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.”
Trong lĩnh vực tư vấn pháp luật: Luật sư tham gia tư vấn cho khách hàng để
đảm bảo quyền lợi hợp pháp tốt nhất cho khách hàng của mình: tư vấn hợp
đồng, tư vấn cho các doanh nghiệp hoặc thực hiện các dịch vụ pháp lý khác…
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Luật sư với tư cách là độc
lập, đứng ở giữa với nhà nước với nhân dân, do đó, không bị áp lực bởi sự quản
lí của nhà nước. Họ là những người gần gũi, gần nhân dân, hiểu được nhân dân,

do đó khi họ hiểu pháp luật thế nào thì sẽ tuyên truyền cho nhân dân một cách
dễ hiểu nhất. Từ đó tạo nên nhiều ý kiến trái chiều về pháp luất, Luật sư không
đứng cùng phía với Nhà nước để Nhà nước nhận ra được sự hạn chế của pháp
luật để có hướng điều chỉnh cho đúng, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội.
Hoạt động đóng góp xây dựng chính sách, pháp luật về cải cách tư pháp,
cải cách hành chính, và hội nhập kinh tế quốc tế: Tổ chức và tham gia các cuộc
hội thảo, tọa đàm, góp ý bằng văn bản, tham gia ý kiến tại các cuộc họp của
Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố để góp ý đối với các dự án luật và văn bản
dưới luật trong quá trình soạn thảo . Phản ánh, kiến nghị về những khó khăn,
vướng mắc thực tiễn hoạt động luật sư trong khuôn khổ hoạt động giám sát chấp
hành pháp luật của các Đoàn công tác của Quốc hội, Hội đồng Nhân dân…
15


Hoạt động giáo dục: Giáo dục cũng là chức năng quan trọng nhưng lại
chưa được nhận thức một cách đầy đủ. Ví dụ hiển nhiên nhất trong vai trò này là
việc nhiều luật sư kiêm giảng viên giảng dạy ở các trường luật, hoặc ở các
trường đại học, cao đẳng khác có những bộ môn liên quan đến luật pháp. Một số
giảng viên của trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh cũng đồng thời là
luật sư. Sinh viên sẽ là người được hưởng lợi từ điều này, họ học hỏi được kinh
nghiệm từ chính những vụ việc mà luật sư đã trải qua chứ không phải chỉ là học
lý thuyết suông. Thực tế có rất nhiều luật sư đã làm việc trong lĩnh vực giáo dục.
Nhiều luật sư đang hành nghề tham gia giảng dạy qua các hội nghị chuyên đề
khách hàng, những buổi nói chuyện trước công chúng và hướng dẫn khách hàng
biết rõ phải làm gì để tự giúp mình khi gặp vấn đề pháp lý.
Hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật: Trong hoạt động tư
pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm vì ở đây biểu hiện sự tập
trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là hoạt động trên cơ sở kết quả điều tra,
truy tố và bào chữa, Hoạt động tích cực của luật sư với vai trò là người bào chữa
cho bị can, bị cáo cũng góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ công lý. Hoạt động

của luật sư tuy không phải là hoạt động tư pháp, nhưng lại có mối liên hệ gắn
chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp. Hoạt động của luật sư
có thể xem như một công cụ hữu hiệu để giúp cho các cá nhân, tổ chức bảo vệ
được các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Như vậy, có thể nói tranh tụng
là một mắt xích quan trọng trong cải cách tư pháp. Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành của nước ta khi thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp theo
tinh thần Nghị quyết của Bộ chính trị số 08- NQ/TW tại các quy định khác nhau
đã khẳng định các nguyên tắc như: “…bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác; Việc phán quyết của tòa
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; các cơ quan tư
pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng...”.
Qua nhiều năm thực hiện đường lối của Đảng cũng như áp dụng các quy định
pháp luật, bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng hoạt động điều tra, truy
tố và xét xử phần nào đó chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư
16


pháp. Trước tình hình đó, để khắc phục những bất cập tồn tại, Ban chấp hành
trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 49- NQ/TW về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 và tiếp tục khẳng định: Một trong những nhiệm vụ cụ thể
của cải cách tư pháp là“… xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính
công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên
tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Điều này cho thấy
các nghị quyết của Bộ chính trị đã xác định việc nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa là hoạt động có tính cấp thiết và mang tính quyết định đối với việc
đổi mới hoạt động tư pháp.
Hoạt động tranh tụng của luật sư được hiểu là tổng hợp các hoạt động và
kỹ năng nghề nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau diễn ra tại phiên tòa dưới
sự điều khiển của chủ tọa nhằm mục đích thuyết phục Hội đồng xét xử chấp

thuận quan điểm của mình. Và trên cơ sở đó, vai trò của luật sư trong hoạt động
tranh tụng được hiểu là cách thức tác động và ý nghĩa xã hội của luật sư trong
quá trình thực hiện hoạt động tranh tụng nhằm đảm bảo các mục đích bào chữa,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, bảo vệ pháp chế, pháp luật,
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và giám sát hoạt động tư pháp.
4. Vai trò của luật sư trong việc phát triển hội nhập kinh tế quốc tế

4.1. Thực trạng của luật sư trong việc phát triển hội nhập kinh tế quốc
tế
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Luật trở thành một ngành
nghề quan trọng, bởi bất cứ doanh nghiệp, tổ chức nào cũng cần nắm rõ pháp
chế để triển khai hoạt động kinh doanh hiệu quả. Cử nhân Luật vì thế trở thành
đối tượng “săn đón” của các nhà tuyển dụng... Hơn lúc nào hết, hành lang pháp
lý và các vấn đề liên quan đến chính sách về kinh tế phải được đảm bảo, bất cứ
doanh nghiệp, tổ chức nào cũng cần nắm rõ pháp chế để triển khai các hoạt động
kinh doanh đúng pháp luật và phát triển bền vững.
Trong những năm gần đây Việt Nam đang tích cực và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Chúng ta đã tham gia nhiều điều ước quốc tế, gia nhập nhiều tổ
17


chức khu vực và toàn cầu, mà nổi bật là việc gia nhập WTO vào năm 2007. Quá
trình hội nhập vẫn sẽ được tiếp tục trong thời gian tới, khi mà Việt Nam đang
tích cực đàm phán 2 hiệp định thương mại quan trọng: Hiệp định đối tác Xuyên
Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU.
Nhà đầu tư nước ngoài đã có mặt trong nhiều lĩnh vực: từ sản xuất công
nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng đến các ngành dịch vụ quan trọng như: ngân
hàng, chứng khoán, bảo hiểm, viễn thông... Doanh nghiệp trong nước đang đẩy
mạnh phát triển thị trường nước ngoài thông qua xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
Từ một nước trước đây chỉ tiếp nhận đầu tư, đến nay một số doanh nghiệp Việt

Nam đã đầu tư ra nước ngoài.
4.2 Vai trò của luật sư trong việc phát triển hội nhập kinh tế quốc tế

Nhu cầu dịch vụ pháp lý trong hoạt động kinh doanh, thương mại chỉ mới
hình thành vào đầu thập niên 1990, chủ yếu từ các nhà đầu tư, thương nhân nước
ngoài, và từ một số ít doanh nghiệp trong nước. Ở cấp độ quốc gia, luật sư có thể
đóng góp vào quá trình đàm phán các hiệp định, điều ước quốc tế, tham gia vào
các vụ tranh tụng quốc tế với chủ thể là các cơ quan nhà nước, các hiệp hội. Ở
cấp độ doanh nghiệp, nhu cầu về hoạt động của luật sư rất đa dạng, từ các dịch
vụ tư vấn pháp lý cho giao dịch quan trọng, phức tạp của doanh nghiệp, đến các
hoạt động tranh tụng tại tòa án hoặc trọng tài quốc tế…
Chính sự gia tăng nhu cầu của thị trường là thuận lợi cơ bản cho sự phát
triển của hoạt động luật sư và thị trường dịch vụ pháp lý.
Về chính sách, pháp luật: Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
Chiến lược phát triển luật sư đến năm 2020 và Đề án Phát triển đội ngũ luật sư
phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2010 – 2020, đặt ra những mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp cụ thể cho việc phát triển nghề luật sư nói chung và phát
triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập. Với những cơ sở chính trị và pháp lý nêu
trên, vai trò luật sư trong tiến trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính, phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế được nâng cao. Đồng thời, hỗ
trợ của Nhà nước đối với việc phát triển hoạt động luật sư đã được khẳng định.
18


Về sự trưởng thành của đội ngũ luật sư: Một số tổ chức luật sư nước ngoài
đang thực hiện “nội địa hóa”, qua việc đưa luật sư Việt Nam vào những vị trí
chủ chốt, mở rộng thị trường sang doanh nghiệp trong nước, thì một số tổ chức
luật sư trong nước đã bắt đầu có xu hướng “quốc tế hóa”, thể hiện qua việc phát
triển khách hàng nước ngoài, phát triển thị trường ra nước ngoài, tuyển dụng
luật sư nước ngoài …Sự trưởng thành bước đầu này tạo ra cơ sở cho sự phát

triển và lớn mạnh của đội ngũ luật sư Việt Nam trong hoạt động kinh doanh
thương mại quốc tế.
Vai trò của đội ngũ luật sư trong việc tham gia vào việc giải quyết các
tranh chấp quốc tế có xu hướng tăng, hỗ trợ có hiệu quả cho Chính phủ, doanh
nghiệp trong nhiều vụ việc phòng vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng
xuất khẩu của Việt Nam, tham gia giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO.
Đội ngũ luật sư Việt Nam (hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư Việt
Nam và tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam) đã có nhiều hoạt
động hợp tác, tham gia, trợ giúp cho các hãng luật nước ngoài trong toàn bộ quá
trình giải quyết vụ việc hoặc hỗ trợ tích cực cho Chính phủ, UBND một số tỉnh
trong quá trình các vụ kiện với nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, năng lực
đào tạo trong nước đối với đội ngũ LS hội nhập được tăng cường.
IV. Đề xuất biện pháp phát triển vị trí, vai trò nghề luật sư trong xã hội Việt
Nam hiện nay. Liên hệ thực tế với sinh viên Đại học Luật Hà Nội
1.

Một số biện pháp phát triển vị trí, vai trò nghề luật sư trong xã hội
Việt Nam hiện nay.
Luật sư và nghề luật sư đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan

trọng trong đời sống xã hội hiện nay. Theo quy định tại Điều 3 Luật luật sư 2006
( sửa đổi bổ sung năm 2012), chức năng xã hội của luật sư là: "Hoạt động nghề
nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhận thấy rõ điều này, dựa trên cơ sở
thực trạng của nghề luật sư hiện nay, đề xuất một số phương hướng, giải pháp
nhằm nâng cao, phát triển vị trí, vai trò của nghề luật sư hiện nay như sau:
19



Trước hết, để nâng cao vai trò cũng như vị trí của nghề Luật trong xã hội,
trong các hoạt động tham gia tố tụng của luật sư, quyền điều tra và thu thập
chứng cứ, cũng như một số hoạt động nghề nghiệp khác của luật sư; hoàn thiện
quy định để từng bước mở rộng tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo quyền bào
chữa của luật sư được thể hiện một cách thực chất. Các Liên đoàn luật sư cần
xác định là phải sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ chính trị, pháp lý được Đảng,
Nhà nước giao phó trong việc đóng góp vào cải cách tư pháp, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách thủ tục hành chính.
Tiếp theo Cần sớm ban hành bộ quy tắc thống nhất về đạo đức nghề
nghiệp luật sư và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư. Hiện nay, đa số luật
sư Việt Nam tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư và các quy định
của pháp luật liên quan đến tổ chức và hành nghề luật sư. Tuy nhiên, các quy tắc
đó chưa được áp dụng một cách thống nhất, hơn nữa việc tuân thủ quy tắc đạo
đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức một cách
đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành
nghề và trong cuộc sống.
Cần sớm ban hành các quy định điều chỉnh và giám sát nhằm cải tiến nội
dung, phương pháp để nâng cao chất lương đào tạo nghề luật sư, nâng cao chất
lượng tập sự hành nghề luật sư thông qua việc các Đoàn luật sư thực hiện
nghiêm túc cơ chế giám sát người tập sự hành nghề luật sư, luật sư hướng dẫn,
tổ chức hành nghề luật sư trong việc tuân theo Quy chế tập sự hành nghề luật sư;
tạo điều kiện thuận lợi để người tập sự được nghiên cứu, tiếp cận những kiến
thức pháp luật mới, đồng thời tạo cơ hội cho người tập sự được trực tiếp tham
gia hoạt động nghề nghiệp, nâng cao kỹ năng hành nghề luật sư.
Cùng với đó, từng bước chuyên nghiệp hoá, chuyên môn hoá các hoạt
động tự quản. Tăng cường, củng cố, mở rộng các hợp tác quốc tế. Thực hiện tốt,
hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi luật sư, công tác giám sát đạo đức nghề
nghiệp luật sư đi đôi với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức nghề
nghiệp luật sư. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và
kỹ năng nghề nghiệp luật sư để từng bước nâng cao chất lượng và số lượng đội

20


ngũ luật sư đáp ứng các yêu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của nhân dân và hội
nhập quốc tế.
Bên cạnh các chính sách xây dựng và củng cố pháp luật của Đảng, Nhà
nước, các cơ quan, tổ chức, đặc biệt mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo của
các trường luật, các trường đào tạo nghề luật sư để đảm bảo chất lượng, uy tín
đội ngũ luật sư khi tham gia hành nghề.
2.

Liên hệ thực tế với sinh viên đại học Luật
Đặc biệt đối với sinh viên Trường Đại Học Luật Hà Nội – một trong

những cơ sở đứng đầu cả nước về đào tạo cử nhân Luật thì việc đổi mới hình
thức phổ biến, giáo dục pháp luật là rất quan trọng. Theo đó trường có thể đổi
mới, nâng cao chất lượng các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật ngoại khóa
bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi và nhận
thức của sinh viên như: xây dựng và tổ chức các câu lạc bộ tuổi trẻ với pháp
luật, nghe nói chuyên về pháp luật, tổ chức tham dự phiên tòa xét xử các vụ án
vị thành niên phạm tội.
Hơn nữa, trường có thể xây dựng, bổ sung tài liệu thiết bị cho Thư viện
trường phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tăng cường xây dựng các
tủ sách pháp luật nhiều hơn, biên soạn, phát hành tài liệu phổ biến, giáo dục
pháp luật phổ thông, tài liệu tham khảo, tài liệu hướng dẫn kỹ năng áp dụng
pháp luật cụ thể, thiết thực tạo hấp dẫn cho sinh viên tìm tòi các tài liệu hơn.
Bản thân sinh viên trường đại học Luật chính là nguồn nhân lực chính
cho ngành Luật ở Việt Nam. Các cử nhân Luật ra trường có thể chọn lựa cho
mình những ngành nghề phù hợp với bản thân như: thẩm phán, kiểm sát viên,
công chứng viên,… và đương nhiên không ít bạn chọn lựa con đường trở thành

một luật sư. Vậy để góp phần phát triển vị trí, vai trò nghề luật sư trong xã hội
Việt Nam hiện nay, sinh viên Luật cần phải chuẩn bị trước một số hành trang:
+Nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp của bản thân, không ngừng học
tập, tìm tòi, nghiên cứu để trau dồi kiến thức.
+Nâng cao đạo đức, tinh thần trách nhiệm của bản thân đối với nghề nghiệp
21


Bên cạnh đó, các kĩ năng mềm như thuyết trình, kỹ năng giao tiếp,…là điều thiết
yếu quan trọng để các luật sư tương lai phát huy hết được các khả năng của
mình.
+Trong thời đại hội nhập như ngày nay, ngoại ngữ là một trong những điều kiện
không thể thiếu nên việc trau dồi thêm vốn ngoại ngữ ( đặc biệt là tiếng anh) là
một trong những ưu tiên hàng đầu.

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Nghề luật sư nói riêng hay nghề luật nói chung ở Việt nam đang từng
ngày đạt được những bước phát triển đáng ghi nhận, vai trò của nghề luật trong
xã hội ngày một được nâng cao, chất lượng, uy tín của những người làm nghề
luật ngày một lớn hơn, hoạt động hành nghề, các tổ chức hành nghề luật ngày
càng phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa. Bên cạnh đó, thực trạng hành
nghề luật ở Việt Nam còn những vấn đề cần quan tâm, tìm kiếm giải pháp tốt
nhất để hoàn thiện và phát triển để nâng cao và phát triển vai trò của nghề luật
một cách tốt nhất, hiệu quả nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay và trong tương
lai.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiểu luận nghề luật sư ở Việt Nam- thực trạng và giải pháp, Lê Văn Cao, Học
viện Tư pháp HN, 2010.
1. Báo Người Lao Động – Nâng cao chất lượng, vị trí, vai trò của Luật Sư - đăng
tải ngày 1/10/2005 trên:
/>2. Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh - Hội thảo triển khai Chiến lược phát
triển nghề luật sư đến 2020 – đăng tải ngày 25/82011 trên:
/>Source=&Category=&ItemID=1866&Mode=1
3. ThS. Nguyễn Thị Vân Anh – Diễn đàn công tác tư pháp- Tạp chí dân chủ và
pháp luật - Một số giải pháp nâng cao hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp
luật trong các trường đại học trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên - đăng tải trên:
/>ItemID=79
4. Giáo dục thời đại - Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho sinh
viên – đăng tải trên:
/>
23


24



×