Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Khảo sát chuyển dịch từ ngữ chỉ rau quả tiếng việt sang tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.75 MB, 137 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ THỊ THANH TÌNH

KHẢO SÁT CHUYỂN DỊCH TỪ NGỮ CHỈ RAU QUẢ

TIẾNG VIỆT SANG TIẾNG ANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ THỊ THANH TÌNH

KHẢO SÁT CHUYỂN DỊCH TỪ NGỮ CHỈ RAU QUẢ
TIẾNG VIỆT SANG TIẾNG ANH

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Hoàng Anh Thi

Hà Nội - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính bản thân tôi
thực hiện. Các số liệu và kết quả được nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được các tác giả khác công bố.

Tác giả luận văn

Lê Thị Thanh Tình

i


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Khoa Ngôn ngữ
học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, đã truyền thụ kiến thức và giúp đỡ tôi trong học tập cũng như nghiên cứu
suốt khóa học vừa qua.
Lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất xin được gửi tới PGS.TS.Hoàng
Anh Thi, người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi hoàn thành luận văn
này với sự nhiệt thành và những khích lệ quý báu.
Tôi đặc biệt cảm ơn những người thân trong gia đình đã chia sẻ, gánh
vác mọi khó khăn để tôi có điều kiện chuyên tâm hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn

Lê Thị Thanh Tình

ii



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Thứ tự

Quy định viết tắt

Nghĩa

1.

ĐHQGHN

Đại học Quốc gia Hà Nội

2.

ĐHQGTPHCM

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

3.

Nxb

Nhà xuất bản

iii


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1.Các từ chỉ rau củ quả là từ đơn ............................................................ 86
Bảng 2.2.Các từ ngữ chỉ rau củ quả là từ ghép phụ nghĩa .................................. 87
Bảng 2.3.Các từ ngữ chỉ rau củ quả là từ láy âm ................................................ 90
Bảng 2.4.Từ ngoại lai .......................................................................................... 91

iv


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Tỉ lệ (%) đặc điểm cấu tạo từ ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt
và tiếng Anh ........................................................................................................ 45
Biểu đồ 2.2. Tỉ lệ (%) đặc trưng định danh từ ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt
và tiếng Anh ........................................................................................................ 48

v


MụC LụC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................................... ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG.............................................................................................................. iv
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ..........................................................................................................v
MụC LụC ..................................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................................3
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................4
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu. ...............................................................................5
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT .....7

1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu ........................................................................................7
1.2. Khái quát chung về từ và cấu tạo từ, ngữ ....................................................................8
1.3. Vấn đề định danh trong ngôn ngữ ............................................................................. 12
1.3.1. Khái niệm về định danh ............................................................................................. 12
1.3.2. Các phương thức định danh trong ngôn ngữ.......................................................... 16
1.4. Nghiên cứu đối chiếu từ vựng ..................................................................................... 17
1.5. Sơ lƣợc về dịch thuật .................................................................................................... 21
1.5.1. Sự cần thiết phải có dịch thuật .................................................................................. 21
1.5.2. Tương đương dịch thuật ............................................................................................ 22
1.5.3. Chuyển dịch từ, ngữ (định danh) .............................................................................. 27
Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................................. 29
CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ ĐẶC TRƢNG ĐỊNH DANH CỦA TỪ,
NGỮ CHỈ RAU CỦ QUẢ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH ........................ 31
2.1. Đặc điểm cấu tạo từ, ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt...................................... 31
2.1.1. Từ, ngữ chỉ rau củ quả có cấu tạo là từ đơn .......................................................... 31
2.1.2. Từ, ngữ chỉ rau củ quả có cấu tạo là từ ghép ........................................................ 32

1


2.2. Đặc trƣng định danh của từ, ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt........................ 35
2.3. Đặc điểm cấu tạo từ, ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Anh ..................................... 39
2.3.1. Từ, ngữ chỉ rau củ quả có cấu tạo là từ đơn trong tiếng Anh ............................ 39
2.3.2. Từ, ngữ chỉ rau củ quả có cấu tạo là từ ghép trong tiếng Anh ........................... 41
2.4. Đặc trƣng định danh của từ, ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Anh ....................... 43
2.5. Nhận xét .......................................................................................................................... 44
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................................. 50
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG THỨC CHUYỂN DỊCH TỪ, NGỮ CHỈ RAU CỦ QUẢ
TRONG TIẾNG VIỆT SANG TIẾNG ANH .................................................................. 53
3.1. Khảo sát chuyển dịch về đặc trƣng cấu trúc và đặc trƣng định danh của từ, ngữ

chỉ rau củ quả trong tiếng Việt sang tiếng Anh ............................................................... 53
3.1.1. Khảo sát chuyển dịch về đặc trưng cấu trúc ............................................................ 53
3.1.2. Khảo sát chuyển dịch về đặc trưng định danh ........................................................ 63
3.2. Khảo sát chuyển dịch từ, ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt sang tiếng Anh
trên cứ liệu văn học (tiểu thuyết “Thời xa vắng” của nhà văn Lê Lựu và bản dịch
tiếng Anh “A time far past” của nhóm tác giả Ngô Vĩnh Hải, Nguyễn Bá Chung,
Kevin Bowen and David Hunt). ......................................................................................... 70
Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................................. 75
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 82
DANH SÁCH TƢ LIỆU VĂN HỌC................................................................................. 85
PHỤ LỤC............................................................................................................................... 86

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, nhu cầu về kiến thức ngôn ngữ nói chung và ngoại ngữ nói
riêng trong xã hội ngày càng lớn do sự mở rộng giao lưu văn hóa, kinh tế, xã
hội của Việt Nam với nước ngoài, đặc biệt là từ khi Việt Nam trở thành thành
viên của các tổ chức quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc học tập, tìm hiểu ngôn
ngữ, văn hóa của các dân tộc khác là nhu cầu tất yếu.
Ở mỗi ngôn ngữ thường có những sự vật, khái niệm... tồn tại chung và
phổ biến cho mọi dân tộc, mọi quốc gia. Tuy nhiên, cũng có những sự vật,
khái niệm khác chỉ có ở dân tộc này, quốc gia này mà lại không có ở quốc gia
khác, dân tộc khác. Cách thức gọi tên, biểu đạt ý nghĩ, hình dung, tưởng
tượng về cái tồn tại chung là không giống nhau.
Trong mọi ngôn ngữ đều có những từ, ngữ chỉ rau củ quả, chúng lập
thành một trường từ vựng, ngữ nghĩa riêng, gọi là trường rau củ quả. Tính

chất quan trọng của trường từ vựng – ngữ nghĩa này thể hiện ở chỗ đa số các
tên gọi đều thuộc vốn từ vựng cơ bản của một ngôn ngữ, chúng là lớp từ
thuần và có biến đổi. Các từ thuộc lớp từ này đều rất phong phú và đa dạng về
chủng loại và được sử dụng rộng rãi trong đời sống.
Cũng như nhiều ngôn ngữ khác, từ, ngữ chỉ rau củ quả trong từ vựng
của tiếng Việt vô cùng phong phú. Chúng có tương ứng hoặc không có tương
ứng với các ngôn ngữ khác. Việc chuyển dịch từ vựng ra các ngôn ngữ, một
mặt, giúp ta biết được những gì mà các ngôn ngữ khác có thể có, mặt khác, nó
cũng cho ta biết được những gì mà ngôn ngữ khác không thể có. Và việc
chuyển dịch ra tiếng Anh là một cách để xác định các đặc điểm của từng ngôn
ngữ và hiểu sâu sắc hơn những nét đặc thù của chúng. Qua đó, con người hiểu
ngôn ngữ của mình rõ hơn, đồng thời cũng giúp cho việc học ngoại ngữ, cụ thể là
tiếng Anh và tiếng Việt (với tư cách một ngoại ngữ).

3


Đề tài mà chúng tôi lựa chọn không chỉ tập trung nghiên cứu đặc trưng
của các từ, ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt, mà còn tìm hiểu cách liên hệ
chuyển dịch các từ này sang tiếng Anh. Kết quả khảo sát chuyển dịch này sẽ
cung cấp chứng tích liên quan đến sự giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ
cũng như văn hóa xã hội của hai đất nước. Làm được điều này, chúng tôi hi
vọng giúp ích cho việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh và
việc dạy tiếng Anh cho người Việt, cung cấp những cơ sở khoa học để từ đó
người học có phương pháp hiệu quả hơn trong việc học tiếng và sử dụng tốt
hơn văn hóa giao tiếp bằng ngôn từ, cũng như hiểu được một phần nào về đặc
điểm văn hóa xã hội bộc lộ qua nhóm từ, ngữ này.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi mà chúng tôi nghiên cứu là nhóm từ, ngữ chỉ rau
củ quả trong tiếng Việt và việc chuyển dịch sang tiếng Anh. Phạm vi là các

từ, ngữ chỉ rau củ quả tiếng Việt và dịch tương ứng của chúng, thu thập từ
một số cuốn từ điển, các bài báo, tạp chí ...
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là khảo sát, thống kê tương đối
đầy đủ các từ, ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt, cụ thể là từ (từ đơn, từ
ghép), là ngữ (ngữ định danh).
Thông qua các cuốn từ điển, điều tra thực tế và vốn hiểu biết ngôn ngữ
của bản thân, chúng tôi lên danh sách tạm gọi là đầy đủ những từ, ngữ chỉ rau
củ quả. Với các dữ liệu thu được, chúng tôi phân tích, thống kê và tổng hợp
để tìm ra kết quả chuyển dịch từ tiếng Việt ra tiếng Anh. Trong đó, tiếng Việt
là ngôn ngữ nguồn và tiếng Anh là ngôn ngữ đích.
Do đó, luận văn nhằm thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản sau:

4


- Phân tích đặc điểm các từ, ngữ rau củ quả về cấu tạo (hình thức) và về
đặc điểm định danh (nội dung), để từ đó thấy được đặc trưng của chúng
trong tiếng Việt.
- Chỉ ra các phương thức chuyển dịch của từ, ngữ rau củ quả trong tiếng
Việt sang tiếng Anh.
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu.
4.1. Tư liệu nghiên cứu
Để tránh chủ quan và đảm bảo độ tin cậy nhất định, trước hết chúng tôi
dựa vào các tài liệu tổng hợp, đó là các cuốn từ điển.
Về tiếng Việt, chúng tôi tiến hành thu thập các tài liệu cụ thể là các từ,
ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt trên cơ sở dữ liệu từ các cuốn từ điển.
Trong quá trình chọn lọc từ điển, chúng tôi lựa chọn cuốn Đại từ điển tiếng
Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh, bởi vì chúng tôi nhận thấy cuốn này là tiêu biểu hơn cả.

Về tiếng Anh, chúng tôi tiến hành thu thập tài liệu chủ yếu từ các cuốn
từ điển sau:
English - English - Vietnamese, Vietnamese - English Dictionary, Từ
điển Anh - Anh - Việt, Việt - Anh 750.000 từ (2014) của Nxb Văn hóa-Thông
tin.
Vietnamese – English Dictionary, Từ điển Việt – Anh (2005) của Ban
biên soạn chuyên từ điển New Era, Nxb Văn hóa thông tin, gồm 250.000 mục
từ.
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi cũng sử dụng các tài liệu khác như:
các bản dịch, các bài báo, tạp chí … được coi là các tài liệu thể hiện rõ nét
nhất về các từ, ngữ chỉ rau củ quả và các nét nghĩa của các từ, ngữ này trong
hoạt động hành chức của chúng.

5


4.2. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu
Để thực hiện những mục tiêu đã đề ra của luận văn, trong nghiên
cứu này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu
cơ bản sau:
- Thống kê định lượng: thông qua các nguồn tài liệu tin cậy, chúng tôi
tiến hành điều tra, tập hợp và thống kê các ngữ liệu, tức là các từ,
ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt.
- Phân tích, miêu tả cấu tạo và ngữ nghĩa của các từ, ngữ này. Tức là
phân tích cấu tạo từ, cấu tạo ngữ, phân tích các thành tố nghĩa, kể cả
phân tích liên hợp giữa các đặc điểm cấu tạo và nội dung nghĩa với
cách tư duy, diễn đạt của người Việt để chỉ ra các đặc trưng của từ,
ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt.
- Phân tích thành tố cấu tạo: nói chung phương pháp phân tích thành
tố có thể được hiểu là phương pháp nghiên cứu về các đơn vị, được

khởi thảo ra trong phạm vi cấu tạo, cấu trúc và có mục đích là phân
giải cấu tạo, cấu trúc ra thành các thành phần cấu tạo nên đơn vị đó.
Quá trình ngược lại là sự tổ hợp các cấu tạo, cấu trúc (từ, ngữ) bằng
thành tố cấu tạo nên từ, ngữ. Ở cấp độ từ là hình vị, hình tiết; ở cấp
độ ngữ là các tổ hợp thành ngữ định danh (phân biệt với nghĩa biểu
trưng và biểu tượng). Đây là phân tích thành tố cấu tạo. Phân tích
thành tố nghĩa có nội dung thành phần cấu tạo là nét nghĩa, nghĩa vị
để tạo nên nghĩa và hệ thống con nghĩa. [24, tr.77]
- Đối chiếu chuyển dịch: luận văn tập trung đưa ra danh sách các từ,
ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt và khảo sát các phương thức
chuyển dịch của các từ, ngữ này từ tiếng Việt sang tiếng Anh.

6


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu
Tại Việt Nam, từ khoảng những năm 1980 tới nay đã có nhiều công
trình nghiên cứu đối chiếu liên ngôn ngữ nhằm phục vụ mục đích giảng dạy,
dịch thuật... Những công trình đối chiếu liên ngôn ngữ tiếng Anh – tiếng Việt
khá phong phú. Trong dữ liệu tra cứu đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
ngành ngôn ngữ học tại ĐHQGHN và ĐHQGTPHCM, chúng tôi thấy có khá
nhiều công trình nghiên cứu đối chiếu tiếng Anh và tiếng Việt. Trong đó có
một số công trình tiêu biểu như:
+ Các nghiên cứu đối chiếu Anh - Việt/ Việt – Anh
- Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt so sánh
với thành ngữ tiếng Anh. (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Bảo)
- Khảo sát đặc trưng từ, ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt
liên hệ chuyển dịch sang tiếng Anh. (Luận văn thạc sĩ Phạm Thị Tuyết

Thanh)
- Cấu tạo và ngữ nghĩa danh từ ghép tiếng Anh (so sánh với danh từ ghép
tiếng Việt). (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Uyên Phương)
- Cấu trúc ngữ nghĩa của kết cấu gây khiến trong tiếng Việt (so sánh với
tiếng Anh). (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thanh Bình)
+ Các nghiên cứu về từ, ngữ chỉ rau củ quả trong tiếng Việt
- Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ).
(Luận văn thạc sĩ của Lê Hồng Nhiên)
- “Vai trò của thực vật trong đời sống văn hóa Việt Nam và Đông Nam
Á” (Trần Ngọc Thêm).

7


Những công trình nghiên cứu đối chiếu kể trên đã đóng góp không nhỏ
vào việc nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Anh cho người Việt và dạy tiếng
Việt cho người Việt cũng như người nói tiếng Anh.
Từ, ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt được các tác giả đi trước đề cập
đến ở nhiều góc độ: ngôn ngữ, văn hóa, tri nhận hay đối chiếu liên ngôn. Tuy
nhiên, những nghiên cứu đối chiếu chuyển dịch từ, ngữ chỉ rau củ quả trong
tiếng Việt sang tiếng Anh còn khá khiêm tốn. Bởi vậy, trong luận văn này
chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu từng góc độ của nhóm từ này
nhằm tìm ra sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ và đặc trưng chuyển dịch tiếng
Việt – Anh.
1.2. Khái quát chung về từ và cấu tạo từ, ngữ
Trong thực vật học, quả hoặc trái/ trái cây là một phần của những loại
thực vật có hoa, chuyển hóa từ những mô riêng biệt của hoa, có thể có một
hoặc nhiều bầu nhụy và trong một số trường hợp là mô phụ. Quả là phương
tiện để thực vật phân tán hạt của chúng. Nhiều loại thực vật cho quả ăn được,
được nhân giống do sự chuyển dịch của con người và các loài động vật theo

mối quan hệ cộng sinh như là cách phân tán hạt giống và chất dinh dưỡng nói riêng.
Còn rau là tên gọi chung của các loại thực vật có thể ăn được dưới dạng lá là
phổ biến tuy nhiên trong thực tế có nhiều loại ăn hoa, củ, quả và rễ cũng có
thể gộp chung vào các loại rau.
Theo tập quán ở Việt nam, thực vật được gọi là rau nghĩa là có thể nấu
chín hoặc ăn sống (tươi) đều được cả. Như giá đỗ, có thể xào, nấu canh, luộc
nhưng thường dùng ăn sống nhiều hơn. Các loại rau gia vị cũng vậy. Tóm lại,
rau là một loại thực vật có thể ăn được, vừa là thực phẩm, vừa là dược thảo,
vừa là gia vị cho bữa ăn.

8


Theo ngôn ngữ chung, thì “quả” hay “trái cây” có nghĩa là một kết cấu
nhiều thịt của các loại thực vật, có vị chua hay ngọt và có thể ăn sống được,
như táo, cam, nho…. Mặt khác, ý nghĩa của “quả” theo thực vật học bao gồm
nhiều loại kết cấu mà thường không được gọi là quả như các dạng quả đậu,
bắp ngô, hạt lúa mì…. Trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý,
“quả” được định nghĩa là bộ phận của cây do bầu nhụy hoa phát triển mà
thành, bên trong chứa hạt; Còn “củ” được định nghĩa là phần thân hay rễ cây
phát triển phình và chứa chất dự trữ.
Trong tiếng Việt, ở các phương ngữ “quả” còn bao gồm những vật có
hình như các quả/trái cây (hình cầu tròn) có tên gọi như quả bóng, quả đấm,
quả trứng, quả tim…những quả đó không phải là những quả thực vật. Hay
trường hợp ngoại lệ của “rau” là rau câu tuy mang “danh hiệu” rau nhưng
công dụng không phải là một loại rau theo nghĩa thông thường. Do vậy,
chúng sẽ không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
1.2.1. Quan niệm về từ
Một số tác giả nước ngoài quan niệm rằng từ là đơn vị định danh độc
lập, như B.Golovin trong cuốn sách Dẫn luận ngôn ngữ học, ông đã viết: “Từ

là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ được vận dụng độc lập, tái hiện tự
do trong lời nói để xây dựng nên câu”, hay tác giả L.Bloomfield đã nhận xét
từ là một “hình thái tự do nhỏ nhất”, có nghĩa là từ là một hình thái nhỏ nhất
có thể xuất hiện độc lập được [Dẫn theo 6, tr.136-138].
Ở Việt Nam, có nhiều tác giả đã đưa ra quan điểm về từ như Nguyễn
Thiện Giáp [9], Đỗ Hữu Châu [4], Nguyễn Tài Cẩn [1], …
Để giải quyết nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi không bàn luận về quan
niệm từ mà chỉ chọn một quan niệm để làm cơ sở cho việc xem xét, phân tích
các đơn vị từ, ngữ tương ứng. Quan niệm được lựa chọn cũng có điều kiện
tương ứng nội dung trong hai ngôn ngữ Anh – Việt. Vì vậy, để chọn một quan

9


niệm làm cơ sở nghiên cứu cho luận văn, chúng tôi chấp nhận quan điểm của
Nguyễn Tài Cẩn chia từ thành từ đơn (tiếng) và từ ghép. Quan điểm của tác
giả cho rằng: “từ là đơn vị nhỏ nhất có thể vận dụng độc lập ở trong câu” [1;
tr.326] và “từ đơn (từ đơn tiết)” “có tổ chức tối đơn giản và cũng có giá trị về
mặt ngữ pháp” [1; tr.38-39]. Từ ghép là “kết hợp tiếng với tiếng chúng ta sẽ
được những đơn vị cao hơn, gọi chung là tổ hợp … tổ hợp cố định thường
được gọi là từ đa tiết hoặc từ ghép”. Từ ghép gồm từ ghép nghĩa và từ láy âm.
Về mặt cấu tạo, “từ đơn chỉ gồm một tiếng nên làm thành một đơn vị đơn
giản. Từ ghép, trái lại, là một đơn vị phức hợp, có tổ chức nội tại. Từ ghép là
một loại đơn vị có tổ chức cao hơn từ đơn một bậc” [1; tr.50-51]. Quan điểm
này đồng thời cũng phù hợp với quan điểm của tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ
Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến (2001) và khá gần gũi với một quan niệm
trong Anh ngữ học tương ứng, tạo điều kiện cho việc phân tích đối chiếu
chuyển dịch như mục đích mà luận văn đã chỉ rõ.
1) Từ đơn là từ “gồm những tiếng vừa có nghĩa, vừa độc lập. Đa số đều
nằm trong vốn từ cơ bản của tiếng Việt, đã có từ lâu đời: cha mẹ, tay,

chân, cơm, nước, ăn, uống, nói, cười, dài, ngắn, và, nhưng, à, nhỉ v.v…
những tiếng gốc Hán hay gốc Âu đã được Việt hóa cao độ (ví dụ: tim,
gan, buồng, buồm, cồn, xăng, xăm, lốp) và những tiếng Hán Việt không
có một từ Việt đồng nghĩa cạnh tranh (ví dụ: tuyết, bút, cao, thấp, học,
đáp) [1; tr.29-30].
2) Từ ghép “là một đơn vị phức hợp, có tổ chức nội tại: trong từ ghép bao
giờ cũng có thể tìm ra ít nhất là hai tiếng được kết hợp với nhau theo
một loại quan hệ này hay quan hệ nọ. Từ ghép là loại đơn vị có tổ chức
cao hơn tiếng, nói chung, và cao hơn từ đơn, nói riêng, một bậc” [1;
tr.51].

10


3) Từ láy âm là loại từ ghép trong đó, theo con mắt nhìn của người Việt hiện
nay các thành tố trực tiếp được kết hợp lại với nhau chủ yếu là theo quan hệ
ngữ âm.
4) Từ ngẫu hợp là “kiểu từ ghép trong đó các thành tố trực tiếp được kết
hợp với nhau một cách ngẫu nhiên, không dựa trên quan hệ ý nghĩa,
cũng không dựa trên cơ sở quan hệ ngữ âm, có thể tạm gọi là từ ghép
ngẫu hợp” [1; tr.139].
Đó là quan niệm về từ trong tiếng Việt. Quan niệm về từ trong tiếng Anh
cũng có những điểm tương đồng nhất định mà chúng tôi có thể dựa vào làm
cơ sở cho việc nghiên cứu của luận văn. Theo Dale (1981) từ ghép được hiểu
là sự kết hợp của hai căn tố (word + word), ví dụ: blue + bird, butter + cup,
suit + case … Bên cạnh đó, còn có các loại ghép nữa như từ meanwhile,
futhermore cũng là những từ ghép, trong tiếng Anh gọi là compound words.
Từ ghép gồm có từ ghép song song/ đẳng lập và từ ghép chính phụ. Từ ghép
chính phụ bao gồm từ ghép phái sinh với các tiền tố và hậu tố: thành phần phụ
trước là tiền tố (prefixes) và thành phần phụ sau là hậu tố (suffixes).

Tiền tố, hậu tố và trung tố là yếu tố cấu tạo từ để tạo ra các từ phái sinh và
có ý nghĩa từ vựng bổ sung, không phải ý nghĩa thuần túy ngữ pháp. Chỉ có
những phụ tố biến đổi từ mới có ý nghĩa ngữ pháp thuần túy. Phụ tố cấu tạo
từ là có ý nghĩa từ vựng. Các phụ tố không hoạt động độc lập.
Để làm căn cứ cho luận văn, chúng tôi chấp nhận quan điểm rằng ghép là
một phương thức trong đó có ghép căn tố và phụ tố là ghép phái sinh và ghép
căn tố với một căn tố vào gọi là từ ghép. Từ ghép gồm từ ghép chính phụ và
từ ghép đẳng lập.
1.2.2. Quan niệm về ngữ
Ngữ hay còn có cách gọi khác là cụm từ, tuy nhiên cách dùng tương đối
phổ biến hiện nay là ngữ. Ngữ là một tổ hợp cấu tạo gồm có các từ kết hợp

11


với nhau mà thành. Với cách hiểu chung như vậy, trong so sánh với cấu tạo từ
thì từ được cấu tạo từ các từ tố (từ tố là yếu tố nhỏ hơn từ), còn ngữ có thành
tố cấu tạo là các từ, nên gọi là từ tổ hoặc ngữ. Ngữ gồm ngữ cố định và ngữ tự
do, trong đó, ngữ tự do thuộc địa hạt ngữ pháp, nên phải là đối tượng quan
tâm của chúng tôi.
Phạm vi chúng tôi quan tâm là ngữ cố định. Đó là một tổ hợp cố định
gồm có thành phần cấu tạo là từ, ngữ. Trong nghiên cứu từ, ngữ chỉ rau của
quả, ngữ được xem xét thuộc phạm vi ngữ định danh. Chức năng của chúng
dùng để gọi tên các sự vật, hiện tượng trong hệ thống từ, ngữ chỉ rau củ quả.
Khác với ngữ định danh, thành ngữ, quán ngữ - cũng thuộc lĩnh vực từ vựng,
nhưng có nghĩa bóng, đa nghĩa, có tính biểu trưng, biểu tượng, thì không
thuộc phạm vi khảo sát của luận văn này.
Như vậy, phạm vi nghiên cứu về từ, ngữ chỉ rau củ quả của luận văn,
ngữ được hiểu là ngữ cố định định danh vì các ngữ này không có nghĩa hàm ý
(thành ngữ), cũng không có chức năng đưa đẩy, rào đón (quán ngữ), mà dùng

để gọi tên các loại rau củ quả. Trong luận văn dùng gọn là ngữ.
1.3. Vấn đề định danh trong ngôn ngữ
1.3.1. Khái niệm về định danh
Khi nghiên cứu về ngôn ngữ học, người ta không thể không nói đến sự
hình thành cách định danh trong hệ thống ngôn ngữ. Vậy định danh là gì?
Thuật ngữ này thường được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo quan
niệm của G.V.Consanski thì định danh là “sự cố định (hay gắn) cho một kí
hiệu ngôn ngữ một khái niệm – biểu niệm (significat) phản ánh cái đặc trưng
nhất định của một biểu vật (denotat) – các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ
của đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các
đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn từ” [15,
tr.102].

12


Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có một cách phân cắt và tri nhận thực tại
khách quan khác nhau, cho nên trong cách định danh ở các ngôn ngữ cũng
không giống nhau. Thông thường, từ, ngữ có định danh hai bậc trở lên sẽ bao
gồm một yếu tố chỉ loại (định danh bậc 1), và các yếu tố khu biệt (định danh
bậc 2 trở lên). Trong đó, yếu tố chỉ loại có chức năng gọi tên, chỉ ra lớp sự
vật, đối tượng cùng kiểu, cùng đặc điểm với nhau, còn yếu tố khu biệt sẽ làm
chức năng phân biệt đối tượng này với đối tượng khác. Chẳng hạn, trong rau
cải, rau là yếu tố định danh bậc 1 để chỉ loại (phân biệt với quả, hoặc củ...),
cải là yếu tố định danh bậc 2 để khu biệt loại rau này với các loại rau khác.
Quan hệ giữa yếu tố chỉ loại và yếu tố khu biệt là mối quan hệ giữa cái được
hạn định và cái hạn định, cái được hạn định có tính khái quát, còn cái hạn
định mang tính cụ thể, và chúng là khác nhau trong các ngôn ngữ. Sự khác
biệt này cũng thể hiện rõ nét ở trật tự của yếu tố được hạn định và yếu tố hạn
định. Trong tiếng Việt, yếu tố được hạn định chỉ loại bao giờ cũng đứng trước

các yếu tố hạn định, chẳng hạn như rau cải, rau cải thảo, rau cải thảo Đà
Lạt... đều có yếu tố được hạn định là rau đứng trước.
Khi bàn về bản chất của quá trình định danh ngôn ngữ, tác giả Hoàng
Lai (1970) đã trích dẫn ý kiến của viện sĩ hàn lâm khoa học Nga B. A
Serebrenikov về những nhân tố để tạo ra những đơn vị định danh. Đó là:
Những tri thức lịch sử, xã hội, văn hóa cho phép nhận ra những đặc
điểm của sự vật, hiện tượng, chức năng của chúng, cần thiết phải phân biệt
chúng với những sự vật, hiện tượng khác bằng cách cho chúng những tên gọi riêng.
Đây chính là chức năng của yếu tố hạn định. Con người giữ vai trò quan trọng vì
chính con người là chủ thể sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng để tạo ra các đơn
vị định danh mới, có cấu tạo dài ngắn khác nhau. Số lượng các âm tiết tạo nên
từ, ngữ khác nhau tùy theo loại hình ngôn ngữ, theo kiểu tư duy của cộng
đồng ngôn ngữ. Như tiếng Việt, từ đơn phần nhiều là từ 1 âm tiết, nhưng tiếng

13


Anh không như vậy, từ đơn có thể gồm nhiều âm tiết. Chẳng hạn, rau là một
từ đơn 1 âm tiết trong tiếng Việt, tương ứng với tiếng Anh là vegetables gồm
4 âm tiết.
Một nhân tố quan trọng khác ảnh hưởng tới số phận của các đơn vị
định danh mới là đơn vị định danh đó được xã hội chấp nhận hay không. Bởi
cộng đồng xã hội là nhân tố quyết định trong việc tạo đơn vị định danh mới.
Và một nhân tố không kém phần quan trọng trong quá trình định danh là đặc
điểm cấu trúc ngôn ngữ hay nói rộng hơn là loại hình ngôn ngữ. Do đó, trong
các ngôn ngữ khác nhau, các phương thức định danh cũng khác nhau, định
danh theo từ căn, định danh từ phái sinh, định danh từ tổ hợp từ, định danh
gián tiếp trên cơ sở các ý nghĩa liên hệ của từ. Theo đó thì từ được nghiên cứu
từ quan điểm của mối liên hệ sự vật của nó với thế giới khách quan ngoài
ngôn ngữ.

Còn bình diện ngữ nghĩa, nghiên cứu từ xem xét nội dung của các đơn
vị từ vựng từ quan điểm của mối liên hệ bên trong hệ thống, bên trong từ.
Việc nghiên cứu các đặc điểm của sự biểu hiện bằng các đơn vị ngôn ngữ
trước hết gắn liền với việc nghiên cứu từ trong mối quan hệ của nó với đối
tượng, sự vật xung quanh. Theo tác giả Đỗ Hữu Châu (1983), chức năng định
danh chỉ là một dạng của chức năng biểu vật. Từ đã có chức năng định danh thì
có chức năng biểu vật. Nhờ các tên gọi mà sự vật, hiện tượng thực tế khách
quan tồn tại trong lí trí của chúng ta, phân biệt được với các sự vật, hiện tượng
khác cùng loại và khác loại. Vì các tên gọi làm cho tư duy trở nên rành mạch rõ
ràng, cho nên một sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan chỉ thực sự trở
thành một sự vật được nhận thức, một sự vật của tư duy khi nó đã có một tên
gọi cụ thể trong ngôn ngữ.
Mỗi khách thể ở thế giới khách quan có một hệ thống những thuộc tính
và mối liên hệ khác nhau. Quá trình con người nhận thức được đặc tính, hay

14


đặc trưng nào đó là tiêu biểu, để nó chính là nó và để khu biệt nó với những
đối tượng khác thì những đặc trưng ấy cũng có tên gọi trong ngôn ngữ. Vấn
đề này có liên quan tới việc sử dụng đối tượng nào đó trong thực tiễn và phụ
thuộc vào nhu cầu, mục đích của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định. Đó là lí
do mà mỗi dân tộc chọn đặc điểm để định danh theo cách riêng của mình, và
cùng một đối tượng trong các ngôn ngữ khác nhau sẽ được gọi tên theo các
cách khác nhau. Cùng một đối tượng có thể được gọi tên trong các ngôn ngữ
khác nhau phụ thuộc vào đối lập kiểu nào về lịch sử, dân tộc và xã hội làm cơ
sở cho sự định danh. Quan điểm này hoàn toàn hợp lí, sự đối lập làm cơ sở
cho sự định danh ấy phụ thuộc vào chủ thể định danh. Việc tách các đặc trưng
của các khách thể khi gọi tên chúng, hay ngược lại, gộp chúng lại thành một
chủng loại dựa trên đặc điểm chung nào đó, cũng làm nên đặc trưng văn hóa –

dân tộc của từ vựng trong một ngôn ngữ nhất định. Chẳng hạn, trong tiếng
Việt, chủng loại táo được tách ra thành táo ta, tào tàu, táo Mĩ là dựa trên yếu
tố định danh nguồn gốc của sự vật, trong khi tiếng Anh gọi là sugar apple,
water apple, hay star apple... thì lại dựa trên định danh về đặc điểm của sự
vật. Hoặc trong tiếng Việt, cải, muống, dền, mùng tơi... được tập hợp loại
thành chủng loại thực vật chung gọi là rau (rau cải, rau muống, rau dền, rau
mùng tơi...), trong khi ở tiếng Anh, những loại thực vật này lại tồn tại với
những tên gọi riêng, không thể hiện bất kì “tính chủng loại” nào theo kiểu
“cabbage vegetables” (rau bắp cải). Chính việc chọn đặc trưng làm cơ sở cho
tên gọi đối tượng đã quy định hình thái bên trong của từ, thành từ đơn, hay từ
ghép, hay ngữ... Đó là đặc trưng định danh được biểu thị bằng từ và tham gia
với tư cách là một thành tố đặc biệt vào thành phần ý nghĩa từ vựng của từ.
Như vậy có thể nói, việc tìm hiểu một lớp từ nào đó trong vốn từ vựng
của mỗi dân tộc sẽ giúp chúng ta hiểu biết thêm về cách tư duy, cách lựa chọn
đặc điểm để mỗi sự vật “có tên”, và cả tư duy văn hóa của dân tộc đó.

15


1.3.2. Các phương thức định danh trong ngôn ngữ.
Trong bài nghiên cứu của mình, Vũ Thế Thạch (1996) có chỉ ra rằng:
khi định danh một khái niệm mới, chủ thể có thể sử dụng một trong ba cách
sau: Sử dụng một đơn vị từ vựng đã có sẵn trong ngôn ngữ và chuyển nghĩa
nó. Tên gọi được tạo ra bằng cách này chính là đơn vị định danh thứ sinh. Tạo
ra một đơn vị hoàn toàn mới. Đó là đơn vị định danh nguyên sinh, vay mượn
từ ngôn ngữ khác.
Trong các ngôn ngữ khác nhau, các phương thức định danh, các dạng
định danh cũng khác nhau. Theo cấu trúc hình thái học có thể là:
- Định danh từ phái sinh
- Định danh tổ hợp từ

- Định danh trên cơ sở nghĩa liên hệ của từ
Việc xác định các dạng định danh trong tiếng Việt liên quan tới việc
xác định đặc điểm cấu tạo của nó. Trong tiếng Việt có một số lượng lớn từ
một âm tiết. Đó là những đơn vị định danh cơ bản, định danh gốc, định danh
tạo từ và định danh tổ hợp từ.
Nhìn chung mỗi dân tộc, mỗi loại hình ngôn ngữ khác nhau có những
lựa chọn khác nhau để định danh. Theo Nguyễn Đức Tồn (2003), mỗi tên gọi
một sự vật hiện tượng đều có lý do – đó là lý do chủ quan hoặc khách quan.
Tư duy, văn hóa của dân tộc có ảnh hưởng lớn tới việc định danh, việc lựa
chọn các yếu tố, tính chất nào đó của sự vật để định danh. So sánh tiếng Anh
và tiếng Việt, tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ biến hình, từ được cấu tạo
bởi căn tố (yếu tố gốc) và phụ tố, trong khi tiếng Việt thuộc loại hình ngôn
ngữ đơn lập (từ ngữ được cấu tạo chủ yếu là ghép các thành tố). Đặc trưng
văn hóa dân tộc bộc lộ rõ ràng ở phạm trù hóa hiện thực và bức tranh ngôn
ngữ về thế giới [15, tr.45]. Chính vì vậy, khi chuyển dịch văn bản Việt sang
văn bản Anh hoặc ngược lại, sẽ có nhiều yếu tố không tương đương, do hai

16


loại hình ngôn ngữ khác nhau, cách thức định danh khác nhau, một phần nữa
là do văn hóa khác biệt – một phương Đông (thâm trầm, kín đáo), một
phương Tây (cởi mở, phóng khoáng). Do vậy, trong quá trình chuyển dịch từ
ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia, hầu như không có tương đương hoàn toàn.
Chẳng hạn, định danh món ăn thường chỉ ra đặc trưng về cách chế biến,
mùi vị và phương thức làm nên món ăn như bánh rán, tôm chiên, đậu phụ sốt
cà chua…, nhóm từ nghề nghiệp thường chỉ ra công cụ sản xuất, nguyên liệu,
vật liệu nghề nghiệp…Còn nhóm từ, ngữ chỉ rau củ quả lại có đặc trưng khác,
dựa theo hình dáng, tính chất và màu sắc để gọi tên như xoài voi, dưa bở, dưa
vàng, mướp đắng, cà tím, cà chua ... Điều này làm nên sự khác biệt trong

cách định danh của từng nhóm từ khác nhau. Thậm chí, ngay ở một ngôn ngữ,
cùng một sự vật mà mỗi địa phương lại có cách định danh khác nhau như
trường hợp “dưa chuột” (định danh theo hình dáng), và “dưa leo” (định danh
theo cách thức sinh trưởng) .... Chính vì vậy mà phương thức định danh trong
ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trong trong việc tìm hiểu đặc trưng của một
nhóm từ vựng nói chung, nhóm từ, ngữ chỉ rau củ quả nói riêng.
1.4. Nghiên cứu đối chiếu từ vựng
Vào những năm 80 của thế kỉ trước, lĩnh vực nghiên cứu đối chiếu các
ngôn ngữ ở bình diện từ vựng được chú ý nhiều hơn. Đối tượng của việc phân
tích đối chiếu về từ vựng là những điểm giống và khác nhau của thành phần
từ vựng và quan hệ từ vựng trong các ngôn ngữ đối chiếu. Dĩ nhiên, khó có
thể nghiên cứu đối chiếu toàn bộ hệ thống từ vựng của hai ngôn ngữ, vì ai
cũng biết đó là một hệ thống mở, có số lượng yếu tố cực kì lớn.
Chính R. Lado (1957) cũng đã nhận thấy “khối từ vựng đầy đủ của
bất kì ngôn ngữ phát triển nào cũng đều vô cùng lớn và đòi hỏi phải nghiên
cứu cả đời để so sánh từng mục từ một với khối từ vựng đầy đủ của một
ngôn ngữ khác”. Vì vậy, trong Linguistics across Cultures, phần đối chiếu

17


về hệ thống từ vựng của hai ngôn ngữ, ông giới hạn phạm vi đối chiếu ở
khối từ vựng hạn chế, bao gồm: các từ “chức năng” (thực hiện các chức
năng ngữ pháp như do (trợ động từ), các từ thay thế (các đại từ như he, she,
they, …), các từ bị quy định nghiêm ngặt về phân bố (như some, any ...) và
những từ chỉ sự vật, hành động, quá trình, phẩm chất… được lựa chọn tùy
thuộc vào mục đích nghiên cứu cụ thể [12, tr.194].
R. Lado xác định 3 cấp độ đối chiếu từ: hình thức, ý nghĩa và sự phân
bố. Ông hiểu phân bố không chỉ là những chu cảnh có thể có của từ, mà còn
gồm cả ngữ cảnh hay tình huống mà từ được sử dụng. R. Lado cũng lưu ý các

khả năng có thể có trong quá trình nghiên cứu đối chiếu từ vựng của hai ngôn ngữ:
- Giống nhau về hình thức và ý nghĩa, chẳng hạn như các từ hotel
“khách sạn”, capital “thủ đô”, calendar “lịch” và hàng ngàn từ khác trong
tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Đó thường là những từ vay mượn hoặc có
quan hệ cội nguồn, vì vậy nếu đối chiếu tiếng Anh và nhiều ngôn ngữ Châu
Âu khác thì sẽ gặp nhóm từ này nhiều hơn hẳn khi đối chiếu tiếng Anh với
tiếng Việt hay tiếng Hán.
- Giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về ý nghĩa. Có thể phân
biệt hai loại khác nhau: khác nhau một phần và khác nhau hoàn toàn. Về loại
thứ nhất, chẳng hạn như tiếng Nhật mượn từ milk “sữa” từ tiếng Anh, tuy hình
thức giống nhau, nhưng ý nghĩa chỉ giống nhau một phần: từ trong tiếng Nhật
không có kiểu tổ hợp như fresh milk trong tiếng Anh. Về loại thứ hai, chẳng
hạn như từ asistir tiếng Tây Ban Nha và assist tiếng Anh, có hình thức giống
nhau, nhưng nghĩa khác nhau hoàn toàn: asistir có nghĩa là “tham gia” còn
assist có nghĩa là “giúp đỡ”.
- Giống nhau về ý nghĩa nhưng khác nhau về hình thức. Đây là trường
hợp thông dụng nhất khi so sánh hai ngôn ngữ. Điều cần chú ý là những

18


×