Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

đề tài vai trò và cơ sở của đoàn kết xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.26 KB, 20 trang )







Tiểu luận
Đề tài: " VAI TRÒ VÀ CƠ SỞ CỦA
ĐOÀN KẾT XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY "
VAI TRÒ VÀ CƠ SỞ CỦA ĐOÀN KẾT XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

PHẠM VĂN ĐỨC (*)
Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cách khái quát những tư
tưởng, quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam về đoàn kết xã hội; đồng thời, phân tích và luận giải từ
góc độ triết học vai trò động lực và cơ sở của đoàn kết xã hội ở Việt
Nam hiện nay. Theo tác giả, sự đồng thuận và đoàn kết xã hội là kết
quả của việc giải quyết các mâu thuẫn xã hội. Chính sự kết hợp hài
hoà các lợi ích xã hội, lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân là cơ sở
quan trọng tạo nên sự đồng thuận và đoàn kết xã hội. Đó cũng là cơ
sở cho sự phát triển bền vững của đất nước trong bối cảnh toàn cầu
hoá và hội nhập quốc tế hiện nay.

Đàn kết xã hội là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống đó đã được hun đúc và tôi luyện qua hàng ngàn năm
dựng nước và giữ nước, được thử thách qua cuộc đấu tranh với thiên
nhiên và các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Nhờ có
truyền thống đó, mỗi khi có giặc, mọi người như một đứng dậy với
quyết tâm sắt đá “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Do được hun đúc và thử


thách qua nhiều điều kiện và các giai đoạn khác nhau của lịch sử,
đoàn kết đã trở thành giá trị truyền thống quý báu của dân tộc ta.
Nói như vậy không có nghĩa là, chỉ có ở dân tộc ta, đoàn kết mới là
truyền thống, còn các dân tộc khác thì không có truyền thống đó.
Hoàn toàn không phải như vậy, đoàn kết có thể là truyền thống của
nhiều dân tộc hoặc của đại đa số các dân tộc trên thế giới. Bởi một lý
lẽ đơn giản là khó có thể có một dân tộc nào không có tinh thần đoàn
kết mà có thể tồn tại và phát triển được; đặc biệt, trong điều kiện
ngày nay, để phát triển bền vững và hài hòa xã hội thì đoàn kết là
một yếu tố không thể thiếu được. Nhưng, có một điều chắc chắn
rằng, truyền thống đoàn kết của người Việt Nam khác với các nước
khác trên thế giới. Để làm rõ được điểm khác biệt đó cần có nhiều
công trình nghiên cứu chuyên sâu về các giá trị truyền thống của dân
tộc Việt Nam, về đất nước và con người Việt Nam. Trên nét chung
và khái quát nhất, có thể nhận thấy truyền thống đoàn kết của dân
tộc Việt Nam được tạo dựng bởi điều kiện sống của con người Việt
Nam luôn phải thường xuyên chống chọi với thiên tai và lụt lội,
đồng thời phải luôn đối phó và chống trả giặc ngoại xâm bên ngoài.
Chính điều kiện khắc nghiệt đó đã làm cho người Việt Nam phải cố
kết với nhau, dựa vào nhau để tồn tại và phát triển.
Thực tiễn những năm kháng chiến đã khẳng định rằng, nhờ có đại
đoàn kết dân tộc mà dân tộc ta mới có thể giành lại được độc lập,
thống nhất được đất nước. Do tầm quan trọng như vậy, vấn đề đoàn
kết và đại đoàn kết dân tộc luôn được quan tâm và đặt đúng tầm
quan trọng của nó.
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về
đoàn kết xã hội
Trước hết, chúng tôi xin điểm qua một số quan điểm cơ bản của Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề đại đoàn kết dân
tộc.

Kế thừa những tư tưởng của ông cha về vai trò của đại đoàn kết dân
tộc, cùng với sự từng trải trong những năm tháng bôn ba tìm đường
cứu nước, Hồ Chí Minh đã nêu ra nhiều tư tưởng về đoàn kết và đại
đoàn kết dân tộc.
Thực tiễn những năm kháng chiến đầy gian khổ cho thấy, nhờ có
tinh thần đoàn kết mà cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, mặc dù lực lượng cách mạng yếu hơn lực lượng
của quân địch rất nhiều. Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trò quan
trọng của đoàn kết trong kháng chiến cũng như trong hòa bình xây
dựng. Người viết: “… trong kháng chiến ta gặp rất nhiều khó khăn,
lực lượng địch mạnh hơn ta nhiều, nhưng nhờ đoàn kết mà ta đã
thắng. Nay trong xây dựng hòa bình, ta cũng biết đoàn kết thì nhất
định thành công”(1). Từ đó, Người đã khái quát thành khẩu hiệu nổi
tiếng làm phương châm hành động cho dân tộc Việt Nam: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”(2).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “đoàn kết là một chính sách dân tộc,
không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng
nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và
phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”(3). Người còn nhấn mạnh
rằng, “đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố: Nền có
vững nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính
sách đoàn kết cần phải chống hai khuynh hướng sai lầm: cô độc hẹp
hòi và đoàn kết vô nguyên tắc…”(4). Trong tư tưởng của Người,
nguyên tắc quan trọng nhất, bất di bất dịch khi thực hiện đại đoàn
kết là nguyên tắc bảo vệ lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ
bản của nhân dân Việt Nam.
Trong quan điểm đoàn kết Hồ Chí Minh, đoàn kết của nhân dân
đóng vai trò hết sức quan trọng. Với ý tưởng “dễ trăm lần không dân

cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, Người coi sức mạnh lớn
nhất là nằm ở nhân dân và nếu đoàn kết được nhân dân sẽ tạo ra
được sức mạnh tăng gấp bội: “Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân”(5).
Nhưng, điều cần nhấn mạnh là ở chỗ, quan niệm đoàn kết của Hồ
Chí Minh là cơ sở để tập hợp đầy đủ các loại người thuộc các tầng
lớp, các đảng phái, các tôn giáo khác nhau, thậm chí cả những người
đã từng lầm đường lạc lối nhưng biết ăn năn hối cải. Người viết:
“Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân,… đoàn kết
tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ,… đoàn kết các dân tộc
anh em,… đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo”(6).
Người đặc biệt quan tâm đến đoàn kết lương giáo và đoàn kết dân
tộc giữa miền xuôi và miền núi. Chẳng hạn, khi nói về đoàn kết
lương giáo, Hồ Chí Minh viết: “Toàn thể đồng bào không chia lương
giáo, đoàn kết chặt chẽ… để giữ gìn non sông Tổ quốc, mà cũng để
giữ gìn quyền tôn giáo tự do”(7); “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng
bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống
hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc. Phải chấp hành đúng chính
sách tôn trọng tự do tín ngưỡng đối với tất cả các tôn giáo”(8).
Người còn nhấn mạnh thêm rằng, ““sống theo Đảng, chết theo
Chúa”. Câu nói ấy là tổng kết một nhận thức rất đúng tâm trạng của
những đồng bào theo đạo có tinh thần yêu nước, họ theo Đảng
nhưng vẫn tin Chúa. Chúng ta cần phải biến câu nói ấy thành khẩu
hiệu để giáo dục và động viên đồng bào có đạo hăng hái tham gia
sản xuất và chiến đấu”(9) và “Nguyện vọng của đồng bào giáo dân
là “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”. Muốn được như thế thì
phải ra sức… phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho xã viên. Đồng
thời phải đảm bảo tín ngưỡng tự do. Nhưng hoạt động tôn giáo
không được cản trở sản xuất của nhân dân, không được trái với

chính sách và pháp luật của Nhà nước”(10).
Tương tự như vậy, trong tư tưởng đoàn kết, Hồ Chí Minh đặc biệt
chú trọng đến đoàn kết các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt
Nam. Người thường xuyên căn dặn rằng, phải chăm lo đoàn kết các
dân tộc không phân biệt lớn nhỏ, các dân tộc phải thương yêu giúp
đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà để cùng
nhau xây dựng Tổ quốc chung, làm cho các dân tộc đều được ấm no
hạnh phúc. Các dân tộc miền núi đoàn kết chặt chẽ với nhau; các dân
tộc thiểu số đoàn kết với dân tộc đa số, dân tộc nào đông hơn, nhiều
người hơn, tiến bộ hơn thì phải giúp đỡ các dân tộc khác để đều tiến
bộ như nhau, đoàn kết như anh em một nhà(11). Người viết: “Đồng
bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, Xê Đăng hay
Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều
là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng
nhau, no đói giúp nhau”(12).
Người còn khẳng định thêm rằng, “đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành
đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”(13). Chúng
ta có thể dẫn ra đây rất nhiều tư tưởng khác về đoàn kết và đại đoàn kết
dân tộc của Hồ Chí Minh mà cho đến nay vẫn còn mang đậm ý nghĩa
sâu sắc. Cho đến khi sắp qua đời, Người vẫn lo lắng và căn dặn lại thế
hệ sau phải giữ gìn đoàn kết mà trước hết là đoàn kết trong Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình. Người viết: “Đoàn kết là truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình”.
Kế thừa những tư tưởng đoàn kết và đại đoàn kết của Hồ Chí Minh,
kể từ Đại hội VI đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ngày càng
quan tâm chú ý đến việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Ngay từ Đại hội VI, đại hội khởi đầu công cuộc đổi mới toàn diện

đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy lợi ích chính đáng
của quần chúng nhân dân đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cần giải
quyết, do đó cần phải có chính sách phù hợp với từng đối tượng, cụ
thể là đối với giai cấp công nhân, đối với nông dân, trí thức, thanh
niên, phụ nữ, đối với các dân tộc thiểu số và các đồng bào theo tôn
giáo cũng như đối với những người Việt Nam sinh sống ở nước
ngoài.
Những tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc của Đại hội VI tiếp tục được
bổ sung, hoàn thiện trong các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và Đại hội X
của Đảng ta.
Kế thừa những tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết và đại đoàn
kết dân tộc, Đại hội IX của Đảng khẳng định đoàn kết và đại đoàn
kết dân tộc “là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực
to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đường lối chiến lược đó
nhằm “thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng
lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất
nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác
và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt
Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài”(14). Đại hội còn chỉ rõ
nguyên tắc để xây dựng khối đại đoàn kết là “phát huy sức mạnh của
cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường
và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích
chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về
quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn
nhau, hướng tới tương lai”(15).
Đến Đại hội X, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc đã được trình bày
một cách cô đọng nhất, được đưa vào chủ đề Đại hội và được trình
bày trong mục X thuộc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khoá IX với tiêu đề: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân”. Những tư tưởng cơ bản
về đại đoàn kết dân tộc trong Văn kiện Đại hội X có thể được trình
bày một cách vắn tắt trên một số điểm sau:
Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, lấy mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc làm điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng
lớp nhân dân trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Thứ tư, xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá
khứ, thành phần giai cấp, tôn trọng những ý kiến khác nhau không
trái với lợi ích của dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan
dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định
chính trị và đồng thuận xã hội(16).
Cũng trong Văn kiện này, Đảng ta còn khẳng định đại đoàn kết là sự
nghiệp của toàn dân tộc, cho nên Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
nhân dân cần có những giải pháp cụ thể đối với từng giai cấp, tầng
lớp và từng cộng đồng người Việt Nam để xây dựng khối đoàn kết
đó. Chẳng hạn, khi nói về đoàn kết với đồng bào các tôn giáo, Đảng
ta đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm
bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công
dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo”(17); “phát huy những giá trị tốt đẹp
về văn hoá, đạo đức của tôn giáo”(18).

Như vậy, qua việc tìm hiểu một số tư tưởng của Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đoàn kết và đại đoàn kết
dân tộc, chúng ta có thể nhận thấy rằng, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng của Hồ Chí
Minh về đoàn kết và đại đoàn kết dân tộc. Từ thực tiễn của những
năm kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc,
đặc biệt là thực tiễn của những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đi đến một kết luận quan trọng: đại đoàn kết dân tộc là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
2. Đại đoàn kết dân tộc là động lực chủ yếu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc
Đoàn kết xã hội là sự thống nhất, sự cố kết và hợp tác giữa các tầng
lớp, giai cấp và các tập đoàn trong xã hội. Khi khẳng định đoàn kết
xã hội là động lực chủ yếu của sự nghiệp xây dựng Tổ quốc thì điều
đó có nghĩa là sự thống nhất, sự đồng thuận mới là động lực, chứ
không phải mâu thuẫn là động lực. Đoàn kết xã hội là phạm trù có
nội dung hẹp hơn so với phạm trù thống nhất. Phạm trù thống nhất
được dùng trong cả tự nhiên lẫn trong xã hội, đó là sự đồng nhất trong
sự khác biệt. Đoàn kết chỉ được sử dụng trong xã hội và chính là sự
thống nhất xã hội. Đoàn kết xã hội là sự thống nhất xã hội, là sự đồng
thuận xã hội hay là sự đồng nhất xã hội trong sự khác biệt.
Do đó, để lý giải đoàn kết với tư cách là động lực của sự phát triển xã
hội, chúng ta phải giải quyết một vấn đề chung hơn - mâu thuẫn hay sự
thống nhất giữa các mặt đối lập là động lực của sự vận động và phát
triển.
Trước hết, nếu coi động lực của sự phát triển xã hội là hoạt động của
con người thúc đẩy sự phát triển của xã hội thì cần phân biệt động
lực hoạt động của con người với động lực của sự phát triển xã hội.

Trên thực tế, có những cái là động lực hoạt động của con người
nhưng chưa chắc đã là động lực của sự phát triển xã hội. Chẳng hạn,
lợi ích cá nhân của con người luôn là động lực thúc đẩy cá nhân đó
hoạt động, hay nói cách khác, luôn là động lực hoạt động của cá
nhân con người, nhưng chưa chắc đã là động lực của sự phát triển xã
hội. Có loại lợi ích cá nhân thúc đẩy hoạt động của cá nhân con
người hành động, nhưng hành động đó không những không thúc đẩy
xã hội phát triển mà trái lại, còn kìm hãm hoặc cản trở sự phát triển
xã hội. Lợi ích thu được do hành vi buôn lậu hoặc buôn bán ma túy
luôn là động lực thúc đẩy cá nhân những người buôn lậu hành động,
nhưng hành động đó lại làm tổn hại cho sự phát triển xã hội. Do đó,
động lực hoạt động của cá nhân cũng có thể trùng và cũng có thể
không trùng với động lực của sự phát triển xã hội. Động lực hoạt
động của cá nhân con người chỉ có thể trở thành động lực của sự
phát triển xã hội khi nó thúc đẩy sự phát triển xã hội. Sự phân biệt
giữa động lực hoạt động của cá nhân con người với động lực của sự
phát triển xã hội là hết sức cần thiết để nghiên cứu và sử dụng các
động lực của sự phát triển xã hội.
Chúng ta hãy trở lại vấn đề mâu thuẫn hay giải quyết mâu thuẫn mới
là động lực của sự phát triển. Vấn đề này đã được đặt ra từ lâu trong
giới những người nghiên cứu, giảng dạy triết học Mác và hiện đang
còn có ý kiến khác nhau. Một số người cho rằng, mâu thuẫn là khách
quan và là một quá trình tự giải quyết; do đó, nó vừa là nguồn gốc,
vừa là động lực của sự phát triển. Trái lại, một số người khác lại cho
rằng, mâu thuẫn chỉ là nguồn gốc của sự vận động, còn giải quyết
mâu thuẫn mới là động lực của sự phát triển.
Trên thực tế, mâu thuẫn hay giải quyết mâu thuẫn đóng vai trò động
lực của sự phát triển xã hội đang là vấn đề được tiếp tục tranh luận
và chưa có lời giải cuối cùng; đồng thời, chưa bên nào có thể đưa ra
lý lẽ đủ sức thuyết phục bên kia. Chúng tôi nghiêng về quan điểm

cho rằng, mâu thuẫn chỉ là nguồn gốc, là cái phát sinh ra sự vận
động và phát triển, còn giải quyết mâu thuẫn mới chính là động lực
của sự phát triển.
Theo quan điểm của Hêghen và quan điểm của C.Mác, mâu thuẫn là
một quá trình, bắt đầu từ khác biệt - mặt đối lập (đấu tranh với nhau)
- giải quyết mâu thuẫn - thống nhất. Cũng theo quan điểm của triết
học Mác, mâu thuẫn là khách quan và phổ biến; nó tồn tại trong mọi
sự vật và hiện tượng, cả trong tự nhiên, xã hội lẫn trong tư duy con
người. Ngay cả sự sống cũng là một mâu thuẫn. Đúng như
Ph.Ăngghen nhận xét: “… sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại
trong bản thân các sự vật và các quá trình, một mâu thuẫn thường
xuyên nảy sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự
sống cũng không còn nữa và cái chết xảy đến”(19).
Nhưng, nếu như trong tự nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn được tiến
hành một cách tự thân, tức là tự giải quyết và hoàn toàn không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, thì trong xã hội, việc giải
quyết mâu thuẫn lại không diễn ra một cách tự thân mà thông qua
hoạt động tự giác và có ý thức của con người. Hoạt động nhận thức
của con người góp phần đáng kể vào tiến trình của việc giải quyết
mâu thuẫn đó. Nói cách khác, mâu thuẫn trong xã hội khi đã xuất
hiện thì đòi hỏi cần được giải quyết và sớm hay muộn nó cũng được
giải quyết, nhưng hoạt động của con người đóng vai trò quan trọng
trong việc giải quyết sớm hay muộn đó. Ngoài ra, bản thân nhận thức
và hoạt động của con người cũng có tác động ngược lại đối với quá
trình hình thành và phát triển của bản thân mâu thuẫn.
Nếu quan niệm giải quyết mâu thuẫn mới chính là động lực của sự
phát triển xã hội thì việc sớm phát hiện và giải quyết mâu thuẫn
đóng vai trò quan trọng tạo ra sự đoàn kết và đồng thuận xã hội.
Để tạo ra sự đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội hay thống nhất xã
hội, chúng ta phải kịp thời phát hiện những mâu thuẫn và giải quyết

những mâu thuẫn đó. Giải quyết kịp thời những mâu thuẫn là cơ sở
cho sự đồng thuận và đoàn kết xã hội. Do đó, có thể nói, đồng thuận
và đoàn kết xã hội là kết quả của việc giải quyết những mâu thuẫn
xã hội.
XEM TIẾP >>>



VAI TRÒ VÀ CƠ SỞ CỦA ĐOÀN KẾT XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY (tiếp theo)
PHẠM VĂN ĐỨC (*)

3. Cơ sở của đoàn kết xã hội
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, khác với trong tự nhiên chỉ bao gồm
những lực lượng mù quáng và vô ý thức, trong xã hội nhân tố hoạt động là
những con người có ý thức và mọi hoạt động đều diễn ra một cách tự giác.
Đúng như Ph.Ăngghen đã nhận xét: “… lịch sử phát triển của xã hội, về
căn bản, khác với lịch sử phát triển của tự nhiên ở một điểm. Trong tự
nhiên… chỉ có những nhân tố vô ý thức và mù quáng tác động lẫn nhau, và
chính trong sự tác động lẫn nhau ấy mà quy luật chung biểu hiện ra. Trong
tất cả những điều xảy ra… không có gì xảy ra với tư cách là mục đích tự
giác, mong muốn. Trái lại, trong lịch sử của xã hội, nhân tố hoạt động hoàn
toàn chỉ là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có nhiệt
tình và theo đuổi những mục đích nhất định thì không có gì xảy ra mà lại
không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn”(20).
Mỗi mục đích lại do những điều kiện sinh sống đặc biệt của cá nhân con
người tạo ra. Những mục đích ấy của con người có khi trùng nhau, nhưng
thường thì không ăn khớp với nhau, có khi còn chống đối nhau và do đó,
các hành động của họ nhằm mục đích ấy cũng diễn ra theo hướng như vậy.
Hợp lực của những hành động có khi trùng nhau, nhưng thường thì không

ăn khớp nhau, có khi còn chống đối nhau ấy, tạo nên các sự biến lịch sử và
tập hợp các sự biến lịch sử ấy chính là xã hội. Về vấn đề này, Ph.Ăngghen
đã viết: “Con người làm ra lịch sử của mình – vô luận là lịch sử này diễn ra
như thế nào – bằng cách là mỗi người theo đuổi những mục đích riêng,
mong muốn một cách có ý thức, và chính kết quả chung của vô số những ý
muốn tác động theo nhiều hướng khác nhau đó và của những ảnh hưởng
muôn vẻ của những ý muốn đó vào thế giới bên ngoài đã tạo nên lịch
sử”(21). Vì vậy, xã hội dưới bất cứ hình thức nào, như C.Mác đã khẳng
định, cũng đều là “sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với
người”(22) và “lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi
mục đích của bản thân mình”(23).
Nhưng mục đích của con người lại chính là sự phản ánh những lợi ích của
bản thân họ. Do đó, lợi ích chính là cái thúc đẩy con người ta hành động và
để đạt được mục đích cũng chính là để giành lấy lợi ích. Có thể nói, lợi ích
là động lực quan trọng nhất của hoạt động con người. Chính vì vậy, khi nói
đến động cơ hành động của nhà tư bản, C.Mác đã dẫn lại lời của
T.J.Dunning rằng, “Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can
đảm. Được bảo đảm 10 phần trăm lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản
vào đâu cũng được; được 20 phần trăm thì nó hoạt bát hẳn lên; được 50
phần trăm thì nó trở nên thật sự táo bạo; được 100 phần trăm thì nó chà đạp
lên mọi luật lệ của loài người; được 300 phần trăm thì không còn tội ác nào
là nó không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ”(24).
Nhận xét trên đây nói về tác động của lợi ích đến động cơ hành động của
nhà tư bản. Rõ ràng, lợi ích càng lớn thì động cơ hành động của nhà tư bản
càng mạnh mẽ. Điều đó không chỉ đúng với các nhà tư bản, mà còn đúng
với con người nói chung. Chính C.Mác đã nhấn mạnh rằng, tất cả những gì
mà con người đấu tranh để giành lấy đều dính liền với lợi ích của họ.
Xét về thực chất, nguồn gốc của các mâu thuẫn trong xã hội là mâu thuẫn
giữa các lợi ích. Lợi ích là động lực trực tiếp thúc đẩy con người hành động
để giành lấy nhằm thỏa mãn các nhu cầu của bản thân mình. Nhưng trong

xã hội cũng như trong mỗi con người không chỉ có một, mà còn có vô số
các lợi ích khác nhau. Sự đa dạng của các lợi ích do sự đa dạng và phong
phú của nhu cầu quyết định. Các lợi ích trong xã hội có khi trùng nhau,
nhưng thường thì không trùng nhau, thậm chí còn mâu thuẫn nhau; do đó,
hoạt động của những con người, tập đoàn người khác nhau theo đuổi các
lợi ích ấy sẽ diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau. Kết quả là sự vận
động và phát triển của lịch sử, đúng như Ph.Ăngghen khẳng định, là cái mà
không ai muốn cả, cái khách quan. Xu hướng phát triển của lịch sử được
biểu diễn bằng đường chéo của hình bình hành lực. Nhưng hình chéo của
hình bình hành càng dài khi hành động của con người càng tập trung vào
một hướng; trái lại, đường chéo của hình bình hành lực càng ngắn khi các
hoạt động của con người được tỏa ra các hướng khác nhau.
Vấn đề là làm thế nào để có ý chí hành động và hành động của con người
quy tụ về một hướng? Hay nói cách khác, làm thế nào để có thể thống nhất
ý chí và hành động của con người?
Nếu coi lợi ích là động lực thúc đẩy con người hành động thì việc giải bài
toán làm thế nào để quy tụ hoạt động của con người về cùng một hướng
nằm ở việc xử lý mối quan hệ giữa các lợi ích.
Lợi ích, như chúng ta đã biết, có nhiều loại khác nhau. Tùy theo các tiêu
chí khác nhau, người ta có thể phân chia lợi ích thành các loại khác nhau.
Chẳng hạn, căn cứ vào chủ thể các loại lợi ích, người ta có thể phân lợi ích
thành: lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm (tập thể) và lợi ích xã hội hay lợi ích cá
nhân, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Nhưng ngay trong lợi ích cá nhân,
người ta cũng có thể phân chia thành lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích
văn hóa, v.v
Trong số những lợi ích đó thì khó có thể nói lợi ích nào quan trọng hơn lợi
ích nào; chỉ có thể khẳng định rằng, tùy từng thời điểm lịch sử cụ thể mà
lợi ích này hay lợi ích kia trở nên cấp bách. Chẳng hạn, trong cuộc đấu
tranh bảo vệ chủ quyền dân tộc thì không phải lợi ích cá nhân hay lợi ích
giai cấp, mà chính lợi ích dân tộc mới là cấp bách và là động lực thúc đẩy

con người hành động. Nhiều người đã hy sinh không những lợi ích cá
nhân, mà cả sinh mệnh của mình vì sự tồn vong của dân tộc. Lúc đó, lợi ích
cá nhân và lợi ích giai cấp nhập làm một với lợi ích dân tộc và nếu lợi ích
của dân tộc không được thực hiện thì bản thân cá nhân cũng không thể tồn
tại được, chứ chưa nói gì đến lợi ích cá nhân hay lợi ích giai cấp. Thành
thử, trong thời điểm đó, lợi ích dân tộc và lợi ích cá nhân thực chất là một
và là cơ sở để đoàn kết xã hội. Còn trong thời điểm bình thường thì sự khác
nhau giữa các lợi ích là điều dễ hiểu, bởi vì mỗi người đều theo đuổi những
lợi ích riêng của bản thân mình, còn mỗi cộng đồng và xã hội lại có những
lợi ích khác nữa. Chính sự đa dạng của các lợi ích làm cho sự phát triển xã
hội hình thành nên các xu hướng khác nhau. Các lợi ích cá nhân có thể
trùng với lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội, nhưng nhiều khi không trùng và
thậm chí đi ngược lại với những lợi ích đó. Tương tự như vậy, các lợi ích
cộng đồng cũng có thể trùng nhưng cũng có thể không trùng, thậm chí đi
ngược với lợi ích xã hội. Do đó, khi đề ra các chính sách để phát triển xã
hội, trước hết chúng ta phải căn cứ vào lợi ích của xã hội, sau đó mới tính
đến lợi ích của từng cộng đồng rồi mới tính toán đến việc khuyến khích
những lợi ích của các cá nhân. Bởi vì bản thân lợi ích xã hội, lợi ích cộng
đồng là những lợi ích chung của cả xã hội hay của một cộng đồng xã hội
nào đó. Chúng đáp ứng nhu cầu chung của xã hội và những nhu cầu của
một cộng đồng nhất định. Mặt khác, lợi ích cá nhân của người lao động là
vô cùng phong phú và cũng không thể lấy lợi ích của ai để làm căn cứ định
hướng.
Nhưng, lợi ích cá nhân của người lao động có vai trò động lực mạnh mẽ
nhất đối với việc kích thích, thúc đẩy con nguời hành động, chúng là những
cái đáp ứng nhu cầu thiết thân của bản thân họ. Nếu căn cứ vào lợi ích xã
hội và sau đó là lợi ích cộng đồng để đề ra các chủ trương và chính sách
phát triển thì trong trường hợp đó, chỉ có những cộng đồng nào mà lợi ích
của họ phù hợp với lợi ích của xã hội và chỉ có những cá nhân nào mà lợi
ích của họ phù hợp với lợi ích của cộng đồng mới tích cực hoạt động, còn

các cộng đồng hoặc cá nhân có lợi ích không phù hợp hoặc trái ngược với
lợi ích của xã hội sẽ không phát huy được tính tích cực.
Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là, làm thế nào để vừa đảm bảo sự phát triển
của xã hội theo định hướng nhất định, vừa phát huy được tính tích cực của
mọi cá nhân và cộng đồng trong xã hội? Nếu xuất phát từ quan điểm cho
rằng mâu thuẫn xã hội, về thực chất, là những mâu thuẫn giữa các lợi ích
và giải quyết mâu thuẫn mới chính là động lực của sự phát triển thì việc kết
hợp hài hòa giữa các lợi ích chính là cơ sở để kích thích lợi ích cá nhân
một cách hợp lý theo hướng vẫn đảm bảo sự phát triển xã hội. Khi lợi ích
cá nhân được kết hợp hài hòa với lợi ích cộng đồng và lợi ích của xã hội thì
bản thân lợi ích cá nhân vẫn trở thành động lực của hoạt động con người,
nhưng hoạt động đó cũng có tác dụng tốt và có lợi cho việc thực hiện lợi
ích của cộng đồng và lợi ích của xã hội. Lợi ích xã hội phải trở thành mẫu
số chung của lợi ích các cộng đồng, còn lợi ích cộng đồng phải trở thành
mẫu số chung cho các lợi ích cá nhân của cộng đồng đó. Kết quả là, bản
thân cá nhân người lao động cũng có lợi, cộng đồng có lợi và xã hội cũng
có lợi. Thành thử, nguyên tắc kết hợp một cách hài hòa giữa các loại lợi
ích biến thành nguyên tắc các bên cùng có lợi. Nguyên tắc các bên cùng có
lợi dựa trên cơ sở thống nhất về lợi ích tạo nên sự quan tâm chung. Đó
chính là cơ sở của sự đồng thuận và đoàn kết xã hội.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong suốt 20 năm qua mang ý nghĩa lịch
sử và đã thu được thành tựu hết sức to lớn trong các lĩnh vực khác nhau, từ
kinh tế đến chính trị, xã hội, văn hóa, đối ngoại, v.v Một trong những
thành tựu quan trọng đó chính là đã tạo ra được sự đồng thuận xã hội, tạo
dựng được khối đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết thực sự trở thành động
lực chủ yếu cho sự phát triển của đất nước. Cơ sở của sự đồng thuận xã hội
và đoàn kết xã hội đó chính là sự kết hợp hài hòa giữa các lợi ích khác
nhau.
Ngay trong lĩnh vực đối ngoại, chúng ta đã chủ trương làm bạn với tất cả
các nước và dân tộc trên thế giới trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và lãnh thổ

của nhau và theo nguyên tắc các bên cùng có lợi. Nhờ thực hiện nguyên tắc
ấy, Việt Nam đã trở thành đối tác đáng tin cậy của các nước trên thế giới và
vị thế của Việt Nam ngày càng được đánh giá cao trên trường quốc tế.
Trong lĩnh vực đối nội, nguyên tắc kết hợp hài hòa các loại lợi ích trở thành
cơ sở cho chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Chúng ta đã chủ
trương kết hợp giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; giữa lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội; giữa lợi ích kinh tế với lợi ích chính
trị, lợi ích xã hội và lợi ích văn hóa; giữa lợi ích của các vùng miền trong
cả nước, giữa các giai cấp và các tầng lớp trong xã hội, v.v Tất cả các
chính sách đều nhằm thực hiện chủ trương chung là kết hợp hài hòa các
loại lợi ích để tạo nên sự đồng thuận và đoàn kết trong xã hội. Chỉ có sự
đồng thuận và đoàn kết trong xã hội, chúng ta mới có thể đưa đất nước phát
triển theo hướng hiện đại và bền vững.
Kết luận
Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Nhờ truyền
thống đó, dân tộc Việt Nam đã vượt qua bao thử thách của lịch sử để tồn tại
và phát triển. Ngày nay, đoàn kết đã trở thành động lực chủ yếu cho sự
phát triển đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Sở dĩ
đoàn kết trở thành động lực vì nó tạo nên sự đồng tâm và hiệp lực của các
tầng lớp xã hội, các cộng đồng người Việt khác nhau. Nhưng cơ sở của sự
đoàn kết trong xã hội chính là lợi ích. Lợi ích là cái gắn kết con người với
nhau. Vì vậy, việc kết hợp một cách hài hòa các loại lợi ích trong quá trình
phát triển theo nguyên tắc các bên cùng có lợi là cơ sở cho việc duy trì,
củng cố đoàn kết xã hội. Đó cũng chính là cơ sở cho sự phát triển bền vững
của Việt Nam./.

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện trưởng Viện Triết học, Tổng biên tập Tạp chí
Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t. 8. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996,
392.

(2) Hồ Chí Minh. Sđd , t.10, tr. 607.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 7, tr. 438.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 7, tr. 438.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 8, tr. 276.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 10, tr. 605 - 606.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 490.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 10, tr. 606.
(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 11, tr. 575.
(10) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 10, tr. 606.
(11) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t. 10, tr. 282, 418, 460 - 461.
(12) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 217.
(13) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 246- 247.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 123.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 123 - 124.
(16) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 116.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 42.
(18) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX. Sđd., tr.128.
(19) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1994, tr. 173 – 174.
(20) C.Mác, Ph.Ăngghen. Tuyển tập gồm 6 tập, t. VI. Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1984, tr. 405 - 406.
(21) C.Mác, Ph.Ăngghen. Sđd., t. VI, tr. 406 - 407.
(22) C.Mác, Ph.Ăngghen. Sđd. t. I., tr. 788.
(23) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. t.2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr. 141.
(24) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. t. 23. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1993, tr. 1056.




×