Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

bài giảng bệnh chung giũa người và động vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.71 KB, 114 trang )

PHẦN I: ĐẠI CƯƠNG BỆNH TRUYỀN LÂY GIỮA NGƯỜI VÀ ĐỘNG
VẬT
1.1.
Định nghĩa và lịch sử tên gọi “Bệnh truyền lây giữa động vật và người”
Zoonosis được định nghĩa bởi Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO, 1959): Những
bệnh nhiễm trùng xảy ra một cách tự nhiên giữa động vật có xương sống và con
người. Lý do chính để nhóm những bệnh lây truyền giữa người và động vật là
nhằm mục đích kiểm soát có hiệu quả trong nỗ lực hợp tác giữa thú y và y tế.
Bệnh truyền lây giữa người và động vật được gọi theo tên danh pháp khoa
học là zoonosis hoặc zoonotic disease. Tên gọi zoonosis có nguồn gốc từ tiếng Hi
Lạp, hợp thành từ hai từ đơn: zoon – động vật và osis – bệnh.
1.2.
Phân loại các bệnh truyền lây giữa người và động vật

-

-

-

-

-

Việc phân loại zoonosis dựa vào các dạng vòng đời của các tác nhân gây
nhiễm trùng. Từ đó, Zoonosis được phân chia thành 5 nhóm như sau:
Nhóm các bệnh truyền lây trực tiếp (Direct zoonosis): Những bệnh truyền lây giữa
động vật và người theo phương thức tiếp xúc trực tiếp, thông qua tiếp xúc với các
vectơ truyền bệnh cơ học. Các tác nhân gây bệnh không phải trải qua sự biến đổi
hoặc phát triển trong quá trình truyền lây. Ví dụ: Rabies, Brucellosis.
Nhóm các bệnh truyền lây theo vòng đời (Cyclo – zoonosis): Những bệnh truyền


lây giữa động vật và người mà căn bệnh đòi hỏi hai hoặc nhiều loài vật chủ (động
vật có xương sống) để hoàn thiện vòng đời của chúng. Ví dụ: Echinostomiasis (sán
lá ruột gia cầm), Cysticercosis (bệnh gạo lợn).
Nhóm truyền lây qua trung gian (Meta – zoonosis): Những bệnh truyền lây giữa
động vật và người truyền lây qua động vật xương sống. Tác nhân gây bệnh phát
triển, nhân lên bên trong vectơ truyền bệnh (động vật không xương sống), cần thời
kỳ ủ bệnh bên ngoài vật chủ trước giai đoạn nhiễm trùng tạo ra. Ví dụ: Bệnh sán lá
gan lớn.
Nhóm các bệnh truyền lây qua chất hoại sinh (Sapro – zoonosis): Những bệnh
truyền lây giữa động vật và người mà căn bệnh có thể phát triển trên động vật có
xương sống và cả trên các dạng vật chất không phải động vật. Các chất hữu cơ, đất,
thức ăn, cây trồng được coi là các dạng vật chất không phải là động vật. Ví dụ
Leptospirosis (bệnh xoắn khuẩn).
Nhóm bệnh truyền qua thực phẩm (Foodbone disease): Bao gồm những bệnh
truyền qua thức ăn, nước uống và các dạng thực phẩm khác. Nhóm này còn được
phân chia thành (1) nhóm các bệnh nhiễm trùng qua thực phẩm (Foodbone


infection). Ví dụ: bệnh do E. coli, Samonella, bệnh viêm não xốp và (2) nhóm các
bệnh do ngộ độc độc tố (Foodborne intoxication), ví dụ như bệnh ngộ độc thịt.
Các loại động vật mang mầm bệnh và các bệnh truyền lây chủ yếu giữa động
vật và người
1.3.1. Các loại động vật mang mầm bệnh

1.3.

Trong tự nhiên, có nhiều loài động vật mang mầm bệnh. Tuy nhiên, chỉ một
số nhóm động vật nhất định tham gia vào quá trình truyền lây:
Loài gặm nhấm: Dơi (Nipah, Ebola, Rabies virus), chuột (vi khuẩn Leptospira,
Clostridium perfringens).

Động vật nuôi: Ấu trùng sán dây, giun xoắn, vi khuẩn Salmonella.
Chim: Cúm gia cầm, Salmonella.
Động vật linh trưởng: HIV, sốt vàng da, Ebola, sốt xuất huyết.
Ốc, cá nước ngọt, lưỡng cư: đây là nhóm động vật đóng vai trò quan trọng trong
việc lây truyền một số bệnh ký sinh trùng giữa động vật và người như bệnh Sán lá
gan lớn và nhỏ, Sán lá ruột gia cầm.

-

-

Ngoài các loại động vật trên, một số yếu tố không phải là sinh vật cũng có
thể là yếu tố lây truyền mầm bệnh từ động vật sang người ví dụ như không khí, đất,
nước, sự vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi và giết mổ.
1.3.2. Các bệnh truyền lây chủ yếu giữa động vật và người
a Nhóm bệnh do vi khuẩn
Bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis)
Bệnh liên cầu khuẩn lợn (Streptococcosis)
Bệnh ngộ độc thịt (Botulism)
Bệnh sảy thai truyền nhiễm do Brucella (Brucellosis)
Bệnh viêm ruột hoại tử (Neucrotic Enteritis – do Clostridium perfringens)
Bệnh nhiệt thán (Anthrax)
Bệnh uốn ván (Tetanus)
Bệnh lao (Tuberculosis)
Bệnh sốt Q (Q fever)
b Nhóm bệnh do virus
Bệnh dại (Rabies)
Bệnh cúm ở động vật (Animal Influenza)
Bệnh do virus Nipah (Hội chứng hô hấp và thần kinh ở lợn - Porcine respiratory
and neurologic syndrome)

Bệnh do Ebola virus
Bệnh viêm não Nhật Bản


-

-

-

-

Hội chứng viêm đường hô hấp cấp tính nặng (SARS – Sever Acuta Respiratory
Syndrome).
c Nhóm bệnh do nấm và prion
Bệnh nấm da
Bệnh nấm phổi
Bệnh viêm não xốp (Bệnh bò điên - Bovine Spongiform Encephalopathy – BSE)
d Nhóm bệnh do ký sinh trùng
Bệnh sán lá gan lớn (Faciolosis)
Bệnh sán lá gan nhỏ
Bệnh gạo lợn, gạo bò
Bệnh giun xoắn (Trichinellosis)
Bệnh giun móc chó
Bệnh giun đũa chó mèo
Bệnh giun xoắn dạ dày lợn
Bệnh trùng roi đường máu (Trypanosoma lewisi)
Bệnh đơn bào phủ tạng (Toxoplasmosis)
Bệnh do cầu trùng thuộc họ Cryptosporididae gây ra (Cryptosporidiosis)
1.4.

Nguyên tắc các hoạt động ưu tiên phòng chống bệnh truyền lây giữa
người và động vật
1.4.1. Nguyên tắc
Hiện nay, do nhiều hoạt động của con người can thiệp vào tự nhiên đã làm
gia tăng cơ hội tiếp xúc, trao đổi tác nhân gây bệnh giữa con người, động vật nuôi
và động vật hoang dã. Các hoạt động giao thương quốc tế phát triển nhanh, vấn đề
biến đổi khí hậu toàn cầu làm thay đổi hoạt động của các loài chân đốt (nhân tố
trung gian truyền bệnh) và ảnh hưởng trực tiếp tới nơi cư trú của nhiều loài động
vật hoang dã. Vì vậy làm tăng nguy cơ phát sinh các bệnh zoonosis. Vấn đề phòng
chống bệnh mới nổi và bệnh tái xuất hiện đang dồi hỏi nỗ lưc của tất cả các nước
trên thế giới.
Trong phòng chống bệnh truyền lây, nguyên tắc cơ bản nhất là phá vỡ vòng
truyền lây của tác nhân gây bệnh bằng cách:
Vệ sinh cá nhân (rửa tay sạch trước khi ăn uống hoặc chế biến thực phẩm, thực
hiện “ăn chín uống sôi”; rửa tay sạch sau khi tiếp xúc với động vật, sử dụng bảo hộ
cá nhân khi tiếp xúc với động vật hoang dã, bảo vệ nguồn nước sinh hoạt không bị
ô nhiễm bởi các chất thải của động vật).
Nuôi cách ly động vật trước khi cho nhập đàn hoặc đưa vòa khu vực chăn nuôi
nhằm hạn chế lây truyền bệnh mới cho đàn vật nuôi và cho khu vực. tiêm phòng


-

vaccine nhằm toajo miễn dịch chủ động cho người và vật nuôi. Tổ chức diệt chuột,
ruồi, muoix và các trung gian truyền bệnh khác.
Giảm thiểu các hoạt động tàn phá môi trường dẫn tới mất cân bằng giữa vật chủ mầm bệnh – nhân tố trung gian truyền bệnh và môi trường.
1.4.2. Các hoạt động ưu tiên
Giáo dục, tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác, khả năng nhận biết và
biện pháp phòng tránh dịch bệnh ở cấp cộng động. Tăng cường hợp tác hai ngành
thú y và y tế trong phòng chống dịch. Xây dựng chiến lược quốc gia khống chế

một số bệnh nguy hiểm.
Chủ động điều tra giám sát (bệnh mới hoặc lưu hành bệnh cũ) và khống chế
ổ dịch, ưu tiên ở các khu vực có nguy cơ cao, từ đó thiết lập hệ thống cảnh báo
sớm về dịch bệnh.
Khi phát hiện ca bệnh, tập trung kiểm soát nguồn bệnh và nhân tố trung gian
truyền bệnh.
Xử lý xác động vật và vật chất nhiễm bệnh, thực hiện tiêu độc khử trùng khu
vực nhiễm bẩn để giết chết tác nhân gây bênh.
Tiêm phòng cho người và động vật ở khu vực có nguy cơ cao, dự phòng sẵn
nguồn vaccine.
Tăng cường sức đề kháng cho người và động vật thông qua chế độ dinh
dưỡng hợp lý, lai phối giống tốt ở vật nuôi.
Điều trị và cách ly sớm các ca bệnh ở người và động vật để hạn chế lây lan
bệnh. Tiêu chuẩn hóa phác đồ điều trị. Xác định loại thuốc và dự phòng nguồn
thuốc điều trị.
Tăng cường vệ sinh an toàn thực phẩm.
Kiểm soát chặt chẽ tại cửa khẩu, tuyến biên giới để hạn chế việc đưa mầm
bệnh vào trong nước qua các hoạt động thương mại và du lịch.
Tăng cường điều tra, nghiên cứu để hiểu rõ thêm về vòng truyền lây của
dịch bệnh từ đó có biện pháp đối phó hiệu quả hơn.
Giảm thiểu sự tương tác giữa con người và động vật.
1.5.
“Một sức khỏe” và bệnh truyền lây
Cách tiếp cận “Một sức khỏe” công nhận mối liên hệ mật thiết giữa sức khỏe
con người, sức khỏe động vật và sức khỏe môi trường. Trên thế giới cách tiếp cận
“Một sức khỏe” đã được áp dụng để kiểm soát nhiều vấn đề sức khỏe khác nhau
đặc biệt là bùng phát dịch bệnh.
1.5.1. Khái niệm “Một sức khỏe”



Một Sức khỏe là một phương thức phối hợp đa ngành nhằm tăng cường sức
khỏe con người, động vật và môi trường đã được FAO, OIE và WHO công nhận.
Phương thức tiếp cận Một Sức khỏe nhằm khuyến khích nỗ lực phối hợp đa ngành
tại các cấp địa phương, quốc gia, quốc tế, và áp dụng các kiến thức chuyên môn
nhằm cải thiện tối đa sức khỏe con người, vật nuôi và môi trường.
1.5.2. Năng lực cốt lõi ứng dụng trong cách tiếp cận “Một sức khỏe”
Năng lực cốt lõi “Một sức khỏe” được hiểu là những kiến thức, kỹ năng,
hành vi mà mọi thành viên trong đội ngũ “Một sức khỏe” cần có được. Thuật ngữ
“cốt lõi” chỉ ra rằng các năng lực được coi là điều kiện tiên quyết tối thiểu cho tất
cả các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực “Một sức khỏe”, không phân biệt quốc
gia, sắc tộc hay bất cứ yếu tố cá nhân nào.
Tháng 7/2012, sau một chuỗi các hội thảo xây dựng anwng lwucj cốt lõi
“Một sức khỏe”, các thành viên SEAOHUN đã thống nhất một khung năng lực cốt
lõi chung bao gồm 7 nhóm năng lực cốt lõi:
(1) Hợp tác và quan hệ đối tác
(2) Truyền thông và thông tin
(3) Văn hóa và niềm tin
(4) Lãnh đạo
(5) Quản lý
(6) Giá trị và đạo đức
(7) Tư duy hệ thống

PHẦN II: CÁC BỆNH LÂY CHUNG GIỮA NGƯỜI VÀ
ĐỘNG VẬT
CHƯƠNG 1. BỆNH CẢM NHIỄM VI KHUẨN
1.1. BỆNH XOẮN KHUẨN (Leptospirosis)
1.1.1. Đặc điểm bệnh và căn bệnh
- Đặc điểm
Bệnh xoắn khuẩn là một bệnh truyền nhiễm chung cho nhiều loài gia súc và
người. Với những đặc điểm sốt cao, rối loạn tiêu hóa, con cái có thể sẩy thai, viêm

gan thận, vàng da, nước tiểu có huyết sắc tố.
- Căn bệnh


Bệnh do nhiều dạng huyết thanh học của xoắn khuẩn Leptospira interogans
thuộc chi Leptospira, họ Leptospiraceae gây nên.
Hình thái:
Leptospira là những xoắn khuẩn dài, mảnh, xoắn có quy tắc, ở đầu vi khuẩn có
đoạn uốn khúc dạng móc câu, có nhiều vòng lượn sóng sát nhau, tạo thành những
hình giống như chữ S. Chiều rộng vòng xoắn 0,2 – 0,3 µm.
Vi khuẩn không có lông nhưng di động được ở dạng lắc lư, co rút, lượn sóng.
Sức đề kháng:
Vi khuẩn có sức đề kháng mạnh trong nước trung tính hay hơi kiềm, có thể
sống hàng tháng hay vài năm và có khả năng gây bệnh cho động vật mẫn cảm. Tuy
nhiên, nó đề kháng yếu với nhiệt độ, ở 55 – 60 oC chỉ sống khoảng 1 giờ, dưới 0oC
chết rất nhanh.
Các chất sát trùng thông thường có thể diệt vi khuẩn nhanh chóng, acid dạ dày
và muối mật có khả năng diệt xoắn khuẩn.
1.1.2. Dịch tễ học
- Địa dư bệnh lý
Năm 1915, Inada và Yido đã phát hiện được một loại xoắn khuẩn đặc biệt và
đặt tên là Spirochaeta icterohaemorrhagiae ở chuột lang được tiêm truyền máu của
một bệnh nhân nhiễm khuẩn vàng da tái phát, sau này được gọi là Leptospira
icterohaemorrhagiae.
Năm 1994, khoảng 212 serotype Leptospira thuộc 23 nhóm đã được phân lập
bởi các nhà khoa học trên thế giới.
Bệnh có khắp nơi trên thế giới đặc biệt là ở những vùng có khí hậu nóng ẩm và
có diện tích mặt nước lớn như châu Phi, Nam Mỹ, châu Á.
Ở Việt Nam, bệnh đã có từ rất lâu và xảy ra ở tất cả các vùng miền, trên nhiều
loài gia súc như lợn, chó, bò và gây ra nhiều thiệt hại nặng nề ở những đàn gia súc

sinh sản. Trong những năm gần đây, bệnh có chiều hướng ngày càng gia tăng.
Leptospirosis vốn được coi là bệnh ở các vùng núi, đầm lầy nhưng đã tràn
xuống thành phố và khu đông dân cư từ rất nhiều năm.
- Loài mắc bệnh
Leptospira gây bệnh cho bò và chó nhiều nhất, sau đó đến ngựa, cừu, dê, lợn,
mèo. Ở nhiều khu vực trên thế giới, lợn được coi là một trong những động vật có
vú quan trọng nhất có liên quan đến bệnh của người và gia súc.


Bệnh do Leptospira gây ra được coi là bệnh của chuột. Chuột được biết là ổ
chứa thường xuyên của vi khuẩn, luôn mang và thải mầm bệnh. Vì vậy, chuột
không chỉ là nhân tố trung gian truyền bệnh mà còn được coi là nguồn bệnh.
- Chất chứa mầm bệnh
Trong cơ thể con vật mắc bệnh, ban đầu vi khuẩn cư trú trong máu, sau khoảng
15 ngày thì vi khuẩn chủ yếu có ở đường tiết niệu, màng thai và sau đó được thải
ra ngoài qua nước tiểu, thai sẩy.
Dã thú, loài gặm nhấm như chuột và chồn bệnh ở thể ẩn tính, luôn mang và
tàng trữ mầm bệnh, thường không biểu hiện triệu chứng lâm sàng.
- Đường xâm nhập
Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa, do ăn phải thức ăn hay
nước uống có nhiễm mầm bệnh do chuột bài ra ngoài theo nước tiểu.
Trong tự nhiên, xoắn khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể qua da và niêm mạc
lành lặn hoặc bị xây xát, tổn thương; qua đường sinh dục và nhau thai. Nếu người
và các loài động vật bơi hoặc tắm ở nguồn nước nhiễm mầm bệnh cũng có thể mắc
bệnh.
- Cách sinh bệnh
Xoắn khuẩn có thể gây nên một số biến đổi bệnh lý dựa trên 2 cơ chế sau:
Độc tố: Tất cả các loài Leptospira đều có độc tính, chúng gây bệnh cho vật chủ
bằng cách nhân lên để tạo một lượng lớn vi khuẩn trong cơ thể. Ngoài ra, trong
thành phần của chúng có chứa các chất hóa học có khả năng gây viêm và giết chết

tế bào gần đó bằng cách tạo thành lỗ hổng trên bề mặt tế bào.
Sự bám dính: Leptospira có khả năng bám dính vào thành mạch máu, từ đó
chúng có thể xâm nhập vào các mô bào. Khi xoắn khuẩn di chuyển trong cơ thể sẽ
dẫn đến một số triệu chứng như đau cơ, xuất huyết, phát ban, đau đầu; suy giảm
chức năng gan, mô bào thận chết nhanh dẫn đến gia súc thiếu máu, vàng da và
trong nước tiểu có huyết sắc tố. Xoắn khuẩn rất dị cảm với thai và thường gây sẩy
thai.
1.1.3. Triệu chứng
Trong những trường hợp gia súc có thai thường sẩy thai hoặc đẻ non và có thể
truyền mầm bệnh cho con non qua nhau thai.
Vi khuẩn thường gây tổn thương thành mạch quản, gây nên hiện tượng xuất
huyết, thận bị tổn thương và có nhiều máu trong nước tiểu. Vì đau thận nên con vật


(đặc biệt là loài 4 chân) bước đi theo tư thế lưng bị uốn cong, không đi nhanh và có
biểu hiện sốt.
- Ở trâu bò
Những con non bị bệnh thường chết còn con trưởng thành ít khi chết, những
con có thai trên 5 tháng thường bị sẩy thai.
Bê thường mắc bệnh ở thể cấp tính. Con vật sốt cao (40,5 – 41 oC), bỏ ăn,
hoàng đản, nước tiểu có máu (lúc đầu có màu vàng nhạt chuyển sang vàng sẫm
hoặc màu đỏ do có máu), suy kiệt dần rồi chết.
Con cái trong thời kỳ tiết sữa thì sản lượng sữa giảm từ 10 – 75% và sau 10 –
14 ngày thì trở lại bình thường, thậm chí cả trong một số trường hợp không cần
điều trị.
Đặc trưng của bệnh xoắn khuẩn ở trâu bò là bầu vú thường mềm và nhão. Sữa
thường có màu vàng, có vệt máu hoặc cục máu mặc dù rất ít trường hợp có biểu
hiện bò bị viêm vú. Có thể phân lập được xoắn khuẩn từ sữa.
Ở thể mãn tính con vật thường bị sẩy thai (ở tuần thứ 6 – 12 hoặc thời kỳ chửa
cuối) hoặc đẻ non. Ở thể này, bệnh thường kết hợp với bệnh ký sinh trùng đường

máu.
- Triệu chứng ở lợn
Thể cấp tính thường gặp ở lợn con (đặc biệt lợn dưới 3 tháng tuổi). Con vật có
chứng phù đầu rõ, hoàng đản, sốt, co giật, xuất huyết, nước tiểu có lẫn máu, mắt
màu hồng, tổn thương ở thận và chết.
Thể mạn tính thường gặp ở lợn lớn, chủ yếu do lây qua đường sinh dục. Lợn bị
sẩy thai, đẻ non, lợn con đẻ ra thường yếu ớt. Lợn nái có chửa ít có biểu hiện triệu
chứng, có thể chẩn đoán dựa vào hiện tượng lợn bị sẩy thai sau khi nhiễm xoắn
khuẩn một vài tuần. Lợn bị phù rõ (đầu to, mắt híp, phù cả đầu và ngực). Niêm
mạc và da màu vàng (nặng thì vàng toàn thân như nghệ, nhẹ thì chỉ vàng niêm
mạc).
- Triệu chứng ở chó
Thời gian nung bệnh ở chó từ 4 – 12 ngày, có thể là 2 ngày.
Chó thường có vệt máu ở lòng trắng của mắt khiến cho mắt có màu hồng. Giai
đoạn sau, hiện tượng hoàng đản phát triển khiến cho mắt có màu vàng nhạt.
- Triệu chứng ở người
Triệu chứng ở người có 2 thể:


Thể vàng da (thể viêm gan thận): Bệnh xảy ra đột ngột, gây nhức đầu, đau cơ,
viêm kết mạc mắt, nôn, tiêu chảy hay táo bón. Viêm gan, thận với các biểu hiện
vàng da, giảm hay vô niệu và chết. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, bệnh nhân thường
sốt, đau đầu, đau cơ, và khó chịu có thể tái xuất hiện. Thể này ít phổ biến hơn thể
không vàng da.
Thể không vàng da: Bệnh nhân có biểu hiện sốt, đau cơ, viêm kết mạc mắt, cổ
cứng, buồn nôn, thỉnh thoảng có nôn mửa. Bệnh nhân bình phục trong khoảng 1
tháng kể từ khi xuất hiện triệu chứng.
1.1.4. Bệnh tích
Bệnh tích đặc trưng của trâu bò ở thể cấp tính là thiếu máu, hoàng đản,
bilirubin niệu, xuất huyết dưới da.

Thận sưng to, sẫm màu, có nốt hoặc đám xuất huyết, về sau chuyển thành nốt
hoại tử.
Gan vàng, nhạt màu, sưng to và có các nốt hoại tử.
1.1.5. Chẩn đoán
- Chẩn đoán dịch tễ và phân biệt
Phẫu thuật gia súc bệnh để tìm các bệnh tích đặc trưng (thịt có mùi khét, mất
hẳn phẩm chất thịt và có màu vàng), cần chú ý phân biệt với một số bệnh khác,
như: Bệnh suy dinh dưỡng, hoàng đản do E. coli haemorrahagiae ở lợn, sẩy thai
truyền nhiễm, ký sinh trùng đường máu ở trâu bò.
- Chẩn đoán bệnh trong phòng thí nghiệm
Phương pháp quan sát trực tiếp:
Vì chiều rộng của xoắn khuẩn là 0,1 – 0,2 µm nên phải quan sát dưới kính hiển
vi nền đen hoặc sử dụng phương pháp miễn dịch huỳnh quang để quan sát thấy
xoắn khuẩn trong nước tiểu và mô bào.
Có thể sử dụng một số phương pháp nhuộm như nhuộm thấm bạc hay
immunoperoxidase để tìm xoắn khuẩn trong lát cắt mô của thận và các cơ quan
khác.
Phương pháp nuôi cấy xoắn khuẩn:
Nuôi cấy ở nhiệt độ 30oC trên môi trường như Teckit, Korthof, môi trường bán
cố thể Fletcher trong vòng 8 tuần. Hàng tuần lấy 1 giọt canh trùng soi dưới kính
hiển vi tụ quang nền đen sẽ thấy Leptospira vận động. Trong môi trường Teckit (2
– 10% huyết thanh) sau 48 thì xoắn khuẩn mọc tốt, dưới ánh sáng đèn thấy môi


trường có khói và mây mù, đó là dấu hiệu vi khuẩn mọc tốt.
Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm:
Có thể sử dụng mẫu bệnh phẩm là máu hoặc nước tiểu để tiêm vào xoang bụng
thỏ hoặc chuột lang đang bú mẹ.
Khi nhiệt độ cơ thể tăng lên hoặc tại các thời điểm 5, 8, 10 và 14 ngày sau khi
tiêm, tiến hành lấy máu tim rồi nuôi cấy trong các môi trường nuôi cấy xoắn khuẩn

thường dùng.
Định type vi khuẩn:
Có thể sử dụng phản ứng miễn dịch huỳnh quang hoặc phương pháp nhuộm
immunoperoxidase trực tiếp đối với các mẫu bệnh phẩm. Kỹ thuật PCR cũng được
sử dụng để xác định xoắn khuẩn có trong mẫu mô bào hoặc dịch thể.
- Chẩn đoán huyết thanh học
Phản ứng vi ngưng kết (MAT):
MAT là phản ứng huyết thanh học thường được sử dụng để chẩn đoán bệnh
xoắn khuẩn. Phương pháp này rất có ý nghĩa và được sử dụng trong các kiểm tra
liên quan đến xuất nhập khẩu. Để đảm bảo độ nhạy của phản ứng được tốt, nên sử
dụng các chủng phân lập được tại địa phương hơn là các chủng tham chiếu.
Được thực hiện với kháng nguyên là các chủng Leptospira sống, phát hiện
được các serovar, có độ nhạy và độ đặc hiệu cao.
Phản ứng ngưng kết:
Phản ứng ngưng kết nhằm sàng lọc phát hiện bệnh, có độ đặc hiệu thấp, được
tiến hành với kháng nguyên chết.
Ở nước ta hiện nay tạm thời quy định hiệu giá kháng nguyên chết là 1/8 –
dương tính, 1/4 – nghi ngờ. Một phản ứng dương tính không nhất thiết là con vật
đó đang có bệnh.
Phản ứng ELISA:
Đây là kỹ thuật đang được sử dụng để thay thế cho phương pháp MAT. Ngoài
chẩn đoán thông thường, ELISA còn có thể thực hiện các test nhanh để phát hiện
Leptospira. Phản ứng được sử dụng để phát hiện kháng thể với các kháng nguyên
chuẩn đã có.
1.1.6. Phòng bệnh
- Phòng bệnh bằng vệ sinh
Quan trọng nhất trong phòng bệnh xoắn khuẩn là chăm sóc chu đáo, đảm bảo


khẩu phần đầy đủ và chế độ vệ sinh tiêm phòng vaccine. Nhập lợn về phải tiêm

phòng và nuôi riêng 15 ngày trước khi cho nhập đàn.
Cần thực hiện định kỳ xét nghiệm máu để loại thải sớm các gia súc có bệnh.
Ngoài ra cần tích cực diệt chuột, diệt ruồi, khai thông cống rãnh tránh bùn lầy
nước đọng sẽ làm môi giới truyền bệnh.
Khi có dịch xảy ra, cần kịp thời chẩn đoán chính xác và khai báo cho cơ quan
có chức năng. Cấm bán chạy gia súc và nhập gia súc khi có dịch. Xử lý gia súc ốm
và gia súc chết vì bệnh nhanh chóng.
Không bơi lội trong các hồ hoặc lặn trong nước ô nhiễm với nước tiểu của
động vật.
- Phòng bệnh bằng vaccine
Phòng bệnh trên bò: Thường dùng vaccine Cattle – Master 4 – 5L, Leptoferm 5
để phòng bệnh cho bò. Tiêm cho trâu bò khỏe mạnh từ 6 tháng tuổi trở lên, hằng
năm tiêm nhắc lại, không dùng vaccine trong vòng 21 ngày trước khi giết thịt gia
súc.
Phòng bệnh cho lợn: Vaccine Leptospira dùng 3ml/con, tiêm dưới da cho lợn 2
lần, cách nhau 7 ngày. Ngoài ra có thể dùng vaccine Farrowsure, Farrowsure B.
Hiện nay chưa có vaccine phòng bệnh cho ngựa. Một số nước sử dụng vaccine
xoắn khuẩn của trâu bò cho ngựa tuy nhiên không an toàn. Vì thế nên không được
sử dụng vaccine bừa bãi.
1.1.7. Điều trị
Với những con nặng thì không điều trị mà tiến hành tiêu hủy.
Điều trị cho trâu bò, lợn, ngựa: Tetracycline và oxytetracycline được cho là có
hiệu quả trong điều trị thể cấp tính. Trong thể mạn tính có thể sử dụng một số
kháng sinh khác như amoxicillin, enrofloxacin. Khi gia súc đã bị nhiễm trùng
đường tiết niệu thì hiệu quả điều trị không cao.
Ngoài ra có thể điều trị bằng kháng huyết thanh: Cần dùng kháng huyết thanh
để điều trị sớm, đúng chủng gây bệnh, tiêm dưới da, tiêm chậm và khi có dị ứng thì
dùng adrenalin để can thiệp. Trâu bò dùng 50 – 150 ml, lợn dùng 10 – 50 ml tùy
trọng lượng.
Đối với người bị bệnh: Người lớn khi mắc xoắn khuẩn có thể uống một liều

duy nhất 200mg Doxycycline. Trẻ em dưới 8 tuổi không uống được Doxycycline
do một số phản ứng phụ có thể uống penicillin.


1.2. BỆNH LAO (Tuberculosis)
1.2.1. Đặc điểm bệnh và
- Đặc điểm bệnh

căn bệnh

Bệnh lao là một bệnh truyền nhiễm mạn tính của nhiều loài động vật và
người do trực khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis gây ra, bệnh có đặc trưng là
gây ra trong phủ tạng những hạt viêm đặc biệt gọi là hạt lao.
Căn bệnh
Bệnh do trực khuẩn Mycobacterium gây ra, đây là vi khuẩn Gram dương không
sinh nha bào.
Hình thái:
Vi khuẩn có hai đầu mảnh, không sinh giáp mô hay tiêm mao nhưng chúng lại
có tính chất kháng toan, kháng cồn.
Khi mới nuôi cấy vi khuẩn có thể đứng riêng rẽ hoặc tạo chuỗi cong như chữ S.
Nhưng nếu nuôi cấy kéo dài trực khuẩn lao có dạng sợi dài, phân nhánh giống
nấm, vì vậy có tên Mycobacterium (“mycos” có nghĩa là nấm, “bacterium” có
nghĩa là vi khuẩn).
Sức đề kháng:
Trực khuẩn lao có sức đề kháng khá cao đối với các nhân tố lý hóa so với các
vi khuẩn không có nha bào khác, nhất là những chỗ thiếu ánh sáng và khô. Trong
đờm ẩm chúng có thể sống được một tháng, trong sữa sống được nhiều tuần. Trong
phân gia súc vi khuẩn tồn tại hàng tháng.
Tuy nhiên, vi khuẩn lại rất mẫn cảm với tia tử ngoại và sức nóng. Ánh sáng mặt
trời giết chết vi khuẩn sau 8 giờ. Các chất sát trùng thường dùng là formol 1%,

NaOH 2% và vôi bột có thể diệt được vi khuẩn.
Type lao ở người, trực khuẩn lao ngày cáng kháng lại streptomycin,
ethambutol, rifampicin.
1.2.2. Dịch tễ học
- Địa dư bệnh lý
Mặc dù được biết đến ở thể viêm phổi với các u lao từ rất lâu nhưng chỉ đến
năm 1820, bệnh lao mới được xác nhận là một bệnh và được gọi với tên là bệnh


lao “tuberculosis”.
Năm 1882, Mycobacterium tuberculosis lần đầu tiên được Robert Koch phân
lập. Sau đó, Kock đã tìm thấy trong nước lọc canh khuẩn đã nuôi cấy vi khuẩn lao
một chất gọi là khuẩn tố lao Tuberculin.
Năm 1921, Calmette và Guérin đã nghiên cứu tạo ra vaccine nhược độc BCG
(Bacillus Calmette Guérin) để phòng bệnh lao.
Bệnh có khắp nơi trên thế giới đặc biệt là Châu Âu, thường gặp nhiều ở gia súc
cao sản. Ở nước ta bệnh đã có từ thời Pháp thuộc nhưng không nhiều và thường
gặp ở gia súc nhập nội.
- Loài cảm nhiễm
Các loài gia súc, gia cầm, thú rừng và người đều có thể mắc bệnh.
Có thể xếp theo thứ tự: Người – bò – gà – lợn – chó – mèo – trâu. Con non
cảm thụ hơn con trưởng thành.
- Chất chứa mầm bệnh
Trong cơ thể bệnh, máu và các tổ chức bị lao đều có mầm bệnh.
Lao ở phổi và đường tiêu hóa: Mầm bệnh có trong nước mũi, nước bọt,
phân.
Lao cơ quan sinh dục: Mầm bệnh có trong nước tiểu, tinh dịch, dịch âm đạo.
Sữa của những gia súc bị lao cũng thường có vi khuẩn.
Ở gia cầm nếu lao ở buồng trứng và ống dẫn trứng thì trứng có chứa mầm
bệnh.

- Đường truyền lây
Vi khuẩn chủ yếu xâm nhập vào cơ thể qua hai đường chính:
- Đường hô hấp: Phổ biến nhất là ở người và bò.
Vi khuẩn từ cơ thể bệnh bài xuất qua nước bọt do ho, hắt hơi, khạc nhổ hoặc
theo phân ra ngoài. Khi phân và đờm khô mầm bệnh dính vào hạt bụi lơ lửng trong
không khí. Con vật hay người khỏe mạnh hít phải sẽ bị lây bệnh.
- Đường tiêu hóa: Phổ biến là ở bê và lợn.
Do bê bú sữa mẹ hoặc qua thức ăn nước uống bị ô nhiễm mầm bệnh, động
vật khỏe ăn phải bị lây bệnh. Uống sữa tươi hoặc dùng các sản phẩm sữa được làm
từ sữa tươi chưa qua tiệt trùng có nguy cơ lây bệnh cao.


-

Cơ chế sinh bệnh

Trực khuẩn lao lần đầu tiên xâm nhập vào một cơ thể sẽ gây nhiễm lao cho cơ
thể đó, khi đó gọi là “giai đoạn lao sơ nhiễm”.
Vi khuẩn sau khi xâm nhiễm sẽ gây những bệnh tích cục bộ hoặc ở các hạch
lympho lân cận. Sự tác động tương hỗ giữa sức đề kháng của cơ thể và mầm bệnh
tạo ra những hạt viêm đặc biệt gọi là hạt lao. Các hạt này tiến triển thành các nang
lao có bã đậu hoặc canxi hóa. Nếu sức đề kháng của cơ thể tốt, các tổn thương có
thể thành sẹo thì cơ thể lành bệnh. Nếu sức đề kháng của cơ thể yếu đi, những hạt
lao này lan tràn mạnh hơn tại phổi và vi khuẩn có cơ hội đi theo đường bạch huyết,
vòng tuần hoàn đi đến và gây tổn thương các bộ phận khác trong cơ thể và khi đó
lao sơ nhiễm sẽ chuyển thành “lao thực thụ”.
1.2.3. Triệu chứng
Cơ thể những loài nhiễm lao thường sốt nhẹ, sốt kéo dài, sáng giảm, chiều tăng.
Gia súc gầy dần, lông dựng, da khô, tận dụng thức ăn kém. Tuy nhiên ở mỗi loài
động vật, bệnh có nhiều biểu hiện khác nhau.

- Lao ở bò
Lao phổi:
Đây là thể lao thường hay gặp nhất, biểu hiện rõ nhất là ho, ho khan nhỏ, dần
dần tiếng ho to hơn, ướt dần rồi ho từng cơn; ho có đờm nhớt đặc dần kèm theo mủ
và máu; thường xuất hiện khi gõ lồng ngực, uống nước lạnh, nằm xuống đứng lên.
Con vật khó thở khi cày kéo vận động, vật dạng chân ra thở và thở ra dài hơn thở
vào.
Khi nghe có âm ran ướt, khi gõ lồng ngực thì có âm đục phân tán, âm bùng hơi
và âm kim khí.
Lao hạch:
Thường thấy ở hạch dưới hàm, hạch trước tuyến dưới tai, hạch trước vai, hạch
trước vú, nếu lao ở phổi thì hạch phổi cũng bị lao.
Lao hạch xảy ra khá phổ biến, hạch sưng tạo thành cục cứng, sờ thấy lổn nhổn,
hạch không đau và dính vào da. Biểu hiện ra bên ngoài là gia súc bị què, rối loạn
tiêu hóa nếu lao hạch ruột.
Lao vú:
Tùy vào mức độ bệnh mà bầu vú, núm vú có thể bị biến dạng, khi sờ vào có thể


thấy những hạt lao lổn nhổn.
Hạch vú sưng to, cứng, nổi cục, sản lượng sữa giảm.
Lao đường tiêu hóa:
Phổ biến nhất là lao ở ruột, gan, con vật bị rối loạn tiêu hóa dẫn đến tiêu chảy
liên miên, gầy dần, và có thể chướng hơi nhẹ.
- Lao ở lợn
Lợn thường lao hạch hầu, dẫn đến hiện tượng khó nuốt, đau hầu, hình thành
các nốt lao bã đậu hóa sau đó nó có thể vỡ ra tạo thành lỗ dò. Lợn ít bị lao phổi.
- Lao ở chó và mèo
Chó mèo ít bị lao, dấu hiệu dễ thấy là lao da, tạo thành các nốt loét ở da và mặt,
ngoài ra chúng cũng có thể bị lao phúc mạc, lao phổi và lao ruột.

- Lao gia cầm
Gà hay bị hơn cả, triệu chứng mạn tính, kín đáo, khó nhận biết. Thường gà gầy
dần, mào tái, kém ăn, cơ ngực teo, sản lượng trứng giảm, hồng cầu giảm rõ rệt.
Trong nhiều trường hợp gà bị què nên đi lại khó khăn, đôi khi có thể liệt do
viêm khớp.
- Lao ở người
Triệu chứng toàn thân: Sốt (37 – 38oC), sốt về chiều hoặc có cảm giác ớn lạnh,
gai người, đổ mồ hôi (thường được gọi là mồ hôi trộm). Người bị bệnh thường mệt
mỏi kém ăn, giảm trọng lượng.
Triệu chứng hô hấp: Điển hình là hiện tượng ho kéo dài và dai dẳng. Khạc đờm
có thể lẫn máu. Đau tức ngực, khó thở, nghe phổi có tiếng bất thường (ran ướt, rít).
Qua xét nghiệm hình ảnh (Xquang) thì có thể thấy phổi có tổn thương thể hiện
qua các nốt mờ, thâm nhiễm.
1.2.4. Bệnh tích
- Hạt lao
Tùy theo giai đoạn phát triển mà có những hạt lao khác nhau:
Hạt xám: Lúc đầu hạt nhỏ, cứng (lao hạt kê), hạt có giới hạn rõ rệt, khó bóc,
màu trắng hoặc xám, nếu như hạt này nhiều thì khi sờ tay nắn thì thấy tương tự như
phổi bị trộn cát, lạo xạo.
Hạt vàng: Các hạt lao lớn dần, bằng hạt đậu xanh hay hạt bắp; nhân bị thoái
hóa tạo thành bã đậu, có màu vàng hoặc màu trắng đục.
Hạt xơ: Do các hạt trên tăng sinh to hơn nữa, vỡ ra. Khi không bị vỡ được các


tổ chức xơ tăng sinh bao bọc.
- Khối tăng sinh thượng bì
Các hạt trên tăng sinh có khi to bằng hạt dẻ, quả ổi, hạt có khuynh hướng bã
đậu hay canxi hóa.
- Đám viêm bã đậu
Đến giai đoạn sau các hạt lao vỡ ra tạo thành bã đậu, nát, thẩm dịch.

1.2.5. Chẩn đoán
- Chẩn đoán lâm sàng và giải phẫu gia súc
Khi chẩn đoán cần căn cứ vào các triệu chứng, bệnh tích điển hình của bệnh:
Gia súc gầy dần, da khô, lông dựng, sốt nhẹ (chủ yếu sốt vào buổi chiều tối); một
số bệnh tích như hạt lao, các khối tăng sinh thượng bì hay các đám viêm bã đậu.
Thực hiện nghe, gõ để kiểm tra một số âm có thể có trong quá trình lao phổi.
Thường xuyên kiểm tra bằng cách sờ nắn bầu vú hay các hạch để kiểm tra hạt lao.
- Chẩn đoán bằng phản ứng dị ứng
Thực hiện bằng cách tiêm tuberculin vào nội bì cho bò ở 2 vị trí là ở nếp gấp cổ
và nếp gấp đuôi. Trước khi tiêm phải cắt lông, rửa sạch da bằng nước sinh lý, đo độ
dày da cho con vật.
Tiến hành tiêm tuberculin TbPPDA (hàm lượng 1mg/1ml) với liều 0,1ml vào
trong da ở vị trí đã xác định. Sau 72 giờ tiến hành đo độ dày của nếp gấp da nơi
tiêm, nếu độ dày da tăng lên ít nhất là 5mm thì được cho là dương tính. Trong
trường hợp nghi ngờ sau 60 ngày phải thử lại.
- Chẩn đoán vi khuẩn học
Nhuộm trực tiếp bệnh phẩm bằng phương pháp Ziehl Neelsen:
Sau khi nhuộm bằng phương pháp Ziehl Neelsen, quan sát dưới kính hiển vi
thấy vi khuẩn lao bắt màu đỏ trên nền xanh.
Nuôi cấy vi khuẩn:
Thực hiện nuôi cấy vi khuẩn trên môi trường Lowenstein - Jensen. Sau khoảng
1 -2 tháng vi khuẩn tạo khuẩn lạc khô, nhăn nheo như hình hoa súp lơ.
Tìm tế bào khổng lồ Langhan:
Có thể lấy bệnh phẩm bảo quản trong formol 10% để làm tiêu bản tìm tế bào
khổng lồ Langhan.
- Phương pháp khác
Hiện nay người ta thường áp dụng kỹ thuật PCR để ứng dụng chẩn đoán bệnh


lao, phương pháp này cho kết quả chính xác cao.

Ngoài ra có thể dùng phản ứng ELISA để chẩn đoán bệnh lao.
1.2.6. Phòng bệnh
Phòng bệnh lao chủ yếu là thực hiện tốt công tác vệ sinh và định kỳ phát hiện
bệnh bằng phản ứng dị ứng.
- Định kỳ kiểm tra phát hiện bệnh lao bằng phản ứng dị ứng
Đối với bò cái và bò đực giống: Kiểm tra tuberculin 1 năm 2 lần; ngựa, lừa, la,
các trại lợn giống kiểm tra 1 năm 1 lần; trại gà với đàn lớn thì kiểm tra 10%, nếu
dương tính với tỷ lệ cao thì giết hết cả đàn.
Những con có phản ứng dương tính và những con có triệu chứng thì giết,
những con không có triệu chứng thì nuôi riêng và theo dõi.
Gia súc nhập nội phải có giấy chứng nhận là không bị bệnh lao, khi nhập về
phải thử bằng phản ứng tuberculin.
- Vệ sinh phòng bệnh
Đối với gia súc:
Để phòng bệnh lao, việc nâng cao sức đề kháng của cơ thể là việc làm hết sức
quan trọng, đối với gia súc phải cho ăn uống tốt, sử dụng và khai thác hợp lý.
Vệ sinh chuồng trại cũng rất quan trọng vì trực khuẩn lao có sức chống đỡ cao,
chuồng trại phải thông thoáng, thường xuyên dùng một số chất sát trùng như vôi
bột, formol 1%, crezyl 5%.
Sữa của gia súc bị lao phải được tiệt trùng bằng phương pháp Pasteur.
Ở người:
Khi tiếp xúc với người hay gia súc bị nhiễm bệnh nên đeo khẩu trang, không
dùng bát chén chung với người bệnh trong thời gian bệnh nhân phát bệnh.
Bát đũa nên phơi nắng, nhà cửa sạch sẽ hàng ngày mở cửa sổ thông gió, có ánh
nắng sẽ hạn chế sự tồn tại vi khuẩn lao.
Người bệnh nên có ý thức không khạc nhổ lung tung làm ô nhiễm môi trường
và ảnh hưởng đến cộng đồng.
Cần phải nâng cao sức khỏe bằng cách đảm bảo chế độ dinh dưỡng, đủ về số
lượng nhưng tốt về chất lượng.
- Phòng bệnh bằng vaccine

Dùng vaccine B.C.G (Bacterium Calmette Guérin) tiêm cho bê 15 ngày tuổi
với liều khoảng 40 – 100 ml vào dưới da yếm, miễn dịch 1 – 1,5 năm. Tuy nhiên


ngày nay người ta ít dùng vaccine B.C.G vì nó làm cản trở việc chẩn đoán bệnh lao
bằng phản ứng dị ứng.
Miễn dịch với lao là miễn dịch thu được không truyền từ mẹ sang con, cho nên
ở người cần tạo miễn dịch cho trẻ bằng cách tiêm phòng lao với vaccine B.C.G khi
trẻ sinh ra.
1.2.7. Điều trị
Theo luật thú y thế giới và Việt Nam, bệnh lao ở động vật không điều trị, những
con vật bị bệnh lao phải tiêu diệt để tránh lây lan sang con vật khác và người.
Với những người bị bệnh lao cần khám sớm để được điều trị kịp thời, dùng đúng
và đủ theo phác đồ điều trị tại các trung tâm phòng chống lao ở địa phương. Đặc
biệt, cần có bác sỹ trực tiếp theo dõi quá trình điều trị, không được tự ý cắt bỏ
thuốc điều trị. Khi bị bệnh, có thể sử dụng một số thuốc như streptomycin,
ethambutol, rifampicin để điều trị bệnh


1.3. BỆNH SẨY THAI TRUYỀN NHIỄM DO BRUCELLA
(Brucellosis)
1.3.1. Đặc điểm bệnh và căn bệnh
- Đặc điểm bệnh
Bệnh sẩy thai truyền nhiễm là một bệnh truyền nhiễm mạn tính chung cho
nhiều loài động vật và người, do vi khuẩn Brucella gây ra.
Bệnh có những đặc điểm chung là viêm và hoại tử các phủ tạng, đặc biệt là tử
cung, nhau thai, gây sẩy thai và sát nhau.
- Căn bệnh
Bệnh do các loài vi khuẩn Brucella spp thuộc chi Brucella, nhóm trực khuẩn
Gram âm, hiếu khí.

Brucella là những trực khuẩn nhỏ, đa hình thái (tròn, dài, dẹt), kích thước 0,5 –
0,7 x 0,6 – 2 µm, không hình thành giáp mô, lông và nha bào.
Brucella phát triển tốt ở nhiệt độ 37oC, pH 6,6 – 7,4. Khuẩn lạc có màu ánh
xanh, dạng S (màu trắng, mịn) hoặc dạng R và M (màu vàng sẫm và đục); những
khuẩn lạc dạng S thường có độc lực cao hơn dạng R.
Vi khuẩn có sức đề kháng tương đối cao, nhất là trong điều kiện lạnh, chúng có
thể tồn tại được 4 tháng trong sữa, nước tiểu và đất ẩm ướt ở nhiệt độ thường.
Hấp Pasteur (70oC/30phút) có thể diệt được vi khuẩn trong sữa. Các chất sát
trùng thông thường như formol 4%, nước vôi tôi diệt khuẩn dễ dàng.
1.3.2. Dịch tễ học
- Địa dư bệnh lý
Năm 1886, David Bruce – nhà khoa học người Anh đã tìm ra lượng lớn vi
khuẩn hình cầu trong lách của người chết vì bệnh, một năm sau đó ông đã phân lập
được căn bệnh ở trên khỉ và đặt tên là Mycrococcus melitensis.
Năm 1920, tại hội nghị thú y thế giới tổ chức ở Luân Đôn, người ta thống nhất
gọi tên vi khuẩn là Brucella để kỷ niệm công lao người đầu tiên phát hiện ra căn
bệnh.
Bệnh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là những nước điều kiện vệ sinh
thú y không đảm bảo tiêu chuẩn. Bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên.
Ở nước ta, bệnh xuất hiện đầu tiên vào năm 1956 trên đàn bò nhập nội với type
gây bệnh là Brucella abortus. Thời gian gần đây, việc chẩn đoán bệnh này chủ yếu
thực hiện trên bò, lợn nhập nội và bò sữa cao sản.


Loài vật cảm nhiễm
Dê, cừu, trâu, bò, lợn, chó và người đều mắc bệnh. Tuy nhiên mỗi loài có một
độ mẫn cảm khác nhau.
Loài chim và chuột có mang mầm bệnh. Những người làm công tác chăn nuôi,
thú y, lò mổ, lợn thuộc da, cắt lông cừu dễ mắc bệnh (chiếm 70% số ca mắc bệnh).
Con non ít mẫn cảm hơn con trưởng thành, những con thành thục về tính dễ

mắc bệnh hơn.
- Chất chứa vi khuẩn
Ở con cái, mầm bệnh có nhiều trong núm nhau, nước ối, và chất nhờn âm đạo,
sữa; ở con đực, vi khuẩn có nhiều trong tinh dịch.
Trong các cơ quan phủ tạng (máu, gan, lách, tủy xương, dịch hoàn...) đều chứa
lượng lớn mầm bệnh. Nước tiểu, phân là nơi mang, tàng trữ mầm bệnh.
Muỗi, ruồi nhà, ruồi trâu, rệp, ve cũng mang mầm bệnh.
- Đường xâm nhập và cách lây lan
Bệnh có thể lây trực tiếp hoặc gián tiếp qua 3 con đường chính:
Bệnh lây qua đường tiêu hóa do thức ăn, nước uống, sữa có nhiễm vi khuẩn.
Lây qua giao phối và cơ quan sinh dục.
Lây qua da và đường hô hấp.
- Cách sinh bệnh
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn vào hạch lympho rồi sinh sản và phát
triển trong máu gây bại huyết. Sau đó vi khuẩn lan vào các cơ quan phủ tạng và
khu trú ở đó gây viêm, hoại tử, tăng sinh ở khớp.
Ở con vật có chửa 5 – 6 tháng, vi khuẩn gây hoại tử núm nhau, màng nhau
bằng độc tố, qua tĩnh mạch rốn tấn công vào thai, làm thai bị sẩy hoặc chết lưu.
Khi bị sẩy, có thể cả bọc thai và nhau thai ra; hoặc chỉ bọc thai ra còn nhau thai
sót lại bám chặt vào tử cung, khó bóc, gây viêm tử cung có mủ, để lại vết sẹo xây
xát trên tử cung, làm cho con vật bị sẩy thai liên tiếp ở các lần chửa sau (3 – 5 lần),
vì vậy gọi là bệnh sẩy thai truyền nhiễm.
1.3.3. Triệu chứng
- Ở bò
Bò cái: Rõ nhất là hiện tượng sẩy thai vào tháng thứ 5 – 7, một số ít ở tháng
thứ 8. Bò có biểu hiện sốt, ít vận động.
Bò mẹ có đủ các triệu chứng khi sắp đẻ: Âm đạo phần ngoài sưng đỏ, chảy
-



nước nhớt, vú căng, có sữa đầu, sụp mông.
Nếu sẩy ở tháng thứ 5 – 6 thường ra cả bọc thai, nếu sẩy vào tháng thứ 7 thì sót
nhau. Nước âm hộ chảy ra đục, không mùi, bẩn và lẫn màng nhau màu trắng. Nhau
bị viêm dính vào niêm mạc tử cung rất khó bóc ra hoặc bóc ra từng mảng.
Sau khi sẩy một vài tuần, nước ngừng chảy ở âm hộ, tử cung vẫn bình thường
và chịu đực trở lại. Sau khi sẩy con vật khỏe mạnh.
Bò đực: Dịch hoàn sưng to gấp 2 – 3 lần, sưng nóng, ấn tay vào con vật đau
đớn. Sau 2 – 3 ngày dịch hoàn lạnh dần và bắt đầu teo lại.
Tinh dịch chuyển sang màu ánh vàng, số lượng tinh trùng giảm đáng kể, tỷ lệ
dị hình tăng cao.
Hiện tượng viêm khớp: Thường xuất hiện ở khớp háng, khớp chậu (ở con cái),
khớp gối (con đực). Khớp sưng, sờ thấy mềm, có nhiều dịch viêm, không tạo thành
lỗ dò (khác ngựa).
- Ở dê, cừu
Thời gian nung bệnh từ 2 – 18 tuần.
Thường gặp nhất là hiện tượng sẩy thai. Trước lúc sẩy thai từ 2 – 8 ngày, cừu
xuất hiện một số triệu chứng toàn thân, viêm âm hộ, chảy nước nhớt có khi bị liệt
chân sau.
Ở cừu đực có triệu chứng giống bò đực, viêm dịch hoàn. Cừu có hiện tượng
viêm khớp mạn tính, viêm màng dịch hoàn và có các triệu chứng thần kinh.
- Ở lợn
Con cái: Nếu lợn nái nhiễm Brucella trong quá trình thụ tinh hay giao phối thì
thường thụ thai hỏng, con cái động dục sau 5 – 8 tuần.
Khi sẩy thai lợn bị liệt chân sau (1 hoặc 2 chân), viêm khớp, sau 10 – 15 ngày
hồi phục trở lại. Vi khuẩn có thể tồn tại sau 18 tháng.
Con đực: Khi bị nhiễm bệnh, con vật thường có hiện tượng viêm sưng dịch
hoàn.
- Ở ngựa
Ngựa cái ít hoặc không bị sẩy thai.
Triệu chứng đặc trưng là viêm khớp: Chủ yếu là ở khớp cổ, sống lưng, khấu

đuôi. Xoang bao khớp to dần lên, hình thành lỗ dò ở gáy, lưng và khớp khấu đuôi.
- Ở người
Thời gian nung bệnh khoảng 2 – 3 tuần.


Người lúc đầu có một số triệu chứng như: Sốt (sốt cách nhật, thường sốt về
đêm), đau đầu, ớn lạnh ban ngày, ra mồ hôi trộm, mệt mỏi; đau khớp, đau cơ, đau
lưng gáy khó cử động.
Có những trường hợp bị viêm tinh hoàn. Đặc biệt trường hợp viêm nội tâm
mạc là nguyên nhân gây chết do Brucella ở người chiếm tỷ lệ khoảng 2%.
1.3.4. Bệnh tích
- Con cái
Trường hợp bị sẩy thai: Nước ối đục, bẩn có lẫn máu và màng giả. Nếu sẩy thai
ra cả bọc thì bọc thai dày lên, trên bề mặt phủ một chất nhớt, bẩn. Toàn bộ bề mặt
phôi thai phủ một lớp vàng đục. Phôi phát triển không bình thường, còi cọc. Gan,
lách, thận của thai bị viêm, xuất huyết và hoại tử.
Bầu vú: Các hạch vú bị viêm sưng. Trên bề mặt da mỏng của bầu vú có những
điểm hoại tử màu trắng xám.
Sữa của con vật có màu vàng.
- Con đực
Tăng sinh dịch hoàn và thừng dịch hoàn. Giai đoạn sau, dịch hoàn teo lại, có
những hạt hoại tử lổn nhổn.
Những con bị viêm khớp thì xoang bao khớp có nhiều dịch nhầy, đục và hơi
sánh.
Tủy xương nhạt màu, có từng đám hạt hoại tử màu tro xám.
1.3.5. Chẩn đoán
- Chẩn đoán trên con vật sống
Căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng và đặc điểm dịch tễ của bệnh để chẩn
đoán; thường chẩn đoán bệnh trên con vật sống, ít khi tiến hành trên con vật chết.
Nếu trong đàn có những con bị sẩy thai vào cuối hoặc giữa kỳ chửa thì phải

cách ly theo dõi.
- Chẩn đoán huyết thanh học
Đây là phương pháp chẩn đoán cơ bản, có thể lấy huyết thanh, dịch nhờn âm
đạo, sữa làm phản ứng như ngưng kết nhanh trên phiến kính (Huddlenson), phản
ứng ngưng kết chậm trong ống nghiệm (Wright), phản dị ứng, phản ứng kết hợp bổ
thể, ELISA.
- Chẩn đoán vi khuẩn học
Nhuộm vi khuẩn: Sử dụng phương pháp nhuộm Ziehl - Neelsen, vi khuẩn bắt


màu đỏ trên nền xanh thẫm, không có hiện tượng bắt màu sẫm hai đầu.
Nuôi cấy vi khuẩn: Để nuôi cấy Brucella người ta thường sử dụng môi trường
đặc, ví dụ như tryptone – soy agar (TSA), serum – dextrose agar (SDA), glycerol
dextrose agar.
Sau khi nuôi cấy, nếu có Brucella thì vi khuẩn sẽ mọc sau 3 – 5 ngày, sau đó
bắt đầu ổn định dạng khuẩn lạc.
Tiêm truyền động vật thí nghiệm: Tiêm bệnh phẩm cho chuột lang, theo dõi
trong 3 – 6 tuần sau khi tiêm, có thể lấy máu tìm kháng thể. Khi chuột chết cần làm
phản ứng huyết thanh học hoặc lấy bệnh phẩm (cấy vào môi trường nước thịt gan,
màng thai hoặc lòng đỏ thai) tìm vi khuẩn để khẳng định.
- Chẩn đoán dựa vào công nghệ gen
Thường sử dụng một số phương pháp như Southern blot, PCR, pulse field gel
electrophoresis để xác định chủng Brucella.
- Chẩn đoán dị ứng
Chẩn đoán dị ứng có thể dùng để phát hiện bệnh ở những đàn chưa sử dụng
vaccine, sử dụng kháng nguyên chuẩn là Brucellin (kháng nguyên tinh khiết, đây là
chất lọc canh trùng của Brucella, không có kháng nguyên lipopolysaccharide).
1.3.6. Phòng bệnh
- Phòng bệnh bằng vệ sinh
Thường xuyên sát trùng chuồng trại bằng các chất sát trùng thích hợp.

Người chăn nuôi nên tự túc con giống, nếu nhập thì phải kiểm tra kỹ bằng
phương pháp huyết thanh học, nên nuôi riêng đến khi đẻ lứa đầu tiên.
Ở những cơ sở nhân giống cần phải kiểm tra bằng phản ứng huyết thanh học
mỗi năm 2 - 4 lần để phát hiện những con có phản ứng dương tính và loại thải.
Nếu trong đàn có hiện tượng sẩy thai thì nuôi riêng để tìm ra nguyên nhân,
chuồng nhốt gia súc phải tiêu độc kỹ, phải có chuồng nhốt riêng gia súc đẻ và gia
súc bị sẩy thai, trước khi nhập đàn cần rửa toàn thân cho con vật bằng dung dịch
NaOH 0,2%.
Sử dụng các sản phẩm từ sữa có nguồn gốc rõ ràng, được hấp khử trùng cẩn
thận.
Những người thợ săn, làm ở lò mổ phải đeo găng tay cao su để làm thịt gia súc.
Khi tiếp xúc với thai sẩy, cần đi ủng và đeo găng và những dụng cụ bảo hộ khác.
- Phòng bệnh bằng vaccine


Vaccine B. abortus chủng 19 nhược độc được dùng phòng bệnh cho bò
trưởng thành và bê 3 – 8 tháng tuổi (tiêm 1 lần). Vaccine này cho miễn dịch lâu dài
khi tiêm 1 lần, trâu bò miễn dịch từ 3 – 5 năm, cừu 1 năm rưỡi.
Vaccine sống B. melitensis, chủng Rev.1, được sử dụng rộng rãi trong phòng
bệnh cho dê cừu.
Các vaccine phòng bệnh Brucellosis vẫn có khả năng gây bệnh cho người,
do đó phải bảo quản ở điều kiện riêng biệt.
1.3.7. Điều trị
Với gia súc có thể điều trị được nhưng tốn kém, hiệu quả điều trị không cao,
đòi hỏi thời gian kéo dài; do đó, người ta thường không tiến hành điều trị mà áp
dụng chương trình làm sạch bệnh, thường bị giết thịt.
Người ta có thể dùng tetracyclin hoặc dihydrostreptomycin để điều trị cho
cừu đực cho kết quả tốt. Tuy nhiên, khi bệnh tích thấy rõ ở mào tinh hoàn thì điều
trị bằng kháng sinh không có kết quả.
Để điều trị cho chó có thể dùng kết hợp dihydrostreptomycin và tetracyclin

hoặc minomycline. Thời gian điều trị kéo dài từ 2 – 4 tuần. Nếu là chó sinh sản thì
không điều trị mà giết thịt.
Ở người yêu cầu can thiệp kháng sinh sớm, thời gian điều trị kéo dài. Có thể
sử dụng doxycycline (200mg/ngày) kết hợp với rifampin tiêm bắp trong 6 tuần.
Một số nơi sử dụng tetracycline, gentamycin, bên cạnh đó ciprofloxacin cũng có
tác dụng tốt để điều trị.

1.4. BỆNH UỐN VÁN (Tetanus)
1.4.1. Đặc điểm bệnh và căn bệnh
- Đặc điểm
Uốn ván là một bệnh truyền nhiễm cấp tính chung cho nhiều loài gia súc và
người. Đặc trưng của bệnh là co giật từng cơn, co cứng cơ vân do ảnh hưởng của
ngoại độc tố.


Căn bệnh
Bệnh do trực khuẩn Clostridium tetani, chi Clostridium, thuộc họ vi khuẩn
Gram dương yếm khí sinh nha bào gây ra.
C. tetani là trực khuẩn lớn, ngắn hơi cong, kích thước 0,5 – 0,8 x 3 – 4 µm,
không có giáp mô và có khả năng di động.
Nha bào được hình thành ở cực tế bào nên thường có hình trứng hoặc hình dùi
trống. Đa số trường hợp hai đầu tế bào có hình tròn, kích thước thường khác nhau,
đứng riêng lẻ hoặc tạo thành chuỗi ngắn.
C. tetani phát triển tốt trên môi trường nuôi cấy yếm khí, nhiệt độ thích hợp
37oC, pH 7,2 – 7,6.
Trực khuẩn C. tetani sinh ra hai ngoại độc tố rất mạnh: Độc tố uốn ván
tetanospasmin (độc tố co thắt), độc tố dung huyết tetanolysin.
Vi khuẩn có sức đề kháng yếu nhưng nha bào có sức đề kháng mạnh, nha bào
không bị tiêu diệt sau khi đun sôi 1,5 giờ. Các chất sát trùng phải pha đặc như axid
fenic 15% (15 giờ), formol 3% (24 giờ), còn với nồng độ thông thường thì không

có tác dụng.
Độc tố của C. tetani bị phá hủy ở 65 oC trong vòng 15 phút, 60 oC trong vòng 20
phút. Cồn, formol, iod làm mất độc tính của độc tố nhưng vẫn giữ được tính kháng
nguyên, do đó người ta dùng formol 4‰ để giải độc tố uốn ván trong vòng 1 tháng
sẽ trở thành giải độc tố, dùng để chế vacine.
1.4.2. Dịch tễ học
- Địa dư bệnh lý
Năm 1884, Carle và Rattone lần đầu tiên gây chú ý về bệnh uốn ván bằng việc
tiêm dịch mủ của người bị chết do uốn ván trên động vật.
Năm 1924, Ramon đã tạo ra giải độc tố để phòng bệnh bằng cách làm vô hoạt
độc tố uốn ván bằng formalin.
Bệnh uốn ván có ở khắp nơi trên thế giới, nhiều nhất là ở các nước nhiệt đới.
Dịch xuất hiện lẻ tẻ, xảy ra ở những vùng nhất định gọi là “vùng uốn ván”. Ở nước
ta do khí hậu nóng ẩm nên bệnh gây nhiều thiệt hại cho người và gia súc, bệnh
thường gặp ở đồng bằng đặc biệt là vùng lầy lội.
- Loài vật mắc bệnh
Trong thiên nhiên, tất cả các loài có vú đều mắc bệnh, nhưng mức độ cảm thụ
khác nhau, mẫn cảm nhất là ngựa – cừu – trâu – bò – lợn – chó – mèo (ít), chim
-


×