Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Lịch sử sử học cộng hòa dân chủ nhân dân lào giai đoạn 1975 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.86 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

AMVILAY BOUNMEXAY

LỊCH SỬ SỬ HỌC CHDCND LÀO
GIAI ĐOẠN 1975 - 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

AMVILAY BOUNMEXAY

LỊCH SỬ SỬ HỌC CHDCND LÀO
GIAI ĐOẠN 1975 - 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ SỬ HỌC VÀ SỬ LIỆU HỌC
Mã số: 60 22 03 16

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN KIM ĐỈNH

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
T
C
N

T C GIẢ LUẬN VĂN

AMVILAY BOUNMEXAY


LỜI CẢM ƠN
T
Nộ
N




V

ò

Đỉ

Xã ộ
ã

Xã ộ




N
K

N



K
ơ

H Nộ K
Xã ộ
ỉ ả

N

Xã ộ
Lị

N

N







H Nộ Đặ


V


H Nộ T


ử ử

H



ờ V

ỏ ò
T ờ

K


ởT ờ

Đạ

Đạ

ã


ã
K







T ờ
K

S

ầ PGS TS T ầ K
q

T C GIẢ LU N VĂN

AMVILAY BOUNMEEXAY


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………..1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .......................................................................................... 1
3. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 2
3 1 Mụ

ổ q ........................................................................................ 2
3 2 Mụ
ụ ể ............................................................................................. 2
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài.............................................................. 3
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
7. Kết cấu luận văn .................................................................................................. 4

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LU N VỀ LỊCH SỬ SỬ HỌC
CỦA CHDCND LÀO.........................................................................5
1.1. Sơ lƣợc sử học Lào đến trƣớc năm 1975 ......................................................... 5
111 K

ử....................................................................................... 5
112 K

ử ử
........................................................................... 7
113 Ý
ĩ

ử ử
...................................................................... 11
1.2. Giản lƣợc các xu hƣớng nghiên cứu lịch sử................................................... 13
1.3. Lƣợc sử Lào qua các thời kỳ .......................................................................... 18
1.3.1. Từ
ỷ VI
ỷ X......................................................................... 18
1 3 2 Từ
ỷ XI

ỷ XIV ..................................................................... 18
1 3 3 Từ ử
ỷ XIV
ỷ XX .................................................... 22
1.4. Xu hƣớng nghiên cứu lịch sử Lào của các học giả nƣớc ngoài ..................... 26

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1................................................................. 27
CHƢƠNG 2: LỊCH SỬ SỬ HỌC NƢỚC CHDCND LÀO GIAI
ĐOẠN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015 ...................................... 28
2.1. Bối cảnh lịch sử nƣớc CHDCND Lào năm 1975 –2015 ............................... 28
2.2. Sự phát triển của sử học Lào giai đoạn năm 1975 – 2015 ............................. 32
221H
ơ ở

........................................... 32
222C
ẩ ử
ề ị
ử L .................................................. 45
223C
ẩ ử
ề ị

............. 57

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2................................................................. 72
CHƢƠNG 3: NH N XÉT ............................................................. 73
3.1. Những điều kiện mới cho sự phát triển của sử học Lào ................................ 73
3.2. Thành tựu và hạn chế của sử học Lào ............................................................ 75
3 2 1 Về



............................................................ 75
3.2.2 Về

................................................................................ 81
3 2 3 Về
ơ
...................................................................................... 87
324 L

ửL ở
................... 91

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3................................................................ 97


KẾT LU N.................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. CHDCND

: Cộng hoà dân chủ nhân dân

2. TLLT

: Tài liệu lƣu trữ


3. TCN

: Trƣớc công nguyên

4. CNRS

: Centre National de la Recherche Scientifique (Trung
tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp)


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ và bè lũ tay sai ngày
2/12/1975, nƣớc CHDCND Lào bƣớc vào thời kỳ xây dựng và tái thiết đất nƣớc.
Lịch sử nƣớc CHDCND Lào giai đoạn 1975 -2015 là lịch sử phản ánh sự nghiệp
đấu tranh vì sự nghiệp bảo vệ và xây dựng một đất nƣớc độc lập, dân chủ dƣới sự lãnh đạo
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và phù hợp với trình độ ngày càng nâng cao của dân
trí.
Bƣớc vào thiên niên kỷ mới cũng là bƣớc vào ngƣỡng cửa của một thời đại hội
nhập toàn thế giới, mỗi con ngƣời nƣớc CHDCND Lào không thể không nhìn lại, suy
ngẫm về một giai đoạn kháng chiến chống quân xâm lƣợc rất đáng tự hào của dân tộc, giai
đoạn 35 năm xây dựng và bảo vệ đất nƣớc, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm bạn với tất cả
các nƣớc, một thời gian tuy chƣa dài nhƣng có ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Nghiên cứu lịch sử sử học nƣớc CHDCND Lào giai đoạn 1975 - 2015 để rút ra
những bài học cần thiết, trên cơ sở đó bồi dƣỡng thêm ý chí phấn đấu, rèn luyện thêm bản
lĩnh hành động trong thời đại mới.
Vì những lý do trên, tác giả luận văn đã chọn đề tài: “Lị
L

ử ử


CHDCND

ạ 1975 – 2015” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình là hết sức cần

thiết cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Lịch sử sử học nƣớc CHDCND Lào giai đoạn năm 1975 – 2015 là vấn đề thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong nƣớc và ngoài nƣớc:
- Ở trong nƣớc:
Các nhà nghiên cứu đặc biệt là giới sử học Lào đã có nhiều công trình nghiên cứu
có giá trị, tiêu biểu nhƣ: Khái quát lịch sử Lào của tác giả Poumy Sinlatanathamatheva,
Lịch sử Lào của tác giả Somphone Sibounhueng.
Đặc biệt phải nói tới tác phẩm History of Laos của Maha Sila Viravong xuất bản
năm 1964 và tái bản năm 2000. Đây là tác phẩm trình bày khá rõ ràng lịch sử nƣớc Lào
gồm 7 chƣơng qua các thời kỳ từ 2500 TCN đến thế kỷ XIX, trong lần tái bản năm 2000,
tác phẩm đã bổ sung thêm giai đoạn kháng chiến chống Mĩ; giai đoạn xây dựng và phát
triển đất nƣớc, mối quan hệ đối ngoại với một số nƣớc: Trung Quốc, Việt Nam, Pháp, Hàn
Quốc, Hà Lan…..
- Ở ngoài nƣớc:

1


Không có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến những vấn đề này, đáng chú ý:
“A Brief History of Laos” của Tim Lambert năm 2015, bài viết cho ta thấy toàn
cảnh nƣớc Lào từ thời kỳ nguyên thuỷ 2000 năm TCN đến thế kỷ XVIII, thời kỳ Pháp đô
hộ từ năm 1893 đến năm 1954, thời kỳ kháng chiến chống Mĩ và bè lũ tay sai từ năm 1955
đến năm 1975, thời kỳ Lào giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ và xây dựng
đất nƣớc từ năm 1975 đến năm 2015

Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu trên các website không rõ tên tác giả, tuy nhiên
những bài viết này nhìn chung là giống nhau và phục vụ cho mục đích du lịch. Đó là bài
viết: History of Lao country – bài viết đề cập đến những vấn đề liên quan tới lịch sử dân
tộc Lào từ thời đại đồ đá cũ đến thế kỷ XIII, từ thế kỷ XIV đến sự xuất hiện của vƣơng
triều Lanxang thịnh vƣợng, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là giai đoạn đánh dấu sự sụp
đổ của vƣơng triều Lanxang, nƣớc Lào bị chia cắt thành 3 vƣơng quốc nhỏ, từ đầu thế kỷ
XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn bảo hộ của ngƣời Pháp và cuộc đấu tranh của
nhân dân Lào, từ năm 1954 đến năm 1975 là giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, từ năm
1975 đến năm 1986 là sự khởi đầu mới của CHDCND Lào.
Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học này cho thấy với những mục tiêu
và nhiệm vụ khác nhau, những công trình nghiên cứu này chủ yếu nêu sơ lƣợc lịch sử sử
học Lào mà chƣa đi sâu phân tích, bình luận một cách đầy đủ và có hệ thống lịch sử sử
học của nƣớc CHDCND Lào. Nhiều vấn đề liên quan đến lịch sử sử học của CHDCND
Lào giai đoạn từ năm 1975 - 2015 chƣa đƣợc đề cập nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn
diện hoặc có đề cập nghiên cứu nhƣng mức độ nghiên cứu chƣa sâu.
Tuy vậy, đây vẫn là những tài liệu nghiên cứu quan trọng đƣợc tác giả lựa chọn
tham khảo khi thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu lịch sử sử học
CHDCND Lào giai đoạn 1975 – 2015, tổng kết thành tựu, phát hiện những hạn chế bất
cập của sử học Lào để bổ sung, kiến nghị hoàn thiện.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, khát quát chung về lịch sử sử học:
nghiên cứu về khái niệm, vai trò của lịch sử sử học.

2


- Phân tích và đánh giá các giai đoạn phát triển của nền sử học CHDCND Lào giai

đoạn 1975-2015. Từ đó đề xuất những nhiệm vụ, yêu cầu cho sự phát triển sử học của
Lào.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về lịch sử sử học và lịch
sử sử học của CHDCND Lào giai đoạn từ năm 1975 -2015.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ việc
nghiên cứu chỉ tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề:
.) Thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu “Lịch sử sử học CHDCND Lào” từ
năm 1975 đến năm 2015. Đây là giai đoạn Lào mới giành độc lập ngày 2 tháng 12 năm
1975 và xây dựng lại đất nƣớc trong thời kỳ mới.
.) Về không gian: Luận văn đề cập đến các sự kiện diễn ra trong lãnh thổ nƣớc
CHDCND Lào và một số nƣớc liên quan nhƣ Việt Nam, Pháp, Mĩ, Trung Quốc.
.) Về vấn đề nghiên cứu: Luận văn chủ yếu đề cập đến vấn đề lịch sử sử học
CHDCND Lào giai đoạn 1975-2015: bối cảnh lịch sử, vai trò, những thành tựu và những
hạn chế của sử học Lào
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống lịch sử sử học CHDCND Lào
giai đoạn năm 1975-2015:
- Đƣa ra một cái nhìn khái quát về quá trình hình thành nền sử học Lào.
- Phân tích và bình luận những thành tựu và hạn chế của nền sử học Lào giai đoạn
1975 -2015.
- Đề xuất những nhiệm vụ, yêu cầu phát triển sử học của CHDCND Lào.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở lý luận nghiên cứu. Cùng với đó là sự kết hợp các
phƣơng pháp lịch sử nhƣ chọn lọc, phân loại, tổng hợp các nguồn tƣ liệu. Phƣơng
pháp lôgíc cũng đƣợc vận dụng trên cơ sở sắp xếp các sự kiện theo trình tự thời gian và
đánh giá các sự kiện dựa vào bối cảnh lịch sử để hiểu rõ và đúng về vấn đề đƣa ra. Đồng
thời, phƣơng pháp đối chiếu so sánh và phân tích cũng đƣợc sử dụng để làm cơ sở đánh

giá, phân tích những nội dung trình bày trong luận văn

3


7. Kết cấu luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết
cấu gồm ba chƣơng là :
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về lịch sử sử học
Chƣơng 2: Lịch sử sử học nƣớc CHDCND Lào giai đoạn từ năm 1975 đến năm
2015
Chƣơng 3: Nhận xét

4


CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỊCH SỬ SỬ HỌC CỦA CHDCND LÀO
1.1. Sơ lƣợc sử học Lào đến trƣớc năm 1975
1.1.1. Khái niệm lịch sử
Khi nói đến lịch sử, theo giải thích đơn giản, lịch sử là những gì thuộc về quá khứ
và gắn liền với xã hội loài ngƣời. Với ý này, lịch sử bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã
hội, đa diện do đó khó định nghĩa chính xác và đầy đủ. Vì thế, định nghĩa về lịch sử đƣợc
rất nhiều nhà nghiên cứu đƣa ra.
Trong các ngôn ngữ châu Âu (history - Englich, histoire - Francais) hay ictoria
(Russian), lịch sử đều có gốc từ tiếng Hy Lạp historía... Từ này có 2 nghĩa: nghĩa thứ nhất
là câu chuyện (History of Love), chuyện kể về quá khứ hay những hiểu biết về quá khứ và
nghĩa thứ hai là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu về quá khứ.
Trong ngôn ngữ các dân tộc


Đông nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, từ lịch

sử có gốc từ chữ Hán với các biến thể khác nhau nhƣ sử, lịch sử, sử học... chữ sử trong
tiếng Hán có quan hệ với chữ trung còn có âm là trúng - nghĩa là “chính xác”; lịch có
nghĩa là “trải qua”... Do vậy, chúng ta bắt gặp hàng loạt những mệnh đề hầu nhƣ không
liên quan tới câu chuyện chúng ta đang xem xét nhƣ: Lịch sử Vật lý, Lịch sử Toán học,
Lịch sử Kiến trúc, Lịch sử Trái đất... Xét từ phƣơng diện này, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin - K. Mac và F. Ang-ghen, viết: “Chúng tôi chỉ biết có một ngành khoa
học duy nhất là khoa học lịch sử...”. Ở đây, Lịch sử đƣợc hiểu nhƣ một phƣơng pháp
nghiên cứu – phƣơng pháp lịch đại - phƣơng pháp xem xét sự vận động, phát triển của mọi
sự vật, hiện tƣợng theo chiều thời gian. Trong phạm vi luận văn thạc sĩ lịch sử sử học, tác
giả chỉ đề cập tới lịch sử nhƣ là một khoa học nghiên cứu về sự vận động của xã hội loài
ngƣời.
Bách khoa toàn thƣ Xô Viết về lịch sử cho rằng: lịch sử là một (hay một tập hợp
các) ngành khoa học, nghiên cứu về sự phát triển của xã hội loài ngƣời trong tất cả những
biểu hiện cụ thể và đa dạng của nó với mục đích nhằm hiểu biết hiện tại và triển vọng của
nó trong tƣơng lai.
Định nghĩa trên đây đã nêu bật đƣợc đối tƣợng nghiên cứu và mục đích của khoa
học lịch sử, nói một cách khác, nó thỏa mãn những tiêu chí về định nghĩa một lĩnh vực
khoa học. Trong đối tƣợng nghiên cứu, Bách khoa toàn thƣ Xô viết về lịch sử đã xác định
rõ đó sự phát triển của xã hội loài ngƣời với tất cả những biểu hiện cụ thể và đa dạng của
nó - tóm lại là toàn bộ quá trình vận động của nhân loại từ thuở bình minh của loài ngƣời

5


cho đến nay trên mọi bình diện của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao,
văn hóa-xã hội...). Mục đích của khoa học lịch sử cũng đã đƣợc định nghĩa nêu trên thể
hiện đƣợc vai trò to lớn của sử học đối với đời sống xã hội, khẳng định đƣợc sự cần thiết
không thể thiếu đƣợc của lĩnh vực khoa học này đối với sự phát triển của nhân loại, bởi nó

không chỉ nghiên cứu những gì đã phủ bụi thời gian mà còn nóng hổi tính thời sự và định
hƣớng cho tƣơng lai.
Định nghĩa ngắn gọn của Ts. Sue Peabody: lịch sử là một câu chuyện chúng ta nói
chúng ta là ai [44].
Nhà bác học ngƣời La Mã Cicéron1 (106-45 TCN) đƣa ra quan điểm:“historia
magistra vitae” (lịch sử chính yếu của cuộc sống) với yêu cầu đạt tới “lux veritatis” (ánh
sáng của sự thật) [10;31]
Và Gs Hà Văn Tấn có viết, lịch sử là khách quan. Sự kiện lịch sử là những sự thật
đƣợc tồn tại độc lập ngoài ý thức chúng ta. Nhƣng sự nhận thức lịch sử lại là chủ quan. Và
ngƣời ta chép sử vì những mục đích khác nhau [10;31-32].
Gs. Trần Quốc Vƣợng cho rằng, lịch sử là môn học về thời đã qua. Giải thích sâu
hơn về thế nào là “đã qua”, ông cho rằng “đã qua là ... đã qua, dù chỉ là một phút giây, một
tháng ngày, một năm, một thế kỷ... đã trôi qua mà không còn là hiện tại” [49;16]
Theo Ts Trần Thị Bích Ngọc [50;59-60], các định nghĩa thƣờng cũng chỉ đúng một
phần, lịch sử đƣợc hiểu theo ba ý chính đƣợc các nhà nghiên cứu đồng ý:
- Việc diễn ra trong quá khứ: những sự kiện (biến cố/ event) diễn ra trong quá khứ
cho đến thời điểm hiện tại, không thể thay đổi đƣợc, cố định trong không gian và thời
gian, mang tính chất tuyệt đối và khách quan.
- Ghi lại những việc diễn ra trong quá khứ: con ngƣời muốn nắm bắt quá khứ, diễn
đạt theo sự kiện theo từ ngữ và giải thích ý nghĩa của sự kiện, mang tính chất tƣơng đối và
chủ quan của ngƣời ghi lại bằng những câu chuyện kể.
- Làm thành tài liệu của việc diễn ra trong quá khứ: cách làm hoặc quá trình tập hợp
những sự việc diễn ra trong quá khứ thành tài liệu cũng chính là câu chuyện kể đối với
hiện tại.
Để hiểu lịch sử hoặc ngành sử học phải dựa vào cách viết sử của những sử gia từ
xƣa đến nay. Vì cũng theo Ts Trần Thị Bích Ngọc giải thích, kiến thức về lịch sử thƣờng

1

Xem thêm Cicero, />

6


đƣợc xem là bao gồm cả hai, kiến thức về những biến cố của quá khứ và những kỹ năng
suy nghĩ và giải thích quá khứ [50;80].
Vilichitlasy, nhà nghiên cứu sử học của Lào cho rằng “Lịch sử là nghiên cứu về quá
khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con ngƣời” [60].
Với tƣ cách là một môn khoa học, theo tác giả khái niệm lịch sử có thể đƣợc hiểu
một cách đơn giản là : “bộ môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, về sự phát triển của xã
hội loài ngƣời nhằm tìm hiểu và dựng lại toàn bộ những hoạt động của con ngƣời và xã
hội loài ngƣời trong quá khứ”. Đây là một thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện
trong quá khứ cũng nhƣ những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích
và thông tin về những sự kiện này.
1.1.2. Khái niệm lịch sử sử học
Lịch sử sử học ra đời vào những năm đầu thế kỷ XIX và là một môn khoa học
nghiên cứu mới mẻ so với các môn khoa học khác. Cũng giống nhƣ khái niệm lịch sử, lịch
sử sử học là một thuật ngữ khoa học vẫn còn phải tiếp tục bàn luận để xác định cho thật
chính xác [37;10] bởi còn tồn tại nhiều quan niệm và quan điểm khác nhau.
Thuật ngữ “ἱστορία” có nghĩa là “điều tra” xuất hiện lần đầu trong các công trình
nghiên cứu của nhà biên niên sử học Hy Lạp Hecataeus (nửa đầu thế kỷ VI TCN.AD) –
ngƣời đã tƣờng thuật các sự kiện xảy ra trong xã hội và những chuyến đi của mình. Quan
điểm của Hecataeus tiếp tục đƣợc Herodotus (425-480) nghiên cứu và phát triển.
Herodotus là nhà sử học đầu tiên sƣu tầm tài liệu một cách có hệ thống, kiểm tra độ chính
xác ở một mức độ nào đó và sắp xếp thành những thể truyện sống động và có cấu trúc tốt.
Ông đƣợc biết đến nhiều nhất qua tác phẩm Historiai (tiếng Hy Lạp: Iστορίαι), một tài liệu
ghi chép những cuộc tra cứu của ông về nguồn gốc cuộc chiến tranh Ba Tƣ-Hy Lạp xảy ra
vào giai đoạn từ 490 đến 479 TCN và về huyền sử, lịch sử hoặc phong tục của rất nhiều
chủng tộc sinh sống trên ba châu

, Âu, Phi - những châu lục mà ông đã đi du lịch


[40;46]. Ông là tác giả đầu tiên đề cập đến lối sống, truyền thống văn hóa, thậm chí bộ
máy thống trị và việc làm ăn kinh tế của tộc ngƣời Scythia - một dân tộc cƣ ngụ ở phía
Bắc Hắc Hải, từ sông Danube cho đến sông Đông. Ông cũng đã góp phần lập lên danh
sách bảy kỳ quan thế giới cổ đại qua những chuyến du lịch của ông. Một trong các kỳ
quan này là lăng mộ của Mausolus đã đƣợc dựng lên tại Halikarnasseus, quê hƣơng của
ông, khoảng 70 năm sau khi ông qua đời.
Những nghiên cứu của ông đã đặt nền móng cho những nghiên cứu sử học của
Thucydides (sinh khoảng 460 TCN – 400 và 395 trƣớc Công nguyên). Ông là một chính

7


trị gia và nhà sử học Athen. Ông là ngƣời đầu tiên đƣa ra quan điểm: lịch sử chính xác –
tức là các sự kiện đƣợc đƣa ra phải có tính hợp lý không thiên vị. Ông không cho rằng
huyền thoại và tin đồn là lịch sử, nó là quá trình đi tìm kiếm sự thật bằng những nguyên
nhân, gốc rễ của sự kiện. Trong tác phẩm Lịch sử của cuộc chiến Peloponnesian kể về
cuộc chiến giữa Athens và Sparta diễn ra trong giai đoạn từ năm 431.TCN – 404. TCN,
ông đã tiến hành thu thập tất cả các tài liệu về lịch sử liên quan của Hy Lạp đến các cuộc
chiến tranh Ba Tƣ nhằm giải thích những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp gây mâu
thuẫn giữa Athens và Sparta và ghi chép lại sự kiện này theo hệ thống ngày tháng và bình
luận của chính ông đối với các sự kiện diễn ra với lối tƣ duy phê phán. Nếu nhƣ Herodotus
đƣợc coi là “cha đẻ của lịch sử” thì ông đƣợc coi là ngƣời đầu tiên đặt nền móng cho
phƣơng pháp luận sử học trong nghiên cứu và biên soạn lịch sử sử học và triết học lịch
sử2. Quan điểm của ông tiếp tục đƣợc Polybius (khoảng 206 TCN - đến 124 TCN), chính
khách, nhà sử học và nhà lý luận chính trị ngƣời Hy Lạp kế thừa và phát triển nghiên cứu
sử học với tƣ cách là ngƣời đầu tiên tìm kiếm những nguyên nhân nội tại các diễn tiến của
lịch sử chứ không phải là để gợi lên những nguyên tắc bên ngoài của sự kiện3.
Các nhà sử học La tinh nhƣ Livy , Sallust , Caesar , Tacitus dựa trên những thành
tựu và công trình nghiên cứu lịch sử trên đã biên soạn ra các tác phẩm sử học có giá trị

nhƣng với cách tiếp cận nhằm phục vụ cho mục đích chính trị và giai cấp thống trị do đó
những phân tích đánh giá, bình luận của họ không thực sự khách quan, nhiều sự kiện đƣợc
viết ra không phản ánh đúng sự thật lịch sử. Tuy nhiên, các công trình này vẫn đƣợc xem
nhƣ là nguồn sử liệu cho các nhà sử học nghiên cứu lịch sử.
Nhƣ vậy, Lịch sử khoa học lịch sử đã xuất hiện và đƣợc đặt nền móng từ thời cổ
đại, nó tiếp tục đƣợc phát triển trong quá trình phát triển chung của khoa học lịch sử; là
một ngành học trong đại gia đình khoa học lịch sử [37;10]. Thuật ngữ "Lịch sử sử học"
tƣơng ứng với thuật ngữ “historiographie” của Pháp có nghĩa là biên soạn lịch sử có nguồn
gốc từ “historiographia” của Hy Lạp4. Cả hai thuật ngữ đều đƣợc định nghĩa là công việc
biên soạn, tập hợp các tài liệu lịch sử của các nhà sử học. Ở nƣớc Nga, thuật ngữ “lịch sử
sử học” đƣợc gọi là "ictoriografia" và nhiều thuật ngữ có gốc chữ viết Latinh khác, về cơ
bản, các nhà sử học xem nội dung của thuật ngữ này thể hiện một trong những hình thức
2

Xem Thucydides, ngày
truy cập 12 tháng 07 năm 2017, bản tiếng Pháp.
3
Xem Polybius, ngày truy
cập 12 tháng 07 năm 2017, bản tiếng Pháp.
4
Xem “historiographie”, ngày truy
cập 12 tháng 07 năm 2017.

8


quan trọng để nhận thức xã hội loài ngƣời. Thuật ngữ này có nhiều nghĩa khác nhau, song
có hai nghĩa chủ yếu:
- Theo nghĩa hẹp là chỉ toàn bộ những công trình nghiên cứu về một đề tài nhất
định hay về một thời kỳ lịch sử, nhƣ các công trình sử học về Phong trào Hiến chƣơng ở

Anh, về Chiến tranh giữ nƣớc (1941 - 1945) của Liên Xô trƣớc đây... theo nghĩa rộng là
chỉ toàn bộ tác phẩm sử học của thế giới hoặc của một nƣớc, một giai cấp, một thời đại
dựa trên một cơ sở lí luận, một khuynh hƣớng tƣ tƣởng nhất định, nhƣ sử học Pháp, sử học
Trung Quốc, sử học của giai cấp tƣ sản - địa chủ Đức, sử học mácxít... [37;11]
- Là khoa học nghiên cứu lịch sử khoa học Lịch sử.
Đôi khi thuật ngữ này ở phƣơng Tây đƣợc sử dụng đồng nghĩa với từ “lịch sử”
[15], [16;31].
Trong tác phẩm Lịch sử sử học Việt Nam, đã đƣa ra thuật ngữ Lịch sử sử học, đƣợc
hiểu đó là một khoa học chuyên nghiên cứu lịch sử của khoa học Lịch sử (quá trình hình
thành, phát triển thông qua việc tìm hiểu và tích luỹ tri thức lịch sử, việc xác lập các quan
điểm, các khuynh hƣống, phƣơng pháp luận nghiên cứu các tác giả, tác phẩm, các thòi đại
phát triển của sử học v.v...). Là một khoa học, Lịch sử sử học cũng có đối tƣợng, chức
năng, nhiệm vụ, phƣơng pháp nghiên cứu của mình. Cũng nhƣ các khoa học khác, Lịch sử
sử học với tƣ cách là một khoa học thể hiện ở việc tổng kết những hiểu biết của con ngƣời
về lịch sử, đạt tới trình độ khái quát hoá, trừu tƣợng hoá, đi sâu vào bản chất, phát hiện
quy luật của việc nhận thức lịch sử, tiếp cận chân lý phục vụ viêc nghiên cứu lịch sử.
Hiện nay, nội hàm lịch sử sử học muốn đƣợc hiểu một cách chính xác, chúng ta cần
phải làm rõ phƣơng pháp luận sử học của các trƣờng phái triết học nghiên cứu sử học đã
đƣợc chủ nghĩa Mác – Lê nin chỉ ra:
- Triết học cổ đại chƣa hình thành phƣơng pháp luận của các ngành khoa học nhƣng
đã có cơ sở triết học của phƣơng pháp luận.
Quan điểm thần học về lịch sử đƣợc xác nhận xã hội phát triển theo “mệnh trời”,
theo “ý của thƣợng đế”. Đó là cơ sở lý luận của sử học phong kiến. Quan niệm này không
những không phản ánh khoa học mà còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Nếu nói rằng
thƣợng đế điều khiển sự phát triển của xã hội, bắt con ngƣời hoạt động theo ý muốn của
mình thì quả con ngƣời chỉ là cái máy, không có trách nhiệm gì với lịch sử. Nhƣ vậy thật
vô lý. Nếu thừa nhận con ngƣời hoạt động theo ý mình, sáng tạo ra lịch sử thì còn đâu là
Thƣợng đế, là định mệnh, còn gì là tôn giáo. Vì thế, giới nghiên cứu sử học phong kiến để
bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị vẫn bám vào quan niệm thần học về lịch sử.


9


- Triết học thời cận đại với Bê cơn và Đề các tơ đã sử dụng toán học làm mẫu mực
để xây dựng một hệ thống phƣơng pháp nguyên tắc lý luận chỉ đạo việc nghiên cứu khoa
học, nhƣng phƣơng pháp luận này cũng nhƣ cơ sở triết học của nó mang nặng tính chất
máy móc.
- Triết học lịch sử của phái duy tâm cổ điển Đức xem sự phát triển xã hội nhƣ quá
trình bên trong,hợp quy luật của nó. Song sự tất yếu đó không phải ở bản thân lịch sử, mà
từ ngoài đƣa vào, bắt nguồn từ triết học. Tính chất của quy luật lịch sử theo quan niệm của
Kant, Nisso... nhƣ một cái gì tuyệt đối không liên quan đến hoạt động thực tế của con
ngƣời, họ phủ nhận khả năng tác động con ngƣời một cách có ý thức vào sự phát triển lịch
sử. Điều đó làm cho quá trình lịch sử trở nên hoàn toàn có tính chất “định mệnh”, thần bí.
Quan điểm của Heghen là đỉnh cao nhất của triết lý sử học tƣ sản, Mác và Ăng
ghen đã tìm thấy ở Hê ghen lối tƣ duy khác hẳn với các nhà triết học khác ở chỗ quan
điểm lịch sử. Mặc dù hình thức của nó rất trừu tƣợng và duy tâm, xong nó vạch đƣợc sự
phát triển hợp quy luật lịch sử thế giới. Hê ghen là ngƣời đầu tiên chỉ ra sự phát triển và
mối liên hệ nội tại của lịch sử. Hiên nay chúng ta có thể rút ra trong triết lý lịch sử của Hê
ghen những quan điểm cơ bản đúng đắn.
- Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lê nin là một bƣớc ngoặt vĩ đại, cách mạng trong
sự nghiệp phát triển của khoa học xã hội nói chung và sử học nói riêng.
Quan điểm duy vật của Mác đƣợc vận dụng vào việc nghiên cứu lịch sử đã hoàn
toàn thoát khỏi tƣ tƣởng thần học, duy tâm, siêu hình và dựa vào thực tiễn lịch sử. Duy vật
lịch sử không thừa nhận “một lực lƣợng siêu nhiên” nào, một Thƣợng đế hay ý chí của
một vĩ nhân nào sáng tạo ra lịch sử. Chính con ngƣời tạo ra lịch sử: “lịch sử không làm
nên cái gì cả, lịch sử không có cái gì phong phú cả, lịch sử không chiến đấu trong một trận
đánh nào cả, không phải lịch sử mà chính bản thân con ngƣời, con ngƣời thực là những kẻ
làm ra tất cả và chiến đấu vì tất cả”. Lịch sử “không phải là một cá nhân đặc biệt sử dụng
con ngƣời làm phƣơng tiện để đạt mục đích riêng của mình, lịch sử không phải là cái gì
khác là những hoạt động con ngƣời theo đuổi mục đích của mình”.

Chủ nghĩa Mác đã soi đƣờng cho việc nghiên cứu lịch sử một cách thực sự khoa
học, mở một triển vọng to lớn cho sự phát triển của khoa học lịch sử và triết lý lịch sử tƣ
sản.
Phƣơng pháp luận sử học mác xít – Lêninnít là một trong những thành tựu to lớn
của chủ nghĩa Mác – Lê nin đã đƣợc kiểm tra trong thực tiễn nghiên cứu và đã có khả

10


năng giúp khoa học lịch sử trở thành một khoa học chân chính để giải quyết những vấn đề
quan trọng do thực tại lịch sử đặt ra.
Nhƣ vậy, việc nghiên cứu khoa học lịch sử chịu ảnh hƣởng của một quan điểm tƣ
tƣởng nhất định do đó khi nghiên cứu lịch sử sử học nhƣ: tìm hiểu, đánh giá một công
trình, một nền sử học... chúng ta phải đứng trên một lập trƣờng, một quan điểm nhất định.
Từ những phân tích trên, tác giả xin đƣa ra một khái niệm về lịch sử sử học nhƣ
sau: “Lị


ử ử






ềq

ử ụ







ơ


ử”

1.1.3. Ý nghĩa của lịch sử sử học
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Dân ta phải biết sử ta, cho tƣờng gốc tích nƣớc
nhà Việt Nam”. Câu nói đó của Ngƣời xét theo phạm vi hẹp – một quốc gia cho thấy, việc
nghiên cứu lịch sử sử học không chỉ để cho mọi ngƣời dân Việt Nam nhận biết rõ cội
nguồn, quá trình hình thành và phát triển của nền sử học của mình, mà còn để bồi bổ, giáo
dục tinh thần yêu nƣớc, ý chí tự tôn, tự hào dân tộc; còn theo phạm vi rộng, việc nghiên
cứu lịch sử sử học giúp cho chúng ta hiểu đƣợc quá trình hình thành và phát triển của nền
sử học thế giới, về sự hình thành, phát triển, suy vong và tái sinh các nền văn minh trên
trái đất; về những biến cố trọng đại của lịch sử nhân loại, về những thành tựu của nền sử
học nhân loại…
Con ngƣời làm ra lịch sử và con ngƣời viết về lịch sử. Quá trình nhận thức của con
ngƣời ngày càng hoàn chỉnh và phong phú. Lịch sử sử học ra đời trong quá trình phát triển
và đổi mới của khoa học lịch sử, đồng thời là sản phẩm tất yếu của quá trình nhận thức
khoa học. Do đó nghiên cứu lịch sử sử học có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực
tiễn, cụ thể:
Trên phƣơng diện Quốc Gia - Dân Tộc, Lịch sử sử học giúp ta có những so sánh
mang tính "Lịch Đại" về tiến trình tồn tại, hƣng thịnh và suy vong của Quốc Gia - Dân
Tộc mình, giúp ta có những so sánh mang tính "Đồng Đại" với tiến trình tồn tại, hƣng
thịnh và suy vong của các Quốc Gia - Dân Tộc khác, nhằm rút ra những bài học kinh
nghiệm từ quá khứ và hiện tại, để có thể tìm kiếm phƣơng hƣớng tồn tại và phát triển
trong tƣơng lai ... Quốc Gia - Dân Tộc nào cũng có "Quá Khứ", "Hiện Tại", và "Tƣơng

Lai". "Quá Khứ", cần phải đƣợc nhìn nhận, xem xét và đánh giá đúng đắn ; đem so sánh
với "Hiện Tại", cũng cần phải đƣợc nhìn nhận, xem xét và đánh giá đúng đắn ; thì mới có
thể rút ra những bài học kinh nghiệm đúng đắn, để có thể hoạch định sách lƣợc tồn tại và
phát triển trong "Tƣơng Lai" một cách đúng đắn ...

11


Trên phƣơng diện lý luận, nhiệm vụ lịch sử sử học là góp phần khái quát hoá logic
về lịch sử nhận thức khoa học và vạch ra tính quy luật của quá trình vận động của khoa
học đã nêu trên. Lịch sử mỗi ngành khoa học sẽ là những thành tố liên kết trong sự thống
nhất của tất cả các mặt của một quá trình vận động của khoa học. V.I. Lê nin viết trong
Bút ký triết học: “sự kế tục sự nghiệp của Heghen và của Mác phải là sự xây dựng một
cách biện chứng lịch sử của tƣ tƣởng loài ngƣời, của khoa học và kỹ thuật”.
Các tác giả của tác phẩm Khái lƣợc về lịch sử và lý luận phát triển khoa học cho
rằng: “Lịch sử khoa học không phải là cái kho hay cái nơi chứa các sự kiện và tƣ tƣởng và
vai trò của nhà sử học không chỉ quy về chỗ làm sao bảo quản cái kho đó cho có trật tự,
sắp xếp tài liệu cho thuận tiện để kiểm kê các tài liệu ấy cho tốt ... Lịch sử khoa học không
những chỉ trả lời câu hỏi: khoa học trong một giai đoạn nào đó đã đạt đến cái gì, mà còn
phải giải đáp: nó đã đạt đƣợc bằng cách gì, nhờ cái gì? Bằng con đƣờng nào?” [62;77]
Nhà sử học Ba Lan J.Tô-pôn-ski phân tích rõ hơn về vai trò của lịch sử sử học:
“Lịch sử khoa học có thể là lịch sử xây dựng những định lý khoa học về một lĩnh vực nhất
định hay là lịch sử các phƣơng thức nghiên cứu... một lĩnh vực nhất định. Nếu chúng ta
xem xét phƣơng pháp luận khoa học một cách rộng rãi thì rõ ràng là những công trình
khảo sát đó phải là thành phần của phƣơng pháp luận khoa học nói chung nhƣng khi chúng
ta xem xét một cách hẹp hơn thì chúng ta nói rằng: chúng ta nghiên cứu phƣơng pháp luận
khoa học (hoặc chúng ta có thể tự nghiên cứu) trên cơ sở lịch sử khoa học (tất nhiên còn
dựa trên những cơ sở khác)... Do đó, thật khó tƣởng tƣợng là có thể nghiên cứu ví dụ nhƣ
phƣơng pháp luận sử học mà không cần những công trình nghiên cứu về lịch sử của ngành
khoa học này”5.

Có thể thấy rằng, những công trình nghiên cứu lịch sử sử học đã góp phần quan
trọng vào sự phát triển của khoa học lịch sử trên bốn phƣơng diện chính, nhƣ sau:
- Thứ nhất, Lịch sử sử học đánh giá một cách sâu sắc và toàn diện những thành tựu
nghiên cứu của khoa học lịch sử, từ đó rút ra bản chất và những quy luật phát triển của nó;
- Thứ hai, Lịch sử sử học góp phần làm phong phú nhận thức khoa học và khám
phá những quy luật của nhận thức khoa học;
- Thứ ba, Lịch sử sử học góp phần khái quát những phƣơng pháp nghiên cứu của
các trƣờng phái lịch sử (sẽ phân tích ở mục 2).

5

J.Tôpônski, Phƣơng pháp luận sử học, Bản dịch, Thƣ viện ĐHTH, Ký hiệu VN. 12098, tr.31.

12


- Thứ tƣ, Lịch sử sử học là nội dung quan trọng trong quá trình đào tạo, bồi dƣỡng
những nhà nghiên cứu trẻ tuổi, giúp họ kinh nghiệm và phát hiện những mảng đề tài mới.
1.2. Giản lƣợc các xu hƣớng nghiên cứu lịch sử
Ngƣời đƣợc nhắc đến đầu tiên là Herodotus6 (sống vào thế kỷ V TCN), “cha đẻ của
sử học”, tác phẩm The Histories7, ghi nhận những lời kể, câu chuyện nào đáng tin cậy hay
kém tin cậy. Ông đi đến nhiều nơi để xác minh những ghi nhận tìm ra đƣợc câu chuyện
lịch sử trung thực của vùng Địa Trung Hải, trong sách của ông không có một ghi chép
bình luận nào về các câu chuyện đƣợc nêu ra. Theo cách này, lịch sử là câu chuyện kể,
phƣơng pháp kể lại câu chuyện đƣợc biết nhƣ phƣơng pháp đầu tiên trong viết sử, đƣợc
nhiều nhà nghiên cứu đề cao vì cho rằng sự kiện lịch sử mang tính chất khách quan nhất,
trung thực nhất.
Trái với cách viết của Herodotus, Thucydides (sử gia Hy Lạp (460-400 tr. CN)
đƣợc xem là nhà sử học khoa học đầu tiên vì ông bỏ qua yếu tố thần thánh trong các sự
kiện lịch sử, tác phẩm History of the Peloponnesian War8 - kể lại cuộc chiến tranh giữa hai

thành bang Sparta và Athens. Nhƣ thế, ông trở thành ngƣời thiết lập yếu tố giải thích cho
sự kiện lịch sử, đƣa ra nguyên sâu xa và trực tiếp đối với sự kiện lịch sử.
Về sau, các nhà sử gia châu Âu thời Trung cổ, là những ngƣời viết sử với mục đích
giáo huấn, chủ yếu viết về lịch sử nhà thờ và các nhà cai trị tại địa phƣơng (lãnh chúa), các
vị vua của các triều đại. Các sử gia này xem việc diễn ra trong quá khứ nhƣ một định luật
và viết sử chỉ ra bài học trong quá khứ, việc chép sử chính là công việc để nêu gƣơng cho
nhân dân và đem lại bài học cho nhà cầm quyền , thể hiện trong các tác phẩm History of
the Church (Eusebius of Caesarea), History of the Franks (Gregory of Tours)…. Nhƣ thế,
thƣờng thì các sử gia chọn chép những sự kiện nào có lợi cho nhà cầm quyền hoặc Giáo
hội mà thôi.

6

Xem thêm tiểu sử Herodotus trên trang: />
7

Herodotus of Halicarnassus, The Histories, đọc thêm trên trang: http ://bo oks.go ogle.co m.vn/book s?id= Y TCr x1

KB

3HQ

C&

printse

c=fr

ontcover&


dq=the+histo

ries+herodotus&hl=en&sa

=X&ei=

HIW

mT4KhHKmuiQehyrioAw&ved=0CDAQ6AEwAA#v=onepage&q=the%20histories%20herodotus&f=false.
8

Thucydides, History of the Peloponnesian War, đọc thêm trên trang:

http: //book s.go ogle .co m .vn /boo

ks?id=YTCrx1KB3HQC&printsec=frontcover&dq=the+histories+herodotus&hl=en&sa=X&ei=HIWmT4KhHKmui
QehyrioAw&ved=0CDAQ6AEwAA#v=onepage&q=the%20histories%20herodotus&f=false.

13


Ngƣời đã đƣa cách viết sử giải thích áp dụng vào những sự kiện lịch sử hiện đại là
Leopold von Ranke9, nhà sử gia Đức thế kỷ XIX, cha đẻ nền sử học hiện đại. Cũng theo
Trần Thị Bích Ngọc, Ranke đã thiết lập nền tảng cho cách viết sử sau này với việc nhấn
mạnh nguồn tƣ liệu, chú trọng tài liệu lƣu trữ, những câu chuyện lịch sử (narrative
history), phát triển lịch sử chính trị. Ranke đƣợc nhiều ngƣời nhắc đến với nguyên tắc gây
nhiều tranh cãi: “wie es eigentlich gewes” (thể hiện những gì đã thực sự diễn ra), từ
nguyên tắc đó, có ý kiến cho rằng “sử gia chỉ nên đƣa ra các sự kiện lịch sử và không kèm
theo bất cứ quan điểm cá nhân nào; và một số nhà nghiên cứu khác thì cho rằng ý của
Ranke là sử gia phải khám phá các sự kiện lịch sử và tìm ra tƣ tƣởng phổ biến của thời đại

tác động lên những sự kiện này” [50;65]
Tiếp sau là trƣờng phái Biên niên sử do Marc Bloch và Lucien Febvre sáng lập năm
1929, lịch sử đƣợc hiểu là nghiên cứu về sự thay đổi qua thời gian của bất cứ một xã hội
nào đƣợc chọn để nghiên cứu [50;67]. Trƣớc đó rất lâu, sử gia Trung Quốc, Tƣ Mã Thiên
(Sima Qian) (145 – 90 TCN) đƣợc xem là “cha đẻ sử học Trung Quốc”, đã dùng cách viết
biên niên để soạn tác phẩm Shiji (Những ghi chép của nhà sử học vĩ đại), đƣợc biết đến
với tên khác: Sử ký chép lại những câu truyện lịch sử Trung Quốc theo thời gian, không
có lời bình luận nào trong sách10.
Bên cạnh cách viết Biên niên đƣợc nhiều nhà nghiên cứu cho là quay lại đúng với
tính chất lịch sử, một số sử gia Châu Âu chịu ảnh hƣởng từ trƣờng phái Hậu hiện đại.
Trƣờng phái Hậu hiện đại đƣợc khởi xƣớng trong những năm 1960 của thế kỷ XX, do
những triết gia cũng là những nhà phê bình văn học, lý thuyết văn học và sử gia nhƣ
Roland Barthes (1915 – 1980), Michel Foucault (1926 – 1984), Jean Francois Lyotard
(1924 – 1998), Jacques Derrida (1930 – 2004), Jean Baudrillas (1929 – 2007), Julia
Kristeva (1941 - )… khởi xƣớng. Chủ nghĩa Hậu hiện đại là phản ứng quyết liệt chống lại
chủ nghĩa duy nền tảng (anti – foundationalism) hay tinh thần duy nền tảng. Lý thuyết hậu
hiện đại là lý thuyết phá hủy những chân lý nền tảng, tấn công các phƣơng pháp truyền
thống (trong triết học, văn học, ngôn ngữ học, sử học, hội họa, kiến trúc…) hay đúng hơn
là lý thuyết chống lại các lý thuyết của các trƣờng phái đi trƣớc đó [50;73].
Trƣờng phái Hậu hiện đại đƣợc vận dụng trong tất cả các lĩnh vực khoa học xã hội,
trong sử học, các sử gia chịu ảnh hƣởng trƣờng phái này đã phản bác quan niệm lịch sử
9

Leopold von Ranke, xem thêm trên trang: />
10

Theo: và AD_ k%C 3%B D_T % C 6

%B0_M%C3%A3_Thi%C3%AAn.


14


phải nhƣ một con đƣờng tuyến tính, nghĩa là một thứ biên niên sử theo lịch đại, bao gồm
các sự kiện tất yếu, nhằm thuật lại một câu chuyện có nghĩa… Họ phản bác lịch sử theo lý
thuyết lớn, không có một lý thuyết chung áp dụng cho tất cả mọi nơi, mọi thời kỳ. Theo
họ, lịch sử địa phƣơng (theo nghĩa một vấn đề lịch sử của địa phƣơng) hay chuyên luận về
những vấn đề lịch sử cụ thể nào đó … là chính xác và có thể vẽ lại rõ ràng những chi tiết
của các sự kiện đã xảy ra tại một vùng nào đó, trong khoảng thời gian nào đó của quá khứ.
Một số sử gia nƣớc ngoài nghiên cứu về Việt Nam trong những năm gần đây theo
trƣờng phái này nhƣ Li Tana, Philip Taylor, Shawn McHale, Christian Appy … hƣớng
cách tìm hiểu lịch sử theo phƣơng pháp dân tộc ký (ethnography) bao gồm các hoạt động
phỏng vấn, đi điền dã … nhằm tập trung phân tích sâu một sự kiện lịch sử, kết nối các sự
kiện lịch sử của một vùng nào đó nhằm đƣa ra giải thích mới về những sự kiện này.
Tƣơng ứng với các trƣờng phái của các sử gia các nƣớc, từ các bộ sử của các nhà
viết sử Việt Nam có thể liên hệ các sử gia Việt Nam với các trƣờng phái cho dễ nhớ và dễ
hiểu.
Với cách viết lịch sử nhƣ những câu chuyện, có thể nhắc đến Lê Quý Đôn với Phủ
Biên tạp lục11 hoàn thành vào năm 1776. Sách đƣợc ông viết từ những ghi nhận khi đi qua
các nơi trong trấn Thuận Hóa nhằm mục đích: “cuốn sách nhỏ này âu cũng là để ghi nhớ
những sự việc của chốn biên ải thôi. Song, các bậc quân tử ở triều đình, nếu nhƣ có ngƣời
nào đó không ra khỏi nhà mà cũng muốn tra cứu sự tích ở nam thùy, tức là muốn biết đƣợc
những việc ở ngoài muôn dặm, thì cuốn tạp lục này cũng có thể cung ứng một phần nhàn
lãm vậy” [22;15]. Và, theo quan điểm sử gia phải khám phá các sự kiện lịch sử dựa trên
nguồn tƣ liệu, chú trọng tài liệu lƣu trữ, học giả Tạ Chí Đại Trƣờng đƣợc xem là tiêu biểu
của cách viết sử này. Trong phần bên lề của công trình Bài sử khác cho Việt Nam, Tạ Chí
Đại Trƣờng (2005:1) viết: Lịch sử chỉ là những tiếp diễn của sự kiện mà không có cùng
đích. Với quan điểm, là ngƣời muốn tìm hiểu sử học nghiêm túc, khi viết một điều gì thì
không phải chỉ cho ngƣời cầm bút mà còn phải quan tâm đến ngƣời đọc, viết sử không chỉ
là việc sắp xếp các sự kiện lịch sử suốt cả ngàn năm mà đƣa ra giải thích của những sai

lầm của các nhà viết sử trƣớc, những điều đƣa ra đƣợc xem là cái “khác”, làm “khác” đi,
làm “khác” đi thì những điều khó khăn phái nói thật không cùng, nhƣng làm khác đi
không có nghĩa là vƣợt qua đƣợc những điều ngƣời trƣớc đã gặp. Cho nên dù sao cũng
11

Lê Quý Đôn, thông tin xem thêm trên: http ://vi.wiki pedia.org/w iki/L% C3%AA _Qu% C3%B D_%C4

%90%C3%B4n Phủ biên tạp lục, Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia: htt p://vi .wikip edia.org /wiki/Ph%E1
%BB%A7_bi %C3%AAn_t%E1%BA%A1p_l%E1%BB%A5c.

15


phải có những thỏa hợp ở mức độ nào đó đề cho “bài sử khác” vẫn là bài sử Việt Nam (Tạ
Chí Đại Trƣờng, 2005: 7). Bài sử khác cho Việt Nam của Tạ Chí Đại Trƣờng là sự đối
chiếu với những công trình sử học của các sử quan thời phong kiến.
Cách viết sử của sử quan thời phong kiến là sự kết hợp hai trƣờng phái biên niên và
giáo huấn. Số lƣợng công trình nhiều nhất và đƣợc xem là “tƣ liệu gốc” cho nghiên cứu
thuộc về các bộ sử của Quốc sử quán nhà Nguyễn nhƣ: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ…, đƣợc xem là sự kế thừa của các bộ sử Đại Việt sử kí, Đại Việt sử kí
toàn thƣ…. Những dòng đầu tiên trong Đại Việt sử ký tục biên của Phạm Công Trứ giải
thích cho sự mẫu mực sử học phong kiến: “Vì sao phải viết quốc sử? Vì sử chủ yếu ghi
chép công việc. Có chính trị của một đời tất phải có sử của một đời. Mà sự ghi chép của sử
giữ nghị luận rất nghiêm, tô điểm việc chính trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời mặt trăng,
răn đe kẻ loạn tặc thì ráo riết nhƣ sƣơng thu lạnh buốt, ngƣời thiện biết thì có thể bắt
chƣớc, ngƣời ác biết thì có thể tự răn, quan hệ với chính trị không phải là ít. Cho nên mới
làm ra quốc sử” [10;31].
Còn theo cách viết biên niên, một số công trình của các nhà nghiên cứu gần đây đã
đƣợc xuất bản nhƣ: Việt Nam – những sự kiện lịch sử [59] (Viện Sử học), Biên niên sử
Việt Nam [8] (Đỗ Đức Hùng)… đƣợc soạn thảo để hệ thống các sự kiện lịch sử Việt Nam

dù cách viết khác hơn, không phải tập hợp những câu chuyện mà chỉ liệt kê những sự kiện
lịch sử theo thời gian giúp ngƣời đọc hoặc nghiên cứu có thể tra cứu hoặc đối chiếu các sự
kiện lịch sử một cách nhanh chóng.
Một cách viết sử nâng lên thành trƣờng phái, đƣợc vận dụng nhiều ở Việt Nam là
trƣờng phái Marxist dựa trên chủ nghĩa duy vật lịch sử của Karl Marx. Chủ nghĩa duy vật
lịch sử của Marx chú trọng quan hệ giữa con ngƣời với quá trình sản xuất, tìm ra hệ thống
những quan hệ sản suất tồn tại mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thƣợng tầng.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx xem lịch sử “là bản thân hiện thực khách quan, tồn tại
và phát triển theo một logic, không phụ thuộc ý thức của con ngƣời” [52;27]. Do đó,
phƣơng pháp nghiên cứu theo chủ nghĩa Marx là phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp
logic, xem hai phƣơng pháp này là hai mặt biểu hiện biện chứng. Theo đó, sử luận Marxist
đƣợc xem là cung cấp nền tảng vững chắc cho lịch sử xã hội.
Sử gia Việt Nam theo hai phƣơng pháp này là chủ yếu, theo hƣớng phân tích biện
chứng sự hình thành xã hội, phân tích vai trò của các giai cấp… Tuy nhiên, lịch sử gắn
liền với chính trị, ảnh hƣởng yếu tố chính trị chi phối cách viết sử của một số nhà sử học

16


Việt Nam, có thể nhìn thấy rõ nhất trong nghiên cứu của Giáo sƣ Trần Văn Giàu12 và Gs
Đinh Xuân Lâm13, nguồn sử liệu lớn trong những tác phẩm của ông là vô cùng lớn nhƣng
ông cũng cho thấy cách viết theo khuynh hƣớng chính trị rõ nét khi đƣa ra cách nhìn nhận
đối với phong kiến. Cũng theo quan điểm Marxist, Gs Đào Duy Anh đƣợc xem là ngƣời
coi trọng việc giám định sử liệu. Trong nghiên cứu sử học, đối với ông, "phải chuyên tâm
nghiên cứu lịch sử vì chỉ có hiểu biết đầy đủ lịch sử dân tộc thì mới có thể chắt lọc ra đâu
là những yếu tố truyền thống, đâu là những yếu tố ngoại lai"14.
Một trƣờng hợp đặc biệt trong sử học Việt Nam hiện đại, Đại tƣớng Võ Nguyên
Giáp – ngƣời đƣợc biết đến về tài quân sự, nhà sử học đồng thời cũng là nhân vật lịch sử.
Lịch sử đƣợc ông viết lại bởi những hồi ký, ký sự, những bài viết giá trị tái hiện thời kỳ
bản thân ông trải qua. Theo Gs Phan Huy Lê, Đại tƣớng vừa làm sử, vừa viết sử, một sự

kết hợp hiếm có của tài năng quân sự với tài năng sử học [13]. Qua các bài viết của Võ
Nguyên Giáp, cách viết của ông theo trƣờng phái đƣa giải thích vào sự kiện, phân tích
nguyên nhân đối với sự kiện.
Gần đây, cùng theo hƣớng nghiên cứu lịch sử địa phƣơng theo trƣờng phái Hậu
hiện đại, các nhà sử học Việt Nam hiện nay đang chú trọng đến việc định hƣớng cho các
công trình nghiên cứu mới, chọn một vấn đề hoặc một địa phƣơng nào đó để tìm hiểu. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu lịch sử địa phƣơng đã đƣợc một số ngƣời lựa chọn cách đây rất lâu
nhƣ Nguyễn Văn Hầu (viết về vùng đất An Giang), Vƣơng Hồng Sển (viết về Gia Định),
Sơn Nam (tìm hiểu về lịch sử vùng đất Nam Bộ, đƣợc xem là ngƣời am hiểu về vùng đất
này)…
Qua việc tìm hiểu ban đầu những cách viết sử để hiểu quan niệm lịch sử của những
nhà nghiên cứu thế giới và Việt Nam, có thể nhận ra mỗi ngƣời nghiên cứu có thể lựa
chọn một cách viết sử riêng theo trƣờng phái riêng, có thể loại bỏ sự áp đặt vô hình đó là
nghiên cứu lịch sử chỉ theo phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic mà thực chất đó là
hai phƣơng pháp thuộc trƣờng phái Marxist. Có thể thấy, những nhà nghiên cứu lịch sử có
thể chọn chủ đề lịch sử nhỏ mang tính chất địa phƣơng để nghiên cứu không cần theo chủ
đề bao quát và chọn phƣơng pháp điền dã, phỏng vấn, mô tả để tập trung vào những sự
kiện một vùng nào đó cũng có thể xem nhƣ thu lƣợm những câu chuyện của quá khứ ở địa
12

Gs sử học Trần Văn Giàu, />
13

Gs sử học Đinh Xuân Lâm, xem thêm: />
14

Trích theo Phan Huy Lê, Gs Đào Duy Anh, nhà sử học và văn hóa lớn, xem thêm trên trang:

Vietnamese/C1778/C1779/2006/05/N7673/.


17


phƣơng đó hoặc kể lại chính câu chuyện của ngƣời viết trong quá trình tìm hiểu. Đó chính
là khuynh hƣớng viết sử theo trƣờng phái Hậu hiện đại mà những nhà nghiên cứu sử Việt
Nam đang tập trung chú ý đến.
1.3. Lƣợc sử Lào qua các thời kỳ
1.3.1. Từ thế kỷ VI đến thế kỷ X
Từ xa xƣa, đất Lào đã là ngã tƣ giao thông, chốn dừng chân, nơi lƣu trú của nhiều
giống dân, nhiều bộ tộc khác nhau. Giống dân hiện diện xƣa nhất nơi đây,theo sử sách, là
các bộ tộc mà ngƣời ta phỏng đoán và gọi chung tên là sắc tộc gốc Nam Dƣơng. Ngƣời
Lào từ Bắc chí Nam, đều theo một phong tục, nói một thứ tiếng là ngôn ngữ gốc Môn Khmer, thật là cái tính đồng nhất của một dân tộc từ đầu nƣớc đến cuối nƣớc. Hiện nay,
rải rác từ Bắc chí Nam nƣớc Lào giống dân nầy vẫn còn mà ngƣời Lào, ngƣời Xiêm gọi
chung là giống Khạ ( mọi rợ ) hay Lao Thơng nhƣ ngƣời Việt gọi chung các sắc tộc thiểu
số trên đất Việt là ngƣời Thƣợng bao gồm: Phu Thay, Phu Theng, Khà-mú, Phuôn, Lamet,
Bô, Sô, Sek, Kattang …
Khi ngƣời Khmer lấn chiếm toàn cõi tả và hữu ngạn lƣu vực sông Mêkông, cƣỡng
bức xua đuổi các bộ lạc “Khạ” bồng bế nhau chạy lên các vùng núi rừng, nới rộng thêm đế
quốc Khmer qua một phần rộng lớn đất Lào ngày nay trong nhiều thế kỷ : Phật giáo khởi
có mặt trên đất Lào từ đó, vào khoảng thế kỷ VI – VIII. Thời kỳ này, phật giáo đƣợc
truyền bá rộng rãi và trở thành quốc giáo trong các bộ tộc Lào. Tầng lớp phật tử ngày càng
đông đảo và có vị trí quan trọng trong xã hội. Họ tiếp thu phật giáo trên nền tảng tƣ tƣởng
độc lập dân tộc. Phật giáo vào Lào đã đƣợc Lào hoá tức là đã phù hợp với điều kiện và
trình độ phát triển của đất nƣớc Lào thời bấy giờ. Những ngƣời đứng đầu vƣơng quốc
thƣờng là ngƣời sùng đạo do đó việc sao chép kinh kệ để truyền bá giáo lý của nhà phật
đƣợc chú trọng. Tuy nhiên, công việc chép sử hay nghiên cứu về sử học lại bị sao nhãng.
Một nguyên nhân nữa là bởi buổi đầu mới dựng nƣớc, các vƣơng quốc thuộc Lào phải lo
sửa sang việc võ bị để chống với kẻ thù nghịch, cho nên sự văn học không đƣợc mở mang
lắm. Do đó mà sử học không đƣợc chú trọng. Nhƣng việc sao chép kinh kệ để truyền bá
giáo lý nhà phật chính là những tiền đề thuận lợi cho sử học Lào ra đời trong giai đoạn tiếp

theo.
1.3.2. Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV
Thế kỷ XI – XIII, trong các thung lũng của con sông Mê kông chảy qua miền bắc
Lào đã hình thành nên những tiểu quốc nhƣ Mƣờng Xinh, Mƣờng Xay, Mƣờng Hun… tại
miền trung lƣu song Mê kông có một số tiểu quốc lớn hơn nhƣ Mƣờng Xoa, Mƣờng Cam

18


×