Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Khảo sát đặc trưng từ, ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt liên hệ chuyển dịch sang tiếng Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 103 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHẠM THỊ TUYẾT THANH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ

KHẢO SÁT ĐẶC TRƯNG TỪ, NGỮ CHỈ BỘ PHẬN
CƠ THỂ NGƯỜI TRONG TIẾNG VIỆT
LIÊN HỆ CHUYỂN DỊCH SANG TIẾNG ANH

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60.22.01








 Hà Nội 2007 


TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM THỊ TUYẾT THANH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ

KHẢO SÁT ĐẶC TRƯNG TỪ, NGỮ CHỈ BỘ PHẬN
CƠ THỂ NGƯỜI TRONG TIẾNG VIỆT
LIÊN HỆ CHUYỂN DỊCH SANG TIẾNG ANH

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60.22.01

Người hướng dẫn khoa học : GS. TS. Lê Quang Thiêm






 Hà Nội 2007 



MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Lời cảm ơn
Phần mở đầu

0.1. Lý do chọn đề tài
0.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
0.3. Tư liệu nghiên cứu
0.4. Phương pháp nghiên cứu
0.5. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận, các nguồn tư liệu và phương thức thực
hiện đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Sự chia cắt thực tế khách quan trong các ngôn ngữ
1.1.2. Cách thức định danh trong ngôn ngữ
1.2. Các nguồn tư liệu
1.3 . Phương thức thực hiện đề tài
1.3.1. Phân tích các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng
Việt về cách thức cấu tạo
1.3.2. Phân tích biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt
về cấu tạo nội dung ngữ nghĩa
Tiểu kết
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo của các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể
người trong tiếng Việt
2.1. Dẫn nhập
2.1.1. Từ đơn
2.1.2. Từ ghép
2.1.2.1. Từ ghép nghĩa
2.1.2.2. Từ láy âm
0
1
1
2
2
3

3

5
5

5
5
7
12
14

14

15
17

19
19
19
21
2.1.3. Từ ngẫu hợp
2.2. Đặc điểm cấu tạo của các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người
trong tiếng Việt
2.2.1. Cấu tạo từ đơn
2.2.2. Cấu tạo từ ghép
2.2.2.1. Từ ghép phụ nghĩa
2.2.2.2. Từ ghép láy nghĩa
2.2.2.3. Từ ngẫu hợp
2.2.3. Đặc điểm về sự phân bố và tỷ lệ giữa từ thuần Việt và từ Hán
Việt trong các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt

Tiểu kết
Chương 3: Đặc điểm nội dung ngữ nghĩa của các biểu thức chỉ bộ phận
cơ thể người trong tiếng Việt
3.1. Dẫn nhập
3.2. Cấu tạo nội dung ngữ nghĩa của các biểu thức chỉ bộ phận cơ
thể người trong tiếng Việt
3.2.1. Nghĩa của từ thể hiện qua từ điển giải thích
3.2.2. Hiện tượng đa nghĩa
3.2.3. Nghĩa biểu trưng
Tiểu kết
Chương 4: Liên hệ chuyển dịch các biểu thức chỉ bộ phận chỉ cơ thể
người trong tiếng Việt sang tiếng Anh
4.1. Dẫn nhập
4.1.1. Bản chất và đặc điểm của quá trình dịch
4.1.2. Vấn đề tương đương trong dịch thuật
4.2. Liên hệ chuyển dịch các biểu thức chỉ bộ phận chỉ cơ thể người
trong tiếng Việt sang tiếng Anh
4.2.1. Liên hệ chuyển dịch các biểu thức đơn nghĩa
4.2.2. Liên hệ chuyển dịch các biểu thức đa nghĩa.
4.2.3. Đề xuất đối với các nhà biên soạn từ điển Việt - Anh
Tiểu kết
21


22
22
25
25
29
30


31
33

35
35

35
35
41
49
59

60
60
60
61

63
64
66
72
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

74
76
80
85

97
101











1
PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện thực trong thế giới thường có những lĩnh vực tồn tại chung và phổ
biến cho mọi dân tộc, mọi quốc gia. Tuy nhiên cũng có những tồn tại chỉ có ở
dân tộc này, quốc gia này mà lại không có ở quốc gia khác, dân tộc khác.
Nhưng cách thức gọi tên, biểu đạt ý nghĩa, hình dung, tưởng tượng về cái tồn
tại chung ấy là không giống nhau. Chính cái khác nhau này thể hiện đặc điểm
của ngôn ngữ (phương tiện của giao tiếp và tư duy) và văn hoá một cách đậm
nét nhất. Một trong những đề tài thể hiện cái chung, cái riêng trong tồn tại liên
quan đến ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữ chính là những từ ngữ chỉ bộ phận cơ
thể người.
Trong mọi ngôn ngữ đều có những từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người,
chúng lập thành một trường từ vựng - ngữ nghĩa riêng, gọi là trường bộ phận
cơ thể người. Tính chất quan trọng của trường từ vựng - ngữ nghĩa này thể
hiện ở chỗ đa số các tên gọi trong trường đều thuộc vốn từ vựng cơ bản của
một ngôn ngữ, chúng là lớp từ thuần ngữ nhất, ít bị pha tạp hoặc biến đổi bởi

các quá trình ngôn ngữ và văn hoá. Các từ thuộc trường từ vựng này rất hàm
súc về ngữ nghĩa, chúng được sử dụng với những biến đổi ngữ nghĩa rất
phong phú và linh hoạt trong lời nói.
Đề tài mà chúng tôi lựa chọn không chỉ tập trung nghiên cứu đặc trưng
của các từ, ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt, mà còn tìm cách
liên hệ chuyển dịch các từ, ngữ này sang tiếng Anh. Kết quả của sự chuyển
dịch này liên quan đến sự giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ cũng như
nền văn hoá xã hội của hai đất nước. Làm được điều này, chúng tôi hy vọng
giúp ích ít nhiều cho việc dạy tiếng Việt cho người Anh và việc dạy tiếng
Anh cho người Việt. Cung cấp cho người học cơ sở khoa học và có phương
pháp hiệu quả hơn trong việc học tiếng và sử dụng tốt hơn văn hoá giao tiếp



2
bằng ngôn từ, cũng như hiểu được một phần nào về đặc điểm văn hoá xã hội
bộc lộ qua bộ phận ngôn ngữ này.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là khảo sát, thống kê tương đối
đầy đủ các từ, ngữ, hay nói một cách khác là các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể
người. Biểu thức mà chúng tôi quan niệm ở đây có thể là từ (từ đơn, từ ghép),
có thể là ngữ, là cụm từ, là ngữ định danh.
Thông qua các cuốn từ điển, điều tra thực tế, vốn hiểu biết ngôn ngữ
tiếng Việt của bản thân, chúng tôi lên danh sách tạm gọi là đầy đủ những biểu
thức chỉ bộ phận cơ thể người. Với các dữ liệu thu được, chúng tôi phân tích,
thống kê và tổng hợp để tìm ra kết quả.
Do đó, luận văn nhằm thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản sau:
Phân tích đặc điểm của các biểu thức này về cấu tạo (hình thức) và về ngữ
nghĩa (nội dung), để từ đó thấy được đặc trưng của chúng trong tiếng Việt.
Chỉ ra các phương thức chuyển dịch các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể

người trong tiếng Việt sang tiếng Anh.
3. TƢ LIỆU NGHIÊN CỨU
Tư liệu nghiên cứu của luận văn này bao gồm các biểu thức chỉ cơ thể
người được rút ra từ các cuốn từ điển: từ điển tiếng Việt, từ điển tiếng Anh, từ
điển Việt - Anh, từ điển Anh - Việt.
Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng các tài liệu khác như: thành ngữ, tục
ngữ, các bản dịch, các bài báo, tạp chí… được coi là các tài liệu thể hiện rõ
nét nhất về các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người và các nét nghĩa của các
biểu thức này trong hoạt động hành chức của chúng.

4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU



3
Các phương pháp mà chúng tôi sử dụng trong luận văn này là các
phương pháp thường được dùng trong khoa học ngôn ngữ. Cụ thể là các
phương pháp sau:
Phương pháp thống kê, định lượng: thông qua các nguồn tài liệu tin
cậy, chúng tôi tiến hành điều tra, tập hợp, thống kê các ngữ liệu, tức là các
biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt.
Phương pháp phân tích, nhận diện đặc điểm về mặt cấu tạo và về mặt
ngữ nghĩa của các biểu thức này. Tức là phân tích cấu tạo từ, cấu tạo ngữ,
phân tích các thành tố nghĩa, kể cả phân tích liên hợp giữa đặc điểm cấu tạo
và nội dung nghĩa với cách tư duy, diễn đạt của người Việt để khái quát chỉ ra
các đặc trưng của các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt.
Phương pháp phân tích thành tố: nói chung phương pháp phân tích
thành tố có thể được hiểu là phương pháp nghiên cứu mặt nội dung các đơn vị
có nghĩa, được khởi thảo ra trong phạm vi ngữ nghĩa học cấu trúc và có mục
đích là phân giải ý nghĩa ra thành các thành phần ngữ nghĩa tối thiểu (hay còn

gọi là các nghĩa vị, các ý sơ đẳng, các nhân tử ngữ nghĩa, các đặc trưng ngữ
nghĩa, các thành tố). Đối tượng phân tích bằng phương pháp này là một tổng
thể các từ liên quan với nhau về ngữ nghĩa.[41,77]
Phương pháp đối chiếu chuyển dịch: luận văn tập trung đưa ra các biểu
thức chỉ cơ thể người trong tiếng Việt trong sự đối chiếu chuyển dịch để tìm
ra các phương thức chuyển dịch các biểu thức này sang tiếng Anh.
5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Nội dung chính của luận văn được sắp xếp theo trình tự như sau:
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Tư liệu nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu



4
5. Cấu trúc của luận văn
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: Xác định cơ sở lý luận, các nguồn tài liệu và phương
thức thực hiện đề tài
Chƣơng 2: Đặc điểm cấu tạo của các biểu thức chỉ bộ phận cơ
thể người trong tiếng Việt
Chƣơng 3: Đặc điểm nội dung ngữ nghĩa của các biểu thức chỉ
bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt
Chƣơng 4: Cách thức chuyển dịch các biểu thức chỉ bộ phận cơ
thể người trong tiếng Việt sang tiếng Anh
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO




5
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CÁC NGUỒN TƢ LIỆU VÀ
PHƢƠNG THỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Sự chia cắt thực tế khách quan trong các ngôn ngữ
Nhiều tác giả cho rằng thực tế khách quan là một dải liên tục khi đi vào
ngôn ngữ được chia thành những phân đoạn và sự chia cắt này không có
đường phân định ranh giới rõ ràng. Nhu cầu nhận thức hiện thực của con
người và tiếp đó là sự biểu hiện kết quả nhận thức bằng các phương tiện ngôn
ngữ đã đưa con người đến chỗ phải cấu trúc hoá hiện thực theo một kiểu nhất
định. Có thể tìm thấy hàng loạt sự kiện chứng tỏ thể liên tục thế giới khách
quan trong các ngôn ngữ được phân cắt theo kiểu khác nhau và được biểu
hiện một cách khác nhau bằng ngôn ngữ. Cùng một sự vật, hiện tượng có thể
được biểu hiện trong ngôn ngữ khác nhau với mức độ phân hoá khác nhau.
Một sự vật nào đó trong ngôn ngữ này có thể được thể hiện có tính nhất thể,
nghĩa là không được phân chia nhỏ hơn, nhưng trong ngôn ngữ khác lại có
thể được thể hiện theo kiểu được phân cắt thành những bộ phận nhỏ hơn có
phân biệt. Chẳng hạn, trong tiếng Anh, tiếng Đức ngón tay và ngón chân
được thể hiện phân biệt bằng hai từ riêng là finger, toe và finger, zehe còn
trong tiếng Việt lại biểu hiện nhất thể hoá hai biểu vật này chỉ bằng một từ
ngón. Khi cần cụ thể hoá, người Việt sẽ dùng đến cụm từ hoặc phương tiện cú
pháp: ngón tay, ngón chân. Sự khác nhau giữa các ngôn ngữ về vấn đề này
được thể hiện ở chỗ cách biểu hiện có phân biệt một nội dung nhất định trong
ngôn ngữ này có thể là bắt buộc, còn trong ngôn ngữ kia lại là không bắt
buộc.




6
Nguyên nhân của sự phân chia liên tục thế giới khách quan trong các
ngôn ngữ theo cách khác nhau có thể là không giống nhau. Trong một số
trường hợp, sự thiếu vắng một từ nào đó có thể là do ở dân tộc này không có
khái niệm tương ứng. Song, cũng có khi trong tư duy của dân tộc này có phân
biệt các khái niệm nhưng lại không có sự phân biệt trong cách thể hiện bằng
ngôn ngữ. Ngoài ra, cái có vai trò không kém phần quan trọng làm xuất hiện
nét khác biệt trong sự phân chia hiện thực là ảnh hưởng của cấu trúc ngôn ngữ
và các phương tiện biểu hiện ngôn ngữ theo truyền thống của một ngôn ngữ
nào đó đã được hình thành tới thời điểm tạo ra khái niệm mới.[41,30].
V.F.Humboldt đã từng phát biểu rằng: từ không phải là đại diện của
bản thân sự vật… mà là sự biểu hiện quan điểm riêng của chúng ta về sự vật.
Đây là nguồn gốc chính của sự đa dạng về những cách biểu hiện cho cùng
một sự vật. Như thế, cùng một sự vật, hiện tượng, tư duy của con người khám
phá ra các đặc trưng khác nhau, từ đó mà sự vật mang các tên khác nhau.
Chính vì sự khám phá hiện thực, chia cắt hiện thực, óc liên tưởng của mỗi dân
tộc khác nhau, nên số lượng của các từ biểu thị trong cùng một lĩnh vực thực
tế khách quan ở các ngôn ngữ khác nhau là khác nhau.
Theo giả thuyết tính tương đối ngôn ngữ học của E. Sapir - B. L.
Whorf: trong các ngôn ngữ dân tộc có nhiều trường hợp đã bộc lộ thực sự
“cách phân cắt thế giới” khác nhau. Một bộ phận nào đó của từ vựng trong
ngôn ngữ này không tương đương với bộ phận tương ứng trong ngôn ngữ kia,
vì nó biểu thị những đối tượng chỉ vốn có trong lịch sử, đời sống, văn hoá tinh
thần của riêng một dân tộc, hoặc là khác biệt căn bản với những cái tương tự
trong văn hoá đời sống của dân tộc kia. Do vậy, trong các ngôn ngữ này
không có các tương ứng từ vựng ổn định, đồng nhất một đối một. Song, tuy
mỗi dân tộc nhận thức thế giới một cách khác nhau, phân cắt thế giới một

cách không giống nhau, nhưng sự tri giác của từng dân tộc về thế giới hiện
thực là trùng nhau ở các dân tộc thuộc nền văn hoá và ngôn ngữ khác nhau, vì



7
nếu không, các dân tộc nói bằng ngôn ngữ khác nhau sẽ không hiểu được
nhau.
Những gì tồn tại trong thế giới gọi chung là thế giới hiện thực đều được
biểu hiện bằng vật chất cụ thể, tuy nhiên trong số này có cái là có thực trong
thế giới hiện thực, nhưng cũng có cái do con người tưởng tượng ra. Thực tại
khách quan bao gồm cả cái cụ thể và cái trừu tượng. Những thực tại gần gũi với
đời sống con người thì tương đối giống nhau ở các dân tộc, nhưng cách thức
gọi tên, biểu đạt ý nghĩa về những thực tại chung này lại không giống nhau ở
mỗi dân tộc. Có thể nói rằng, bộ phận cơ thể người là một thực tại chung tồn tại
ở tất cả các dân tộc. Về tín hiệu ngôn ngữ mà nói, mỗi dân tộc đều có cách gọi
tên và biểu đạt ý nghĩa riêng về mỗi bộ phận cơ thể người. Cùng một thực tại
nhưng cách định danh nó (nói một cách trừu tượng là cách phân chia thực tại) ở
mỗi dân tộc là không giống nhau. Mỗi dân tộc phân chia thực tế khách quan
theo cách của mình, do đó mà tạo ra cách nhìn của mình đối với thực tế và họ
biểu hiện kết quả của quá trình nhận thức thế giới khách quan này qua ngôn
ngữ theo cách của riêng mình. Đây chính là quá trình định danh.
1.1.2. Cách thức định danh trong ngôn ngữ
Khi nghiên cứu về ngôn ngữ học, người ta không thể không nói đến sự
hình thành cách định danh trong hệ thống ngôn ngữ. Vậy định danh là gì?
Thuật ngữ này thường được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ở đây, chúng
tôi hiểu theo quan niệm của một nhà ngôn ngữ học người Nga,
Ã.Â.ấợởứàớủờốộ, định danh là “sự cố định (hay gắn) cho một ký hiệu ngôn
ngữ một khái niệm - biểu niệm phản ánh những đặc trưng nhất định của một
biểu vật - các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của các đối tượng và quá trình

thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó mà các đơn vị ngôn ngữ tạo thành
những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn từ”.(Dẫn theo Nguyễn Đức Tồn)
[41,33].



8
Như đã đề cập ở trên, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có một cách phân cắt
thực tại và cách tri nhận thực tại khách quan riêng, cho nên trong cách định
danh ở các ngôn ngữ cũng không giống nhau.
Trước hết, chúng tôi muốn nói đến việc lựa chọn đặc trưng của đối
tượng để làm cơ sở cho tên gọi của nó. Như Lê Nin đã nói: trong quá trình tạo
ra các từ, có ý nghĩa lớn lao là vấn đề lựa chọn “đặc trưng nào đó đập vào mắt
mà tôi lấy làm đại diện cho đối tượng” để làm cơ sở gọi tên đối tượng. Vai
trò của việc lựa chọn này bị quy định bởi một loạt nhân tố, trong đó một phần
thuộc về các đặc điểm sinh lý của con người, một phần thuộc về các chức
năng và cơ chế của lời nói. Hiển nhiên, các đặc trưng được lựa chọn làm cơ
sở cho tên gọi rất khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau và thậm chí ngay
trong cùng một ngôn ngữ. Tên gọi của cùng một đối tượng nào đó ngoài thế
giới khách quan trong ngôn ngữ này được dựa trên đặc trưng có tính chủ
quan, còn trong ngôn ngữ khác lại được dựa trên đặc trưng có tính khách
quan. Tư duy ngôn ngữ của mỗi dân tộc một khác, có thể với cùng một đối
tượng, dân tộc này phát hiện ra đặc trưng hình thức nhưng dân tộc khác lại
phát hiện ra đặc trưng chức năng, do vậy đặc trưng được chọn để đặt tên cho
đối tượng sẽ khác nhau, và đối tượng sẽ có tên gọi không như nhau ở các dân
tộc.Việc chọn đặc trưng này chứ không phải chọn đặc trưng khác phụ thuộc
vào thiên hướng quan sát của chủ thể định danh. Đặc trưng được chọn có thể
là đặc trưng cơ bản, thuộc bản chất của sự vật, mà cũng có thể là thuộc tính
không căn bản, miễn sao đặc trưng được lựa chọn có giá trị khu biệt sự vật ấy
với sự vật khác. Mặc dù các đặc trưng này là hết sức đa dạng, song trong một

số trường hợp, mỗi ngôn ngữ có thể biểu lộ thiên hướng lấy những đặc trưng
có tính chất nhất định để làm cơ sở gọi tên. Do vậy, giá trị của cùng một đặc
trưng trong từng ngôn ngữ là không như nhau.Theo kết quả thống kê của
Nguyễn Đức Tồn [40], khi định danh 211 tên gọi bộ phận cơ thể người trong
tiếng Việt, người Việt đã dựa vào sáu đặc trưng cơ bản sau:



9
 Đặc trưng hình thức: đặc trưng này chiếm 52%.
Ví dụ: nhãn cầu, lá mía, xương chậu, mắt cá
 Đặc trưng vị trí: số lượng tên gọi có đặc trưng vị trí chiếm gần 22%.
Ví dụ: tai trong, mang tai, nhân trung, xương sườn
 Đặc trưng công cụ, chức năng: đặc trưng này là dấu hiệu khu biệt
9% số tên gọi.
Ví dụ: dây thanh, ruột thừa, bàn toạ
 Đặc trưng vật lý: đặc trưng này được người Việt sử dụng trong 6,6%
số trường hợp.
Ví dụ: ruột già, ruột non, động mạch, tĩnh mạch
 Đặc trưng kích cỡ, kích thước: 6,1% tên gọi bộ phận cơ thể trong
tiếng Việt được dựa trên đặc trưng này.
Ví dụ: đại não, tiểu não, đại tràng, ngón cái
 Đặc trưng tản mạn khác (màu sắc, cấu tạo, hành vi ): các đặc trưng
này chiếm 3,7%.
Ví dụ: tròng trắng, huyết mạch
Có ý kiến cho rằng chính đặc điểm của loại hình ngôn ngữ cũng có ảnh
hưởng lớn đến cách thức định danh trong từng ngôn ngữ. Chẳng hạn, trong
tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác có các loại từ như: cái, con, chiếc Khi
định danh, gọi tên các sự vật trong lời nói, người Việt sử dụng các loại từ
khác nhau tuỳ thuộc vào góc độ nhìn sự vật và hiện tượng. Ví dụ, với một bộ

phận cơ thể người "phổi", có người thì gọi là lá phổi, có người thì lại gọi là
buồng phổi. Hoặc người Việt có thể gọi "tim" là trái tim, con tim, hoặc quả
tim Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng khi gọi tên các sự vật, người Việt
đồng thời nhấn mạnh cả đặc trưng của chúng có thể tri giác bằng mắt được.
Thậm chí, một hiện tượng rất trừu tượng như tình cảm của con người vốn
được biểu hiện rất tổng thể bằng từ "lòng" cũng được người Việt vật thể hoá,
hình dung có một hình thù nhất định như một vật có mặt phẳng, mỏng, dài:



10
tấm lòng. Trong các ngôn ngữ không có loại từ như tiếng Nga, tiếng Đức,
tiếng Anh thì không có đặc điểm như thế khi gọi tên các sự vật.
Tham gia vào quá trình định danh có hai nhân tố đó là: chủ thể định
danh và khách thể được định danh. Chính việc tách ra đặc trưng này hoặc
đặc trưng khác làm cơ sở cho tên gọi có liên quan một cách trực tiếp nhất
với đặc tính tri giác đối tượng của chủ thể định danh. Có ý kiến cho rằng:
khi tách một đối tượng ra khỏi những đối tượng khác đã diễn ra sự “xoay”
các mặt khác nhau của nó về phía chủ thể. Con người nhìn thấy các mặt, các
phía này nhưng không phải thấy chúng ở những góc độ rõ ràng như nhau.
Chẳng hạn, để gọi tên phần xương của đai hông, trong tiếng Việt chúng ta có
hai từ: xương chậu và xương hông. Nếu chủ thể nhìn đối tượng theo hình
dáng của nó thì người ta sẽ dùng từ xương chậu, còn từ xương hông sẽ được
dùng nếu chủ thể nhìn đối tượng theo vị trí. Vấn đề này có liên quan với việc
sử dụng đối tượng nào đó trong thực tiễn và phụ thuộc vào nhu cầu, mục
đích của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định. Chẳng hạn, cùng một bộ phận
cơ thể người tuỳ theo hình thù cụ thể mà người Việt định danh nó bằng các
tên gọi khác nhau đầy hình tượng: mắt - mắt lá răm, mắt bồ câu, mắt lươn,
mắt ốc nhồi, mắt dao cau ; mặt - mặt trái xoan, mặt chữ điền, mặt lưỡi
cày, Đó là lý do mà mỗi dân tộc chọn đặc điểm để định danh đối tượng

theo cách riêng của mình và cùng một đối tượng trong các ngôn ngữ khác
nhau sẽ được gọi tên theo các cách khác nhau. Cùng một đối tượng có thể
được gọi tên trong các ngôn ngữ theo cách khác nhau phụ thuộc vào đối lập
kiểu nào về tâm lý, lịch sử, dân tộc và xã hội làm cơ sở cho sự định danh.
Các thủ pháp định danh là chung cho tất cả mọi ngôn ngữ trên thế giới.
Song, đặc điểm của hệ thống ngôn ngữ, đặc điểm của loại hình ngôn ngữ có
ảnh hưởng quan trọng đến đặc tính của các thủ pháp định danh. Chính các
thủ pháp này làm nên đặc trưng của hành vi ngôn ngữ. Theo



11
Â.À.ẹồðồỏðồớớốờợõ (dthông thường, người ta hay nói đến các cách định
danh sau:
 Sử dụng tổ hợp ngữ âm biểu thị đặc trưng nào đó trong số các
đặc trưng của đối tượng này
 Mô phỏng âm thanh (tức là tượng thanh)
 Phái sinh
 Ghép từ
 Cấu tạo các biểu ngữ đặc biệt
 Can-ke (hay sao phỏng)
 Vay mượn
Theo ý kiến của Ã.Â.ấợởứàớủờốộ, một nhà ngôn ngữ học người Nga,
cần tách ra ba dạng định danh:
 Định danh bằng từ và từ tổ (đây là định danh từ vựng)
 Định danh bằng câu (mệnh đề)
 Định danh bằng văn bản
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi xem xét dạng định danh thứ
nhất, đó là định danh bằng từ và từ tổ.
Quan niệm gọi từ, ngữ trong các ngôn ngữ không giống nhau, thậm chí

ngay trong một ngôn ngữ cũng khác nhau. Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, có
sẵn của ngôn ngữ. Do tính có sẵn và hiển nhiên của từ mà ngôn ngữ của loài
người bao giờ cũng được gọi là ngôn ngữ của các từ. Chính tổng thể các từ là
vật liệu xây dựng mà thiếu nó thì không thể hình dung được một ngôn ngữ.
Chính các từ đã biến đổi và kết hợp ở trong câu theo quy luật ngữ pháp của
ngôn ngữ. Mặc dù từ luôn được coi là đơn vị trung tâm trong toàn bộ cơ cấu
của một ngôn ngữ, nhưng để định nghĩa được khái niệm này thật không dễ
dàng chút nào. F.de. Saussure đã viết: “… từ là một đơn vị luôn ám ảnh tư
tưởng chúng ta như một cái gì đó trung tâm trong toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ,
mặc dù khái niệm này thật khó định nghĩa…”[8]. Các tài liệu ngôn ngữ học



12
hiện đại có ba khuynh hướng cơ bản trong việc miêu tả bản chất của từ và
những nguyên tắc định nghĩa nó:
 Từ chỉ được khảo sát theo quan điểm ngôn ngữ học một phần nào,
còn việc giải quyết nó nói chung được chuyển sang các khoa học lân cận như
triết học, logic học và tâm lý học.
 Từ được xác định một cách phiến diện từ một mặt nào đó của nó,
hoặc được xác định một cách rất chung chung, không cụ thể.
 Từ được khảo sát từ các mặt khác nhau, nhưng chủ yếu nhấn mạnh
những đặc điểm của nó trong mỗi ngôn ngữ riêng biệt.
Cái khó nhất trong việc định nghĩa từ là sự khác nhau về cách định
hình, về chức năng và các đặc điểm ý nghĩa của từ trong các ngôn ngữ khác
nhau cũng như trong một ngôn ngữ do đó không có sự thống nhất trong cách
định nghĩa cũng như miêu tả về từ. Hiện nay, theo Nguyễn Thiện Giáp [17],
có tới trên 300 định nghĩa về từ. Tuy thế, để có cơ sở tiện lợi cho việc nghiên
cứu, người ta thường vẫn chấp nhận một khái niệm nào đó về từ tuy không có
sức bao quát toàn thể nhưng cũng chỉ để lọt ra ngoài phạm vi của nó một số

lượng không nhiều các trường hợp ngoại lệ. Với tư cách là một định nghĩa sơ
bộ, có tính chất giả thuyết để làm việc, chúng tôi chấp nhận quan niệm từ, ngữ
trong từ điển gọi là từ - từ điển. Dựa vào các cuốn từ điển chuẩn trong tiếng
Việt, chúng tôi sẽ thu thập được các tư liệu về từ, ngữ (gọi chung là các biểu
thức) chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt.
1.2. CÁC NGUỒN TƢ LIỆU
Theo quan niệm từ, ngữ như đã giới thiệu ở trên, chúng tôi tiến hành
khảo sát nguồn tư liệu.
Để tránh chủ quan và đảm bảo độ tin cậy nhất định, trước tiên chúng tôi
dựa vào các tài liệu tổng hợp, đó là các cuốn từ điển.
Về tiếng Việt, chúng tôi tiến hành thu thập các tài liệu cụ thể là các
biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt trên cơ sở dữ liệu từ các



13
cuốn từ điển. Trong thời điểm hiện nay, chúng tôi thấy cuốn từ điển tiêu biểu
nhất là cuốn từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học - Viện Ngôn ngữ do
Hoàng Phê làm chủ biên. Cuốn từ điển này hàng năm đều được bổ sung và
tái bản, gồm 1130 trang và có bổ sung thêm 2090 mục từ mới. Ngoài ra,
chúng tôi có sử dụng thêm cuốn từ điển tiếng Việt của Văn Tân [43] và cuốn
Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý. [50]
Trong luận văn này, chúng tôi có sử dụng một số thành ngữ và tục ngữ
có các thành tố chỉ bộ phận cơ thể người, nên chúng tôi có khảo sát thêm
trong cuốn:
Từ điển thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt Nam của Nguyễn Lân xuất bản
năm 1989 của nhà xuất bản VHHN.
Nhiệm vụ của luận văn đã đề ra là nhằm thống kê, tập hợp tương đối
đầy đủ các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt nên chúng tôi
đã khảo sát thêm trong các sách chuyên môn về giải phẫu sinh lý người để thu

thập được các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người chi tiết hơn.
Vì tiếng Việt là tiếng bản ngữ cho nên chúng tôi bổ sung thêm các biểu
thức bình dân chỉ bộ phận cơ thể người mà chúng tôi thu thập được từ lời ăn
tiếng nói hằng ngày của người Việt.
Về tiếng Anh, chúng tôi tiến hành thu thập tài liệu chủ yếu là từ các
cuốn từ điển sau:
Oxford - Advanced Learner‟s Encyclopedic Dictionary. Đây là cuốn từ
điển gồm 1081 trang, xuất bản năm 1993 và được in tại Hồng Kông.
English - Vietnamese Dictionary. Từ điển Anh - Việt của Trung tâm
khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện ngôn ngữ học, nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh, 2047 trang, xuất bản năm 1994.
Idiom English - Vietnamese Dictionary Từ điển thành ngữ Anh - Việt
của Trung tâm biên soạn dịch thuật sách Sài Gòn, nhà xuất bản tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh gồm 832 trang, xuất bản năm 2004.



14
Tất nhiên, trong quá trình khảo sát, thu thập tài liệu chúng tôi cũng
tham khảo các bài báo, tạp chí, các bản dịch Anh - Việt, Việt - Anh được coi
là những tài liệu thể hiện rõ nét nhất về các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể
người và hoạt động hành chức của chúng.
Sau khi có đầy đủ nguồn tư liệu trên, chúng tôi tiến hành:
Lập bảng danh sách các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng
Việt theo thứ tự a,b, c.
Tập hợp các thành ngữ, tục ngữ có thành tố chỉ bộ phận cơ thể người
mang tính chất triết lý, thể hiện ý nghĩa biểu trưng văn hoá.
1.3 . PHƢƠNG THỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Nhằm nêu bật được đặc trưng của các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể
người trong tiếng Việt, chúng tôi đi vào khảo sát các biểu thức này ở hai bình

diện chủ yếu sau:
 Về cách thức cấu tạo
 Về nội dung ngữ nghĩa
1.3.1. Phân tích các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong
tiếng Việt về cách thức cấu tạo
Như đã đề cập ở trên, quan niệm về từ, ngữ trong tiếng Việt của các
nhà Việt ngữ học không giống nhau nên quan niệm về cách thức cấu tạo
chúng cũng có những khác biệt. Nhìn chung từ xưa đến nay, những tiếng độc
lập, có nghĩa ai cũng coi là từ - từ đơn tiết. Còn những tiếng không độc lập thì
được xử lý khác nhau. Nguyễn Kim Thản phân biệt từ thuần, từ pha, từ phức,
từ chắp; Đỗ Hữu Châu chia ra thành từ láy và từ ghép; Nguyễn Tài Cẩn phân
biệt từ ghép nghĩa, từ láy âm và từ ngẫu kết; Nguyễn Văn Tu phân biệt từ
ghép bổ nghĩa, từ ghép hợp nghĩa và từ ghép láy âm…Trong luận văn này,
chúng tôi tiếp thu cách phân loại từ theo quan điểm của Nguyễn Tài Cẩn [1],
tức là phân các đơn vị ngôn ngữ này thành: tiếng, từ ghép nghĩa, từ láy âm và
từ ngẫu kết.



15
1.3.2. Phân tích biểu thức chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong tiếng
Việt về cấu tạo nội dung ngữ nghĩa
Khi nghiên cứu về từ tiếng Việt, nghĩa đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Tính đa dạng về nghĩa của từ đã được các nhà ngôn ngữ học quan tâm từ lâu
và họ đã đưa ra khá nhiều cách phân biệt nghĩa của từ.
Nguyễn Văn Tu [43] nhấn mạnh nghĩa là phản ánh sự vật, hiện tượng
thông qua khái niệm, giá trị ngữ cảnh. Theo ông có các thành tố nghĩa của
từ sau:
 Nghĩa biểu đạt
 Nghĩa chủ quan

 Nghĩa ngữ pháp
Đỗ Hữu Châu [4] đã phân tích bốn thành tố ngữ nghĩa của từ như sau:
 Ý nghĩa biểu vật
 Ý nghĩa biểu niệm
 Ý nghĩa biểu thái
 Ý nghĩa ngữ pháp
Nguyễn Thiện Giáp [17] giải thích rõ các thành tố ngữ nghĩa:
 Nghĩa sở biểu
 Nghĩa sở chỉ
 Nghĩa sở dụng
 Nghĩa kết cấu
Cần nhận thấy rằng ngữ nghĩa của các biểu thức chỉ bộ phận cơ thể
người trong tiếng Việt theo phạm vi khảo sát của chúng tôi là nghĩa từ vựng
(lexical meaning). Vì vậy, loại “nghĩa kết cấu” hay “ý nghĩa ngữ pháp” của
Nguyễn Thiện Giáp và Đỗ Hữu Châu không thuộc đối tượng khảo sát của
luận văn. Hơn nữa, tuy tên gọi các loại nghĩa của hai tác giả này có hàm ý
khác nhau nhưng về cơ bản đều chỉ rõ các loại nghĩa định danh và nghĩa hệ
thống của từ, ngữ. Theo hướng này, gần đây có tác giả đã nghiên cứu sâu hơn



16
về các chức năng của đơn vị từ vựng, chủ yếu là chức năng định danh và cấu
tạo hệ thống. Ông đã đưa ra kiến giải mới về nghĩa của từ vựng. Đó là quan
niệm tầng nghĩa, kiểu nghĩa từ vựng của Lê Quang Thiêm [35]. Theo ông,
chúng ta có thể hình dung sơ đồ tầng nghĩa và kiểu nghĩa từ vựng như sau:
- Tầng nghĩa trí tuệ Nghĩa biểu niệm - Khái niệm khoa học
(interlectual stratum) (scientific concept)
Nghĩa biểu hiện ý niệm quy ước
(sense- relation) giá trị hệ thống


- Tầng nghĩa thực tiễn Nghĩa biểu thị ( denotational meaning)
(practical stratum) Nghĩa biểu chỉ (designated meaning)

- Tầng nghĩa biểu trưng Nghĩa biểu trưng (symbolized meaning)
(symbolized stratum) Nghĩa biểu tượng (imaginative meaning)
Có thể nói rằng đi theo hướng chức năng và tri nhận luận kết hợp với cấu
trúc hệ thống từ vựng, các kiểu nghĩa, tầng nghĩa chỉ ra trong kiến giải này là khá
chi tiết và phù hợp với thực tiễn hành chức và thể hiện chúng trong các loại hình
hoạt động phong cách chức năng và tư duy giao tiếp đa dạng của chủ thể ngôn ngữ.
Trong luận văn này chúng tôi không đi sâu vào phân tích bình diện ngữ nghĩa của
các biểu thức chỉ bộ phận người trong tiếng Việt mà chỉ nhận diện miêu tả chúng
nhằm mục đích liên hệ chuyển dịch sang tiếng Anh. Vì vậy, trong luận văn này
chúng tôi xin được khảo sát, phân tích nội dung nghĩa của các biểu thức chỉ
bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt ở hai phạm vi sau:
 Nghĩa của từ thể hiện qua từ điển giải thích: đây chính là loại nghĩa
chúng tôi rút ra trong các cuốn từ điển tường giải. Dựa vào các định nghĩa
trong từ điển, chúng tôi tiến hành khảo sát các nét nghĩa trong cấu trúc ngữ
nghĩa của trường từ vựng ngữ nghĩa này. Đồng thời chúng tôi muốn xét đến
hiện tượng đa nghĩa để tiện cho việc liên hệ chuyển dịch các đơn vị ngôn ngữ
này sang tiếng Anh.
Phổ nghĩa từ vựng
(Lexical meaningful stratum)
g



17
 Nghĩa biểu trưng: là loại nghĩa dành cho nội dung nghĩa những từ
mà hình thức ngữ âm (mô phỏng âm thanh) hoặc hình thức cấu âm (mô phỏng

cấu hình) như có liên hệ đến nội dung được biểu hiện của từ. Đây là nghĩa
những từ mà một thời ta gọi là từ tượng thanh, tượng hình. Những từ có nghĩa
biểu trưng này là kết quả của quá trình biểu trưng hoá mà Hoàng Tuệ đã tổng
kết: “quá trình biểu trưng hoá của tín hiệu, một quá trình vốn có nguồn gốc
tâm lý của nó trong đời sống xã hội và được ghi lại một cách tế nhị, độc đáo
trong ngôn ngữ.” [42]
Điều dễ nhận thấy là sự lựa chọn của chúng tôi không mâu thuẫn với lý
luận mà còn phù hợp với thực tiễn tư liệu và ứng dụng nhiều mặt.Về tư liệu,
chúng tôi sử dụng được thành quả của các từ điển tường giải hiện hành của
hai ngôn ngữ Anh, Việt - điều mà chúng tôi chưa có điều kiện tổng hợp tư
liệu từ văn cảnh, ngữ cảnh thuộc loại hình phong cách chức năng sâu hơn.
Thêm nữa là trong định nghĩa từ điển có cả kiểu nghĩa chuyên môn, tức là
kiểu nghĩa của thuật ngữ thuộc về tầng nghĩa trí tuệ, còn tầng nghĩa biểu trưng
thì ở mức độ này hay mức độ khác đã được tổng hợp trong nội dung nghĩa
bóng hay các kiểu nghĩa biểu trưng hoá. Như vậy, trong cơ sở lý luận của các
kiểu nghĩa chúng tôi đã dựa trên quan điểm truyền thống, trên tư liệu từ điển
tường giải kết hợp với những kiến giải mới hiện nay ở mức độ cần thiết.








18
TIỂU KẾT
Trong chương này luận văn đã đề cập đến sự chia cắt thực tế khách
quan và cách thức định danh trong các ngôn ngữ. Cùng một sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan nhưng mỗi dân tộc lại lựa chọn những đặc trưng

khác nhau để đặt tên cho các sự vật, hiện tượng ấy. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, mỗi ngôn ngữ có thể biểu lộ thiên hướng lấy những đặc trưng có
tính chất nhất định để làm cơ sở gọi tên. Ngoài ra, đặc điểm của loại hình
ngôn ngữ cũng là một trong những nguyên nhân khiến các dân tộc có các cách
định danh khác nhau đối với cùng một sự vật. Các thủ pháp định danh là
chung cho tất cả mọi ngôn ngữ trên thế giới. Song, đặc điểm của hệ thống
ngôn ngữ, đặc điểm của loại hình ngôn ngữ có ảnh hưởng quan trọng đến đặc
tính của các thủ pháp định danh. Chính các thủ pháp này làm nên đặc trưng
của hành vi ngôn ngữ. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi xem xét một
trong các dạng định danh đó là định danh bằng từ và từ tổ.
Định hướng của sự vận dụng vào phân tích ngữ liệu tiếng Việt chúng
tôi sẽ tiến hành hai bình diện chính là cấu tạo và ngữ nghĩa của các biểu thức
chỉ bộ phận cơ thể người( có liên hệ chuyển dịch sang tiếng Anh). Cơ sở lý
luận về cấu tạo từ và ngữ nghĩa chúng tôi đã chọn cách hiểu truyền thống, phổ
biến của các nhà Việt ngữ học nhằm khai thác ngữ liệu từ điển đã có kết hợp
với những kiến giải có tính đổi mới gần đây.Tiếp theo, luận văn cũng đã giới
thiệu các nguồn tư liệu làm cơ sở cho việc khảo sát đặc trưng các biểu thức
chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt ở trên cả hai bình diện: cách thức
cấu tạo và nội dung ngữ nghĩa trong chương tiếp theo và cuối cùng là cách
chuyển dịch sang tiếng Anh.






19

Chƣơng 2
ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA CÁC BIỂU THỨC CHỈ BỘ

PHẬN CƠ THỂ NGƢỜI TRONG TIẾNG VIỆT

2.1. DẪN NHẬP
Các tác giả nghiên cứu về mặt cấu tạo từ thường dùng các tiêu chí sau
đây để phân loại các từ về mặt cấu tạo:
 Sự đồng nhất và khác biệt về phương thức cấu tạo.
 Sự đồng nhất và khác biệt về từ tố, chủ yếu là về tính độc lập hay
không độc lập, về tính từ loại của từ tố.
 Sự đồng nhất và khác biệt về quan hệ cú pháp giữa các từ tố.
Nhưng do cách hiểu về phương thức, về tính chất thành tố tạo từ và về
quan hệ giữa các từ tố khác nhau cho nên các kết quả phân loại cũng khác
nhau. Như đã đề cập trong chương trước, chúng tôi chọn quan điểm của
Nguyễn Tài Cẩn về cấu tạo từ để phân tích đặc điểm cấu tạo của các biểu thức
chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt.
Không lấy tiêu chí ngữ nghĩa của các kiểu cấu tạo từ làm tiêu chí quyết
định khi phân biệt các từ ghép, tác giả đã dựa vào mặt quan hệ giữa các thành
tố trực tiếp để phân biệt các từ ghép thành ba kiểu lớn sau: từ ghép nghĩa, từ
láy âm và từ ngẫu kết.Ta cũng có thể hiểu đây là ba phương thức cấu tạo từ.
Dưới đây là cách phân loại từ Tiếng Việt của tác giả:
2.1.1. Từ đơn
Tiếng là đơn vị có đủ cả hai đặc trưng "đơn giản nhất về tổ chức" và
"có giá trị về mặt ngữ pháp". Khi tiếng hoạt động độc lập thì đây là từ - từ
đơn. Hay nói cách khác, theo Nguyễn Tài Cẩn, từ đơn là tiếng hoạt động độc
lập.



20
Theo tác giả, phần lớn các tiếng ở trong tiếng Việt đều có tính chất cố
định (hoặc độc lập hoặc không độc lập, hoặc có nghĩa hoặc không có nghĩa)

nên đều có thể thống kê và xếp thành từng loại.
2.1.2. Từ ghép
Do quan niệm tiếng là hình vị, tác giả đã chủ trương tất cả các tổ hợp
âm tiết chặt chẽ, cố định đều là từ ghép (từ đa tiết).
Dựa vào mặt quan hệ giữa các thành tố trực tiếp, tác giả phân từ ghép
thành ba kiểu lớn: từ ghép nghĩa, từ láy âm và từ ngẫu kết.
2.1.2.1. Từ ghép nghĩa
Từ ghép nghĩa là kiểu từ ghép trong đó các thành tố trực tiếp được kết
hợp với nhau theo quan hệ ý nghĩa.
Ví dụ: học trò quốc gia
ngữ pháp dân số
Từ ghép nghĩa là kiểu từ phổ biến nhất trong số các từ ghép của tiếng
Việt. Nói chung, thành tố trực tiếp trong từ ghép nghĩa đều phải thuộc vào
loại có ý nghĩa. Tuy nhiên, trong thực tế có một số từ ghép nghĩa hiện nay chỉ
còn giữ lại một thành tố có nghĩa mà thôi. Ví dụ từ chợ búa chỉ còn có nghĩa
ở từ chợ, từ đường sá chỉ còn nghĩa ở từ đường. Các thành tố búa, sá hiện nay
đều đã mất nghĩa.
Từ ghép láy nghĩa: là kiểu từ ghép nghĩa trong đó có các thành tố trực
tiếp có vai trò bình đẳng với nhau và có ý nghĩa láy nhau.
Ví dụ: binh lính thị phi
hư vô thanh danh
Từ ghép phụ nghĩa: là kiểu từ ghép nghĩa có một thành tố trực tiếp
đứng làm nòng cốt rồi bên cạnh ghép thêm một thành tố khác, đứng
làm thành tố phụ.
Ví dụ: hải quan cải tiến
tương đối vô ích

×